I. Sự tích luỹ của các phẩm chất và Luồng tốc hành tâm
Khi chúng ta thấy và dính mắc vào đối tượng thị giác, vui thú với đối tượng ấy, dường như đó chỉ là một sự dính mắc "bình thường" và vô hại. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận ra rằng ngay cả sự dính mắc bình thường cũng là một pháp có hại. Kết quả của nó là khổ (dukkha) và sự tích luỹ dần dần các duyên tố gây thêm đau khổ về sau. Đúng là khổ không sinh khởi ngay lập tức khi chỉ có một lượng dính mắc nhỏ, tuy nhiên, khi dính mắc được tích luỹ nhiều hơn thì nó sẽ trở nên mạnh mẽ và có thể lớn tới mức độ của một triền cái (nīvaraṇa), một loại phiền não cản trở thiện pháp, mang đến lo âu và o bế. 
Liệu trong một ngày, từ khi thức giấc tới khi đi ngủ, luồng tốc hành tâm (javana-citta) bất thiện hay luồng tốc hành tâm thiện sinh khởi thường xuyên hơn? Trên thực tế, luồng tốc hành tâm bất thiện sinh khởi thường xuyên hơn gấp nhiều lần. Nếu chúng ta không nhận ra có nhiều bất thiện sinh khởi thì chúng ta sẽ tiếp tục tích luỹ xu hướng bất thiện và hiệu ứng độc hại của nó sẽ dần càng tăng thêm. Chỉ có một loại thuốc duy nhất có thể chữa lành cho chúng ta, đó là sự phát triển Hiểu biết đúng về thực tại, sự phát triển của Tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna). Nếu chánh niệm của Tứ niệm xứ chưa sinh khởi, sẽ không có cách nào thoát khỏi sự tích luỹ bất thiện pháp. 
Các luồng tâm lộ tốc hành (javana vīthi-citta) thiện và bất thiện sinh diệt một cách liên tiếp và chúng luôn tích luỹ lại. Điều ấy khiến mỗi người chúng ta có những xu hướng tích luỹ khác nhau, vì thế mà bây giờ chúng ta suy nghĩ, nói và hành xử theo những cách hoàn toàn khác nhau. Thông thường các tốc hành tâm lộ (javana vīthi-citta) bất thiện pháp sinh khởi nhiều hơn và tích luỹ đi tích luỹ lại cho đến khi trở thành bản chất của mỗi người thể hiện ra trong hành vi và lời nói. Những hành xử đã tích luỹ ấy gọi là "vāsanā" (tiền khiên tật). Ngay cả các vị A la hán cũng không thể tận diệt được các tiền khiên tật cho dù đã tận diệt được mọi phiền não. Lý do là bởi vì họ đã tích luỹ các tiền khiên tật trong một khoảng thời gian vô cùng tận trong vòng luân hồi do năng lực của luồng tốc hành tâm lộ.
II. Các loại tâm lộ trong một lộ trình ngũ môn
Có bảy loại tâm:
1.Tâm lộ thứ nhất là ngũ môn hướng tâm (pañca-dvārāvajjana citta)
2. Tâm lộ thứ hai là ngũ song thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức) (dvi-pañcaviññāṇa)
3. Tâm lộ thứ ba là tiếp nhận tâm (sampaṭicchana citta) tiếp nhận đối tượng của tâm trước nó (một trong các ngũ song thức)
4. Tâm lộ thứ tư là suy đạt tâm (sanṭīraṇa citta) xem xét và thẩm định đối tượng
5. Tâm lộ thứ năm là xác định tâm (votthapana citta) xác định tâm tiếp theo sẽ là tâm thiện, bất thiện hay duy tác
6. Tâm lộ thứ sáu là luồng tốc hành tâm (javana vīthi citta) thường xuất hiện trong bảy chặp liên tiếp
7. Tâm lộ thứ bảy là tâm đăng ký (tadārammaṇavīthi citta), nó tiếp nhận đối tượng sau các tốc hành tâm. 
Khi các tốc hành tâm đã đi qua một đối tượng ngũ quan là sắc pháp (đối tượng thị giác, âm thanh, mùi, vị, đối tượng xúc chạm) và đối tượng ấy vẫn chưa diệt đi (do sắc pháp tồn tại kéo dài 17 sát na tâm), Nghiệp sẽ tạo duyên cho sự sinh khởi của một loại tâm quả và đó chính là Tâm đăng ký hay Tâm mót. Tâm mót lúc này sẽ là tâm lộ cuối cùng trong một lộ trình và là tâm cuối cùng kinh nghiệm đối tượng qua môn tương ứng. Sau đó, tâm hộ kiếp lại sinh khởi liên tiếp cho đến khi một lộ trình tâm mới sinh khởi.
Sau khi các tâm lộ của một lộ trình ngũ môn đã diệt đi, sẽ có các tâm hộ kiếp sinh lên, sau đó ý môn hướng tâm sẽ sinh khởi và kinh nghiệm qua ý môn cùng một đối tượng với các tâm lộ của lộ trình ngũ môn ngay trước đó vừa diệt đi. 
III. Các loại tâm lộ trong một lộ trình ý môn
Lộ trình các tâm kinh nghiệm đối tượng qua ý môn thì không kéo dài như lộ trình qua ngũ môn, không có tâm hộ kiếp quá khứ (atīta bhavanga) trước khi lộ trình ý môn bắt đầu, lúc này không còn đối tượng ngũ quan in dấu lên một trong ngũ căn nữa. 
Một lộ trình ý môn bắt đầu với Ý môn hướng tâm (mano-dvārāvajjana-vīthi-citta), trước tâm này có hai tâm hộ kiếp là hộ kiếp rung động (bhavanga calana) và hộ kiếp dứt dòng (bhavanga upaccheda). Ý môn hướng tâm sinh lên, nó "suy ngẫm" về đối tượng thông qua ý môn. Bất cứ khi nào ta suy nghĩ về những đối tượng khác nhau thì tại khoảnh khắc đó, tâm không còn kinh nghiệm đối tượng qua ngũ quan nữa. 
Sau khi Ý môn hướng tâm diệt đi thì tâm thiện hoặc bất thiện, hoặc duy tác sẽ sinh khởi trong một chuỗi tốc hành tâm liên tiếp bảy lần, sau đó sẽ đến Tâm mót (tadārammaṇa vīthi citta) sinh khởi liên tiếp hai lần. Như vậy, trong một lộ trình ý môn thì có ba loại tâm lộ:
Ý môn hướng tâm, một sát naTâm thiện/bất thiện/ duy tác sinh diệt trong bảy sát na liên tiếp của luồng tốc hành tâmTâm mót, hai sát na
Đến đây chúng ta đã được liệt kê các loại tâm trong một lộ trình ngũ môn hoặc một lộ trình ý môn điển hình. Ngoài ra trên thực tế còn có các loại lộ trình ngũ môn khác nữa với số lượng tâm lộ ít hơn bảy loại. Với các loại lộ trình ngũ môn (ngắn hơn) này, tâm cuối cùng không phải là Tâm mót mà có thể là lộ trình kết thúc với tốc hành tâm (javana citta), kết thúc với xác định tâm (votthapana citta) hoặc không có tâm lộ nào sinh khởi (lộ trình vô ích - mogha vāra). Cũng trên thực tế, có cả loại lộ trình qua ý môn không kết thúc với Tâm mót mà kết thúc với tốc hành tâm (javana citta). Tuy nhiên chúng ta sẽ không đi vào chi tiết các lộ trình tâm đó ở đây.
IV. Các Môn và Căn
Có sáu cửa giác quan (môn) khác nhau. Môn là phương tiện qua đó các tâm lộ biết một đối tượng khác với đối tượng của tâm hộ kiếp. Trong sáu môn thì năm môn là sắc (rupa) và một môn là danh (nama):
Nhãn môn (cakkhu-dvārā) là sắc nhãn căn, tức là sắc thần kinh ở mắt Nhĩ môn (sota-dvārā) là sắc nhĩ căn, tức là sắc thần kinh ở taiTỷ môn (ghāṇa-dvārā) là sắc tỷ căn, tức là sắc thần kinh ở mũiThiệt môn (jivhā-dvārā) là sắc thiệt căn, tức là sắc thần kinh ở lưỡiThân môn (kāya-dvārā) là sắc thân căn, tức là sắc thần kinh ở thânÝ môn (mano-dvārā) là Tâm hộ kiếp dứt dòng (tâm đi trước ý môn hướng tâm)
Có sáu sắc là căn (vatthu) sinh khởi nơi các cõi có ngũ uẩn. Sáu sắc này được gọi là căn vật chất hay sắc căn:
Cakkhuppasāda rūpa (sắc thần kinh mắt) là nhãn căn (cakkhu vatthu), là gốc cho nhãn song thức (cakkhu viññāṇa)Sotappasāda rūpa (sắc thần kinh tai) là nhĩ căn (sota vatthu), là gốc cho nhĩ song thức (sota viññāṇa)Ghānappasāda rūpa (sắc thần kinh mũi) là tỷ căn (ghāṇa vatthu), là gốc cho tỷ song thức (ghāṇaviññāṇa)Jivhāppasāda rūpa (sắc thần kinh lưỡi) là thiệt căn (jivhā vatthu), là gốc cho thiệt song thức (jivha viññāṇa)Kāyappasāda rūpa (sắc thần kinh tai) là thân căn (kāya vathu), là gốc cho thân song thức (kāya viññāṇa)Hadayappasāda rūpa (tâm cơ hay ý căn) là gốc cho tất cả các tâm khác với ngũ song thức nói trên trong các cõi có ngũ uẩn
Năm sắc giác quan vừa có thể là môn, vừa có thể là căn. Sắc nhãn căn là nhãn môn cho tất cả các tâm của lộ trình nhãn môn, bao gồm: nhãn môn hướng tâm, nhãn thức, tiếp nhận tâm, suy đạt tâm, tốc hành tâm và tâm mót, tuy nhiên Sắc nhãn căn chỉ là căn cho một tâm duy nhất trong lộ trình nhãn môn: Nhãn thức, tất cả các tâm còn lại của lộ trình nhãn môn thì đều sinh khởi ở ý căn (hadaya vatthu). Cũng như vậy với trường hợp của các sắc giác quan (pasāda rūpa) khác. 
Sắc ý căn thì là cơ sở, là nơi khởi nguồn cho các tâm liên quan, nhưng lại không phải là môn.
--- Lời bạt của người viết ----
Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch. 
Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.
---- Lưu ý (disclaimer) ----
Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.
Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.