Vipāka (quả) là kết quả của nghiệp đã tạo trong quá khứ. Không dễ để hiểu được rằng nghiệp - cái đã thuộc về quá khứ - vẫn có thể làm duyên cho sự sinh khởi của tâm quả (vipāka citta) và các tâm sở quả (vipāka cetasika). Bản chất của quả cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng, chi tiết để có cái hiểu đúng về nghiệp (kamma) và quả của nghiệp (vipāka).
Khi một người đối diện với một sự kiện dễ chịu hay khó chịu trong cuộc sống, mọi người vẫn thường nói "Đó là nghiệp của người ấy", nhưng thực ra ta nên nói đó là quả của nghiệp đã tạo trong quá khứ, để mọi người có thể có cái hiểu đúng về nghiệp và quả của nghiệp (kamma và vipāka). Nếu ta nói rằng tai nạn là nghiệp của người ấy thì sự thật về nhân và quả sẽ không được hiểu rõ bởi những người không quen với chủ đề này sẽ lẫn lộn và cho rằng quả (vipāka) là nghiệp (kamma)
I. Những khoảnh khắc là quả trong đời sống
Tâm quả, như đã biết, được tạo duyên bởi các nghiệp và các phiền não đã tích luỹ. Chúng ta cần nhớ rằng, nếu không có ngũ môn và ý môn, nơi các đối tượng được tiếp nhận và kinh nghiệm, tâm quả không thể sinh khởi trong cuộc sống hàng ngày, quả của nghiệp sẽ không thể được tiếp nhận. 
Khi cái thấy sinh khởi, có vipāka (quả) của nghiệp. Không chỉ khi chúng ta gặp tai nạn, ốm đau hay kinh nghiệm được mất, vinh nhục ... mà ở mỗi khoảnh khắc của cái nghe, cái thấy hay của các kinh nghiệm qua ngũ môn khác, khi chúng ta kinh nghiệm các đối tượng bình thường trong cuộc sống hàng ngày thì đều có quả (vipāka) ở đó.
Tâm quả sẽ phải sinh khởi; nó là quả của nghiệp đã được tạo. Chúng ta không thể biết các tâm quả sinh khởi trong các lộ trình khác nhau là do những nghiệp nào trong quá khứ. Chẳng hạn chúng ta không thể biết khi một đứa trẻ nghe âm thanh trong lúc chơi đá bóng thì tâm quả ấy đã được tạo bởi nghiệp nào. Rất khó có thể hiểu được chủ đề về nghiệp một cách chi tiết, chủ đề này được coi là một trong tứ-bất-khả-tư-nghì, tức là những chủ đề không thể nghĩ bàn, vì vậy, chúng ta không nên phỏng đoán về chúng.
Nghiệp đã được tạo ra là nhân bắt nguồn từ quá khứ. Kể cả khi nghiệp đã được tạo từ rất lâu trong vòng sinh tử luân hồi, nó vẫn có thể tạo duyên cho sự sinh khởi của tâm quả. Nếu một người cố phỏng đoán loại nghiệp nào tạo duyên cho cái thấy đối tượng này hay cái nghe âm thanh kia, người ấy đang cố làm điều không thể, bởi không có đủ tuệ giác để có thể xuyên thấu về nghiệp và quả của nghiệp. Không thể biết được nhân, tuy nhiên quả (vipāka) có thể được biết bởi vì nó chính là sự kinh nghiệm các đối tượng qua ngũ môn đang xuất hiện ngay lúc này. Chánh niệm (sati) có thể hay biết thực tại là quả khi có cái thấy, nghe, ngửi, nếm .... trong cuộc sống hàng ngày.
II. Tứ niệm xứ hay biết đặc tính của tâm quả là vô ngã, không thuộc về bất cứ ai
Trong "tứ niệm xứ", niệm xứ thứ ba là Niệm Tâm. Loại tâm đầu tiên được nhắc đến là tâm tham căn (sarāga citta). Chánh niệm có thể sinh khởi và kinh nghiệm đặc tính của tâm tham xuất hiện dày đặc, liên tục trong cuộc sống hàng ngày. Còn khi chánh niệm không sinh khởi, ta không thể biết được rằng nối tiếp rất nhanh ngay sau khi cái thấy kinh nghiệm một đối tượng liền có tâm tham căn sinh khởi và dính mắc với đối tượng ấy. 
Khi trí tuệ (paññā) sinh khởi và biết được đặc tính của pháp đang xuất hiện một cách tự nhiên thì phiền não có thể được tận diệt. Trí tuệ có khả năng biết được sự khác biệt giữa đặc tính của tâm quả (quả của nghiệp quá khứ) và các đặc tính của tâm thiện (kusala citta), tâm bất thiện (akusala citta) hay phiền não. Chúng ta không nên chỉ biết về đặc tính của tâm quả khi nó nổi trội, chẳng hạn như khi có những chuyện dễ chịu hoặc khó chịu, mà nên biết cả đặc tính của các tâm quả sinh khởi và kinh nghiệm nhiều đối tượng xuất hiện trong đời sống hàng ngày thông qua các căn.
Nếu chúng ta hiểu rằng quả đang sinh khởi chính là kết quả của nghiệp mà chúng ta đã tạo trong quá khứ, liệu chúng ta có còn nổi sân với mọi người hay trách móc họ về quả mà chúng ta đang nhận hay không? Trong thời hiện tại hay trong quá khứ cũng vậy, ai cũng phải nhận quả của nghiệp mà không thể đoán định trước nó sẽ xảy ra như thế nào. Chẳng hạn một toà nhà sập xuống và đè nát người chủ. Quả bom không phải là nguyên nhân khiến cho ngôi nhà sụp đổ và làm ông ta thiệt mạng, ông ta cũng không chết bởi bị bắn hay bị tấn công. Chính nghiệp đã tạo trong quá khứ mới là nguyên nhân thật sự khiến mọi người nhận được kết quả qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Chính vì lẽ ấy, chúng ta không nên nổi sân và trách cứ người khác về quả mà ta nhận được. Khi chánh niệm sinh khởi, nó sẽ hay biết một cách hoàn toàn rõ ràng rằng các tâm quả là các pháp, không phải là chúng sinh, con người, không phải là của ai hay thuộc về bất kỳ tự ngã nào hết. Lúc ấy, chánh niệm nhận ra khoảnh khắc kết quả của nghiệp quá khứ thì khác với khoảnh khắc của tham, sân, si, khác với khoảnh khắc của vô tham, vô sân .... 
Những thứ ở bên ngoài cũng như các sắc trên thân và được nhận biết là cao, thấp, tối hay sáng thực chất chỉ xuất hiện trước cái thấy ở khoảnh khắc chúng in dấu lên nhãn căn. Nếu không có nhãn căn, chúng ta sẽ không thể thấy và cũng không thể có bất kỳ ý niệm nào về hình dáng, cao, thấp, sáng, tối .... mà chúng ta cho là thân của mình hay của cái gì đó. Như thế, trên thực tế, thân của ta hay những thứ ở bên ngoài thì không thuộc về bất cứ ai cả, chúng chỉ xuất hiện ở khoảnh khắc của cái thấy rồi diệt đi lập tức. Cũng tương tự với âm thanh, chúng xuất hiện, in dấu lên nhĩ căn rồi diệt đi lập tức, âm thanh cũng không thuộc về ai cả. Với chánh niệm, đặc tính của các pháp (các thực tại) xuất hiện một cách tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày có thể được nhận biết rõ rằng rằng chúng không phải là "ai" hay thuộc về bất cứ ai, như thế, tà kiến về các thực tại có thể được tận diệt. Với chánh niệm, những khoảnh khắc của nghe, ngửi, nếm, xúc chạm hay suy nghĩ sinh khởi liên tục nối tiếp nhau có thể là đối tượng của Tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna) để trí tuệ có thể thẩm xét các đặc tính của chúng và bằng cách ấy, thực tại có thể được biết như chúng là, không phải là chúng sinh, con người hay tự ngã nào hết. 
III. Bản chất của những thứ gọi là "bản thân tôi",  "của cải của tôi", "sở hữu của tôi"
Hãy thử suy xét cẩn thận xem của cải mà ta tưởng mình sở hữu thực chất là gì. Những của cải ấy có ích gì cho chúng ta ở những khoảnh khắc ta không thấy hay chạm vào chúng? Khi đặc tính của các pháp chân đế được hiểu như chúng là: không phải là ai hay của ai, sẽ có sự liễu ngộ rằng các đặc tính của pháp chân đế (paramattha dhamma) là đều như nhau với tất cả mọi người và trên phương diện ấy, tất cả mọi người đều bình đẳng. Chẳng hạn như nhãn thức và cái xuất hiện trước nhãn thức thực chất đều diệt đi ngay và không thuộc về ai. Trên phương diện pháp chân đế, không có bất cứ cái gì là "ta" hay "của ta" cả, chỉ có tà kiến và phiền não coi thực tại này thực tại kia là "tôi" hay "của tôi" mà thôi, và mức độ của những phiền não này là khác nhau nơi mỗi người.
Chúng ta vẫn thường quen vui thú với của cải của mình, nhưng chúng ta cũng có thể bắt đầu nhận ra rằng chúng ta thực chất không có sở hữu của cái nào hết, rằng chỉ có các thực tại như cái thấy xuất hiện rồi diệt đi rất nhanh. "Của cải" của ta chỉ là cái được nhãn thức thấy trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, được thân thức xúc chạm trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ...., vậy thì cho rằng cái được thấy, cái được xúc chạm... là của cải của ta có đúng chăng? Cái xuất hiện chỉ trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi thì có thể là của cải của ai được không? có thể được ai đó sở hữu không? Cũng hệt như vậy với âm thanh, mùi, vị ..... Chúng in dấu lên căn tương ứng chỉ trong một khoảnh khắc rồi biến mất, các thực tại ngắn ngủi ấy có thể là "ta" hay "của ta" được chăng?
Tất cả chúng ta đều muốn sở hữu nhiều thứ; thứ gì mọi người có thì ta cũng muốn có, nhưng việc có được hay không còn phụ thuộc vào nghiệp. Quả sinh khởi ở thời điểm hiện tại được tạo duyên bởi nghiệp quá khứ. Quả (vipāka) là do duyên và vì thế không nằm trong quyền năng của bất kỳ ai. Không ai có thể biết được nghiệp quá khứ nào sẽ tạo nên kết quả nào sinh khởi trong các lộ trình ngũ môn khác nhau. 
Pháp là quả có đặc tính khác với pháp là nhân. Chẳng hạn bây giờ đang có cái thấy, có tâm quả kinh nghiệm đối tượng qua mắt. Nếu có đủ duyên, chánh niệm có thể sinh khởi và hay biết các đặc tính của cái thấy và của sắc (rūpa) được thấy đang xuất hiện. Chánh niệm chỉ có thể hay biết những đặc tính này, không hơn. Chánh niệm có thể hay biết và trí tuệ có thể phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa cái thấy là tâm quả với tâm thiện/ bất thiện thích hoặc không thích đối tượng sinh khởi sau đó trong cùng lộ trình.
IV. Về sự tích luỹ và khả năng tiếp nhận Giáo pháp
Khía cạnh thứ tư của tâm được đề cập đến trong Chú Giải Bộ Pháp tụ (Atthasālinī) là tính đa dạng, muôn mầu muôn vẻ. Tâm sinh khởi ở những cá nhân khác nhau thì khác nhau, điều đó là bởi mỗi người đã tích luỹ những thiên hướng khác nhau trong vòng luân hồi vô tận. Mọi người không thể cùng nghĩ theo một hướng hay cùng chung một niềm tin, họ có những suy nghĩ khác nhau và quan điểm, tín ngưỡng khác nhau. Ngay cả khi Đức Phật còn tại thế, Ngài cũng không thể khiến cho tất cả mọi người đều có chánh kiến. Không chỉ trong các tôn giáo khác mới có tà kiến, kể cả những người là Phật tử cũng có thể đi theo những đường lối thực hành với tà kiến do bởi tích luỹ của cá nhân họ. Ví dụ, sau cuộc kết tập Tam tạng lần thứ hai ở Vesali, các vị sư thuộc dòng Vjjiyan đã phổ biến Giáo lý theo chủ kiến của riêng họ. Một trong những tuyên bố của họ là để có thể giác ngộ, ta chỉ cần tụng câu "khổ", "khổ" (Dukkha! Dukkha!). Những cái hiểu sai và thực hành sai đã từng xảy ra không chỉ một lần trong quá khứ. Vì thế, tất cả chúng ta trong thời hiện tại cần phải nghiên cứu Giáo pháp và thẩm xét nó một cách chi tiết. 
Với những người đã tích luỹ nhân duyên đầy đủ, quả thiện và tâm thiện có thể sinh khởi khiến họ được nghe pháp, nghiên cứu và thẩm xét chân lý mà Đức Phật đã dạy. Khi nghe Pháp, ta cần kiểm tra ý nghĩa của những gì được nghe, suy xét cẩn thận và chi tiết để tuệ giác có thể phát triển và hay biết các đặc tính của thực tại, đúng như sự thật mà Đức Phật đã dạy.
Tuỳ vào tích luỹ mà mọi người có thể đi theo những đường lối thực hành sai hay đúng. Trong cuốn Nhân thi thuyết (Puggala Paññati) có phân biệt bốn hạng người về khả năng tiếp nhận Giáo pháp:
1. Người nắm bắt Giáo pháp một cách nhanh chóng, chứng ngộ Tứ Thánh Đế và đạt được giác ngộ khi nghe một bài pháp ngắn (ugghaṭitaññū)
2. Người đạt được giác ngộ sau khi nghe những lý giải chi tiết hơn cho bài pháp ngắn được nói trước đó (vipacitaññū)
3. Người cần có sự dẫn dắt, nghiên cứu và phát triển tuệ giác rất nhiều (neyya puggala); và 
4. Người mặc dầu nghe pháp, đọc nhiều, thường thảo luận và giảng giải pháp cho những người khác vẫn chưa thể giác ngộ (pada parama)
Trong thời đại bây giờ, hạng người thứ nhất và thứ hai không còn nữa, chỉ còn hạng người thứ ba và thứ tư mà thôi.
Tất cả chúng ta cần phải nghiên cứu để biết sự chứng ngộ Tứ Thánh Đế nghĩa là gì và trí tuệ có thể phát triển như thế nào để có thể chứng ngộ được sự sinh diệt của các pháp xuất hiện qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn. Điều này sẽ là trợ duyên cho chánh niệm sinh khởi và hay biết các đặc tính của các thực tại. Chẳng hạn đặc tính của tâm như tâm thấy có thể là đối tượng của tứ niệm xứ vì nó là thực tại. Hiểu biết đúng về thực tại có thể được phát triển và nhờ thế đặc tính vô ngã của mọi thực tại có thể được hay biết một cách rõ ràng rằng không có chúng sinh, con người hay cái ngã hay bất kỳ một-cái-gì-đó-tồn-tại-lâu-dài nào hết.
 --- Lời bạt của người viết ----
Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch. 
Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.
---- Lưu ý (disclaimer) ----
Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.
Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.