Được gọi là tâm vì nó được tích luỹ do năng lực của luồng tốc hành tâm (javana) trong lộ tâm --- Chú giải Bộ pháp tụ (Aṭṭhasālinī)
Theo kinh điển, các tâm sinh diệt nối tiếp nhau rất nhanh và các phẩm chất thiện hay bất thiện đồng sinh với tâm được tích luỹ từ sát na tâm này sang sát na tâm khác.

I. Các xu hướng thiện/ bất thiện được tích lũy từ tâm này sang tâm tiếp theo

Mỗi tâm sinh và diệt rất nhanh được tiếp nối bởi tâm tiếp theo và những tích luỹ của tâm trước sẽ được chuyển sang tâm tiếp theo. Dù tâm là thiện (kusala citta) hay bất thiện (akusala citta), mỗi tâm sinh và diệt lại làm duyên cho tâm tiếp theo sinh khởi ngay sau nó. Chính vì vậy, những xu hướng được tích luỹ từ tâm trước có thể chuyển sang tâm tiếp nối và luôn có sự tương tục.
Chúng ta có thể nhận thấy mỗi người có những khuynh hướng khác nhau, tính cách khác nhau, sở dĩ có điều ấy là bởi các khuynh hướng đó đã được tích luỹ trong tâm và chuyển từ tâm trước sang tâm tiếp nối. Một số người có khuynh hướng làm việc thiện, họ có thể làm như vậy bởi thiện tâm trong quá khứ sinh và diệt đi được tiếp nối bởi tâm tiếp theo tích luỹ các khuynh hướng thiện. Như vậy, các duyên tố cho sự sinh khởi về sau của thiện pháp được tạo ra. Cũng tương tự như vậy đối với trường hợp của bất thiện tâm, dù đó là tâm bất thiện căn tham, căn sân hay căn si; khi bất thiện pháp diệt đi, nó tạo duyên cho sự sinh khởi của tâm tiếp theo và như vậy khuynh hướng bất thiện được tích luỹ trong tâm trước sẽ chuyển sang tâm tiếp theo và bằng cách ấy, lại có thêm các duyên tố cho sự sinh khởi của bất thiện tâm trong tương lai.

II. Vô gián duyên

Sở dĩ tâm nối tiếp nhau được, đó là do vô gián duyên (anantara paccaya): mỗi tâm là vô gián duyên cho tâm tiếp theo. Điều ấy có nghĩa rằng tâm trước tạo duyên cho sự sinh khởi của tâm sau tiếp nối ngay khi tâm trước đã diệt đi. Mỗi tâm đều là vô gián duyên cho tâm tiếp theo, ngoại trừ tâm tử (cuti citta) của một vị A la hán. Tâm này không thể là vô gián duyên bởi một khi nó diệt đi thì parinibbāna (bát niết bàn) hay sự tịch diệt hoàn toàn của ngũ uẩn sẽ xẩy ra. Vì vậy tử thức của một vị A la hán không được tiếp nối bởi thức tái tục hay bởi bất kỳ một tâm nào khác.
Tóm tắt lại các duyên hệ mà chúng ta đã bàn tới bao gồm: 
Đồng sinh duyên (Sahajāta paccaya)
Cảnh duyên (Ārammaṇa paccaya)
Vô gián duyên (Anatara paccaya)

III. Bốn chủng loại tâm

Kinh điển chia ra 4 loại tâm (jāti) như sau:
Tâm thiện (kusala citta)
Tâm bất thiện (akusala citta)
Tâm quả (vipāka citta)
Tâm duy tác (kiriya citta)
Kusala citta (tâm thiện) là tâm có tính chất thiện, nó là nguyên nhân tạo nên kết quả khả ái (kusala vipāka) trong tương lai. Khi tâm thiện và các tâm sở đồng sinh - cái là nhân sẽ cho quả tương lai - đã diệt đi, những tính chất thiện của tâm đó sẽ được chuyển sang tâm tiếp theo và rồi sang những tâm sau nữa. Như vậy chúng có thể tạo duyên cho sự sinh khởi của tâm quả thiện (kusala vipāka citta) và các tâm sở đồng sinh trong tương lai, chúng là quả của tâm thiện đã sinh khởi trước đó (Lưu ý rằng các tâm sở sinh khởi cùng tâm quả (vipāka citta) thì cũng là quả, chúng là tâm sở quả (vipāka cetasika))
Ngược lại, tâm bất thiện là một thực tại có hại và nguy hiểm vì nó làm sinh khởi kết quả bất hạnh, bất khả ái dưới những dạng khác nhau của tâm quả bất thiện (akusala vipāka citta)
Ngoài tâm bất thiện, tâm thiện và tâm quả, còn có một loại tâm nữa, đó là kiriya citta (tâm duy tác hay tâm vô ký). Tâm duy tác không phải là tâm thiện cũng không phải là tâm bất thiện, vì vậy nó không phải là duyên cho sự sinh khởi của tâm quả, bản thân nó cũng không phải là tâm quả bởi vì nó không phải là kết quả của tâm thiện hay tâm bất thiện.

IV. Thức tái tục và tâm hộ kiếp

Nếu chúng ta không nghiên cứu thực tại chân đế một cách chi tiết, chúng ta sẽ không thể biết được, thậm chí là ở mức độ tư duy, rằng tâm khi nào là thiện, khi nào là bất thiện và khi nào là quả hay duy tác. 
Lấy ví dụ về tâm đầu tiên sinh khởi trong một kiếp sống: thức tái tục. Hiện giờ chúng ta đang sống là bởi thức tái tục đã sinh khởi và tạo duyên cho chúng ta làm một chúng sinh cụ thể trong kiếp sống này. Thức tái tục này không phải là tâm thiện, cũng không phải là tâm bất thiện, nó không tạo ra bất cứ một nghiệp nào qua thân/khẩu/ý. Thức tái tục là một tâm quả; nó sinh khởi với tư cách là quả của một nghiệp cụ thể. Trong mỗi kiếp sống quá khứ đã có vô số nghiệp (kamma) được tạo ra, và một nghiệp cụ thể trong số đó có thể làm duyên cho thức tái tục của kiếp sống này. Thức tái tục vì thế là một tâm quả do nghiệp sinh thông qua Nghiệp duyên (kamma paccaya). Theo kinh điển, việc sinh ra trong cõi người chắc chắn phải là kết quả của một nghiệp thiện (kusala kamma). Thức tái tục vào cõi người vì thế là tâm quả thiện (kusala vipāka citta). Trường hợp tái sinh vào một trong các cõi ác (điạ ngục, ngạ quỷ, atula hay súc sinh) thì thức tái tục là kết quả của một nghiệp bất thiện, tức là một tâm quả bất thiện (akusala vipāka citta).
Như vậy, một nghiệp trong quá khứ sẽ làm duyên cho sự sinh khởi của thức tái tục, tâm đầu tiên của kiếp sống này, thức tái tục này tiếp nối ngay sau tử thức của kiếp sống cũ (vô gián duyên). Thức tái tục cũng lại diệt đi ngay sau khi sinh khởi, sau đó vẫn nghiệp ấy sẽ làm duyên cho sự sinh khởi của các tâm quả tiếp theo đảm nhận chức năng duy trì kiếp sống (bhavanga citta), gọi là tâm hộ kiếp. Tâm hộ kiếp sẽ duy trì sự tương tục của sự sống của một cá nhân cụ thể. Tâm hộ kiếp đảm nhận chức năng này trong suốt kiếp sống, giữa các tâm lộ (sẽ giải thích sau), cho đến khi tử thức lại sinh khởi và cá nhân cụ thể ấy chấm dứt cuộc sống trong cõi này. Ngoài tâm hộ kiếp (một loại tâm quả), trong một kiếp sống, các nghiệp khác có thể làm duyên cho sự sinh khởi của các loại tâm quả (vipāka citta) khác với chức năng kinh nghiệm đối tượng qua mắt, tai, mũi, lưỡi và thân.

V.  Hiểu hơn về thiện/bất thiện

Thiện pháp là một thực tại tốt đẹp, không thể chê trách, không gây tác hại. Một số người nghĩ rằng chỉ có thể tạo thiện pháp nếu giầu có, nhưng thực ra ta hoàn toàn có thể giúp đỡ mọi người theo những cách khác. Dù không có tiền, vẫn có những thứ người ấy có thể chia sẻ với người khác để giúp họ. Nếu biết thiện pháp chính là tâm tốt, lành và không có lỗi lầm, chúng ta sẽ hiểu rằng cho dù có ít phương tiện vật chất, vẫn có nhiều loại thiện pháp khác ta có thể làm. Ta có thể có tâm từ với ai đó, đối xử với người ấy thật lòng như bạn bè, tâm khi ấy rất mềm mại và hiền hoà và tâm ấy chính là thiện pháp. Ta có thể nói những lời trìu mến, âu yếm tự đáy lòng. Luôn có nhiều cách, nhiều phương tiện để hỗ trợ và chia sẻ với mọi người. Vào những khoảnh khắc như thế, tâm là thiện. Ngược lại, khi ta ngã mạn, cho rằng mình quan trọng hơn, giỏi hơn hay thông minh hơn người khác, khi tự so sánh mình với người khác và suy nghĩ dưới góc độ "tôi", "người ấy" thì tính chất của tâm là bất thiện. Cái quan trọng và mang tính quyết định để phân biệt thiện/ bất thiện là phẩm chất của tâm ở bên trong, chứ không phải các hành động mà một người thể hiện ra bên ngoài. 
Nếu một người muốn giữ mọi thứ cho mình, tâm quảng đại không thể sinh khởi, nếu một người dính mắc vào ý niệm diệt bỏ phiền não để có an tịnh cho mình, tâm an tịnh cũng không thể sinh khởi. Ta phải thực sự hiểu đặc tính của thiện trước khi tìm được cách thức và phương tiện để phát triển thiện pháp. Trong mỗi người đã có sẵn những tích luỹ các xu hướng thiện và bất thiện khác nhau. Ta cần xem xét và thẩm định tâm của mình và tìm hiểu liệu vẫn còn rất nhiều sự bủn xỉn, hay liệu ta đang dần cho đi những thứ cần thiết cho người khác. Bằng cách ấy, sự quảng đại có thể trở thành bản tính và thậm chí sẽ trở thành một yếu tố mạnh mẽ trợ duyên cho trí tuệ (paññā) sinh khởi, trí tuệ ấy sẽ tiêu diệt tà kiến cho danh (nāma) và sắc (rūpa) là ta, là một tự ngã. 

VI. Cái gì diệt trừ được phiền não

Chúng ta có thể tự cho rằng mình muốn không có phiền não, nhưng dường như thực tế là chúng ta muốn có chúng: chúng ta muốn thấy mình quan trọng, muốn hơn người khác việc gì đó .... Nếu ai nói rằng những phiền não như thế cần được tận diệt, rằng ta không nên như vậy mà nên hoan hỷ khi người khác hạnh phúc, rằng cần có từ tâm với một người khó chịu ...., liệu ta có theo được những lời khuyên ấy không? Người muốn giận dữ, muốn hơn người khác, muốn kiêu ngạo và ghen tuông thì không thể làm theo những lời khuyên vun bồi thiện pháp. Điều đó cho thấy sự diệt trừ phiền não không thể xẩy ra ngay lập tức mà chỉ có thể tới một cách từ từ. 
Ta phải biết rằng phiền não không suy giảm bằng bất cứ mong muốn của một tự ngã nào, mà chỉ có một thực tại, một pháp chân đế duy nhất diệt trừ được nó: (tâm sở) Trí tuệ. Trí tuệ có thể dần dần phát triển và đôi khi trí tuệ có thể sinh khởi, với điều kiện mọi loại thiện pháp cần được phát triển. Sẽ không đúng nếu cho rằng chỉ cần bố thí là đủ mà không cần chú ý đến phiền não vẫn còn sinh khởi. Biết được phiền não của mình là tối quan trọng. 
 Một người có thể muốn an tịnh vì người ấy thường xuyên cảm thấy bất an, thường giận dữ, bối rối và khó chịu, lo lắng, suy nghĩ rối bời ... Lý do là tại những khoảnh khắc như vậy, người ấy không kiểm tra tâm mình mà thay vào đó lại chỉ để ý đến người mà người ấy đang khó chịu. Nếu để ý đến người khác theo một cách bất thiện, tâm lúc đó sẽ là bất thiện đi kèm với bất an và lo lắng. Người ấy có thể muốn được yên bình trở lại, nhưng như đã nói, "mong muốn" không làm được điều đó, mà chỉ có sự sinh khởi của thiện pháp mới làm được. Ví dụ sau khi giận dữ, nếu ta có thể chánh niệm nghĩ đến người khác theo cách thiện, khi đó tâm từ, bi, hỷ hay xả có thể sinh khởi và ngay lập tức sẽ có sự an tịnh. Luôn có sự an tịnh thực sự với mỗi thiện tâm. Như vậy, nếu muốn diệt bỏ phiền não, ta phải vun bồi tất cả các loại thiện pháp, chứ không chỉ một loại như bố thí chẳng hạn.

VII. Các danh và sắc pháp nổi bật do nghiệp sinh

Như đã biết, có bốn chủng loại (jāti) tâm là Thiện, Bất thiện, Quả và Duy tác, là loại này thì không phải và không thể là loại khác. Tâm thấy, nghe, ngửi, nếm, kinh nghiệm sự xúc chạm thì là các tâm quả, không phải là tâm thiện hay bất thiện. Các tâm quả này là quả của nghiệp quá khứ trổ khi nghiệp trở nên chín muồi. Các loại tâm quả khác nhau đảm nhận những chức năng thấy, nghe, ngửi .... khác nhau. Tâm quả là quả được tạo ra bởi nghiệp thiện hoặc bất thiện đã tích luỹ. Tâm quả sinh và rồi diệt đi không thể tạo nên sự sinh khởi của bất cứ tâm quả nào khác.
Ngoài các tâm quả kinh nghiệm đối tượng qua các giác quan kể trên, Nghiệp (kamma) còn tạo nên thức tái tục, tâm hộ kiếp và tâm tử (tử thức). Như ta đã biết, một đời sống bắt đầu với thức tái tục, được duy trì bằng tâm hộ kiếp và kết thúc với tử thức, cả ba tâm này đều là tâm quả của cùng một nghiệp quá khứ. Ngoài ba tâm này, tất cả các tâm khác (bao gồm cả các tâm quả thấy nghe, ngửi, nếm ....) được gọi là tâm lộ, lý do là bởi vì các tâm khác với thức tái tục, hộ kiếp và tử thức thì luôn sinh khởi trong một lộ trình, gọi là "lộ trình tâm" (sẽ được giải thích sau). Trong một đời sống từ sau thức tái tục và đến trước tử thức, các tâm hộ kiếp đảm nhận chức năng duy trì sự tương tục của kiếp sống tại mọi khoảnh khắc không có cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm hay suy nghĩ. Như thế, ba tâm: thức tái tục, tâm hộ kiếp và tử thức không sinh khởi trong một lộ trình và không được gọi là tâm lộ (vīthi citta). Thế gian không xuất hiện với ba tâm này, tại các khoảnh khắc mà ba tâm này sinh khởi, không có bất kỳ đối tượng nào xuất hiện qua ngũ quan hay trong suy nghĩ, ba tâm này không biết ta là ai, ở đâu, bà con hay bạn bè của ta, cũng không biết gì về của cải, cấp bậc, địa vị, hạnh phúc hay đau khổ. Đó cũng chính là đặc tính của tâm khi ta ngủ say không mơ. 
Như vậy ta có các tâm quả do Nghiệp dẫn đến tái sinh tạo ra: tái tục, hộ kiếp và tử; các tâm quả do các Nghiệp quá khứ tạo ra và đảm nhận chức năng thấy, nghe, ngửi nếm .... Mọi tâm sở sinh khởi cùng tâm quả đều là tâm sở quả (vipāka cetasika).
Trong một cõi có ngũ uẩn, Nghiệp dẫn đến tái sinh không những tạo ra thức tái tục, tâm hộ kiếp và tâm tử mà còn tạo duyên cho sự sinh khởi của các sắc, gọi là sắc do nghiệp sinh (kammaja rūpa). Trong các sắc do nghiệp sinh có các sắc đặc biệt đảm nhận chức năng thần kinh nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Các sắc đặc biệt này gọi là sắc căn với các loại: nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn. Các sắc căn này, như mọi sắc khác, sinh và diệt một cách liên tiếp, chúng cho ta khả năng kinh nghiệm đối tượng ngũ căn, nhờ thế ta không bị mù, điếc hay tàn tật... Khi tại một thời điểm nào đó, nghiệp không còn tạo duyên cho sự sinh khởi của sắc nhãn căn thì chúng ta sẽ mù. Nhãn thức và các ngũ thức khác chỉ có thể sinh khởi khi có đủ duyên, một trong số đó là sự sinh khởi của sắc căn tương ứng.

VIII. Tâm lộ và trình tự tâm trước tâm lộ

Danh pháp (nāma) xuất hiện tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày là các tâm hộ kiếp sinh diệt cũng như các tâm lộ sinh khởi và kinh nghiệm đối tượng qua một trong sáu cửa giác quan (môn). Các tâm hộ kiếp và tâm lộ sinh khởi liên tục tiếp nối nhau, cái này sau cái kia.
Khi chúng ta thấy, tâm lộ sinh khởi và thấy cái xuất hiện qua mắt. Tâm thấy biết đối tượng được thấy, tâm thích đối tượng đó, tâm kinh nghiệm các đối tượng khác qua tai, mũi, lưỡi, thân hoặc ý môn đều là các tâm lộ (vīthi citta). Khi chúng ta nghe âm thanh và thích âm thanh ấy chẳng hạn, không có tâm hộ kiếp mà chỉ có tâm lộ nối tiếp nhau trong lộ trình tâm. Có nhiều lộ trình tâm khác nhau: lộ trình tâm qua nhãn môn, lộ trình tâm qua nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn và ý môn, tất cả đều kinh nghiệm đối tượng qua căn tương ứng. 
Chừng nào tâm lộ chưa sinh khởi, tâm hộ kiếp sinh diệt một cách liên tục. Điều này sẽ thay đổi khi sắc là đối tượng tiềm ẩn xuất hiện. Chúng ta biết sắc sinh và diệt rất nhanh nhưng tâm sinh diệt còn nhanh hơn sắc pháp 17 lần. Khi một sắc (đối tượng) in dấu lên một sắc căn tương ứng, một vài tâm hộ kiếp tiếp tục sinh lên ngay trước khi tâm lộ sinh khởi để kinh nghiệm đối tượng đó. Tâm hộ kiếp đầu tiên sinh khởi ngay khi sắc in dấu lên căn tương ứng được gọi là atīta bhavanga (hộ kiếp quá khứ). Khi hộ kiếp quá khứ diệt đi, nó tạo duyên cho tâm hộ kiếp tiếp theo gọi là calana bhavanga (hộ kiếp rung động). Khi hộ kiếp rung động diệt đi, nó sẽ được nối tiếp bằng upaccheda bhavanga (hộ kiếp dứt dòng), tại đây dòng tâm hộ kiếp chấm dứt và sau khi hộ kiếp dứt dòng diệt đi, tâm lộ sinh khởi và bắt đầu kinh nghiệm đối tượng xuất hiện qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay ý môn.
Tất cả các tâm lộ kinh nghiệm đối tượng thị giác qua mắt là các tâm thuộc lộ trình nhãn môn (cakkhu dvāra vīthi citta), chúng cùng kinh nghiệm đối tượng thị giác in dấu lên sắc nhãn căn và vẫn chưa diệt đi. Tất cả các tâm lộ kinh nghiệm đối tượng qua tai là các tâm thuộc lộ trình tâm qua nhĩ môn bởi chúng kinh nghiệm sắc âm thanh in dấu lên sắc nhĩ căn và vẫn chưa diệt đi. Cũng như vậy đối với các tâm lộ kinh nghiệm các đối tượng khác thông qua các môn khác, chúng được đặt tên theo môn tương ứng. 
Các tâm lộ của lộ trình ý môn (mano dvāra vīthi citta) thì khác tâm lộ của các lộ trình qua môn khác ở chỗ các tâm này có thể kinh nghiệm mọi loại đối tượng: đối tượng thị giác, âm thanh, mùi, vị, đối tượng xúc chạm cùng các pháp trần (dhammārammaṇa).
 --- Lời bạt của người viết ----
Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch. 
Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.
---- Lưu ý (disclaimer) ----
Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.
Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.