Samatha hay an tịnh (hay còn gọi là Thiền định, Thiền chỉ, Thiền chứng) không chỉ được phát triển bởi định (samādhi). 
Samādhi thực chất là biểu hiện của tâm sở nhất tâm (ekaggatā cetasika), một tâm sở đi kèm với mọi tâm. Khi tâm an trú nơi một đối tượng trong một khoảng thời gian dài, đặc tính của tâm sở nhất tâm (ekaggatā) được biểu hiện thành định (samādhi). Nó nhất tâm kiên cố chỉ vào một đối tượng.
Bản thân samādhi có thể sinh khởi cả với tâm bất thiện lẫn tâm thiện. Khi sinh kèm với tâm bất thiện, đó là tà định, khi sinh kèm với tâm thiện, đó là chánh định (sammā samādhi). Trong khi đó Samatha là sự phát triển thiện pháp với tâm thiện. Như vậy bất cứ khi nào không có chánh định sinh khởi thì đó không thể là samatha.
I. Phân biệt chánh định và tà định
Vậy có dễ để biết lúc nào là chánh định và lúc nào là tà định hay không? 
Trên lý thuyết, nếu ta cố gắng tập trung tâm vào một đối tượng trong một thời gian dài và tâm ấy không sinh kèm với trí tuệ (paññā), khi ấy sẽ là tà định (micchā samādhi). Ở những khoảnh khắc đó, ta dính mắc vào việc làm cho tâm bám chặt trên một đối tượng, khi đó có tâm tham căn (lobha mūla citta). Ngược lại, ở khoảnh khắc có chánh định thì có tâm thiện (kusala citta). 
Không dễ để biết lúc nào có tâm tham căn và lúc nào có tâm thiện. Hai loại tâm này đều có thể sinh kèm thọ hỷ hoặc thọ xả, vì thế không thể dựa vào tính chất của cảm thọ xuất hiện để biết được đang có tâm tham căn hay đang có tâm thiện.
Nếu không có tuệ giác, ta sẽ không thể biết được sự khác biệt giữa tâm tham căn và tâm thiện. Khi một người chưa có loại tuệ giác biết được sự khác biệt này, người ấy sẽ bị dính mắc vào việc có định. Khi đó sẽ có tà định và tâm tham căn thay vì trí tuệ và samatha.
Thông thường, khi một người luyện tập:
.cố gắng tập trung vào một đối tượng cụ thể
.muốn tâm không có băn khoăn, lo âu hay vướng bận về những sự kiện khác nhau
.hài lòng khi tâm có thể tập trung vào một đối tượng trong một thời gian dài
ở những khoảnh khắc đó, cái sinh khởi là các tâm tham căn dính mắc vào tà định mà không có tâm thiện sinh kèm với trí. Mong muốn nâng cao khả năng tập trung khi chưa có cái hiểu đúng sẽ dẫn đến tà định chứ không phải samatha.
Sự phát triển của samatha thực chất là sự phát triển của tâm thiện sinh kèm với trí. Người phát triển samatha phải có: 
.Trí tuệ biết được sự khác biệt giữa tâm tham căn và tâm thiện 
.Trí tuệ thấy được hiểm họa của bất thiện
.Trí tuệ thấy được sự bất lợi của sân sinh khởi 
.Trí tuệ biết được phiền não của mình 
.Trí tuệ biết được hiểm họa của tham ái 
.Trí tuệ thấy được hiểm họa của những đối tượng ngũ dục
Như thế, người ấy cần phải rất chân thực, phải có chánh niệm tỉnh giác (sati-sampajañña). Chỉ khi đó người ấy mới có thể phát triển các tâm đại thiện hợp trí, để các tâm bất thiện không còn sinh khởi xen giữa các khoảnh khắc của an tịnh và người ấy có thể đạt tới mức độ của cận định (upacāra samādhi) hay an chỉ định (appanā samādhi) và hơn thế nữa. 
II. Rất khó để đắc thiền
Không dễ dàng phát triển được tâm đại thiện hợp trí tới mức độ nó trở thành cơ sở cho thiện tâm thiền (kusala jhāna citta) của sơ thiền. Những trường hợp sau sẽ không thể đắc thiền:
.Người không sinh ra với thức tái tục tam nhân (thức tái tục sinh kèm với ba nhân tịnh hảo)
.Người phạm phải một trong năm trọng nghiệp: giết cha, giết mẹ, giết vị Arahat, ....
.Người có các loại tà kiến như vô nhân kiến (ahetuka diṭṭhi), vô hữu kiến (natthika diṭṭhi), vô hành kiến (akiriya diṭṭhi) .....
Cho dù một người tái sinh với thức tái tục là tam nhân, tức là hợp với trí, người ấy vẫn có thể dính mắc vào các đối tượng thị giác, âm thanh, mùi, vị và xúc chạm (đối tượng ngũ dục). Khi đó, người ấy sẽ không hướng tới việc từ bỏ sự mê đắm vào đối tượng ngũ dục và sẽ không hướng tới việc trì giới hay phát triển samatha. Phát triển samatha là một việc vô cùng phức hợp, tinh tế, cần phải được nghiên cứu một cách cẩn thận và hiểu đúng về nó.
Trong cuộc sống hàng ngày, ngay sau khi có cái thấy, nghe, ngửi, nếm, kinh nghiệm đối tượng xúc chạm và suy nghĩ, hầu như sẽ luôn là tâm bất thiện sinh khởi. Trong một ngày hay thậm chí trong một tháng, có rất ít khoảnh khắc của tâm thiện có đối tượng là bố thí hay trì giới. Hầu hết mọi người cũng không có đủ trí tuệ để biết tâm có thể trở nên an tịnh và thoát khỏi phiền não theo cách nào khi kinh nghiệm đối tượng ngũ dục hay suy nghĩ và khi đó cũng không thể phát triển tâm thiện an tịnh, ly bất thiện pháp trong đời sống hàng ngày.  
Người phát triển samatha cần có chánh niệm tỉnh giác trong đời sống hàng ngày. Người ấy cần có hiểu biết đúng về đặc tính của tâm thiện và tâm bất thiện, những pháp có thể nối tiếp nhau rất nhanh. Nếu không biết được điều này, rất dễ lầm tưởng tâm tham căn đồng sinh với thọ hỷ là an tịnh, là thiện (và như thế sẽ không thể phát triển samatha).
III. Các đề mục thiền
Theo kinh điển, có 40 loại đề mục thiền có thể tạo duyên cho sự an tịnh:
.Mười biến xứ (kasina): hành giả chỉ suy niệm trên một trong mười loại biến xứ: đất, nước, lửa, khí, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, mà trắng, ánh sáng, không gian.
.Mười bất tịnh (asubha)
.Mười tưởng niệm (anusati)
.Một quán tưởng sự bất tịnh của thực phẩm (āhare paṭikkūla saññā)
.Một phân tích tứ đại (catudhātu vavaṭṭhāna)
.Bốn vô lượng tâm (brahmavihāra), và
.Bốn đề mục vô sắc giới
Khi hành giả chỉ suy niệm trên biến xứ đất thì tâm là tâm thiện hay bất thiện? Nếu trí tuệ không sinh khởi trong khi chú ý đến đất thì sẽ là tâm bất thiện với mong muốn nghĩ về đất hoặc mong muốn chú tâm trên đất. 
Vô cùng khó khăn để luôn chỉ chú ý đến đất với tâm thiện an tịnh và không có tâm bất thiện. Khi có một đối tượng in dấu lên một trong ngũ quan hoặc qua ý môn thì ngay lập tức chúng ta bị cuốn hút vào đối tượng.
Để phát triển tâm thiện an tịnh với biến xứ đất, phải có trí tuệ sinh khởi và nhận ra rằng mọi hiện tượng mang tính vật chất xuất hiện không thể thiếu yếu tố địa đại và tất cả những gì mà chúng ta dính mắc vào đều chỉ là đất (địa đại) mà thôi. Với trí tuệ như vậy sinh khởi, nó làm duyên cho sự đè nén những dính mắc vào các đối tượng vật chất. 
Tâm phải không có bất thiện khi mắt hành giả nhắm lại hay mở ra, để hình ảnh (uggaha nimitta - hay sơ tướng) về kasina đất có thể xuất hiện trong ý môn. Không dễ để đạt được sơ tướng này, nó chỉ xuất hiện khi tâm đại thiện hợp trí được trụ vững chắc trên kasina đất. Kể cả khi sơ tướng xuất hiện, không dễ dàng chút nào để giữ được sơ tướng này và nhờ đó làm tăng trưởng sự an tịnh đến mức độ tâm tiếp tục an trụ vững chắc hơn và tợ tướng (paṭibhāga nimitta) của kasina đất xuất hiện. Tại khoảnh khắc đó, tâm đại thiện hợp trí mới được thiết lập vững chắc trong an tịnh để có thể đạt tới cận định. Tiếp theo hành giả cần phải duy trì được tợ tướng này bằng cách phát triển tâm đại thiện hợp trí để cho sự an tịnh luôn được tăng trưởng và đạt tới mức độ an chỉ định, là mức độ hoàn toàn trụ vào đối tượng tại khoảnh khắc tâm thiền của tầng thiền thứ nhất (sơ thiền) sinh khởi. 
Tuy nhiên, để đạt đến mức độ an chỉ định, hành giả phải giữ gìn tợ tướng vô cùng cẩn thận và phải tránh những điều kiện bất lợi cho việc phát triển an tịnh như: sống quá xa hoặc quá gần nơi khất thực, khẩu hành không phù hợp, giao thiệp với những người có nhiều phiền não, thực phẩm không phù hợp, khí hậu không phù hợp, oai nghi không phù hợp ... Ngoài ra hành giả còn phải vun bồi mười kỹ năng để đắc thiền: làm sạch quần áo và nơi ở, cân bằng các căn, thuần thục duy trì tướng, nỗ lực tâm khi cần, chế ngự tâm khi cần, khích lệ tâm khi cần, ....
Trong sự phát triển của samatha, cần phải có tâm đại thiện hợp trí có thể đạt được sự an tịnh nhờ suy niệm trên một trong 40 đề mục của samatha. Tâm tham căn cũng hoàn toàn có thể có đối tượng là một trong 40 đề mục thiền này mà không hề có sự phát triển an tịnh.
Một em bé hay một người trưởng thành có thể niệm từ "Phật" mà không hề có sự suy xét về phẩm hạnh của Ngài và khi đó sẽ không thể có tâm đại thiện hợp trí và như vậy không có sự phát triển an tịnh qua việc "niệm ân Đức Phật". Một người nào đó có thể nhìn vào xác chết và thấy sợ hãi, khi đó có tâm sân căn mà không hề có tâm đại thiện hợp trí. Nếu một người cố gắng tập trung vào hơi thở mà không biết được bằng cách nào có thể có sự an tịnh, ly bất thiện pháp thực sự thì sẽ không có tâm thiện hợp trí. 
Tất cả các đề mục samatha cần được phát triển bởi loại trí hiểu đúng về cách thức vun bồi an tịnh.
IV. Lộ tâm sơ thiền
Tâm thiền là một cấp độ cao của tâm, nó thuộc cõi thức đã vượt thoát khỏi dục giới (kāmāvacara citta). Lộ tâm sơ thiền là một lộ trình ý môn với các tâm sau đây:
.Tâm hộ kiếp (bhavanga citta), là tâm quả đại thiện hợp trí (Mahā-vipāka ñāṇa-sampayutta) 
.Tâm hộ kiếp rúng động (bhavanga calana), là tâm quả đại thiện hợp trí
.Tâm hộ kiếp dứt dòng (bhavanga upaccheda), là tâm quả đại thiện hợp trí
.Ý môn hướng tâm (manodvārāvajjana-citta), là tâm duy tác vô nhân (ahetuka kiriya citta)
.Tâm chuẩn bị (parikamma), là tâm đại thiện hợp trí
.Tâm cận định (upacāra), là tâm đại thiện hợp trí
.Tâm thuận thứ (anuloma), là tâm đại thiện hợp trí
.Tâm chuyển tánh (gotrabhū), là tâm đại thiện hợp trí
.Tâm thiện sơ thiền, là tâm thiện sắc giới (rūpāvacara kusala citta)
.Tâm hộ kiếp, là tâm quả đại thiện hợp trí
Khi đắc thiền lần thứ nhất, chỉ có một khoảnh khắc của tâm thiện sắc giới, nhưng khi kỹ năng trở nên thuần thục hơn, sẽ có nhiều tâm thiền sinh khởi liên tiếp mà không có tâm hộ kiếp xen giữa chúng. Lộ trình của những tâm thiền đó được gọi là nhập định (jhānasamāpatti). Đó là sự đạt tới tâm an tịnh và trụ vững chắc vào đề mục thiền. Khi ấy tâm thiền sinh khởi liên tiếp trong khoảng thời gian mà hành giả đã quyết định. 
V. Các chi thiền, triền cái và các tầng thiền sắc giới
Có năm tâm sở là các thiền chi làm duyên cho sự sinh khởi của tâm thiện sắc giới của sơ thiền: tầm (vitakka), tứ (vicāra), phỉ (pīti), lạc (sukha) và nhất tâm (ekaggatā). Năm chi thiền này đặc biệt đối nghịch với năm triền cái là các pháp bất thiện làm tâm khuấy động và ngăn cản sự phát triển an tịnh. Năm triền cái này là:
.Tham dục (kāmachanda) là sự dính mắc vào đối tượng ngũ dục; 
.Sân (vyāpāda);
.Hôn trầm - thụy miên (thīna-middha): có tính chất hờ hững, chán nản, thụ động và lơ mơ;
.Phóng dật và trạo hối (uddhacca-kukkucca);
.Hoài nghi (vicikicchā) về thực tại, về nhân và về quả
Năm chi thiền chế ngự và đè nén năm triền cái như sau:
.Tầm chế ngự hôn trầm-thụy miên. Khi tầm chỉ "nghĩ" đến đề mục thiền, chạm vào đề mục thiền liên tục thì hôn trầm thụy miên không thể sinh khởi được
.Tứ chế ngự hoài nghi. Khi tứ liên tục bận bịu với đối tượng mà tầm chạm đến, hoài nghi về thực tại và về nhân quả không thể sinh khởi
.Phỉ chế ngự sân. Khi có nhiều hỷ lạc với sự an tịnh thì khi ấy sân và bất mãn không thể sinh khởi
.Lạc (hỷ) chế ngự trạo cử bất an. Khi có hỷ lạc về đề mục thiền, trạo cử và bất an không thể sinh khởi chuyển sang đối tượng khác
.Nhất tâm chế ngự tham dục. Khi samādhi trụ vững chắc trên đề mục thiền thì không thể có sự dính mắc vào các đối tượng ngũ dục
Sau khi tâm thiền sắc giới kèm với các chi thiền sinh khởi, sẽ có các lộ trình ý môn sinh khởi và suy xét từng chi thiền một. Các lộ trình đó được gọi là lộ trình hồi quán (pacca vekkhaṇa vīthi) và những lộ trình này luôn sinh khởi sau mỗi lần nhập thiền. Tuệ giác của người đắc thiền sắc giới phải biết được đặc tính khác nhau của năm chi thiền. 
Người đắc sơ thiền có thể thấy được khiếm khuyết của tâm sở tầm và tập phát triển an tịnh sâu hơn nữa trên đề mục thiền mà không cần có tầm chạm vào đối tượng. Hành giả có thể đạt được điều này nếu có được năm pháp thuần thục (vāsi) trong thiền chứng: hướng tâm thuần thục, nhập định thuần thục, nguyện nhập thuần thục, nguyện xuất thuần thục, hồi quán thuần thục. Tiếp theo, hành giả có thể tiếp tục thấy được khiếm khuyết của các chi thiền thuộc các tầng thiền thấp hơn và từ bỏ dần các chi thiền này để đắc được các tầng thiền ngày càng cao hơn nữa:
.Khi tâm nhị thiền (dutiya jhāna) sinh khởi, tầm (vitakka) được từ bỏ, tâm chỉ sinh kèm với tứ, phỉ, lạc và nhất tâm.
.Tâm tam thiền (tatiya jhāna) không còn tứ (vicāra) và chỉ sinh kèm với phỉ, lạc và nhất tâm.
.Tâm tứ thiền (catuta jhāna) không còn phỉ (pīti) và chỉ sinh kèm với lạc và nhất tâm
.Tâm ngũ thiền (pañcamajhāna) không còn lạc (sukha) và chỉ sinh kèm với hai chi thiền là xả và nhất tâm
Nếu một người thiếu các pháp thuần thục (vāsi) thì người ấy sẽ không thể từ bỏ được các chi thiền của tầng thiền thấp để có thể đạt được các tầng thiền cao hơn.
VI. Các tầng thiền vô sắc giới
Có bốn giai đoạn của thiền vô sắc giới (arūpa jhāna). Tâm thiền của các tầng thiền này cùng loại với tâm thiền của tầng thứ năm của thiền sắc giới, nhưng đối tượng của nó không liên quan đến sắc. Người muốn phát triển thiền vô sắc trước tiên phải đắc được ngũ thiền của thiền sắc giới. Sau đó, hành giả phải thấy được hiểm họa của việc dễ dàng chìm đắm trong các đối tượng ngũ dục và hướng tối đối tượng không phải là sắc (tức vô sắc) có tính chất vô hạn và vi tế hơn cho đến khi an chỉ định sinh khởi. Khi ấy, hành giả đắc được thiện tâm thiền vô sắc giới với các tâm thiền sinh và diệt liên tiếp trong lộ trình ý môn. 
.Tầng thiền vô sắc giới thứ nhất là tâm thiền có đối tượng là không vô biên xứ, đó là tâm thiềnkhông vô biên xứĀkāsānañcāyatana jhānacitta
.Tầng thiền vô sắc giới thứ hai là tâm thiền có đối tượng là tâm thiền không vô biên xứ, đó là tâm thiền thức vô biên xứViññāṇañcāyatana jhānacitta
.Tầng thiền vô sắc giới thứ ba là tâm thiền có đối tượng là vô sở hữu xứ (không có gì cả), đó là tâm thiền vô sở hữu xứAkiñcaññāyatana jhānacitta
.Tầng thiền vô sắc giới thứ tư là tâm thiền có đối tượng là tâm thiền vô sở hữu xứ, đó là tâm thiền phi tưởng phi phi tưởng xứN’evasaññā-n’āsaññāyatanajhānacitta
Người phát triển samatha không có những kinh nghiệm khác thường. Khi tâm trở nên an tịnh, chỉ có tướng của đề mục thiền xuất hiện và tạo duyên cho tâm an trụ vững vàng hơn trong thiện. Chẳng hạn, người phát triển an tịnh qua đề mục là kasina nước sẽ có tợ tướng của biến xứ ấy là đối tượng và hành giả ấy sẽ không thấy địa ngục, thiên giới hay các hiện tượng khác xảy ra. 
Nếu một người không phân biệt được tâm tham căn và tâm đại thiện, khi tâm đủ duyên và thấy cảnh địa ngục, thiên giới hay các cảnh giới/ các sự kiện khác nhau, người đó sẽ lầm tưởng rằng mình đã đạt được cận định và an chỉ định. Nếu một người cố tập trung và tin rằng mình kinh nghiệm đủ loại hình ảnh khác nhau, chắc chắn người ấy đang không phát triển samatha.
VII. Thần thông
Sự phát triển samatha, tức là sự an tịnh ly bất thiện pháp, tới mức độ vô sắc giới chỉ có thể đạt được bởi một tâm có năng lực mạnh mẽ. Khi một hành giả đạt tới mức độ này, hành giả có thể tự luyện tập để đắc được các thần thông cụ thể, ví dụ như nhớ được các tiền kiếp, có thiên nhãn hay thiên nhĩ thông, đi trên nước, độn thổ, bay trên không trung ... 
Tuy nhiên, hành giả sẽ cần phải thuần thục các kỹ năng thiện xảo nhất trong tất cả các biến xứ và tất cả tám tầng thiền của thiền sắc giới và vô sắc giới. Ví dụ có khả năng đắc thiền với các biến xứ theo một trình tự cũng như theo trình tự ngược lại, hoặc có khả năng bỏ qua một số tầng thiền .... Hành giả phải biết các duyên tương ứng cho việc kiểm soát hoàn hảo các thiền chứng của mình.
Thanh Tịnh Đạo giải thích rằng sự phát triển của các tầng thiền khác nhau và đắc thần thông là vô cùng khó khăn: 
Hành giả không thể nào đắc thần thông nếu chưa hoàn tất sự tu tập điều phục tâm theo 14 cách ấy. ... Làm khởi lên sơ tướng là khó khăn và chỉ một trong một trăm hay một ngàn người làm được. Mở rộng sơ tướng và đắc an chỉ định là khó và chỉ một trong một trăm hay một ngàn người làm được. Điều phục tâm theo 14 cách sau khi đắc an chỉ định là khó và chỉ một trong một trăm hay một ngàn người làm được. Sự biến hoá bằng năng lực thần thông sau khi luyện tâm theo 14 cách là khó và chỉ một trong một trăm hay một ngàn người làm được .....
Việc nhớ lại tiền kiếp của mình chẳng hạn, là việc rất khó khăn. Ai có thể đạt được mức độ cận định, nếu tâm không phải là tâm đại thiện hợp trí? Ai có thể tuyên bố đã đắc an chỉ định của sơ thiền? Ai có thể đắc được nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, ngũ thiền và các tầng thiền vô sắc giới? Ai có thể nhớ được các tiền kiếp của mình nếu thậm chí không thể nhớ được những gì vừa xảy ra sáng nay? Người ấy có thể nhớ được từng khoảnh khắc tới sáng hôm qua, tối hôm qua .... ngược lại cho đến phút giây của thức tái tục của kiếp sống này? Rồi nhớ lại một cách tuần tự các kiếp trước của mình? Điều đó chỉ thực hiện được nếu tâm thiền trở nên cực kỳ hùng mạnh.
Sự phát triển samatha trong nhiều kiếp quá khứ có thể được tích luỹ và tạo duyên khiến một số người có thể có những linh cảm về các sự kiện có thể xảy ra. Một người đã phát triển định tâm có thể có khả năng thấy được điềm báo hay dự đoán về tương lai, có thể có những hình ảnh chớp sáng trong tâm về các sự kiện, một số dự cảm của người ấy có thể trở thành sự thực và một số khác không xảy ra. Điều này là kết quả của việc phát triển định lực, nhưng nó không phải là thần thông, cái là những phẩm chất đặc biệt của tâm thiền được phát triển mạnh mẽ đến mức độ các tầng thiền có thể tuần tự sinh khởi.
VIII. Samatha và phiền não
Qua sự phát triển samatha, phiền não không được tận diệt. Trong samatha, không có loại trí tuệ xuyên thấu đặc tính vô thường, khổ và vô ngã, biết được bản chất thật của thực tại và tận diệt được phiền não.
Nếu thiền chứng không bị suy thoái và tâm thiền có thể sinh khởi trong lộ trình ngay trước tử thức thì tâm thiền sẽ là nghiệp duyên (kamma paccaya) cho sự sinh khởi của tâm quả sắc giới là thức tái tục tại một trong các cõi Phạm thiên. Tuy nhiên, khi thọ mạng của người đó chấm dứt ở cõi đó, người ấy sẽ lại quay lại một kiếp sống với dính mắc vào tà kiến về ngã, vào các đối tượng ngũ dục.
Dù chỉ là đạt được cận định thôi cũng đã rất khó. Những khoảnh khắc của tâm thiện thật hiếm hoi so với những khoảnh khắc của tâm bất thiện thường sinh khởi một cách nhanh chóng do bởi các đối tượng in dấu lên ngũ môn và ý môn. Thiền chứng của samatha chỉ đè nén mà không tận diệt được phiền não, vì vậy tâm thiền có thể bị suy thoái, không còn sinh khởi một cách nhanh chóng hay thậm chí không còn sinh khởi nữa và hành giả mất đi kỹ năng đã từng có. Khi phiền não sinh khởi và chiếm lĩnh tâm, kể cả samatha đã được phát triển tới mức độ thần thông cũng có thể bị suy thoái. 
Trước khi Đức Phật giác ngộ, có những người đã phát triển samatha tới mức độ cao nhất của thiền vô sắc giới là phi tưởng phi phi tưởng xứ và họ có thể tự luyện tập để đạt tới những thần thông như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông (nhớ lại tiền kiếp) cùng các thần thông kỳ diệu khác. Mặc dù vậy, họ vẫn không thể xuyên thấu Tứ thánh đế, bởi họ chưa gieo trồng các nhân duyên đúng cho kết quả ấy. Nhân duyên đúng chính là sự phát triển vipassanā.
Sau khi Đức Phật đã giác ngộ và hoằng pháp, trong các vị thánh đệ tử có một số đã vun bồi thiền chứng và một số không vun bồi thiền chứng (samatha). Các bậc thánh nhân đã giác ngộ không thông qua thiền chứng thì đông đảo hơn số các vị giác ngộ với tâm siêu thế sinh kèm với các chi thiền của samatha. Điều này một lần nữa cho chúng ta thấy rằng sự phát triển samatha một cách đúng đắn là vô cùng khó khăn, vô cùng phức hợp.
các bài viết trước đây trong cùng series:
--- Lời bạt của người viết ----
Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch. 
Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.
---- Lưu ý (disclaimer) ----
Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.
Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.