Trong những tiền đề chung nhất của quyển sách "Triết lý tiền tệ" (Philosophy of money) thì Georg Simmel[1] đã mạnh dạn đưa ra quan điểm của mình về nguồn gốc của tiền bạc và khởi nguyên của nó là sự gán cho của giá trị. Ông tin rằng mọi người sáng tạo ra giá trị bằng cách tạo ra những đồ vật xung quanh mình, sau đó tách mình ra khỏi những đồ vật đó và nổ lực thoát khỏi (vượt qua) chúng. Ông nhận thấy những thứ "quá gần" không được coi là có giá trị và những thứ "ở quá xa" mà mọi người không thể chạm tới hay lấy được cũng được xem là không có giá trị. Điều này cũng được xem xét khi xác định giá trị chính là sự khan hiếm, thời gian, sự hy sinh và những khó khăn liên quan đến việc sở hữu hay có được thứ mà lòng mình ao ước. Trong thời kỳ hiện đại của tiền tệ, bắt đầu phát xuất từ việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ khác nhau cho phép tồn tại các hệ thống giá trị không thể so sánh được như đất đai, lương thực, danh dự hoặc tình yêu,... Cùng với sự ra đời của một loại tiền tệ làm trung gian, các hệ thống trừu tượng này trở nên có thể hoà giải được, và dường như mọi thứ tất thảy đều có xu hướng "dễ hiểu" trong một thước đo có thể định lượng duy nhất – chính là sự thoát thai của tiền tệ.
Nói cách dễ hiểu rằng thì tiền bạc là sản phẩm do con người sản xuất ra làm phương tiện của đời sống nên tiền được hiểu như đã trở thành chìa khoá vạn năng – là sức mạnh đối ứng cho tất cả nhu cầu ở người. Nói như Simmel cũng có thể hiểu năng lực của đồng tiền chính là kết hợp những cái bất khả hoà trộn thành một thể cách phổ quát, những thứ tưởng chừng bất khả phân ly thì lại được tiền phân ly một cách phổ biến. Nhìn ở góc độ này, tiền khoát lên mình màu sắc của sự tích cực – kết nối, liên hệ mọi giá trị cách không phân biệt với nhau. Nhưng cũng phải nhớ rằng chính con người hiện thực mới khiến tiền có công năng như vậy, vì quả thật nếu tách tiền bạc ra khỏi con người – tức là loại bỏ đi vai trò đối ứng của con người thì tiền là bản chất của nó, tự nó không làm thay đổi giá trị, nó không ban tặng cho con người bất cứ hiện thực nào để tồn tại nhưng chính sự ích lợi của tiền bạc khi trở thành vật ngang giá trung gian,  tiền hoá thân vào trong lĩnh vực làm phương tiện trao đổi, tích luỹ, đo lường hay phân phối, cất giữ thì tiền trở thành mục đích có tính chất xã hội hoá. Cá nhân con người cần tiền để tồn tại, sống động.[2]
Tiền là một thực thể (reality), một đặc điểm thường trực (permanent feature) trong đời sống thường nhật của chúng ta. Nó mang lại cho cuộc sống của chúng ta một nhịp điệu cụ thể, một "sự quyến rũ" cụ thể, một nhận thức cụ thể về thế giới và vị trí của chúng ta trong thế giới đó – cho nên không lạ lẫm khi nhiều người xem tiền bạc chính là một thành tố kiến tạo nên thế giới quan của họ. Tiền tác tạo ra vấn đề khi chúng ta không có nó, và nhiều vấn đề hơn khi chúng ta có nó. Nhưng đó về bản chất chỉ là sự ảo tưởng rằng chúng ta đang kiểm soát tiền bạc của chính mình: trên thực tế, chúng ta không nhận thấy nó kiểm soát chúng ta một cách tinh vi và sâu sắc như thế nào. Tiền bạc khiến chúng ta vừa là ông chủ vừa là nô lệ. Quyền lực của chúng ta đối với tiền bạc chỉ là hiện thực và khả dĩ khi chúng ta có thể hiểu được sức mạnh của nó đối với chúng ta chi phối đáng sợ như thế nào.
Nhân loại đã tìm hiểu và khảo cứu về bản chất của đồng tiền trong nhiều thế kỷ. Các triết gia vĩ đại và nhà kinh tế uyên bác, các nhà chính khách chính trị, nhà văn, thậm chí cả những thi gia đã viết về tiền bạc. Tiền bạc quả thực đã được ca tụng và bị nguyền rủa, nó đã được mơ ước và bị khinh rẻ xuyên suốt lịch sử tư tưởng của con người. Như nhà thơ Davies đã viết về tiền bạc:
"Khi tôi có nhiều tiền, và tiền, hỡi ôi!
Tôi không biết niềm vui nào cho đến khi tôi nghèo khó;
Đối với nhiều người giả dối là một người bạn
Đã đến gõ cửa nhà tôi cả ngày.
Nhưng bây giờ tôi không còn xu nào cả, hỡi ôi!
Bạn bè của tôi là những người bạn thật, mặc dù ít ỏi vô cùng. "[3]
Tiền bạc là gì? – bản chất nó là thiện hay ác? Nó mang lại sự ổn định và bất ổn rồi khiến mọi người tìm kiếm hoặc chạy trốn khỏi sự chi phối của nó. Tiền có khả năng sáng tạo và huỷ diệt, hợp nhất và phân ly. Nó làm cho mọi người trở thành bạn cùng thuyền hoặc đối thủ và có thể ảnh hưởng đến số phận của các cá nhân và toàn bộ một quốc gia nào đó. Nhưng tiền tệ mang lại điều gì cho loài người? - tự do hay sự lệ thuộc? Mọi người kiếm được tiền khi làm việc chăm chỉ và khi vui chơi thì họ tiêu nó với niềm vui hay nỗi buồn của mình. Con người sáng tạo ra tiền, và tiền sáng tạo nên con người – nếu đứng trên bình diện qua lại giữa hai phạm trù trên – con người và tiền lắm lúc tôi cũng trộm nghĩ phải chăng có sự sáng tạo qua lại? Dù xét đến cùng thì con người mới là kẻ sáng tạo nên đồng tiền, suy nghĩ trên không phải là vô căn mà thực ra cũng do nó (đồng tiền) hình thành cách sống và cách suy nghĩ của con người (ở đây khi xem xét vấn đề trên dưới bình diện triết học về con người, nếu con người tạo ra đồng tiền nhưng lại bị nó chi phối - ấy chính là con người tha hoá). Tiền có khả năng khơi gợi toàn bộ cảm xúc ở đối tượng người về mặt sinh học (mang đến niềm vui hay nỗi buồn). Nếu người ta có thể tập hợp mọi thứ được viết về tiền bạc ở nhiều thời điểm và của các quốc gia khác nhau, thì người ta sẽ có một bức tranh đa sắc màu khổng lồ về những suy nghĩ và cảm xúc của con người, trên đó các tông màu sáng và tối sẽ xen kẽ, nhưng vẫn giữ lại "những vùng trống trãi " (blank areas) chưa khám phá ra.
Tiền với tư cách là đối tượng của nhận thức đi vào lĩnh vực của một ngành tri thức đặc biệt, khoa học về kinh tế, giống như mọi khoa học khác, có đối tượng riêng, phương pháp tìm hiểu và mục đích riêng của nó. Lý thuyết kinh tế hiện đại (kinh tế học) coi tiền như một "phương tiện trao đổi", một phương tiện được thiết kế nhằm  tạo thuận lợi cho thương mại và ở đây nói lên "tầm quan trọng sống còn" của nó.[4] Nhiệm vụ của kinh tế học là giải thích một nền kinh tế cần bao nhiêu tiền và những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự biến động của cung và cầu.[5] Các nhiệm vụ quyết định các phương pháp - chủ yếu là các phương pháp phân tích định lượng...
Bức tranh toàn diện về tiền có thể được phác thảo trên cơ sở phân tích tiền không chỉ là phương tiện đơn thuần, mà còn là phương tiện trao đổi. Với tư cách là một phương tiện trao đổi như thế, tiền đã giúp phát triển thương mại, đẩy nhanh và kéo dài sự chuyển dịch của hàng hóa và dịch vụ, và hình thành các quan hệ kinh tế trong xã hội. Khi kết thúc trao đổi, tiền có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của bản thân con người, hoạt động có mục đích, thái độ làm việc của con người. Nó đã thay đổi định hướng giá trị của con người và những ý tưởng của con người về các tiêu chuẩn đạo đức (ideas of moral standards).
Vai trò kép của tiền như một phương tiện và một mục đích trao đổi đã được triết gia Aristotle xem xét trong các tác phẩm của ông về nhà nước và được coi là nền tảng lý thuyết để xác định khái niệm "kinh tế" (economy) là nghệ thuật thu được hàng hóa hữu ích và "thống kê" (chrematistics) như nghệ thuật làm giàu. Aristotle coi vai trò đầu tiên của tiền là cần thiết và phù hợp với tự nhiên (natural), nhưng vai trò thứ hai thì ngược lại - phi tự nhiên (unnatural) và không có bất kỳ ranh giới nào.
Quá trình lịch sử nối tiếp đã chứng minh rằng cả hai vai trò này của tiền đều là thiết yếu và cần thiết, hơn nữa, thể hiện sự thống nhất của các mặt đối lập, trong khi mâu thuẫn bên trong của chúng là nguồn gốc của sự phát triển xã hội. Chính từ quan điểm này, K. Marx đã phân tích bản chất của tiền và chỉ ra rằng tiền là vật trao đổi cuối cùng có thể chuyển hóa thành tư bản như thế nào.[6] Chính từ quan điểm này, G. Simmel đã nhấn mạnh ảnh hưởng của lòng biết ơn đến hành động của con người khi đồng tiền trở thành mục đích.[7]
Sứ mệnh lịch sử của tiền không chỉ bao gồm tạo thuận lợi cho thương mại và không chỉ bó buộc trong sự phát triển của kinh tế thị trường, mà còn trong sự phát triển của "con người kinh tế" với những thái độ giá trị đặc biệt của mình - một cái gì đó, cái mà sau này được mô tả là "tinh thần của chủ nghĩa tư bản".[8] Tiền không chỉ thay đổi "thế giới vật chất" và không chỉ "thế giới con người", mà nó còn đóng một vai trò nhất định trong việc thay đổi đời sống tinh thần của con người - sở thích, lý tưởng, khát vọng và tiêu chuẩn đạo đức. Tiền bạc đã thay đổi hệ thống giá trị của con người, tự gán cho mình vai trò trung tâm như một giá trị phổ quát.
Tiền là một lượng giá trị, nhưng nó gồm những gì? Chỉ có thể nói giá trị thực của tiền khi tiền tồn tại ở dạng kim loại quý, ở dạng toàn giá trị của nó. Nhưng sự chuyển đổi sang các dạng tiền khác - tiền xu và tiền giấy - chỉ có giá trị danh nghĩa, đã biến tiền thành một loại "mã" (code), một dấu hiệu, một biểu trưng cho thông tin trao đổi mà nó mang lại. Tuy vậy, tiền vẫn có giá trị cao nhất, nhờ đó nó có thể được sử dụng như một phương tiện và đúng hơn là một phương tiện trao đổi. Giá trị của tiền không bắt nguồn từ hình thức vật chất của nó, mà là từ nội dung của quá trình xã hội mà tiền làm trung gian cho quá trình lưu thông của nó và do đó tạo nên giá trị.[9] Tiền là một sự vật, không phân biệt là nó thuộc về vật chất hay hình thức từ cách mà nó biểu trưng, nó có phương thức chuyển dịch riêng từ người này sang người khác và phương thức di chuyển đặc biệt này làm cho tiền trở thành một phương tiện tương tác xã hội, thành một phương tiện giao tiếp. Đây là “nguồn lực tạo ra giá trị vô cùng to lớn của đồng tiền đối với xã hội”.[10]
Cơ chế tương tác xã hội bằng tiền có thể được tóm tắt trong hai hành vi xen kẽ: chiếm đoạt và xa lánh. Những người sống trong xã hội chỉ có thể chiếm đoạt hàng hoá bằng cách xa lánh tiền và có thể chiếm đoạt tiền bằng cách xa lánh hàng hoá (hoặc sức lao động). Đây là trật tự xã hội để phân phối lại các giá trị xã hội và phân bổ các nguồn lực. Những gì đã là của tôi trở thành của người khác và những gì đã là của người khác trở thành của tôi tùy theo khả năng chi trả. Tiền đóng vai trò như một phương tiện trao đổi phổ biến và, cảm ơn nó, như một thước đo giá trị - "thước đo của vạn vật".[11]
Sự thay đổi liên tục của sự tha hóa và sự chiếm đoạt làm cho thị trường trở nên sôi động và tạo ra các liên kết kinh tế giữa người sản xuất và người tiêu dùng, cuối cùng tạo thành đời sống kinh tế của xã hội. Sự luân phiên liên tục của yếu tố tha hóa và sự chiếm đoạt có nghĩa là một phương thức hợp tác của con người và tạo ra các mối liên hệ xã hội của nền kinh tế - một cơ quan kinh tế - xã hội duy nhất dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau của mỗi người. Sự luân phiên liên tục của sự tha hóa và yếu tố chiếm đoạt là cơ chế tương tác xã hội của lợi ích tư nhân, là cách thức cá nhân có thể thực hiện mục tiêu, mong muốn và ước mơ của họ - quyền tự do lựa chọn của họ. Tất cả những khoảnh khắc tự nhận thức về nhân cách để đổi lấy[12] tạo thành cuộc sống của những "con người kinh tế" với những đặc điểm định lượng và định tính của nó.
Tiền thể hiện tính xác định về mặt định lượng (limits) của khả năng có thể xảy ra trong hành động của con người. Nó đo lường tỷ lệ trao đổi định lượng và đảm bảo rằng nguyên tắc tương đương hoạt động. Theo nghĩa này, có thể nói rằng tiền là một thứ "trật tự của sự hỗn loạn", trật tự của "trò chơi tập thể" được gọi là "thị trường" thiết lập quyền bình đẳng cho những người tham gia. Tiền hoạt động như một phương tiện điều tiết các quy luật xã hội của đời sống kinh tế. Nhưng tiền cũng thể hiện tính chất vô hạn (limitless) có thể có trong hành động của con người. Nhờ giá trị phổ biến của nó, tiền đóng vai trò như một yếu tố kích thích vô điều kiện và là động lực thúc đẩy mọi loại hoạt động, kể cả hành vi phi nhân tính. Nó khiến mọi "tác phẩm" trở nên hấp dẫn, thậm chí có tác dụng chống lại con người, và biến những thứ không nên trở thành đối tượng mua bán. Theo nghĩa này, tiền mang lại sự "hỗn loạn" vào đời sống xã hội, nó cho thấy lợi ích tư hữu có thể ảnh hưởng như thế nào đến trật tự xã hội. Là một sự quyến rũ hay một sự cám dỗ, nó hoạt động như một phép thử về đạo đức con người.
Tiền bạc lấp đầy ý chí của con người bằng sức mạnh vật chất, có thể thực hiện được thông qua cơ chế xã hội - thị trường, nhưng tiền vẫn thờ ơ với những gì ý chí đó hướng tới. Điều này xuất phát từ lĩnh vực lý trí (sphere of reason). Tiền bạc phục vụ tận tâm cho cả những hành động phá hoại và xây dựng của con người, và chỉ là phương tiện để thực hiện sự phục tùng và tuân mệnh của ý chí và bộ não của con người. Nhưng ở vai trò này, tiền không bị động. Nó tạo ra hoặc hủy hoại bản thân con người với tư cách là một nhân cách, nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc xây dựng hệ thống giá trị của cá nhân người đó và dẫn đến sự phù hợp của các ưu tiên và mục tiêu cá nhân của họ. Mọi thứ đều phụ thuộc vào tương quan giữa hai động lực - lý trí và thặng dư - trong hoạt động có mục đích của con người. Tiền bạc tạo ra sự cần thiết để một người chứng minh một cách hợp lý các hành động của mình. Ở đây người ta phải đồng ý với G.Simmel rằng trí tuệ phát triển song song với kinh tế tiền tệ.[13] Hơn nữa, tiền bạc giúp phát triển "trí tuệ xã hội" buộc xã hội phải kiểm soát "cuộc chơi tự do của các lực lượng chi phối thị trường".
Tiền là một ích lợi xã hội, là "phát minh của xã hội", và xã hội phải chịu trách nhiệm về "đứa con" của mình tạo ra. Cũng như ngày xưa vậy, tiền bạc được tạo ra bởi ý chí xã hội, thì bây giờ chúng ta phải sử dụng sức mạnh của lý trí xã hội để hiểu được vị trí và vai trò của đồng tiền trong đời sống con người đương đại và học cách kiểm soát “lực lượng thúc đẩy thành tố” này. Điều này có thể đạt được bằng cách kết hợp các nỗ lực của khoa học kinh tế có định hướng thực tiễn và triết học nhằm mục đích nhận thức toàn bộ thế giới (vũ trụ).
Chúng ta phải tìm kiếm bản chất của tiền không chỉ trong các quy luật của thị trường, mà còn trong các quy luật của sự phát triển xã hội. Tiền vừa là sản phẩm của nền văn minh vừa là công cụ phát triển hơn nữa của nó. Nó đòi hỏi một lời giải thích triết học. Triết lý về tiền không phải là lý thuyết suông. Bản chất và vai trò của tiền tệ là một vấn đề lý luận cơ bản, được sử dụng để đối chiếu giữa nền kinh tế "kế hoạch" và "thị trường", chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.[14] Đây là yếu tố then chốt quyết định giới hạn tự do và bình đẳng của mọi người trong xã hội có nền kinh tế tiền tệ. Triết lý về tiền là phương thức nghiên cứu của tri thức về bản chất của tiền với tư cách là một hiện tượng xã hội và ảnh hưởng của nó đối với "thế giới các sự vật", "thế giới của con người" và thế giới nội tại bên trong của cá nhân con người. Triết lý về đồng tiền có thể góp phần nhất định vào việc giáo dục con người và giúp mọi người luôn nhớ rằng “thước đo của vạn vật” luôn phải là con người – hay "con người là đối ứng cho tất cả".
CHÚ THÍCH
[1] Georg Simmel (1858 – 1918): là một nhà xã hội học, triết gia và nhà phê bình người Đức. Simmel là một trong những thế hệ đầu tiên của các nhà xã hội học người Đức: phương pháp tiếp cận chủ nghĩa Kant mới của ông đã đặt nền móng cho chủ nghĩa chống dị ứng xã hội học, đặt câu hỏi xã hội là gì? - ám chỉ bản chất của triết học Kant là gì? - đại diện cho những phân tích tiên phong về tính cá nhân và sự phân mảnh của xã hội. Đối với Simmel, văn hóa đề cập đến "sự phát triển của các cá nhân thông qua cơ quan của các hình thức bên ngoài đã được khách thể hóa trong quá trình lịch sử." Simmel đã thảo luận về các hiện tượng văn hóa và xã hội dưới góc độ "hình thức" và "nội dung" có mối quan hệ nhất thời, trong đó hình thức trở thành nội dung và ngược lại phụ thuộc vào ngữ cảnh. Theo nghĩa này, Simmel là người đi trước cho phong cách lý luận cấu trúc luận trong khoa học xã hội. Với công việc của mình về đô thị, Simmel cũng sẽ là tiền thân của xã hội học đô thị, chủ nghĩa tương tác biểu tượng và phân tích mạng xã hội.
[2] Nguyễn. A. Q – Nguyễn. M. T. Tiền bạc với việc hoàn thiện con người. tr. 1.
[4] Macmillan Dictionary of Modern Economics. Fourth edition. INFRA-M, Moscow, 1997, pp.332-333. Định nghĩa về tiền trong kinh tế học đương đại cho rằng tiền là thứ dùng để trao đổi. "Tiền là bất cứ thứ gì mọi người sử dụng để thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ, để đo giá trị của mọi thứ và lưu trữ giá trị để sử dụng trong tương lai. (C.Campbell, R.Campbell, E.Dolan. Money, Banking, and Monetary Policy. - The Dryden Press, 1988, p.6) "Tiền là gì? Tiền là bất cứ thứ gì tiền làm được. Tất cả những gì thực hiện các chức năng của tiền đều là tiền." (C.R.McConnel, S.L.Brue. Economics: Principles, Problems and Policies in two volumes. Translated from the English, 11th edition, Respublica, Moscow, 1992, p.264.
[5] C.R.McConnel, S.L.Brue. Economics: Principles, Problems and Policies in two volumes. Translated from the English, 11th edition, Respublica, Moscow, 1992, p.264-275.
[6] K.Marx. Capital. Volume 1, trans. Ben Fowkes. Pelican Marx Library. New York: Random House, 1977.
[7] "Tính cực bên trong của bản chất tiền nằm ở chỗ nó là phương tiện tuyệt đối và do đó trở thành mục đích tuyệt đối về mặt tâm lý đối với hầu hết mọi người, điều này làm cho nó, theo một cách kỳ lạ, là một biểu tượng trong đó các yếu tố điều chỉnh chính của đời sống thực tiễn bị đóng băng.". - G.Simmel. The Philosophy of Money. Ed. By D.Frisby. Second enlarged edition.-L.,N.Y.: Routledge, 1995, p.232.
[8] V.Sombart. The Bourgeois. Studies in the History of the Spiritual Development of Contemporary Economic Man, Nauka, Moscow,1994. M.Weber. The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism, ed. T.Parsons.L.,1930.
[9] Khái niệm "giá trị" khá bí ẩn và khó hiểu nhất trong lĩnh vực kinh tế học. Điều này có lẽ bởi vì nó mang tính "triết học" nhất trong tất cả các phạm trù kinh tế. Kinh tế học không đưa ra câu trả lời rõ ràng, và giá trị vẫn là một chủ đề tranh luận sôi nổi. «Từ "giá trị" (value) trong tiếng Anh hay tiếng Việt có nghĩa là gì? Không có câu trả lời đơn giản. Có nhiều lý do tại sao khái niệm giá trị lại phức tạp như vậy.» - C.Dyke. Philosophy of Eonomics.- Englewood Cliffs, New Jersey: Prentice-Hall. 1981, pp.15-16.
[10] "Thỏa thuận chung đối với công ước, không phải theo thỏa thuận của phương tiện truyền thông cụ thể, là nguồn gốc của giá trị to lớn của tiền đối với xã hội." -  The New Palgrave Dictionary of Money and Finance. Edited by P. Newman, M. Milgate, J. Eatwell. The Macmillan Press Ltd. 1992, p.770.
[11] "Mục đích lý tưởng của tiền bạc, cũng như của luật pháp, là trở thành thước đo của mọi thứ mà không cần đo lường chính nó, một mục đích có thể được thực hiện đầy đủ chỉ bằng một sự phát triển vô tận". - G.Simmel. The Philosophy of Money. Ed. by D.Frisby. L., N.Y.: Routledge. 1995, p.511.
[12] "Trao đổi" ở đây được coi theo nghĩa rộng nhất của nó là sự xa lánh tất cả những gì con người cho xã hội và chiếm đoạt tất cả những gì anh ta nhận được từ xã hội.
[13] G.Simmel. The Philosophy of Money. Ed. By D.Frisby.- L.., N.Y.: Routledge, 1995
[14] Cần nói thêm rằng, chúng ta phải đồng ý là việc nghiên cứu lý thuyết cơ bản trong kinh tế học sẽ không thể có hiệu quả nếu không có sự tham dự của triết học. "Triển vọng nào để bắc cầu với các ranh giới kỷ luật và tăng cường sự hợp tác giữa các nhà kinh tế và triết học?" - D.Hausman. Essays on philosophy and economic methodology.-Cambridge University Press.1992, p.230.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* SÁCH
1.  D'Eprio, Peter & Pinkowish, Mary Desmond (1998). What Are the Seven Wonders of the World? First Anchor Books.
2.  Mishkin, Frederic S. (2007). The Economics of Money, Banking, and Financial Markets (Alternate ed.). Boston: Addison Wesley.
3. Black, Henry Campbell (1910). A Law Dictionary Containing Definitions Of The Terms And Phrases Of American And English Jurisprudence, Ancient And Modern. West Publishing Co. Black’s Law Dictionary.
4. The Bank Credit Analysis Handbook: A Guide for Analysts, Bankers, and Investors by Jonathan Golin. Publisher: John Wiley & Sons (August 10, 2001).
5. C. Mác và Ph. Ăngghen (1996), Toàn tập, t. 27. Hà Nội: Chính trị Quốc gia Sự thật
6. D.Hausman (1992). Essays on philosophy and economic methodology. Cambridge University Press.
7. G.Simmel (1995). The Philosophy of Money - Ed.  Frisby: Routledge.
8. P. Newman, M. Milgate, J. Eatwell (1992). The New Palgrave Dictionary of Money and Finance. The Macmillan Press Ltd.
9. Macmillan Dictionary of Modern Economics. Fourth edition. INFRA-M, Moscow, 1997
10. C.R.McConnel, S.L.Brue (1992). Economics: Principles, Problems and Policies in two volumes. Translated from the English, 11th edition, Respublica, Moscow.
11. Nguyễn. A. Q – Nguyễn. M. T. Tiền bạc với việc hoàn thiện con người.
* WEDSITE
2. ICPD (15/12/2020). Musings on Money and Development Theory. truy cập tại https://www.icpd.org/theory_of_money/Musings%20on%20Money%20in%20Development%20Theory.htm.
3. International Encyclopedia of Education (15/12/2020). Economic and Social Development. truy cập tại https://www.sciencedirect.com/topics/social-sciences/economic-and-social-development.
4. MSS (16/12/2020). Role of Money in Development. truy cập tại https://www.mssresearch.org/?q=Role_of_Money_in_Development.
5. Vikas Shah MBE (20/12/2020). Money and Human Development. truy cập tại https://thoughteconomics.com/money-and-human-development/.
6. Alla Sheptun (11/12/2020). Philosophy of Money. truy cập tại https://www.bu.edu/wcp/Papers/Econ/EconShep.htm.
7.  Harry Allen Overstreet (18/ 12/ 2020). The Function and Scope of Social Philosophy. truy cập tại https://www.jstor.org/stable/2013594?seq=1#metadata_info_tab_contents.
8. Roberto Frega (21/12/2020). John Dewey’s Social Philosophy. truy cập tại https://doi.org/10.4000/ejpap.410.