Có 89 loại tâm tất cả và chúng có thể được chia theo bốn chủng loại (jāti):
.Kusala (thiện), 21 loại tâm;
.Akusala (bất thiện), 12 loại tâm;
.Vipāka (quả), 36 loại tâm;
.Kiriya (duy tác), 20 loại tâm.
Ngoài ra, chúng ta cần phải biết những loại tâm nào sinh khởi nơi phàm nhân (putthujana), nơi bậc thánh nhân (ariyan, tức là những người đã đạt được giác ngộ).
Phàm nhân có các tâm thuộc cả bốn chủng loại: kusala (thiện), akusala (bất thiện), vipāka (quả) và kiriya (duy tác).
Bậc thánh thứ nhất tức bậc Dự lưu (Sotāpanna), là người đã đạt được tầng tuệ thứ nhất của sự giác ngộ, cũng có các tâm thuộc cả bốn chủng loại. Tương tự, bậc thánh Nhất lai (Sakadāgāmī), là người đã đạt được giai đoạn thứ hai của sự giác ngộ và bậc thánh Bất lai (Anāgāmī), là người đã đạt được giai đoạn thứ ba của sự giác ngộ, cũng có các tâm thuộc cả bốn chủng loại.
Bậc thánh cuối cùng tức bậc A la hán (Arahat), người đã hoàn toàn tận diệt phiền não ở giai đoạn thứ tư của sự giác ngộ, có các tâm thuộc chỉ hai chủng loại, đó là: quả (vipāka) và duy tác (kiriya)
I. Một vài khía cạnh của tâm quả, tâm thiện và tâm bất thiện
Có rất nhiều khía cạnh khác nhau của tâm được đề cập đến trong kinh điển. Ngoài chủng loại (jāti) của một tâm, chúng ta cũng cần phải biết chức năng v.v.. của tâm đó. 
Thử xem xét về thức tái tục (paṭisandhi citta). Thức tái tục là tâm quả (vipāka citta), là kết quả của nghiệp (kamma), nó đảm nhận chức năng tái sinh. Thức tái tục đảm nhận chức năng tái sinh ở một cõi lành là một tâm quả thiện (kusala vipāka), là kết quả của nghiệp thiện (kusala kamma). Thức tái tục đảm nhận chức năng tái sinh ở một cõi xấu, chẳng hạn như địa ngục, thì là một tâm quả bất thiện (akusala vipāka), là kết quả của nghiệp bất thiện (akusala kamma). 
Như vậy một tâm quả thiện hoặc quả bất thiện mà đảm nhận chức năng tái sinh thì được gọi là Thức tái tục. Tương tự, bất cứ tâm quả thiện hoặc quả bất thiện nào đảm nhận chức năng hộ kiếp (bhavanga) thì được gọi là tâm hộ kiếp.
Không phải bất cứ tâm quả nào cũng có thể đảm nhận chức năng tái tục hay chức năng hộ kiếp. Các ngũ song thức (tâm thấy, nghe, ngửi, nếm ...) thì không thể đảm nhận hai chức năng này, chúng chỉ đảm nhận chức năng nhận biết các đối tượng qua các cửa giác quan tương ứng mà thôi. 
Trong bốn chủng loại (jāti) thì có hai chủng loại của tâm là nhân: thiện (kusala) và bất thiện (akusala). Tâm thiện và tâm bất thiện là những tâm là nhân và chúng rất đa dạng với nhiều sắc thái và mức độ hạ, trung, thượng ... khác nhau. Chẳng hạn, khi tâm thiện/ bất thiện kinh nghiệm đối tượng (qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn), chúng tạo ra các nghiệp tốt cũng như xấu hết sức khác nhau. Các nghiệp có thể được tạo ra ở nhiều mức độ: bố thí (dāna); trì giới (sīla) và phát triển tâm trí (bhāvanā), trong đó bao gồm sự phát triển an tịnh (samatha) và sự phát triển minh sát (vipassanā). Bản thân sự phát triển minh sát lại bao gồm nhiều mức độ, chẳng hạn như nghe Pháp, luận giải về Pháp hay phát triển tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna hay còn gọi là vipassanā - minh sát tuệ).
Các nghiệp còn khác biệt ở chỗ chúng được thực hiện qua thân, khẩu hay ý. Chúng khác biệt khi sinh kèm với các tâm sở (cetasika) khác nhau và chúng có những yếu tố chủ đạo khác nhau.... Như vậy, các tâm là nhân - các tâm thiện và bất thiện - thì rất đa dạng, chúng có nhiều mức độ và sắc thái, còn tâm quả thì không có sự đa dạng như thế. Tâm quả chỉ là kết quả của nghiệp đã được tạo từ trước và không thể tạo ra nghiệp mới, nó không phải là nhân. 
II. Hiểu biết và phiền não
Khi ta nghe một âm thanh dễ chịu hay khó chịu, đó là khoảnh khắc của quả tâm lộ (vipāka vīthi citta) nghe âm thanh rồi diệt đi hoàn toàn. Tuy nhiên, (sau đó) có những duyên khiến một số lượng lớn các tâm bất thiện thích hoặc không thích các sắc (rūpa) xuất hiện qua tai, mắt, mũi, lưỡi hay thân căn. Thích và không thích thì không bao giờ thiếu trong cuộc đời, chúng sinh khởi rất nhiều lần, xuất phát từ những gì xuất hiện qua sáu căn. 
Như đã được biết, các phiền não chỉ có thể được diệt trừ nhờ sự phát triển của trí tuệ hay Hiểu biết đúng về các thực tại (dhamma - pháp). Dầu vậy, với hiểu biết lý thuyết có được nhờ việc nghe Pháp mà Đức Phật đã dạy, bất thiện pháp vẫn chưa thể được tận diệt. Chúng ta có thể biết rằng thấy chỉ là vipāka, là kết quả của nghiệp đã được tạo trong quá khứ, nhưng chỉ biết điều này trên lý thuyết thôi thì chưa đủ. Chỉ với hiểu biết về mặt lý thuyết, chúng ta không thể nào ngăn cản sự sinh khởi của tham (lobha) khi thấy một cái gì đó dễ chịu.
Chúng ta phải nghiên cứu thực tại để trí tuệ có thể phát triển tới mức độ thực sự thấy được bản chất của thực tại, thấy rằng thực tại không phải là chúng sinh hay con người hay tự ngã nào hết. Khi ta nghiên cứu Giáo pháp và nghiên cứu một cách cẩn thận, chi tiết, chúng ta cũng sẽ thấy rõ hơn hiểm họa của bất thiện và chúng ta sẽ muốn phát triển tất cả các mức độ của thiện pháp.
Chúng ta thường cho rằng mọi thứ đều thuộc về mình, nhưng suy nghĩ ấy chỉ xẩy ra ở những khoảnh khắc của các tâm lộ sinh khởi. Thực tại chỉ xuất hiện tại các khoảnh khắc của tâm lộ. Một tâm sinh khởi và rồi diệt đi ngay, nó biến mất hoàn toàn ở khoảnh khắc ngay sau đó. Một sắc sinh khởi và chẳng mấy chốc lại diệt đi, nó cũng biết mất hoàn toàn ngay sau đó. Đối tượng thị giác là sắc xuất hiện qua nhãn căn chỉ một khoảnh khắc trước đây thôi cũng đã hoàn toàn diệt đi, cũng như tất cả các tâm vừa sinh khởi trong lộ trình nhãn môn. Tất cả các tâm, tất cả các sắc sinh khởi và rồi diệt đi và biến mất mãi mãi. 
Tuy nhiên, chừng nào sự sinh và diệt của danh (nāma) và sắc (rūpa) chưa được chứng ngộ trực tiếp bằng tuệ giác, chúng ta sẽ không thể hiểu được diệt là gì. Chúng ta chưa thể trực nhận được sự sinh khởi và diệt đi của bất kỳ thực tại nào (thông qua sự phát triển vipassanā). Chúng ta có thể nói rằng tại khoảnh khắc này, cái thấy đang diệt đi, rằng tiếp nhận tâm, suy đạt tâm và xác định tâm, các tốc hành tâm và các tâm mót đang diệt đi, nhưng thực chất sự diệt đi của các pháp vẫn chưa được xuyên thấu bởi tuệ giác. Trí tuệ (paññā) vẫn cần được tiếp tục phát triển để có thể xuyên thấu được danh và sắc. Kể cả khi trí tuệ chưa đạt được đến mức độ đó thì cũng rất cần thiết phải nghe Pháp và suy xét để hiểu biết đúng có thể phát triển và trở nên sắc bén hơn, sâu sắc hơn. Hiểu biết đúng cần phải được tích luỹ để trở thành nhân duyên cho tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna) sinh khởi và hay biết các đặc tính của pháp sinh và diệt. Như thế, trí tuệ dần được phát triển và xuyên thấu đặc tính của các pháp để nhận ra rằng thực sự các pháp không phải là con người, không phải là ta hay tự ngã.
Như đã biết, những gì sinh khởi đều là pháp hữu vi, là một trong ngũ uẩn và diệt đi ngay lập tức sau khi sinh khởi. Vậy chúng ta vẫn còn mong muốn, dính mắc vào uẩn nào đây? Mỗi uẩn (khandha) đã sinh và diệt thì biến mất, tan biến hoàn toàn không còn gì sót lại, vậy chúng có gì đáng để dính mắc vào?
Ta có thói quen dính mắc vào những gì xuất hiện qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn. Chúng ta coi những thứ đó là ta, là ngã, là của cải của ta.... Chúng ta có thể có nhà cửa, của cải, quần áo, đồ trang sức đẹp đẽ, nhưng trên thực tế chỉ có tâm quả là quả của các nghiệp quá khứ sinh khởi và kinh nghiệm những đối tượng ấy qua các căn. Tâm xuất hiện và kinh nghiệm đối tượng ở một khoảnh khắc rồi diệt đi ngay, biến mất mãi mãi, không hề tồn tại kéo dài. Không ai có thể biết nghiệp nào sẽ tạo ra quả nào trong tương lai. Lý do là bởi chúng ta đã tạo vô số nghiệp cả thiện lẫn bất thiện trong quá khứ và khi các duyên tố phù hợp cho nghiệp tạo quả thì tâm quả sẽ sinh khởi để kinh nghiệm đối tượng qua một trong sáu môn.
Chỉ với kiến thức có được nhờ đọc và nghe thì phiền não không thể được tận diệt; chúng sẽ vẫn còn xuất hiện với đầy đủ sức mạnh của chúng. Tuy nhiên, khi chúng ta suy xét về các pháp và có được hiểu biết đúng về chúng thì các nhân duyên cho sự sinh khởi của chánh niệm đang được tích luỹ. Đến thời điểm đủ duyên, chánh niệm (sati) có thể hay biết và thật sự ghi nhận được các đặc tính của các pháp mà trước đó chúng ta mới chỉ hiểu trên lý thuyết nhờ vào việc nghe. Bằng cách ấy, trí tuệ có thể phát triển, xuyên thấu được các thực tại sinh và diệt và chỉ khi ấy, tà kiến cho rằng các thực tại là chúng sinh, là con người mới có thể được loại bỏ.
Khi chúng ta học về chân lý vô thường và suy ngẫm về điều ấy, chúng ta sẽ được thúc giục bền bỉ hay biết về các đặc tính của những thực tại đang xuất hiện. Nếu có đủ duyên, chánh niệm có thể sinh khởi và hay biết các đặc tính của các pháp và trí tuệ đồng thời thẩm xét các pháp ấy lần này qua lần khác thì các pháp ấy sẽ có thể được chứng ngộ như chúng là: không phải là một cái gì đó, không phải là tự ngã, chỉ là danh và sắc xuất hiện đơn lẻ tại mỗi thời điểm qua sáu môn.
Với hiểu biết đúng về các đặc tính của các pháp, sẽ có nhân duyên cho tốc hành tâm lộ thiện (kusala javana vīthi citta). Nếu chúng ta không nghe Giáo pháp và không thẩm xét các thực tại, chúng ta sẽ không biết khi nào là quả, là kết quả của nghiệp quá khứ và khi nào là tốc hành tâm lộ thiện hay bất thiện sinh khởi theo chặp. Nếu không biết những điều như thế, chúng ta sẽ không thấy được hiểm họa của bất thiện và sẽ không muốn phát triển thiện pháp. Như thế, vòng luân hồi sẽ kéo dài vô tận. Vì vậy, việc suy xét về những thực tại xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta là rất lợi lạc. 
 III. Các đặc tính cụ thể của các tâm và chức năng của chúng
Có tất cả 14 chức năng của tâm:
1. Chức năng tái sinh (paṭisandhi): Cái đảm nhận chức năng tiếp nối tử thức ở kiếp sống trước. Có 19 loại tâm quả (vipāka citta) có thể đảm nhận chức năng tái sinh, bao gồm:
.10 loại tâm quả dục giới (kāmāvacara vipāka citta)
.5 loại tâm quả sắc giới - quả của các tầng thiền sắc giới (rūpāvacara vipāka citta)
.4 loại tâm quả vô sắc giới - quả của các tầng thiền vô sắc giới (arūpāvacara vipāka citta)
2. Chức năng hộ kiếp (bhavanga): là sự bảo tồn tính tương tục trong một kiếp sống. Các tâm đảm nhận chức năng hộ kiếp cũng bao gồm 19 loại tâm quả (vipāka citta) giống các tâm đảm nhận chức năng tái sinh. Bất cứ loại tâm quả nào đảm nhận chức năng tái sinh trong một kiếp sống thì cũng đảm nhận chức năng hộ kiếp sau khi thức tái tục đã diệt đi. Các tâm hộ kiếp sinh khởi trong một kiếp sống cũng cùng là một loại với thức tái tục (paṭisandhi citta).
3. Chức năng hướng tâm (āvajjana): là sự hướng tâm đến đối tượng in dấu lên một trong sáu môn. Hướng tâm luôn là tâm lộ đầu tiên sinh khởi trong một lộ trình tâm. Có hai loại tâm duy tác đảm nhận chức năng hướng tâm là: 
.Ngũ môn hướng tâm (pañca-dvārāvajjana citta)
.Ý môn hướng tâm (mano dvārāvajjana citta)
4. Chức năng thấy: (dassana kicca): có hai loại tâm quả đảm nhận chức năng thấy:
.Nhãn thức là tâm quả bất thiện (akusala vipaka citta)
.Nhãn thức là tâm quả thiện (kusala vipaka citta)
5. Chức năng nghe: (savana kicca): có hai loại tâm quả đảm nhận chức năng nghe:
.Nhĩ thức là tâm quả bất thiện (akusala vipāka citta)
.Nhĩ thức là tâm quả thiện (kusala vipāka citta)
6. Chức năng ngửi: (ghāyana kicca): có hai loại tâm quả đảm nhận chức năng ngửi:
.Tỷ thức là tâm quả bất thiện (akusala vipāka citta)
.Tỷ thức là tâm quả thiện (kusala vipāka citta)
7. Chức năng nếm: (sāyana kicca): có hai loại tâm quả đảm nhận chức năng nếm:
.Thiệt thức là tâm quả bất thiện (akusala vipāka citta)
.Thiệt thức là tâm quả thiện (kusala vipāka citta)
8. Chức năng kinh nghiệm đối tượng xúc chạm qua thân căn: (phusana kicca): có hai loại tâm quả đảm nhận chức năng xúc chạm qua thân căn:
.Thân thức là tâm quả bất thiện (akusala vipāka citta)
.Thân thức là tâm quả thiện (kusala vipāka citta)
9.Chức năng tiếp nhận(sampaṭicchana kicca): là sự tiếp nhận đối tượng sau khi ngũ song thức (các tâm thực hiện các chức năng số 4,5,6,7,8 ở trên) đã diệt đi. Có hai loại tâm đảm nhận chức năng này:
.Tiếp nhận tâm là tâm quả bất thiện (akusala vipāka citta)
.Tiếp nhận tâm là tâm quả thiện (kusala vipāka citta) 
10. Chức năng suy đạt ( santīraṇa kicca): là sự suy đạt về đối tượng xuất hiện qua một trong năm môn. Có ba loại tâm đảm nhận chức năng này:
.Suy đạt tâm sinh kèm với thọ xả (upekkhā) là quả bất thiện
.Suy đạt tâm sinh kèm với thọ xả (upekkhā) là quả thiện
.Suy đạt tâm sinh kèm với thọ hỷ (somanassa) là quả thiện
11. Chức năng xác định (votthapana kicca): là xác định đối tượng để xem loại tốc hành tâm nào sẽ sinh khởi tiếp theo trong một trong các lộ trình ngũ môn. Có một loại tâm đảm nhận chức năng này:
.Ý môn hướng tâm (mano dvārāvajjana citta)
12. Chức năng tốc hành (javana kicca): là "chạy qua" đối tượng, hay "thọ hưởng" đối tượng. Có 55 loại tâm có thể đảm nhận chức năng tốc hành này: 
.Tâm bất thiện (akusala citta): 12 tâm
.Tâm sinh nụ cười hàm tiếu của các vị A la hán ( ahetuka kiriyacitta hasituppada citta): 1 tâm
.Tâm thiện dục giới (kāmāvacara kusala citta): 8 tâm
.Tâm duy tác dục giới (kāmāvacara kiriya citta) của các vị A la hán: 8 tâm
.Tâm thiện sắc giới (rūpāvacara kusala citta) của các tầng thiền sắc giới: 5 tâm
.Tâm thiện vô sắc giới (arūpāvacara kusala citta): 4 tâmTâm duy tác vô sắc giới (arūpāvacara kiriya citta) của các vị A la hán: 4 tâm
.Tâm siêu thế (lokuttara citta) kinh nghiệm Niết bàn: 8 tâm
13. Chức năng đăng ký, mót (tadālambana kicca): đảm nhận chức năng nhận biết đối tượng sau khi các tốc hành tâm đã diệt đi. Có 11 loại tâm quả đảm nhận chức năng này:
.Suy đạt tâm (santīraṇa citta): 3 tâm (3 tâm quả thực hiện chức năng số 10 ở trên)
.Các tâm quả thiện dục giới hữu nhân (kāmāvacara sahetuka kusala vipāka citta): 8 tâm
14. Chức năng tử (cuti kicca): là chức năng rời khỏi kiếp sống này. Thời điểm tử thức (cuti-citta) sinh khởi, đảm nhận chức năng này rồi diệt đi chính là thời điểm cuối cùng của kiếp sống hiện tại, là thời điểm chấm dứt của con người cụ thể đó. Có 19 loại tâm quả đảm nhận chức năng này, cùng loại với các tâm đảm nhận chức năng tái sinh và chức năng hộ kiếp (các tâm được liệt kê ở chức năng số 1. ở trên)
IV. Thức tái tục và các cõi tái sinh
Do duyên mà thức tái tục sinh khởi trong một kiếp sống mới ở các cõi tái sinh khác nhau. 
Có 10 loại tâm quả dục giới (kāmāvacara vipāka citta) đảm nhận chức năng tái sinh trong 11 cõi dục giới (kāma bhūmi):
.Suy đạt tâm thọ xả là quả bất thiện (kết quả của nghiệp bất thiện) có thể đảm nhận chức năng tái sinh trong bốn cõi ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, a tu la và cõi súc sinh
.Suy đạt tâm thọ xả là quả thiện (kết quả của nghiệp thiện yếu ớt) có thể đảm nhận chức năng tái sinh trong hai cõi: cõi người (trong trường hợp này, người được sinh ra sẽ bị dị tật bẩm sinh như câm, mù, què ... ) và cõi tứ đại thiên vương (cātummahārājika, một cõi trời bậc thấp)
.Tám loại tâm quả đại thiện (quả thiện hữu nhân) có thể đảm nhận chức năng tái sinh ở bảy cõi: cõi người và sáu cõi trời dục giới.
Có chín loại tâm quả sắc giới và vô sắc giới đảm nhận chức năng tái sinh trong 19 cõi phạm thiên:
.Năm loại tâm quả sắc giới (rūpāvacara vipāka citta) có thể đảm nhận chức năng tái sinh trong 15 cõi phạm thiên sắc giới (rūpa brahma) và các mức độ khác nhau của những loại tái sinh này (tức là ở tầng trời nào) phụ thuộc vào tâm thiện sắc giới (rūpāvacara kusala citta) đã sản sinh ra chúng.
.Bốn loại tâm quả vô sắc giới (arūpāvacara vipāka citta) đảm nhận chức năng tái sinh trong bốn cõi phạm thiên vô sắc giới (arūpa brahma) và các mức độ khác nhau của những loại tái sinh này phụ thuộc vào tâm thiện vô sắc giới (arūpāvacara kusala citta) đã sản sinh ra chúng.
V. Phân loại tâm theo số lượng chức năng
Có tất cả 14 chức năng (kicca) của tâm, nhưng mỗi tâm chỉ có thể đảm nhận một số lượng chức năng nhất định.
.Có hai loại tâm đảm nhận năm chức năng tái sinh, hộ kiếp, suy đạt, đăng ký và tử: Suy đạt tâm thọ xả quả bất thiện và Suy đạt tâm thọ xả quả thiện
.Có tám loại tâm đảm nhận bốn chức năng tái sinh, hộ kiếp, đăng ký và tử: Tám tâm đại thiện (mahāvipāka citta = tám tâm quả thiện dục giới hữu nhân)
.Có chín loại tâm đảm nhận ba chức năng tái sinh, hộ kiếp và tử: Năm tâm quả sắc giới (rūpāvacara vipāka citta) và bốn tâm quả vô sắc giới (arūpāvacara vipāka citta)
.Có hai loại tâm có thể đảm nhận hai chức năng: Ý môn hướng tâm (chức năng hướng tâm số 3. trong lộ ý môn và chức năng xác định số 11. trong lộ ngũ môn) và Suy đạt tâm thọ hỷ quả thiện (chức năng suy đạt số 10. và chức năng đăng ký số 13.)
.Tất cả các loại tâm còn lại chỉ đảm nhận một chức năng duy nhất là chức năng riêng của chúng mà thôi.
--- Lời bạt của người viết ----
Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch. 
Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.
---- Lưu ý (disclaimer) ----
Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.
Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.