Trong lịch sử phong kiến Á Đông, tư tưởng xuyên suốt hiện hữu là trọng nam khinh nữ. Bởi vậy, quyền lực và danh hiệu tối cao được mặc nhiên coi là của đàn ông. Tuy nhiên trong hàng ngàn năm lịch sử của các triều đại phong kiến Trung Quốc, có một trường hợp vô cùng đặc biệt đã xuất hiện - một người phụ nữ nhưng lại có thể đường hoàng bước lên ngôi vị tối cao là Hoàng đế - Võ Tắc Thiên. Trước và sau Võ Tắc Thiên, đã từng có nhiều người phụ nữ có quyền lực cai trị thực tế trong triều đình; ví như Lữ hậu nhà Hán, Phùng Thái hậu nhà Bắc Ngụy, Lưu Thái hậu nhà Tống, hay Từ Hy Thái hậu nhà Thanh. Thế nhưng họ đều nắm quyền dưới danh nghĩa một Hoàng đế đại diện, còn để tự mình xưng đế như Võ Tắc Thiên, thì thật là độc nhất vô nhị. Cuộc đời của vị Nữ đế nổi tiếng này ra sao, hãy cùng tìm hiểu trong bài viết này nhé.

Thân thế

Võ Tắc Thiên là tên mà chúng ta hay dùng để gọi vị Nữ Hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc này, nhưng dĩ nhiên đó không phải tên thật của bà. Thực tế cái tên “Võ Tắc Thiên” được ghép từ họ của bà và tôn hiệu “Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng đế” mà vua Đường Trung Tông cùng triều thần dâng lên sau khi bà đã thoái vị - tức là mãi gần cuối đời và khi đã không còn quyền lực. Tên thật của bà là gì thì hiện không còn có thể khảo cứu được nữa, do không có ghi chép nào để lại. Bởi vậy, ngoài cái tên Võ Tắc Thiên, người ta còn thường dùng những tên khác của bà như Võ Mị (do Đường Thái Tông ban tặng) và Võ Chiếu (do bà tự sáng tạo ra).
Về năm sinh của Võ Mị, các nguồn sử liệu cũng không thống nhất được với nhau. Các ghi chép đều thống nhất được là bà mất năm 705; nhưng Cựu Đường thư chép rằng bà thọ 83 tuổi - suy ra năm sinh là 624, Tân Đường thư thì chép bà thọ 81 tuổi, còn Tư trị thông giám thì chép bà thọ 82 tuổi. Tuy nhiên hiện nay, ý kiến được nhiều người đồng ý nhất là Võ Mị sinh vào năm 624 - tức năm Vũ Đức thứ 7 đời Đường Cao Tổ.
Võ Mị là người thuộc họ Võ ở Văn Thủy, Tinh Châu. Cha bà tên Võ Sĩ Hoạch, mẹ bà họ Dương, xuất thân từ một họ hàng xa của Tùy Văn Đế Dương Kiên. Võ Sĩ Hoạch vốn làm nghề buôn gỗ, dần trở nên phát đạt nên cuộc sống gia đình tương đối khá giả. Ông còn được nhà Tùy ban cho chức Ưng Dương phủ đội chính. Ngoài ra, Võ Sĩ Hoạch còn quan hệ qua lại khá thân thiết với Lý Uyên - lúc ấy đang là Đường Quốc công của nhà Tùy. Khi Lý Uyên giữ chức lưu thủ Thái Nguyên, Võ Sĩ Hoạch cũng đi theo và được làm tham quân. Về sau, khi thiên hạ loạn lạc dẫn đến nhà Tùy sụp đổ, ông vẫn tiếp tục đi theo Lý Uyên tới lúc thành lập nhà Đường. Sau khi dẹp yên thiên hạ, nhà họ Võ được ban thưởng rất hậu; còn Võ Sĩ Hoạch được phong chức Kim tử Quang Lộc đại phu, hàng Chính tam phẩm, lại gia thêm tước Thái Nguyên Quận công. Trong triều đình nhà Đường, Võ Sĩ Hoạch từng làm đến cả Đô đốc Kinh Châu, Thượng thư Công bộ và được thăng lên tước Ứng Quốc công. Do đó, thời thơ ấu của Võ Mị có thể nói là khá yên bình và hạnh phúc. Tuy nhiên, bước ngoặt xảy đến khi cha bà qua đời năm 635. Vì mẹ bà không phải chính thất, cho nên sau khi Võ Sĩ Hoạch qua đời, họ hàng và anh cùng cha khác mẹ của Võ Mị nhiều lần khinh rẻ, đối xử khá tệ với hai mẹ con bà. Bởi thế nên Võ Mị có hiềm khích từ nhỏ với các thành viên khác trong gia tộc. Cũng do bị khinh rẻ nên bà dần hình thành khao khát muốn có quyền lực để không ai dám khinh thường mình nữa. Khao khát này đã góp phần tạo dựng nên tính cách và quyết tâm của Võ Mị về sau trên con đường chính trị của bà.

Phi tần của Đường Thái Tông

Năm 637, lúc ấy Võ Mị được khoảng 14 tuổi thì được Đường Thái Tông triệu vào cung, phong làm Tài nhân (xếp thứ 5 trong 9 bậc ở hậu cung). Lúc đó, mẹ bà là Dương thị than khóc không thôi, Võ Mị liền cố gắng an ủi mẹ mình: "Cớ gì mẹ lại bảo gặp được Thiên tử không phải là phúc phận của con?". Ta nên nhớ rằng lúc này Võ Mị mới chỉ là một thiếu nữ 14 tuổi, nhưng câu nói ấy đã thể hiện phần nào tính cách của bà: không hề sợ hãi, nhìn thấy cơ hội chạm tới quyền lực từ rất sớm.
Khi nhập cung, bà được Đường Thái Tông ban cho chữ “Mị” làm tên - từ đó mới có cái tên Võ Mị. Tuy nhiên trong suốt hơn 10 năm trong hậu cung của Đường Thái Tông, gần như không có ghi chép gì về Võ Mị, cho nên bà làm gì trong khoảng thời gian này thì khó có thể khảo cứu được. Tuy nhiên về sau khi đã trở thành Hoàng đế, Tư trị thông giám có dẫn lại lời của bà về chuyện thuần phục ngựa hồi còn là phi tần như sau:
Thái Tông Hoàng đế có một con ngựa do Tây Vực tiến cống, tên là Sử Tử Thông. Con ngựa đó rất cao to và dữ dằn, không chịu cho ai cưỡi trên lưng cả. Lúc đó trẫm chỉ là cung thiếp hầu hạ, đã bảo rằng: “Thiếp có thể, chỉ cần ba thứ; roi sắt, búa sắt và dao. Trước hết dùng roi sắt mà đánh nó bắt khuất phục, nếu không chịu thì dùng búa sắt đánh vào đầu nó, còn nếu dùng búa sắt đánh vẫn không được thì dùng dao đâm chết nó đi; vì thứ không trị được thì để làm gì?”. Thái Tông Hoàng đế vẫn khen ta vì việc đó.
Theo câu chuyện này, ta phần nào có thể thấy được tính cách mạnh mẽ, thậm chí có phần tàn độc của Võ Mị, ngay từ lúc bà mới chỉ là một thiếu nữ chưa đầy 20 tuổi. Tư tưởng của Võ Mị đã thể hiện rõ trong câu “thứ không trị được thì để làm gì?” - và sau này khi đã trở thành Hoàng đế, thật sự bà đã thẳng tay trừ bỏ những phe cánh không chịu phục tùng, dù cho đó có là người thân ruột thịt.
Đường Thái Tông
Đường Thái Tông
Ngoài chi tiết này ra, không có thông tin gì về cuộc sống của Võ Mị trong hậu cung của Đường Thái Tông. Tuy nhiên, dựa theo những thông tin rằng đến tận khi Thái Tông băng hà, Võ Mị vẫn chỉ là Tài nhân và không có người con nào; có thể kết luận rằng giai đoạn này bà chưa có ảnh hưởng hay hành động gì đáng kể trong cung, và cũng không hẳn là được sủng ái hơn mức bình thường.
Năm 643, sau khi Thái tử Lý Thừa Càn bị phế truất do có âm mưu làm phản; Thái Tông lập người con trai thứ 9 của mình là Tấn vương Lý Trị làm Thái tử. Cũng trong thời gian này, Võ Mị thường xuyên ở bên phụng dưỡng và hầu hạ thuốc thang cho Thái Tông. Thái tử Lý Trị nhiều lần đến thăm vua cha trông thấy bà, liền đem lòng say mê. Năm 649, Thái Tông băng hà, Thái tử tức vị, tức là vua Đường Cao Tông. Võ Mị bấy giờ vì không con cái nên theo di mệnh, bà và các phi tần không có con khác phải cạo tóc, vào tu ở chùa Cảm Nghiệp. Đến năm sau, trong một lần đến thăm chùa nhân ngày giỗ vua cha Thái Tông, Cao Tông tình cờ gặp lại bà. Võ Mị tuy đã cạo đầu song vẫn vô cùng xinh đẹp, lại thêm tài ăn nói nên Cao Tông nảy ý muốn đưa bà về cung. Bấy giờ trong hậu cung của Cao Tông xảy ra tranh chấp giữa Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi. Hoàng hậu tuy không có con, nhưng đã nhận Thái tử Lý Trung làm con nuôi; còn Thục phi cũng đã sinh một hoàng tử và hai hoàng nữ; được Cao Tông sủng ái. Vương Hoàng hậu rất ghét Thục phi, nhân việc Cao Tông muốn đưa Võ Mị về cung, bèn nảy ý lợi dụng bà để khiến Thục phi bớt được sủng ái. Vương Hoàng hậu bèn xinh cho Võ Mị được nuôi tóc trở lại, thường xuyên rỉ tai nói tốt cho bà, cuối cùng khiến Cao Tông mủi lòng mà cho rước về cung.
Ghi chép chỉ cho thấy là vào năm 652, Võ Mị hạ sinh con trai Lý Hoằng - tức là hoàng tử thứ 5 của Cao Tông. Thời gian bà mang thai và sinh hoàng tử không được ghi lại, cộng thêm ngay cả thời điểm Cao Tông rước bà về lại cung cũng thế. Bởi vậy có ý kiến cho rằng thực chất Võ Mị mang thai và sinh hoàng tử ngay tại chùa Cảm Nghiệp, do đó mới khiến Cao Tông muốn đưa bà về cung càng sớm càng tốt. Một số ý kiến khác cho rằng Cao Tông đã đưa bà về cung từ năm 651, đến năm sau sinh hoàng tử. Bởi vì các ghi chép không rõ ràng, nên sự việc này khó có thể làm rõ được, tuy nhiên cũng không quá quan trọng. Đến tháng 5 năm 652, Võ Mị được phong Chiêu nghi - tước vị chỉ đứng sau Hoàng hậu và 4 Phi, tức là bà đứng hàng thứ 3 trong hậu cung, đủ thấy được sủng ái ra sao.
Trở lại hậu cung của Cao Tông, Võ Mị lúc này mới thực sự bước chân vào con đường tranh giành quyền lực.

Tranh sủng trong hậu cung Đường Cao Tông

Thời gian đầu sau khi trở về cung, Võ Mị luôn ra sức lấy lòng Cao Tông và cả Vương Hoàng hậu. Tuy nhiên việc tranh sủng diễn ra ngày càng nhiều, hậu cung không yên, khiến chính Hoàng đế cũng khó chịu. Trong 3 người, chỉ Võ Mị biết được tính tình Hoàng đế, lại giỏi ăn nói và biết mua chuộc những người hầu của Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi; cho nên dần dần bà trở thành người Cao Tông tin tưởng và nghe theo nhất. Võ Mị bắt đầu nghĩ đến việc giành lấy địa vị cho mình và con trai; khi mà dù hoàng tử Lý Hoằng rất được Cao Tông yêu quý, nhưng ngôi vị Thái tử vẫn đang của hoàng tử trưởng Lý Trung, lại được Vương Hoàng hậu nhận nuôi. Để đạt được mục đích, Võ Mị cần loại bỏ vật cản lớn nhất là Vương Hoàng hậu.
Một thông tin thường được dùng khi nói về việc Võ Mị loại bỏ Vương Hoàng hậu là sự kiện một hoàng nữ của Cao Tông chết yểu và Hoàng hậu bị vu cho là đã ra tay giết chết đứa bé. Đại khái thì theo thuyết này, Võ Mị sinh một hoàng nữ vào năm 654, một lần khi Vương Hoàng hậu đến thăm thì sau khi ra về, Võ Mị tự tay giết chết đứa bé. Thế rồi lúc Cao Tông đến thăm, phát hiện con gái đã chết liền giận dữ, người hầu đều bảo có Vương Hoàng hậu vừa đến, lại thêm Võ Mị khóc lóc, nên Hoàng đế giận dữ, cho rằng Hoàng hậu đã giết con mình. Cả hai bộ sử Tân Đường thưTư trị thông giám đều cho rằng thuyết này là thực. Tuy nhiên, Cựu Đường thư không hề chép lại việc này, chỉ ghi là vào năm 664, Cao Tông truy phong cho con gái mình danh hiệu An Định Công chúa, lại ban thụy hiệu là Tư, sau đó cải táng theo lễ của thân vương rồi đưa đến chùa Sùng Kính. Không hề ghi rằng An Định Tư Công chúa sinh vào năm nào, hoặc có mẹ là ai. Chi tiết Võ Mị sinh ra vị công chúa này có thể dựa trên việc Cựu Đường thư chép An Định Tư Công chúa là “Trưởng nữ”, mà Võ Mị cũng từng sinh hai con gái, một được gọi là “Trưởng nữ”. Chúng ta có thể tin rằng Võ Mị quả thực là mẹ của vị công chúa chết yểu. Tuy nhiên, việc bà tự tay giết con gái mình để đổ tội cho Vương Hoàng hậu thì xét ra lại là một thuyết đầy lỗ hổng.
Thứ nhất, đương thời không có lời đồn nào, dù là nhỏ nhất về việc Võ Mị tự tay giết con. Ngay cả sau này vào năm 684, Anh Quốc công Từ Kính Nghiệp khi khởi binh chống lại sự chuyên quyền của bà, có cho Lạc Tân Vương viết “Thảo Võ Chiếu hịch”, cũng không có nhắc đến việc giết con khi liệt kê các tội của Võ Mị. Do đó, có thể thấy đương thời tin đồn Võ Mị giết con chưa tồn tại.
Thứ hai, giả sử Võ Mị có đổ tội cho Vương Hoàng hậu thật, thì cũng khó mà khiến Cao Tông một mực tin theo được, đơn giản là không có bằng chứng. Cao Tông cũng không phải người ngu ngốc không có chính kiến, khó có thể chỉ vì một lời buộc tội vô căn cứ mà phế truất Hoàng hậu. Cựu Đường thư cũng không có ghi chép nào về việc cái chết của tiểu công chúa khiến Hoàng đế căm hận Hoàng hậu.
Cuối cùng, thuyết này được ghi trong Tân Đường thưTư trị thông giám. Cả hai bộ sử này đều được soạn dưới triều Tống, khi hệ lý thuyết Tống Nho đạt được một bước tiến lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến toàn xã hội. Những hành động của Võ Tắc Thiên vừa bị nho sĩ phản đối vì tiếm hiệu xưng đế, lại không đúng với bổn phận của nữ nhân; cho nên các tin đồn như vậy mới sinh ra để nhấn mạnh sự tàn nhẫn của bà. Sách Cựu Đường thư cũng được soạn sau khi nhà Đường đã sụp đổ, không có lý do gì phải bao che cho Võ Mị, cho nên có thể kết luận việc An Định Tư Công chúa bị Võ Mị giết hại rồi đổ tội cho Vương Hoàng hậu nhằm khiến Cao Tông phế truất chỉ là một thuyết âm mưu thiếu cơ sở.
Tuy vậy, quả thực là đến cuối năm 655, cả Vương Hoàng hậu lẫn Tiêu Thục phi đều bị phế truất. Tuy nhiên, nguyên nhân của hành động này lại hoàn toàn khác.
Bản đồ cương vực nhà Đường lúc cực thịnh
Bản đồ cương vực nhà Đường lúc cực thịnh
Vào đầu thời Đường, chế độ tuyển cử quan lại vẫn chịu sự chi phối rất lớn từ các thế lực sĩ tộc gốc rễ lâu đời. Kể từ khi Ngụy Văn Đế Tào Phi thiết lập chế độ Cửu phẩm trung chính (là một chế độ coi trọng gia thế), các đại gia tộc đã tận dụng triệt để điều này để đem lại quyền lực cho mình. Dần dần qua các thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, cho đến tận Tùy - Đường, thế gia đại tộc vẫn là một thế lực chính trị cực lớn và nắm trong tay rất nhiều quyền lực triều đình. Khi Đường Thái Tông nắm quyền, vấn nạn này vẫn còn nhưng nhờ khả năng kiểm soát của Hoàng đế mà dù thế gia đại tộc nắm quyền nhưng không thể lộng hành. Đến khi Đường Cao Tông lên ngôi, tài năng và quyền lực không bằng vua cha nên thường bị các đại thần lấn lướt, Hoàng đế vẫn thường lấy làm khó chịu. Vậy nên việc Cao Tông quyết tìm cách phế Hoàng hậu - vốn cũng xuất thân thế gia, dường như là một cách để ngầm công kích phe cánh cựu thần trong triều, bấy giờ do Trưởng Tôn Vô Kỵ và Chử Toại Lương đứng đầu. Do đó, Võ Mị nghiễm nhiên trở thành “đồng minh” thân cận của Hoàng đế trong vấn đề này. Bên cạnh đó, một số quan lại như Trung thư xá nhân Lý Nghĩa Phủ và Lễ bộ Thượng thư Hứa Kính Tông cũng muốn nhân cơ hội giành lấy quyền lực từ các cựu thần, nên cũng ra sức ủng hộ lập Võ Mị làm Hoàng hậu.
Tháng 6 năm 655, Võ Chiêu nghi tố cáo mẫu thân của Vương Hoàng hậu là Ngụy Quốc phu nhân Liễu thị đã cùng Hoàng hậu dùng bùa phép hãm hại mình, từ đó Liễu thị không được vào cung nữa. Cũng vì việc này mà cậu của Hoàng hậu là Trung thư lệnh Liễu Thích bị giáng chức. Nhân cơ hội ấy, Lý Nghĩa Phủ, vốn từng có hiềm khích với Trưởng Tôn Vô Kỵ dẫn đến bị biếm chức, đã dâng sớ xin Hoàng đế phế truất Hoàng hậu. Cao Tông mừng lắm, liền triệu vào cung rồi phục chức cho, phe cánh của Võ Mị ngày càng lớn mạnh. Đến mùa thu cùng năm, Hoàng đế cho triệu Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương và Lý Thế Tích vào cung để hỏi ý kiến việc phế hậu; nhưng hôm ấy Lý Thế Tích cáo ốm không tới. Chử Toại Lương thì lên tiếng can ngăn Hoàng đế, trong khi Trưởng Tôn Vô Kỵ thì không nói gì để tỏ ý không hài lòng; việc này khiến Cao Tông càng khó chịu và quyết tâm muốn phế Hoàng hậu. Mấy hôm sau, khi Lý Thế Tích vào triều, Cao Tông có hỏi lại về việc ấy, thì Lý Thế Tích đáp: “Việc này vốn là gia sự của bệ hạ, không cần hỏi đến ngoại thần.” Cao Tông lấy làm có lý. Đến cuối năm đó, Hoàng đế lấy tội danh “Âm mưu hạ độc” ra chỉ phế truất cả Hoàng hậu Vương thị lẫn Thục phi Tiêu thị làm dân thường, giam vào biệt viện, còn gia tộc bị đày đến Lĩnh Nam. Một tuần sau, Cao Tông hạ chiếu lập Võ Chiêu nghi làm Hoàng hậu. Trong cuộc chiến tranh giành hậu cung, cuối cùng Võ Mị là người chiến thắng.

Trở thành Hoàng hậu

Tuy đã chính thức trở thành Hoàng hậu, nhưng Võ Mị vẫn chưa yên tâm, vẫn quyết muốn diệt trừ tận gốc những người đối địch là Vương thị và Tiêu thị; đương nhiên cũng muốn loại bỏ cả Thái tử Lý Trung. Hai người Vương thị và Tiêu thị từ khi bị phế và bị giam vào biệt viện thì Hoàng đế vốn mềm lòng nên cũng thường đến thăm. Chứng kiến cảnh hai người sống khổ sở, Cao Tông tỏ lòng thương. Chuyện đến tai Võ hậu, lo sợ Hoàng đế muốn thả cả hai ra, liền tìm cách ra tay trước. Tất cả các tài liệu như Cựu Đường thư, Tân Đường thư hay Tư trị thông giám đều chép rằng Võ hậu cho người đánh mỗi người 100 roi, rồi sau chặt hết tay chân rồi ngâm vào chum rượu. Hai người chịu đựng được mấy ngày thì chết.
Việc tiếp theo mà Võ hậu cần làm chính là giành ngôi vị Thái tử về cho con trai Lý Hoằng. Lễ bộ Thượng thư Hứa Kính Tông từng dâng sớ nói rằng nên lập Lý Hoằng làm Thái tử, do thân phận cao quý hơn so với Lý Trung, Hoàng đế cuối cùng thuận theo. Ngày 6/1/656, Thái tử Lý Trung bị phế truất, giáng xuống làm Lương vương, liền sau đó Cao Tông lập Đại vương Lý Hoằng mới 4 tuổi làm Thái tử.
Hai mục đích quan trọng đầu tiên của Võ Mị đều đã thành công, bà được lập làm Hoàng hậu và con trai Lý Hoằng được lập làm Thái tử. Sau đó, Võ hậu cùng các quan lại trong phe cánh chuyển hướng sang công kích những người không ủng hộ mình, ví dụ như Chử Toại Lương và Hàn Viện - người từng phản đối lập Võ Mị làm Thần phi hồi trước. Năm 657, Hoàng đế hạ chỉ giáng chức Chử Toại Lương xuống làm Đô đốc Đàm Châu, rồi sau lại bị biếm đến lần lượt Quế Châu, Ái Châu, An Nam; cuối cùng vì uất ức mà qua đời tháng 10 năm 658. Năm 659, Võ hậu giật dây để cho Hứa Kính Tông cùng Lý Nghĩa Phủ tìm cách hãm hại Trưởng Tôn Vô Kỵ. Thời điểm ấy, có người tố cáo hai viên quan là Vi Quý Phương và Lý Sào mưu làm việc trái phép, Hoàng đế giao cho Hứa Kính Tông tra xét việc này. Hứa Kính Tông nhân đó dụ cho Vi Quý Phương khai man rằng Trưởng Tôn Vô Kỵ thông đồng với mình. Việc tâu lên, Cao Tông rất bất ngờ và lệnh cho tra xét rõ. Cuối cùng, Trưởng Tôn Vô Kỵ bị bãi bỏ phong ấp và chức Thái úy, bị giáng làm Đô đốc Dương Châu rồi bị đày đến Kiềm Châu. Hứa Kính Tông nhân thể liền tố cáo cả Chử Toại Lương và Hàn Viện. Hàn Viện vì thế mà bị bãi chức, còn Chử Toại Lương dù mất rồi cũng bị trừ quan tước. Cùng năm ấy, Trưởng Tôn Vô Kỵ bị bức tử. Hàn Viện sau khi bị bãi chức thì cũng bị biếm làm Thứ sử Ái Châu, nhiều quan viên cựu thần từng phản đối lập Võ hậu cũng bị điều đi khỏi kinh thành. Phe cánh của Võ hậu đạt được thành công triệt để, còn bản thân Cao Tông cũng thực hiện được phần nào việc áp chế tầng lớp thế gia đại tộc, từng bước thu quyền lực về trung ương. Đó cũng là lý do Cao Tông mắt nhắm mắt mở trước việc phe cánh Võ hậu liên tiếp bày mưu hãm hại phe phái chống đối, vì việc ấy cũng đem lại lợi ích cho Hoàng đế. Triều đình sau một thời gian dài bị quan lại xuất thân từ thế gia đại tộc kiềm chế, giờ mới phần nào được giải tỏa và công cuộc thu quyền lực về trung ương của Hoàng đế có bước tiến quan trọng.
Tạo hình Võ hậu trong "Võ Mị Nương truyền kỳ"
Tạo hình Võ hậu trong "Võ Mị Nương truyền kỳ"
Việc thu quyền lực trong hậu cung và tạo dựng phe cánh trong triều của Võ hậu coi như đã thành công. Tuy nhiên, tham vọng của bà không chỉ dừng lại ở đó, mà Võ hậu còn muốn tham dự cả vào việc triều chính. Cuối năm 660, Cao Tông phát chứng đau đầu, sức khỏe dần bị suy giảm nghiêm trọng. Nhân việc này, Võ hậu bắt đầu can dự vào triều chính, quyết định nhiều việc, bắt đầu lấn át cả Hoàng đế. Võ hậu tinh thông văn sử, giải quyết nhiều việc nhanh gọn hiệu quả, quyền lực của Cao Tông dần bị thu hẹp. Việc này khiến Hoàng đế không hài lòng và dần dần giữa hai người xuất hiện mâu thuẫn. Khi trước Võ hậu luôn nhu hòa, thường thuận theo ý Hoàng đế, nên Cao Tông mới muốn lập bà làm Hoàng hậu để chứng tỏ quyền lực. Nhưng giờ Võ hậu lại dần dần bộc lộ khả năng, có phần lấn át cả Hoàng đế, nên tất nhiên Cao Tông không vui, nhưng vẫn chưa tỏ hẳn thái độ ra mặt. Để phần nào hạn chế việc Võ hậu can dự triều chính, từ năm 663, Cao Tông bắt đầu giao cho Thái tử Lý Hoằng xử lý một số công việc. Hoàng đế ra lệnh cứ năm ngày đến nghe quần thần tấu trình việc nước một lần, nếu là việc nhỏ thì cho tự quyết.
Cũng trong khoảng thời gian này, có đạo sĩ tên Quách Hành Chân thường xuyên ra vào cung cấm làm trò tà thuật. Năm 664, Cao Tông biết được Võ hậu đứng sau việc này nên rất giận, liền triệu Thị lang Thượng Quan Nghi vào cung hỏi ý. Thượng Quan Nghi liền tâu rằng: “Hoàng hậu chuyên quyền, không giữ đạo làm vợ, cần phải phế.” Cao Tông có ý muốn làm theo, bèn lệnh cho Thượng Quan Nghi tìm cách. Tuy nhiên, vây cánh Võ hậu trong cung giờ đã lớn mạnh, tai mắt ở mọi nơi. Có kẻ hầu đem chuyện này báo cho Võ hậu, bà lập tức chạy đến chỗ Hoàng đế kêu khóc. Cao Tông có ý xấu hổ, không biết trả lời ra sao, liền đổ hết cho Thượng Quan Nghi. Tháng 12 năm đó, Võ hậu sai Hứa Kính Tông tố cáo Thượng Quan Nghi cùng Lương vương Lý Trung phản nghịch. Thượng Quan Nghi sau đó bị bắt hạ ngục, còn Lương vương bị ban rượu độc ép phải tự vẫn. Đầu năm 665, cả Thượng Quan Nghi và con trai là Thượng Quan Đình Chi đều bị chém đầu. Sau sự việc này, không ai còn dám công khai phản đối hay gièm pha việc Võ hậu can dự triều chính, mà dường như chính Hoàng đế cũng tỏ ý lo ngại. Cho nên từ đó trở đi, mỗi khi Cao Tông thượng triều, Võ hậu đều buông rèm ngồi sau cùng tham dự, sử sách gọi việc này là “Nhị Thánh lâm triều”.
Tuy Võ hậu can dự vào triều chính khiến một số đại thần không vừa lòng, nhưng nhìn chung, nền chính trị của triều Đường vẫn trên đà phát triển. Trong nước thái bình, không có loạn lạc. Ở ngoài biên ải thì việc chiến tranh tương đối ổn thỏa khi biên giới phía bắc vẫn tạm thời không có mối nguy nào; ngoài ra, giai đoạn này nhà Đường cũng thành công trong việc liên minh với nước Tân La ở bán đảo Triều Tiên và diệt được Bách Tế vào năm 663 - một trong Tam quốc Triều Tiên, rồi bắt đầu lên kế hoạch xâm lược thế lực còn lại là Cao Câu Ly. Đế quốc Đại Đường vẫn hưng thịnh và ổn định. Võ hậu liền khuyên Cao Tông tiến hành khuếch trương thế lực và nâng cao địa vị của cả hai bằng cách tiến hành đại lễ Phong thiện ở núi Thái Sơn. Phong thiện là một đại lễ từ thời cổ, thực hiện vào những lúc thái bình thịnh thế; thiên tử vì muốn chứng tỏ quyền uy mà tiến hành một loạt các nghi lễ tế cáo Trời và Đất. Đại lễ này cần phải trải qua một chu kỳ nghi lễ và chuẩn bị cực kỳ phức tạp, phải tổ chức ở xa kinh thành và bắt buộc đủ loại quan viên có mặt; cho nên phí tổn chuẩn bị rất lớn. Cũng theo quy tắc của đại lễ, Hoàng đế sẽ làm lễ với vai trò “Sơ hiến”, còn công khanh nắm vai trò “Á hiến”. Tuy nhiên, Võ hậu thấy rằng do Hoàng đế tượng trưng cho Hoàng thiên, còn Hoàng hậu tượng trưng cho Hậu thổ; nên muốn tự mình đảm nhận vai trò “Á hiến” thay cho công khanh. Ý kiến này được Cao Tông chấp thuận.
Cuối năm 665, Cao Tông và Võ hậu dẫn văn võ bá quan xuất phát từ Lạc Dương tới Thái Sơn để tiến hành đại lễ Phong thiện. Cùng dự đại lễ này có cả các sứ giả đến từ nhiều nước chư hầu và có quan hệ với nhà Đường. Đến tháng 2 năm 666, đại lễ bắt đầu, kéo dài đến 3 ngày mới hoàn thành. Sau đại lễ, Cao Tông cũng đổi niên hiệu và đại xá toàn thiên hạ. Quyền lực và tầm ảnh hưởng của Võ hậu ngày càng lớn.
Năm 674, Cao Tông nhân dịp truy tôn thêm thụy hiệu cho các Hoàng đế và Hoàng hậu, bèn đổi xưng là Thiên hoàng, Võ hậu đổi thành Thiên hậu. Cùng trong năm, Thiên hậu dâng lên một danh sách gồm 12 điều để trị quốc, đều được Thiên hoàng thông qua. Nhìn chung, 12 điều trị quốc này được đánh giá là có tầm nhìn và có thể giúp duy trì sự thịnh trị của Đại Đường; tuy nhiên không có ghi chép nào về hiệu quả của các chính sách mới ấy.
Một bức tranh vẽ Võ hậu thời Minh
Một bức tranh vẽ Võ hậu thời Minh
Từ năm 675, bệnh đau đầu của Cao Tông ngày càng trở nặng, không thể quản lý triều chính như trước. Ông bèn triệu tập các đại thần, tỏ ý muốn cho Thiên hậu nhiếp chính. Tuy nhiên đa số các đại thần đều tỏ ý phản đối, việc lại thôi. Thiên hoàng liền đổi sang ý muốn nhường ngôi cho Thái tử, nhưng lại đến lượt Thiên hậu không đồng tình, dù đó là con đẻ của bà. Thái tử Lý Hoằng cũng là một người tài giỏi, hiếu thuận, rất được Cao Tông quý mến. Đến năm 675, trong một lần đi du ngoạn cùng Thiên hoàng và Thiên hậu, Thái tử đột ngột qua đời, lúc ấy mới 25 tuổi. Người đương thời đồn rằng Thiên hậu đã bí mật ra tay giết con, để tránh việc Cao Tông nhường ngôi. Tuy nhiên, các sử gia đời sau tin rằng thể chất Lý Hoằng vốn đã yếu ớt lắm bệnh, lại thêm việc lao lực quá độ vì giúp vua cha xử lý chính sự nên mới đột ngột qua đời. Cao Tông rất đau buồn, đặc biệt truy tặng cho Lý Hoằng làm “Hiếu Kính Hoàng đế”, một việc chưa từng có tiền lệ, đủ thấy sự đau xót của ông cho con trai. Lý Hoằng được hậu táng theo nghi lễ Thiên tử ở Cung lăng bên ngoài Lạc Dương. Sau đó, Cao Tông lập hoàng tử thứ 6 là Ung vương Lý Hiền làm Thái tử - đây cũng là con trai của ông với Võ hậu.
Thái tử Lý Hiền cũng là người thông minh, quyết đoán mạnh mẽ, xử lý chính sự cũng đúng mực, thưởng phạt công minh nên cả triều đình lẫn Cao Tông đều rất kỳ vọng. Tuy nhiên sự nổi bật của Lý Hiền lại khiến chính mẹ mình là Võ hậu không hài lòng, khi thời điểm ấy bà đang trong giai đoạn muốn thao túng và kiểm soát triều đình. Bấy giờ có tin đồn trong cung là thực chất Lý Hiền là con của Hàn Quốc phu nhân Võ Thuận - chị của Võ hậu. Thái tử biết chuyện này, trong lòng cảm thấy bất an, tỏ thái độ ra mặt; Thiên hậu cũng vì việc này mà không vui, quan hệ với Thái tử ngày càng xa cách. Một đạo sĩ tên Minh Sùng Nghiễm lúc ấy được cả Thiên hoàng lẫn Thiên hậu coi trọng, cũng thường gièm pha rằng “Thái tử không thể thừa kế được, có Anh vương tướng mạo giống Thái Tông, mà Tương vương về sau sẽ đại quý”, tức là ý muốn khuyên Thiên hậu tìm cách phế Thái tử mà lập một trong hai người con khác của mình là Anh vương Lý Triết và Tương vương Lý Đán. Thái tử nghe chuyện, càng ghét Minh Sùng Nghiễm hơn. Năm 679, Minh Sùng Nghiễm bị đánh chết, không bắt được hung thủ nên Thiên hậu nghi do Thái tử làm, nên càng tỏ ra ghét bỏ hơn. Đến năm 680, một số quan lại thuộc phe cánh Thiên hậu dâng sớ tố cáo trong nhà Thái tử tính trữ giáp trụ binh khí, ngờ có ý mưu phản. Khi cho người tra xét, quả thực có những thứ ấy, nhưng Cao Tông thương con, không nỡ trị tội. Thiên hậu liền tâu rằng: “Là con dân mà mưu nghịch, thiên địa bất dung; nay phải vì đại nghĩa diệt thân, đâu có thể xá tội được?”, sau đó hạ lệnh phế ngôi Thái tử, giam lỏng tại Trường An. Sau đó Thiên hoàng lập hoàng tử thứ 7 là Anh vương Lý Triết làm Thái tử, đổi tên lại thành Lý Hiển.
Cuối năm 683, Thiên hoàng lâm bệnh nặng ở Lạc Dương, biết mình không qua khỏi, liền lập tức triệu Thái tử từ Trường An đến, mệnh cho Lý Hiển giám quốc và giao cho các đại thần phụ chính. Đến ngày 27/12, Thiên hoàng băng hà ở điện Trinh Quán, để lại di chiếu rằng: “Sau 7 ngày tạm quàn, Hoàng thái tử lên ngôi Hoàng đế trước linh cữu. Về chế độ viên lăng, nên chủ trương tiết kiệm. Quân quốc đại sự có việc không thể quyết định, thì nhờ Thiên hậu làm chủ.” Theo di chiếu, Thái tử Lý Hiển nối ngôi, tức là Đường Trung Tông, Thiên hậu trở thành Hoàng thái hậu, được quyền quyết định triều chính. Cuộc tranh đấu giành quyền lực trong triều đình của Võ hậu chuyển sang giai đoạn mới.

Thời kỳ "Lâm triều xưng chế"

Cuối năm 683, Cao Tông băng hà tại Lạc Dương, Thái tử Lý Hiển kế vị trở thành Hoàng đế mới; Hoàng thái hậu Võ Mị được quyền nhiếp chính quản lý triều đình. Theo lẽ thường, Thái hậu chỉ nhiếp chính khi Hoàng đế còn nhỏ tuổi, gọi là “Lâm triều xưng chế”, nhưng hiện tại Trung Tông Lý Hiển đã 28 tuổi, lại thường xuyên giúp vua cha xử lý chính sự, vốn không cần nhiếp chính. Tuy vậy, bởi vì di chiếu của Thiên hoàng để lại nên Võ Thái hậu vẫn được quyền nắm giữ quyền lực, trong triều đình dần xảy ra tranh chấp giữa Hoàng đế và Thái hậu.
Ngay sau khi lên ngôi, vì muốn tạo đối trọng với phe cánh của Thái hậu trong triều, vua Trung Tông phong cho cha vợ mình là Vi Huyền Trinh làm Thị trung trông coi Môn hạ tỉnh (một trong ba cơ quan quyền lực trung ương cao nhất trong triều). Chức vụ này có quyền uy rất lớn, nhưng Vi Huyền Trinh lại không có tài cán gì để đảm đương nên Tể tướng Bùi Viêm ra sức can ngăn. Trung Tông phát giận, bèn nói lại rằng: “Ta đem cả thiên hạ cho Vi Huyền Trinh còn được, huống hồ chỉ là một chức Thị trung lang?”. Bùi Viêm không biết làm thế nào, bèn báo với Thái hậu. Ngày 26/2 cùng năm, Thái hậu được các quan đưa vào triều, tuyên chiếu phế truất Trung Tông xuống làm Lư Lăng vương. Khi bị đưa xuống, Trung Tông cố hỏi xem mình có tội gì mà bị phế thì Thái hậu quát lại rằng: “Nhà ngươi muốn đem thiên hạ cho Vi Huyền Trinh, còn không có tội ư?”, sau đó giam vào biệt cung, đổi lại tên thành Lý Triết; ngay sau đó đưa người con út của mình là Dự vương Lý Đán lên ngôi, tức vua Đường Duệ Tông. Đường Trung Tông Lý Hiển ở ngôi chưa được 2 tháng đã bị phế truất, âu cũng là do quá nóng vội muốn xây dựng phe cánh đối chọi với Thái hậu mà chưa lường được tầm ảnh hưởng của bà.
Lý Đán được lập lên làm Hoàng đế, nhưng thực sự mọi quyền lực đều nằm trong tay Võ Thái hậu. Đường Duệ Tông khi ấy tuy ở ngôi vị và đã trưởng thành, nhưng bị ép phải sống ở cung riêng, không được tham gia chính sự, việc lớn nhỏ trong triều đều do Võ Thái hậu định đoạt cả. Bà bèn phong thưởng cho những người trung thành với mình, như Trung thư Thị lang Lưu Y Chi và Lễ bộ Thượng thư Võ Thừa Tự (cũng là cháu trai của Thái hậu) làm Đồng trung thư Môn hạ Bình chương sự. Thế lực của Võ Thái hậu ngày càng lớn, gần như nắm trọn triều đình trong tay.
Đến cuối năm 684, xảy ra cuộc nổi dậy của một số quan lại nhà Đường chống lại sự độc bá triều chính của Võ Thái hậu. Bấy giờ Anh Quốc công Từ Kính Nghiệp cùng em là Từ Kính Du và các thuộc tướng họp binh nổi dậy ở Dương Châu, lấy danh nghĩa phò tá Đường Trung Tông khôi phục đế vị. Từ Kính Nghiệp vốn là cháu của Lý Tích - một trong những công thần hàng đầu của nhà Đường thời Thái Tông, cho nên danh vọng rất cao. Cuộc nổi dậy của Từ Kính Nghiệp được đánh giá là lớn nhất và quy mô nhất trong những năm “Lâm triều xưng chế” của Võ Thái hậu. Nhận thấy sự nguy hiểm của cuộc nổi loạn này, Võ Thái hậu lập tức sai Lý Hiếu Dật làm tướng, Lý Tri Sĩ và Mã Kính Thần làm phó, cùng đem đại quân thảo phạt Từ Kính Nghiệp. Thái hậu sau đó hỏi Bùi Viêm kế sách dẹp loạn, thì ông nói rằng thực chất Từ Kính Nghiệp tạo phản vì Thái hậu nắm quá nhiều quyền lực; Hoàng đế đã lớn, có thể tự trị quốc, nên nếu bà chấp nhận trao trả quyền lực thì tự nhiên mọi sự sẽ kết thúc. Võ Thái hậu đương nhiên là giận dữ, bởi vì bà đang nắm trong tay quyền lực quá lớn, mà cả triều đình hầu như đều nằm trong tầm kiểm soát, không lý gì phải từ bỏ. Bùi Viêm lập tức bị tống giam rồi bị khép vào tội chết, mà những ai nói đỡ cho ông đều bị xử phạt đem đi đày. Ở ngoài mặt trận, quân nổi dậy của Từ Kính Nghiệp đánh đến Nhuận Châu, quân triều đình đánh mãi không được nên Lý Hiếu Dật có ý muốn lui. Thế nhưng có vị tướng dưới quyền là Ngụy Nguyên Trung khích lệ, khuyên nên cho quân tiếp tục tấn công mạnh, Lý Hiếu Dật vững dạ làm theo, cuối cùng đại phá quân Từ Kính Nghiệp. Kính Nghiệp thua trận bỏ trốn, cuối cùng bị thuộc tướng làm phản giết chết, quân nổi dậy hết thảy đều ra hàng. Sự thất bại của cuộc phản loạn này càng củng cố quyền lực của Võ Thái hậu trong triều. Từ lúc này trở đi, Võ Thái hậu bắt đầu thanh trừng triều đình, tìm cách trừ bỏ những ai không trung thành với mình.
Sau khi dẹp xong loạn Từ Kính Nghiệp, Võ Thái hậu sai người làm một cái hộp đồng đặt trước triều đường, để ai có kế sách muốn hiến hay muốn tố cáo gian ác, tiến cử người tài,... mà không muốn dâng sớ thì bỏ vào đó. Tuy nhiên, ý đồ thực của Thái hậu là thông qua đó muốn có người bỏ thư tố cáo bí mật người khác, nhất là các đại thần nằm trong tầm ngắm của bà để có cớ xử lý. Những ai bị bỏ thư tố cáo thường bị xử tội mà không qua tra xét gì cả. Một số quan lại như Chu Hưng và Lai Tuấn Thần dựa vào việc này mà lộng quyền, liên tiếp vu oan hãm hại người khác, mà còn được ban thưởng chức tước cao. Chu Hưng được phong đến Thu quan Thượng thư, còn Lai Tuấn Thần làm tới Ngự sử Trung thừa. Đây chính là tiền thân cho cái gọi là “Khốc lại chính trị” thời kỳ Võ Tắc Thiên sau này, bà cho phép nhiều quan lại được tự do tra xét dùng cực hình để điều tra những án mưu phản; khiến rất nhiều quan lại và dân thường bị liên lụy. Chu Hưng và Lai Tuấn Thần rất được Võ Thái hậu tin tưởng và trọng dụng, bởi vì thông qua bàn tay hai kẻ này, bà có thể thoải mái tìm cách trừ diệt quan lại và tông thất có ý muốn phản đối việc bà nắm triều chính. Trong việc này, Võ Thái hậu cực kỳ quyết tâm và tàn độc, ai thực tâm theo bà sẽ được trọng dụng, còn không sẽ bị loại bỏ; dù người đó khi trước có từng ủng hộ bà đi chăng nữa.
Vào năm 687, đại thần rất được Võ Thái hậu tín nhiệm là Lưu Y Chi dường như cũng không đồng tình nữa với việc Thái hậu chuyên quyền, có nói với một viên quan khác là Giả Đại Ẩn rằng: “Thái hậu có thể phế hôn quân để lập minh quân, vậy cớ gì không để hoàng thượng chưởng quyền, an lòng thiên hạ?”. Giả Đại Ẩn lập tức mật báo lời ấy cho Thái hậu, khiến bà rất tức giận mà thốt lên rằng: “Y Chi là người do ta dìu dắt mà cũng còn phản ta sao?”. Vừa lúc đó cũng có người tố cáo Lưu Y Chi nhận vàng hối lộ từ Đô đốc Thành Châu, lại có người tố ông tư thông với thị thiếp của Hứa Kính Tông; thế là Võ Thái hậu lập tức cho bắt giam mà không cần tra xét gì cả. Duệ Tông bấy giờ muốn tìm cách cứu Lưu Y Chi, nhưng không biết làm thế nào; cuối cùng Thái hậu ra lệnh xử tử Lưu Y Chi.
Võ Thái hậu ngày càng chuyên quyền, lộ rõ ý muốn soán ngôi nên bà bắt đầu tìm cách trừ diệt tông thất nhà Đường. Trong số các thân vương nhà Đường, có Hàn vương Lý Nguyên Gia là người đầu tiên nhận ra ý đồ của Võ Thái hậu, liền lén viết thư cho Việt vương Lý Trinh bày tỏ ý muốn làm chính biến để khôi phục quyền lực cho hoàng tộc. Lý Trinh cũng thấy bất an, liền đồng ý nổi dậy. Mùa thu năm 688, Lang Tà vương Lý Xung là con của Lý Trinh triệu tập quân binh các nơi để đánh vào Lạc Dương, Võ Thái hậu được tin liền cử đại quân đến thảo phạt. Ngay sau đó thì Lý Trinh khởi binh từ Dự Châu, thế nhưng các lộ chư hầu khác chưa kịp khởi binh, nên lực lượng của các vương nhanh chóng bị đánh bại. Lý Xung bị giết còn Lý Trinh tự tử; Võ Thái hậu nhân đó bắt tội đến nhiều tông thất khác, bắt họ tự sát hết cả. Đến thời điểm này, không còn một thế lực nào có thể ngăn cản dã tâm của Võ Thái hậu được nữa.

Đăng cơ xưng đế

Từ năm 688, Võ Thái hậu bắt đầu xây Minh đường bằng cách hủy bỏ Càn Nguyên điện cũ và xây dựng trên nền điện ấy. Vào lúc này, quyền lực của Võ Thái hậu đã lớn, khiến nhiều kẻ xu nịnh bắt đầu tạo những thứ gọi là "điềm lành", hòng mua chuộc và lấy lòng bà. Võ Thái hậu rất thích những thứ này, sau đó còn tự xưng tôn hiệu là Thánh mẫu Thần hoàng. Rồi sau khi dẹp yên các vương nổi loạn, trừ diệt tông thất và quan lại không cùng phe, thời điểm này chẳng thế lực nào còn có thể ngăn cản tham vọng của Thái hậu nữa.
Tháng Giêng năm 690, Võ Thái hậu ngự ở Minh đường mới xây xong, đại xá thiên hạ. Bà cũng tự sáng tạo ra chữ “Chiếu” làm tên húy của mình. Chữ “Chiếu” này được ghép từ các từ “Nhật” - “Mặt trời”, “Nguyệt” - “Mặt trăng” và “Không” - “Bầu trời”; để tỏ quyền uy tối thượng của mình.
Võ hoàng trong phim "Phong khởi Lạc Dương"
Võ hoàng trong phim "Phong khởi Lạc Dương"
Mùa hạ năm đó, có hòa thượng Pháp Minh dâng lên Thái hậu bốn quyển “Đại Vân kinh”, ca ngợi bà là Phật Di Lặc xuống trần, là chủ thiên hạ. Thái hậu rất vui, sai người in ra rồi phát khắp nơi, lại ban lệnh đề cao Phật giáo trên Đạo giáo. Cùng thời điểm này, Võ Thừa Tự mưu với Chu Hưng tố cáo một số thân vương của nhà Đường là Trạch vương Lý Thượng Kim và Hứa vương Lý Tố Tiết mưu phản. Thái hậu lập tức cho người bắt giết Lý Tố Tiết và ép Lý Thượng Kim phải tự tử. Hoàng thất họ Lý giờ gần như không còn ai có thể đe dọa được bà nữa. Những tông thất còn lại đều bị quản chế chặt chẽ, nghiêm ngặt. Các con của phế Thái tử Lý Hiền hồi trước và các con của Duệ Tông đều bị canh giữ trong nội cung, có đến nhiều năm không được ra khỏi cửa cung.
Tháng 9 năm 690, Thị ngự sử Phó Du Nghệ cùng hơn 900 đại thần đến Lạc Dương, dâng thư xin Võ Thái hậu đăng cơ xưng đế, đổi quốc hiệu thành Chu và sửa quốc tính thành họ Võ, bà liền khước từ. Thấy thế, quan lại đều tiếp tục dâng biểu xin Võ Thái hậu tức vị Hoàng đế. Duệ Tông thấy thế, thừa biết đó là màn kịch mà Thái hậu đặt ra, cũng biết bản thân mình chẳng thể làm gì khác, liền cũng xin bà cho đổi họ thành Võ. Thế rồi đến ngày 9/9/690, Võ Thái hậu chính thức lên ngôi ở Tắc Thiên môn, đổi tên triều đại thành Chu, cải niên hiệu thành Thiên Thụ. Đến ngày 12, quần thần dâng tôn hiệu cho bà là Thánh Thần Hoàng đế. Vừa sau khi lên ngôi, Võ hoàng liền giáng Duệ Tông xuống làm Hoàng tự, Thái tử Lý Thành Khí giáng xuống làm Hoàng tôn, đều đổi thành họ Võ. Văn Xương Tả tướng Võ Thừa Tự được phong Ngụy vương, Thiên Quan Thượng thư Võ Tam Tư được phong Lương vương. Nhiều con cháu trong họ cũng được phong quận vương. Thời kỳ Võ Chu chính thức bắt đầu. Võ hoàng không phải người phụ nữ duy nhất từng nắm thực quyền cai trị trong lịch sử, nhưng để là một phụ nữ mà đường hoàng đăng cơ xưng đế cai trị, thì từ cổ chí kim trong lịch sử Trung Quốc chưa từng có người thứ hai.

Thời kỳ Võ Chu

Sau khi lên ngôi, Võ hoàng đã lập tức truy tôn cho tổ tiên mình là Hoàng đế và xây dựng Võ thị Thất miếu ở Lạc Dương. Sau khi rước bài vị các đời tổ tiên vào Thái miếu, Võ hoàng cũng đã đổi thái miếu của nhà Đường ở Tây kinh thành Hưởng Đức miếu và chỉ cho cúng tế 4 mùa với 3 vị hoàng đế nhà Đường; còn tổ tiên trước đó thì dừng lại không cúng tế nữa. Võ hoàng đã từng có những hành động rất quyết liệt và thậm chí là nhẫn tâm để đoạt lấy ngôi vị Hoàng đế, nhưng với tông miếu nhà Đường, bà lại cực kỳ thận trọng. Võ hoàng không hủy bỏ tông miếu nhà Đường, mà ngược lại vẫn cho thực hiện cúng tế như thường với các Hoàng đế từng cai trị là Cao Tổ, Thái Tông và Cao Tông. Đây là một động thái rất khôn ngoan của Võ hoàng, khi nó là sự ngầm thừa nhận nhà Chu của bà là sự kế thừa tiếp nối của nhà Đường. Điều này giúp Võ hoàng có được tính chính danh và không bị dân chúng phản đối. Đây cũng là một trong những điểm mấu chốt để các cựu thần nhà Đường ủng hộ Võ hoàng. Chừng nào bà vẫn còn chưa phá bỏ hoàn toàn tông miếu của Lý Đường thì họ vẫn sẽ tiếp tục ủng hộ, còn nếu bà có ý định phá huỷ nó thì triều thần sẽ lập tức phản đối.
Về tính chính danh và quyền lực của Võ hoàng thì không có gì phải bàn cãi, nhưng một trong những vấn đề quan trọng nhất trong thời cai trị của bà chính là việc chọn người kế vị. Mặc dù Lý Đán đã được làm Hoàng tự, và với cương vị từng là Hoàng đế nhà Đường thì sẽ có lợi thế nhất định; nhưng thế lực của các thân vương họ Võ là Võ Thừa Tự và Võ Tam Tư cũng cực kỳ lớn mạnh. Năm 691, một số đại thần vì muốn lấy lòng Võ hoàng nên dâng sớ xin bà lập Võ Thừa Tự làm Thái tử. Bà ban đầu có vẻ bằng lòng, nhưng rồi các đại thần khác đều phản đối quyết liệt, trong đó có cả một người rất được Võ hoàng tin tưởng là Sầm Trường Thiến. Đại thần Lý Chiêu Đức còn nói thẳng rằng: “Bệ hạ nhận ủy thác của Thiên hoàng, nếu đem thiên hạ cho Thừa Tự thì Thiên hoàng sẽ không còn được cúng tế nữa”. Võ Thừa Tự biết được, rất căm tức, bèn bày mưu với Lai Tuấn Thần vu hãm các đại thần lên tiếng phản đối và các quan viên ủng hộ. Thế rồi lần lượt các đại thần phản đối Võ Thừa Tự đều hoặc bị bắt giết, hoặc bị lưu đày rồi cũng bị hại. Tuy vậy, Võ hoàng có vẻ đã nhận ra rằng ngôi vị khó có thể truyền cho họ Võ, nên quyết định không lập Thừa Tự làm Thái tử, chỉ cho tự do ra vào cung để thỉnh an. Sau đó dần dần Võ hoàng cũng hạ lệnh tước quyền Tể tướng của Võ Thừa Tự, chỉ cho nắm các chức vụ trên danh nghĩa chứ không có thực quyền; hẳn là để làm yên lòng các cựu thần nhà Đường.
Một vấn đề đáng chú ý nữa trong thời kỳ Võ hoàng cai trị chính là nạn “Khốc lại”. Về cơ bản, để triệt tiêu phe cánh chống đối, tiếp tục thu quyền lực và kiềm chế thế gia đại tộc; ngay từ thời kỳ còn chấp chính thay Duệ Tông, Võ hoàng đã ban cho nhiều quan lại những đặc quyền điều tra xét án. Những quan lại này được phép tự do điều tra những hành động mưu phản của quan viên; được phép dùng hình phạt tra tấn, bất kể độ tàn khốc, miễn sao đem lại kết quả. Chính vì thế, rất nhiều kẻ đã lợi dụng quyền lực này để diệt trừ những quan lại chống đối mình. Điều đáng sợ là với quyền tự do xét án này, nhiều khi chẳng cần bằng chứng gì mà cũng có thể bị khép tội. Tuy nhiên, kỳ thực thì kiểu điều tra xét án này không chỉ xuất hiện ở thời Võ hoàng, mà xuyên suốt lịch sử các triều đại; Hoàng đế cũng thường áp dụng hình thức này. Lý do là vừa để bí mật điều tra quan viên, vừa để răn đe các phe cánh. Võ hoàng cũng không phải ngoại lệ, chỉ có điều bà phải cho thực hiện triệt để và mạnh tay hơn để có thể củng cố quyền lực của mình.
Dĩ nhiên, nói như vậy không có nghĩa là cơ chế “Khốc lại” này không đáng bị lên án, khi mà vấn nạn này ở thời Võ hoàng dường như nghiêm trọng hơn nhiều. Thời ấy, có một số “Khốc lại” nổi tiếng tàn độc và chuyên quyền là Chu Hưng, Tác Nguyên Lễ cùng Lai Tuấn Thần. Dưới sự ngầm ủng hộ của Võ hoàng, thế lực của họ ngày càng lớn mạnh. Thậm chí đến mức vào năm 692, Lai Tuấn Thần tố cáo 3 vị Bình chương sự là Nhậm Trí Giả, Địch Nhân Kiệt, Bùi Hành Bổn cùng 4 đại thần khác tội mưu phản; rồi không cần tra xét mà giam hết họ vào ngục. Địch Nhân Kiệt ở trong ngục bí mật viết sớ kêu oan, rồi giao cho con là Địch Quang Viễn trình cho Võ hoàng. Cuối cùng, 7 vị đại thần đều thoát chết, nhưng bị lưu đày. Sau sự việc này, Võ hoàng dường như đã cảm thấy nếu còn dung túng cho “Khốc lại” thì sẽ phản tác dụng, nên bà cũng bắt đầu thu hẹp quyền lực của họ lại, và cũng tìm cách trừ khử để yên ổn triều đình và dân chúng.
Trong triều bấy giờ có hai thế lực chính là thế lực của Võ Thừa Tự và Lý Du Đạo. Kể từ khi nghe lời khuyên của các cựu thần nhà Đường, Võ hoàng hạn chế quyền lực của Thừa Tự, khiến thế lực của ông giảm đi đáng kể. Thế nhưng nhờ đó mà thế lực của Lý Du Đạo cũng mạnh lên, khiến Võ hoàng e ngại, liền tìm cớ để bãi chức. Đến năm 697, Lai Tuấn Thần lập mưu tố cáo Lý Du Đạo mưu phản, nhân cơ hội tìm cách hãm hại cả hai hoàng tử Lý Triết và Lý Đán cùng Thái Bình Công chúa - một hoàng nữ của Cao Tông với Võ hoàng, cũng tài giỏi và tham vọng không kém gì mẹ. Thái Bình Công chúa biết được, rất giận nên liên kết với cả người họ Lý và họ Võ để tố cáo ngược lại Lai Tuấn Thần. Cuối cùng để yên ổn triều đình, Võ hoàng cho giết cả Lý Du Đạo và Lai Tuấn Thần.
Năm 698, Võ Thừa Tự và Võ Tam Tư muốn giành ngôi Thái tử, bèn lập phe cánh chống đối nhau và âm mưu diệt trừ Lý Đán. Cả hai thường cho tâm phúc ở cạnh Võ hoàng khuyên rằng từ xưa đến nay chưa có quân chủ nào lập người khác họ làm trữ quân. Võ hoàng cũng rất bất an, vì chủ ý của bà là không lập người họ Võ làm Thái tử. Địch Nhân Kiệt cũng dâng sớ khuyên bà như sau:
“Văn Hoàng đế dãi gió dầm mưa, đích thân xông pha trận mạc để bình định thiên hạ đem truyền cho con cháu. Đại đế đem hai con giao cho bệ hạ, nay bệ hạ nếu muốn đem thiên hạ truyền cho tộc khác, như vậy há chẳng phải trái ý trời sao?” (Văn Hoàng đế ý chỉ Đường Thái Tông, Đại đế ý chỉ Đường Cao Tông)
Võ hoàng đọc sớ của Địch Nhân Kiệt, càng tin theo, lại nghe theo lời ông mà cho triệu Lư Lăng vương Lý Triết về kinh; mà các đại thần cũng ủng hộ việc này. Tháng 9 năm 698, Võ hoàng ra lệnh rằng Lư Lăng vương Lý Triết trong người có bệnh nên được đặc cách về kinh, cho phép vợ con đi theo. Liền sau đó, Hoàng tự Lý Đán dâng sớ xin nhường ngôi kế vị cho Lý Triết, được Võ hoàng bằng lòng. Lý Đán trở lại làm Tương vương, còn Lý Triết được lập làm Thái tử, lại đổi tên thành “Hiển” và cải sang họ Võ. Võ Thừa Tự vì việc này mà uất ức thống hận, qua đời không lâu sau đó.
Sau khi Lý Hiển được lập làm Thái tử, Võ hoàng sợ rằng về sau mình qua đời thì hai họ Lý, Võ tất không dung nhau, nên lệnh cho cả Lý Hiển, Lý Đán và Thái Bình Công chúa phải thề độc rằng không hại họ Võ. Từ bấy giờ trở đi, Võ hoàng dần bắt đầu không sát sao với việc triều chính nữa mà sa vào hưởng lạc. Bấy giờ Thái Bình Công chúa có tiến cử Trương Xương Tông thổi sáo hay mà dung mạo lại tuấn tú khiến Võ hoàng rất vui. Trương Xương Tông lại tiến cử anh trai mình là Trương Dịch Chi vào hầu hạ. Võ hoàng rất sủng ái hai người, ban cho chức tước. Dần dần, hai anh em họ Trương dần tìm cách can dự triều chính, mà nhiều quan lại cũng vì muốn vừa ý Võ hoàng nên tìm cách nịnh nọt và qua lại với họ. Việc anh em họ Trương ngày càng kiêu ngạo lộng hành khiến các con của Thái tử Lý Hiển rất bất bình. Anh em họ Trương nhân đó tìm cách gièm pha, khiến Võ hoàng phái người ép họ phải tự tử.
Năm 703, anh em họ Trương oán giận tể tướng Ngụy Nguyên Trung vì Nguyên Trung không coi trọng các anh em họ của Dịch Chi. Hai người này cũng lo sợ sau khi bà chết đi thì Nguyên Trung sẽ tìm cách hại mình, nên đã cáo buộc Nguyên Trung cùng Cao Tiển là thân cận của Thái Bình Công chúa ngày đêm mong cho bà chóng chết. Anh em họ Trương còn thuyết phục Trương Thuyết ra làm chứng, nhưng Trương Thuyết nói hết âm mưu của hai tên đó trước mặt Võ hoàng. Nhưng rốt cục, Võ hoàng vì mải mê nam sủng nên vẫn lưu đày Ngụy Nguyên Trung, Cao Tiển và Trương Thuyết. Mùa thu năm 704, nhiều quan lại lên tiếng cáo buộc Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông và anh em họ nhận hối lộ. Võ hoàng giáng chức các anh em họ của hai người, nhưng bắt Tể tướng Dương Tái Tư không được động tới Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông, nên cả hai vẫn vô sự.
Như vậy, trong khoảng 15 năm cai trị của Võ hoàng, triều đình thường xuyên xảy ra tranh chấp đảng phái. Rất nhiều quan viên bị lưu đày hoặc bị hại chết do vấn nạn “Khốc lại” mà Võ hoàng dung túng. Tuy một mặt nó giúp bà hoàn tất việc kìm hãm và thu quyền từ thế gia đại tộc - một công cuộc bắt đầu từ thời Thái Tông, kéo dài đến cả Cao Tông; nhưng mặt khác cũng khiến triều đường bất ổn. Việc này có ảnh hưởng đến dân chúng hay không? Thực ra mà nói thì nó vừa có vừa không. Nền nội trị của Võ hoàng nhìn chung không có điều gì đáng nói. Bà vẫn tiếp tục sử dụng các chính sách cũ đã lập ra từ trước, cho nên cuộc sống dân chúng có thể coi là ổn định, mặc dù không thể nói là không có vấn đề. Một trong những điều đáng nói của thời kỳ Võ Chu là nạn lưu dân. Nạn lưu dân thì đại khái triều đại nào, thời kỳ nào cũng xảy ra ít nhiều. Thời Võ hoàng cai trị, lưu dân cũng xảy ra, mặc dù không đến mức nhiều như những lúc loạn lạc, nhưng cũng đáng lưu tâm. Thế nhưng điều đáng nói là cách quan viên nhà Chu giải quyết vấn đề này. Tư trị thông giám có chép rằng vào những năm Trường Thọ (niên hiệu của Võ hoàng từ năm 692 - 694), nạn lưu dân xảy ra nhiều, nhất là ở vùng Lĩnh Nam. Võ hoàng cử một viên quan là Vạn Quốc Tuấn xử lý việc này. Vạn Quốc Tuấn đến vùng Quảng Châu, cho tập hợp nạn dân lại rồi đem giết hết, có đến 300 người mất mạng. Thế rồi lại tâu về triều rằng trong số nạn dân có kẻ mưu phản, phải giết hết đi. Võ hoàng không tra xét, mà còn khen ngợi, phong Quốc Tuấn làm Triều tán Đại phu, Hành hầu Ngự sử. Thấy thế, nhiều tướng tá khác cũng học theo, đem nạn dân ra giết hết rồi báo về triều nhận thưởng. Số người chết phải đến hàng ngàn.
Bên cạnh đó, giai đoạn sau trong thời kỳ cai trị, Võ hoàng dần sa vào hưởng lạc, quốc khố nhiều lúc ở trong tình trạng bội chi thâm hụt. Mặc dù các chính sách của triều đình vẫn có thể coi là ổn định, nhưng quốc lực của nhà Chu cũng không thể nói là đạt tới như thời thịnh trị khi trước được. Nội trị của Võ hoàng nhìn chung có khuyết điểm, nhưng cũng có ưu điểm nhất định là phần nào duy trì được sự ổn định. Thế nhưng ngoại trị của nhà Chu lại là một yếu điểm đáng kể trong thời kỳ cai trị của Võ hoàng. Nếu như ở thời kỳ Thái Tông, Cao Tông; sức mạnh quân sự của nhà Đường đạt đến đỉnh cao khi uy chấn phương bắc, áp chế được Đột Quyết, Thổ Phồn; sau lại diệt được Cao Câu Ly và Bách Tế thì thời kỳ Võ hoàng lại không được như vậy. Quyền kiểm soát của nhà Chu với vùng Mạc Bắc, Liêu Đông dần bị thu hẹp và mất dần vào tay các thể lực nổi dậy; vùng An Tây với Bắc Đình luôn trong tình trạng nguy ngập. Người Khiết Đan nổi dậy còn chiếm mất Doanh Châu, các thế lực Cao Câu Ly nổi dậy đánh chiếm Liêu Đông mà nhà Chu không thể thu hồi hoàn toàn được. Quân Chu nhiều lần giao tranh với các thế lực phản kháng nhưng thua nhiều hơn thắng, thiệt hại rất nhiều. Có thể nói, vị thế và sức mạnh quân sự của nhà Chu thời kỳ Võ hoàng cai trị đã suy giảm đi rất nhiều. Lý do cũng là bởi bà quá tập trung vào củng cố quyền lực, đấu đá nội bộ, khiến không còn thời giờ, nguồn lực chú ý với tình hình biên ải và sự phục hồi của các thế lực ngoại biên. Những vấn đề này phải mãi đến thời kỳ sau khi các Hoàng đế nhà Đường đã phục vị mới được giải quyết phần nào.

Thoái vị và qua đời

Trong giai đoạn cuối thời kỳ cai trị, Võ hoàng dần sa vào hưởng lạc, sủng ái anh em họ Trương. Đến những năm Trường An (niên hiệu của bà từ năm 701 - 704), sức khỏe của Võ hoàng cũng dần suy giảm. Vào cuối năm 704, Võ hoàng lâm bệnh, các đại thần đều không được gặp mà chỉ hai anh em họ Trương được vào cung hầu hạ. Nhiều người e ngại hai anh em họ Trương mưu đồ bất chính nên lũ lượt dâng sớ tố cáo họ tội phản quốc. Sau khi bệnh tình Võ hoàng thuyên giảm, Thôi Huyền Vĩ đề nghị sau này chỉ nên cho Thái tử Hiển và Tương vương Đán được vào hầu, nhưng bà không nghe.
Sang năm 705, Võ hoàng cải niên hiệu thành Thần Long, nhưng lại tiếp tục lâm bệnh, gần như không hỏi đến chính sự nữa. Hai anh em Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông tiếp tục lấy danh nghĩa Võ hoàng trông coi các việc. Nhiều quan lại thấy thế, bèn lập mưu diệt trừ anh em họ Trương để khôi phục nhà Đường. Để dễ bề hành động, Phụng Các Thị lang Trương Giản Chi tiến cử Hoàn Ngạn Phạm cùng Kính Huy làm Tả Hữu tướng quân của Vũ Lâm vệ nắm binh quyền. Trương Dịch Chi thấy thế sinh nghi, bèn để cho đồng đảng là Võ Du Nghi làm Hữu Vũ Lâm tướng quân. Trương Giản Chi thấy thế, bèn cùng Kính Huy tới Đông cung gặp Thái tử Hiển bàn kế sách. Ngày 20/2, Trương Giản Chi, Hoàng Ngạn Phạm cùng Tả Uy vệ Tướng quân Tiết Tư Hành và nhiều quan lại ủng hộ dẫn 500 quân thiết kỵ tiến vào Huyền Vũ môn; đồng thời sai Lý Đa Tộ và Phò mã Đô úy Vương Đồng Hiệu đến Đông cung nghênh đón Thái tử Hiển vào cung. Thái tử ban đầu do dự không muốn đi, nhưng Lý Đa Tộ và Vương Đồng Hiệu đều khuyên: “Chúng thần phụng mệnh tiên đế phò tá điện hạ, không may sự bị phế, chúng thần đều đau buồn, ròng rã đến nay 23 năm trời! Nay thời cơ đã đến, Bắc môn, Nam nha thảy đều đồng tâm hiệp lực, khôi phục cơ đồ xã tắc họ Lý. Mong điện hạ di giá Huyền Vũ môn, đừng phụ sự mong mỏi của chúng thần!” Bấy giờ Thái tử mới đồng ý, lên ngựa đến Huyền Vũ môn, chém quan gác cổng rồi vào cung.
Trong khi ấy, Trương Giản Chi dẫn người xông vào trong cung, tìm giết hai anh em họ Trương rồi cùng kéo vào Trường Sinh điện, nơi ở của Võ hoàng. Thấy bên ngoài ồn ào, bà kinh sợ rồi hỏi ai đang làm loạn; Trương Giản Chi bèn đáp: “Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông mưu phản, chúng thần phụng mệnh Thái tử mà giết chết. Sự việc nguy cấp nên làm có chút hồ đồ. Chúng thần dẫn binh vào cung cấm, thực tội đáng muôn chết!” Võ hoàng bấy giờ thấy Thái tử Hiển thì hiểu ra cơ sự, bèn bảo ông quay về Đông cung. Thế nhưng Hoàn Ngạn Phạm tiến lên nói rằng: “Năm xưa Thiên hoàng ký thác con trai cho bệ hạ, nay ngài đã lớn tuổi mà vẫn mãi ở Đông cung, mà thiên hạ nhân tâm đều thương nhớ họ Lý. Chúng thần không quên ân đức của Thái Tông và Thiên hoàng, nên cố trừ đi bọn loạn thần. Nay xin bệ hạ truyền ngôi cho Thái tử, ấy là thuận theo ước vọng của thiên hạ!” Võ hoàng nghe xong, trầm ngâm một hồi, lại trông thấy Lý Trạm là con trai Lý Nghĩa Phủ, từng được bà rất tin tưởng, bèn hỏi: “Ngươi cũng tham gia chuyện này, giết Dịch Chi tướng quân của ta ư? Ta đối với cha con ngươi không bạc, cớ sao phản lại?” Lý Trạm sợ hãi không đáp, Võ hoàng tiếp tục nói với Trương Giản Chi rằng: “Bọn chúng ai cũng đều là kẻ khác tiến cử, duy có khanh là ta cất nhắc! Thế mà khanh cũng hùa theo sao?” Giản Chi bèn đáp: “Thần làm thế là để bảo vệ đại ân đại đức của bệ hạ!” Thế rồi cho giết hết thân thuộc hai anh em họ Trương. Võ hoàng thấy thế, biết không còn cách nào khác, liền chấp nhận nhường ngôi. Đây chính là sự kiện “Thần Long chính biến”, kết thúc sự cai trị của Võ hoàng.
Sang ngày hôm sau, Võ hoàng mệnh cho Thái tử giám quốc, đại xá thiên hạ. Tất cả các đại thần đều trọng thưởng tùy theo công lao và thứ bậc. Một ngày sau đó, Võ hoàng chính thức nhường ngôi cho Thái tử Hiển. Đường Trung Tông chính thức phục vị, đổi lại quốc tính thành họ Lý như cũ, đến ngày 3/3 thì khôi phục quốc hiệu “Đường”.
"Vô tự bia" trong Càn lăng
"Vô tự bia" trong Càn lăng
Sau khi Trung Tông phục vị, Võ hoàng được mời dời sang cung Thượng Dương, thế rồi Hoàng đế cùng bá quan dâng tôn hiệu cho bà là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng đế. Hay nói cách khác, bà vẫn được coi là Hoàng đế sau khi nhường ngôi, tức là tương đương như Thái thượng hoàng vậy. Kể từ đó, cứ 10 ngày thì Trung Tông sẽ dẫn quan viên đến vấn an Võ hoàng. Ngày 16/12 năm ấy, Võ hoàng ra chế lệnh bỏ đi đế hiệu của mình, rồi cùng ngày băng hà tại điện Tiên Cư trong cung Thượng Dương. Vì trước khi qua đời bà đã chấp nhận bỏ đi đế hiệu, nên quần thần tôn thụy hiệu của bà là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng hậu. Qua các thời kỳ sau, vì nhiều lý do mà thụy hiệu của bà cũng thay đổi theo, cuối cùng trở thành Tắc Thiên Thuận Thánh Hoàng hậu. Sang năm 706, triều đình chính thức làm lễ hợp táng bà với Đường Cao Tông tại Càn lăng, vì trước lúc qua đời, bà đã kiên quyết như vậy, dù có nhiều quan lại phản đối do không muốn mở lăng, lại không hợp lễ. Thế nhưng cuối cùng Trung Tông cũng làm theo ý nguyện của mẹ mình, để bà được hợp táng cùng Cao Tông. Điều đặc biệt là bia mộ của bà không được ghi gì cả, chỉ là một tấm bia trống không, được gọi là “Vô tự bia”; ám chỉ rằng công tội của Võ Tắc Thiên, để đời sau phán xét.

Kết

Võ Tắc Thiên thực sự đúng là một trường hợp đặc biệt trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Bà không phải người phụ nữ đầu tiên và duy nhất nắm được quyền hành trong triều đình, thế nhưng để công khai xưng đế và cai trị thực tế như vậy, thì quả thực chưa có ai khác làm được. Thời kỳ cai trị của bà nhìn chung có thể coi là ổn định, có một số điểm tiến bộ trong bình đẳng giới, nhưng không kéo dài lâu. Tuy vậy, Võ Tắc Thiên cũng có những khuyết điểm đáng nói như dung túng cho những người cùng phe cánh với mình mà khiến triều đình bất ổn; việc ngoại trị cũng làm không tốt khiến vị thế nhà Chu bị suy giảm. Bà cũng được đánh giá là người nhẫn tâm, thậm chí là tàn độc khi sẵn sàng triệt hạ những ai chống đối, kể cả người thân ruột thịt. Dù vậy, bà cũng có những điểm đáng khen khi trọng dụng nhiều bậc trung thần tài năng và tin dùng họ, khiến sự thái bình phần nào được giữ nguyên mà không xảy ra loạn lạc diện rộng. Các sử gia thời Đường không chỉ trích bà quá nhiều, do các Hoàng đế sau này đều là con cháu trực hệ của Võ Tắc Thiên; tuy nhiên các sử gia thời sau do ảnh hưởng của Nho giáo nên công kích bà rất gay gắt, cơ hồ có phần hạ thấp. Tuy nhiên, nếu đánh giá một cách công bằng, Võ Tắc Thiên vẫn là một quân chủ có thực lực, có tài năng, và cũng có khuyết điểm như bao vị Hoàng đế khác. Và tất nhiên, việc bà là nữ giới mà có thể công khai xưng đế, cũng là một điều phải thán phục vì sự quyết tâm, mạnh mẽ của Võ Tắc Thiên trong một xã hội trọng nam khinh nữ như vậy.