CÁC PHẦN TRƯỚC



Những chiếc lá cây quái dị màu tím như có linh tính đang vồ lấy, quấn chặt vào tấm thân của một gã đàn ông gầy yếu đang đeo trên mình một chiếc túi to vượt quá đầu. Hễ chúng quấn đến đâu, da thịt của gã tội nghiệp kia đều như bị bỏng đỏ cả lên.
“KHÔNGGGG! BỎ TA RA!!”
Jonah lại một lần nữa dùng hết sức để phá tung vòng vây, dùng dao chặt đứt hết bao nhiêu có thể. Đuối sức, anh gục xuống, dù thở dốc vẫn cố lấy hơi.
“Khụ… khụ… Có ai nghe thấy tôi không? Tôi là Jonah Cooke. Tôi đang đến đây. Đội Truy Tìm có nghe thấy không? Mẹ kiếp! Trả lời tôi đi!”
Vừa nói, Jonah vừa vụt chạy… Anh chạy mãi, thoát khỏi những cành cây gớm ghiếc, thoát khỏi vùng núi hiểm trở bao bọc bởi những đám mây dẫn điện muôn màu huyền ảo… Nhưng trước mặt anh giờ đây lại là vực thẳm.
“Không. Coi nào… Phải có lối khác chứ…”
Tiếng nói vang vọng từ những bụi cây lại cất lên
“Không, không đâu anh Cooke. Không còn đường nào khác. Đó là một vực thẩm cao 500 bộ được bao bọc bởi một luồng mây tích điện đấy. Và bên dưới đám mây ấy là một thế giới đầy chết chóc.”
“Ta đã nghe được gì đó…”
“Đó chỉ là những âm vang vô nghĩa. Việc cần làm bây giờ, chính là quay về và trả lại thứ mà anh đã đánh cắp. Anh Cooke…”
Jonah đeo một chiếc mặt nạ phòng độc, miệng vẫn không ngừng lặp đi lặp lại.
“Trả lời đi, Đội Truy Tìm. Có ai đó không… Tôi là Jonah Cooke… Trả lời đi...”
Nếu phía dưới vực thẳm vẫn còn một con đường, ta vẫn phải tiếp tục tiến bước. Và Jonah đã tiến bước… Đã quăng mình xuống vực thẳm sâu và đắm mình vào đám mây quái gở.
Đó là một vực thẩm cao 500 bộ được bao bọc bởi một luồng mây tích điện đấy

CHƯƠNG II: BỘ PHỤC TRANG TIỄN BIỆT

Vào buổi sáng mà tôi nhận biết về phương thuốc chống lại cái chết, tôi đang chờ một cuộc gọi từ Athens, Georgia để bàn về một thứ mà tôi đã đánh cắp được.
Cuộc gọi này vốn đã được sắp đặt từ vài tuần trước- người ở đầu dây bên kia sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng là phi vụ của tôi đã thành công hay thất bại- và dĩ nhiên là tôi rất nóng lòng nhận được nó. Món đồ này vốn dĩ thuộc về một ca sĩ nhạc đồng quê quá cố lừng danh. Đã phải tốn rất nhiều công sức để lên kế hoạch, và mặc dù tôi có tự tin về khả năng thành công hay không thì vẫn có cơ may mọi tính toán sẽ đổ bể. Mọi thứ có thể sẽ chẳng còn ý nghĩa gì- Nghĩa là- Hoặc chẳng có cái gì sẽ được thực hiện, sẽ không gây hại cho ai, và tôi sẽ phải thử lại vào một dịp khác. Hoặc cũng có thể là mọi thứ sẽ tan thành mây khói, món đồ kia sẽ ở cùng với cảnh sát và một vụ án mới sẽ được điều tra kỹ càng.
Để chẳng phải nghĩ ngợi thêm về điều này, tôi quyết định thư giãn ngoài ban công cùng với người hàng xóm Bud Hunter. Bud ở căn hộ kế bên, và thi thoảng chúng tôi cùng nhau ngồi ở 2 ban công liên lại với nhau để nhấm nháp những “ly brandy cho tỉnh ngủ” theo lời Bud. Hôm đó là ngày 1 tháng 4, Cá Tháng Tư ấy, Tuy nhiên trước cái hôm quái quỷ đó thì tuyết đã rơi trắng xóa cả một vùng. Hôm đấy cũng là một ngày thứ Bảy, nhưng tôi chả có kế hoạch gì cho cuối tuần cả. Lúc ấy tôi cũng 39 tuổi rồi. Cuộc gọi tôi đang chờ sẽ đến trong khoảng 10 phút, tính từ lúc tôi ngồi cùng với Bud.
“Nói cậu nghe, đây là lần cuối cùng thời tiết sẽ còn thế này.” Bud vừa nói vừa vung tay hứng một giọt nước xuống từ những mảnh băng dính trên mái hiên vào ly Brandy. Ông ta đã vào khoảng độ tuổi thất thập cổ lai hy, tóc hói nặng, cặp mày nhô cao như sườn núi đã lấm tấm bạc. “Hành tinh này…rồi sẽ khác, khác hẳn so với lúc tôi nhìn thấy nó từ ngoài không gian.”
Bud đã từng là một phi hành gia- một phi hành gia thực thụ từ những năm 1970.
Ông ta đã từng tham gia hai chuyến bay, một chuyến bay đến trạm không gian Hoa Kỳ Skylab tồn tại không bao lâu vào năm 1973, nơi ông đã giúp phát hiện ra những lỗ nhật hoa trên mặt trời; và một chuyến bay khác vào năm 1975 đã gặp nạn suýt làm chết hết những người tham gia.
Đã có một tai nạn xảy ra vào ngày ông tham gia nhiệm vụ bay lần hai. Một bình khí oxy đã nổ, làm thoát khí và làm mô-đun chỉ huy bị mất kiểm soát, buộc các phi hành gia phải chui vào mô-đun dịch vụ và biến nó thành một chiếc bè cứu hộ khép kín.
Tai nạn đã khiến cho liên lạc với Trái Đất bị ngắt. Và trong khoảng vài giờ đồng hồ, những phi hành gia đúng nghĩa đen đã lạc vào vùng vô định.
Ba con người nhồi nhét vào trong một khoảng không chỉ to bằng một thang máy, trôi dạt vào trong vũ trụ mênh mông, không hề nhận thức được đích đến là gì.
Để về được Trái Đất, Bud và đội của mình đã phải làm lại đúng những thao tác nguy hiểm đã từng thực hiện trong chuyến Apollo 13- họ sẽ phải bay vòng qua phần tối của Mặt trăng để có thể lấy đà phóng về Trái Đất theo đúng quỹ đạo.
Họ đã làm được việc này trong bóng tối và không có liên lạc chỉ dẫn nào cả, bay đến vùng tối xa nhất của Mặt Trăng vào ngày 15 tháng 1 năm 1975. Nhiệm vụ của họ đã đưa con người đến khoảng cách xa nhất lịch sử loài người ngòai không gian- đến nay Bud và những đồng đội vẫn giữ kỷ lục là những người đi ra không gian xa nhất trên một con tàu có người lái.
“Tôi đã ở góc phía nam xa nhất của mô-đun.” Bud nói với tôi trong vài dịp, “Nghĩa là, tôi là người thật sự ở cách xa Trái Đất nhất thêm khoảng 5 bộ, khoảng cách xa nhất từng đạt được bởi một con người khi rời khỏi cục đất khổng lồ này.”
Có lần tôi hỏi rằng ông có sợ khi việc mất điện, mất liên lạc xảy ra không, khi 3 người bị nhốt trong một cái lồng thép và trôi vào chỗ chết.
Ông ta bảo rằng, việc nguy hiểm nhất chính là bọn họ bay vòng qua Mặt trăng quá nhanh, tạo đà quá mạnh có thể khiến cho họ bị lệch hướng và bay vào cái vùng đen tối âm u kia mãi mãi.
“Tất nhiên, bọn tôi sợ chứ.” Ông ta nói. “Tuy nhiên Tommy đã đùa rằng việc chúng tôi bay đi luôn có khi lại là điềm may. Chúng tôi sẽ tỉnh dậy sau vài ngàn năm, trên một hành tinh kỳ lạ nào đó với những cô em sinh vật lạ nóng bỏng với làn da xanh lục. Bọn tôi cứ bàn vào bàn ra việc đó, để không phải nghĩ đến nỗi sợ nữa.”
Hình ảnh về chuyến baycủa họ được lồng khung và đặt nghiêm chỉnh trên tủ bếp
Bud cũng thường tụ họp lại với những đồng đội vài lần trong năm. Họ là Tommy Gunnerson và Will Webb. Lẽ ra, bọn họ phải tụ lại với nhau vào cái ngày mà tôi đang kể đây, cái ngày mà tôi biết về phương thuốc chống lại cái chết. Trong căn hộ của Bud có đầy đồ ăn vặt và bia. Hình ảnh về chuyến bay của họ được lồng khung và đặt nghiêm chỉnh trên tủ bếp. Họ luôn mặc trên mình cái áo gió và đội mũ in logo NASA mỗi khi gặp mặt. Họ sẽ gọi tôi tham gia nữa- Họ thân thiện vậy đấy- Và chúng tôi sẽ uống đến say khướt và kể nhau câu chuyện về việc bọn họ bay qua khỏi vùng tối của Mặt Trăng và việc lẽ ra bọn họ đã có thể trở thành vua của một hành tinh đầy các cô em ngoài hành tinh gợi cảm kỳ lạ nào đó.
“Nghĩ mà xem.” Bud thường hay nói thế, vừa đứng lên giang rộng cả hai tay để tiện diễn tả. “Họ bao quanh chúng ta, cao đến tám thước và đều có làn da màu xanh.”
“Năm bộ ngực.” Tommy vừa cười, vừa ho mà thều thào qua ống thở oxy của ông.
Trong căn hộ của tôi là ba chiếc mũ bảo hiểm thuộc bộ đồng phục không gian mà Bud và đồng đội đã mặc trong nhiệm vụ thất bại của họ. Tôi có được nó vài tuần trước nhờ đến một bảo tàng triển lãm ở gần khu vực bệ phóng cũ- Trộm chúng thì đúng hơn- Và tôi đã mong sẽ trao lại những vật này cho các khổ chủ kể từ lần tụ hội cuối cùng của họ. Lẽ ra tôi đã muốn cho Bud xem trước, và an ủi rằng mũ của ông ta là còn nguyên vẹn nhất trong tất cả, nhưng tôi lại quyết định đợi. Ông ta cũng biết tôi từng là một tay đạo chích bán thời gian, và ông ta có thể sẽ không thích điều này chút nào. Có bạn ông ở đấy, trong lúc say xỉn và vui vẻ, có thể ông sẽ vui lòng tái hợp với chiếc mũ này hơn.

Tôi xem đồng hồ.
 Lẽ ra giờ này phải có điện thoại rồi chứ.

Nhiều người khi nghe nói đến những tay đạo chích sẽ tưởng tượng ra đủ kiểu phiêu lưu thú vị.
Một kẻ mặc đồ đen kín mít đu dây từ trên trần nhà xuống như nhện vượt qua những lằn laser an ninh. Hoặc một gã nào đấy đi trên một chiếc ca-nô tay cầm những ly champagne ăn mừng dưới ánh trăng lãng mạn trong khi lũ cảnh sát tức tối chửi bới và đạp đổ. Vào đầu thế kỷ XXI, thì làm trộm chẳng phải vì danh vọng hay thú phiêu lưu thôi đâu. Ước gì nó đã có thể chỉ có như vậy. Ước gì đã có những lời thì thầm bàn bạc tại một quán bên sông ở Ý, hay là một bản kế hoạch được treo trên tường của một gian nhà gỗ bí mật.
Nhưng việc trộm cắp trước khi có phương thuốc- trước Năm A.D. thứ nhất- chẳng có gì thi vị cả. Chỉ là những kẻ bình thường ngồi trước một màn hình máy tính bình thường; đầy màn hình là những tờ giấy dán và trên bàn là những ly cà phê nguội lạnh. Bởi việc trộm cắp khi ấy toàn là lý thuyết, những bàn luận logic và phân tích hệ thống. Đa số chúng diễn ra tại một forum gọi là những “Bàn làm việc”
Những phòng chat TOR/Torch bí mật xuất hiện rồi biến mất trong vài phút, chỉ còn là những dòng mã lệnh.
Trong những forum này, “Chủ bàn” sẽ đăng lên một vấn đề nào đó cho các tất cả các thành viên cùng thảo luận, và họ sẽ thi nhau giải quyết vấn đề, đôi khi cho vui, đôi khi là làm thật. Nếu bạn ra kế hoạch giả thuyết cho vụ trộm, bạn sẽ được gọi là “Bánh mì”- bạn sẽ chỉ nói qua loa cho vui, chẳng có vấn đề gì... Còn nếu bạn thật sự thực hiện phi vụ đó, bạn sẽ là “Miếng thịt”, bởi vì bạn có đầu tư và được chia phần. (“Steak” chơi chữ với “Stake”)
Ví dụ, Chủ bàn đăng: Con ngựa đua thuần chủng “ A Touch of Glass, Just a Touch Tho” (Giá trị không tiết lộ). Hiện ở Miami, Trại ngựa Dream Breed. Sẽ được chuyển đến Hawaii, cảng Kawanee vào ngày 19 tháng 4 năm nay.
Điều mà H.O.T (Chủ bàn, Head of tables) ám chỉ là: Bạn có thể đánh cắp một con ngựa đua ở Miami và đem nó đến Hawaii vào thời gian đưa ra hay không?
Hay Chủ bàn đăng: “Chuột đã bất tỉnh” MUS Surditatem. Phòng thí nghiệm Prevaris, thành phố Salt Lake. Hợp tác. Trộm và hủy theo ngày bên dưới.
Phi vụ Bánh mì/Miếng thịt ở đây một con chuột bị gián đoạn chuỗi gien tại một phòng thí nghiệm, và Chủ bàn muốn nó được đem đi và giết chết trong ngày mai.
Chỉ là những kẻ bình thường ngồi trước một màn hình máy tính bình thường; đầy màn hình là những tờ giấy dán và trên bàn là những ly cà phê nguội lạnh
Tôi chưa bao giờ muốn đời mình sẽ thế này, trở thành một tên đạo chích.
Sau khi mẹ tôi qua đời, tôi học hết trung học rồi vào một trường cao đẳng cộng đồng gần nhà để dễ bề chăm sóc cha. Tôi học ngành dược. Cơ thể mẹ tôi khi suy yếu trông thật kinh khủng, khi từng bộ phận cứ như rời rạc hẳn ra, hệt như một món đồ chơi lò xo đã bị giãn và rời ra, đã vậy khi ấy bà lại còn mang trong mình một đứa bé. Học dược ban đầu xem ra là một lựa chọn đúng đắn. Tôi sẽ có thể tìm ra thuốc chữa cho căn bệnh của bà. Tôi sẽ có thể đẩy lùi tác động của nó lại một chút… Có thể là một inch… Hay là một phần nhỏ tí của một inch…
Đến học kỳ thứ hai thì tôi đã tụt lại phía sau. Tôi không thể nào tập trung được. Không thể tập trung vào môn hữu cơ hay dược sinh học. Nó cứ như việc tôi chẳng thể nào hiểu được một cái bản đồ hay chỉ dẫn về một đất nước mà tôi không hề muốn đặt chân đến, và rồi dần dần tôi đã trượt dài. Tôi hay đến thăm cha tôi đã chuyển đến một căn hộ cũng gần nhà cũ. Chúng tôi bàn chính trị, ông suốt ngày kêu ca về việc mọi thứ cứ ảm đạm hơn đến mức ông chỉ muốn từ bỏ tất cả, và nào là bọn trẻ trong lớp ông không hăng hái tham gia các hoạt động. Tôi cũng hẹn hò, có vài cô bạn gái nhưng chẳng đến đâu.
Làn nước đen quái ác vẫn cứ luôn… ở đấy. Mọi thứ với tôi như trở nên trong suốt. Có thể khi ấy tôi đang ở bên cạnh một người nào đó tôi rất thích, cùng nhau ngồi trên ghế bành xem một chương trình ngớ ngẩn nào đấy, cô ấy sẽ áp đầu vào ngực tôi và tôi sẽ hôn khẽ vào trán cô ấy. Lẽ ra tôi phải thấy hạnh phúc, nhưng nó sẽ hiện diện và chiếm lấy tôi, cái cảm giác rợn người ấy. Và tôi sẽ nhìn xuống mà không nhìn thấy người con gái tôi yêu mến, mà chỉ là một vật thể có tóc, có da đầu, có máu có xương và những liên kết điện- hàng loạt những tế bào và cơ chế sinh học. Mà tôi thì cũng chẳng khác biệt gì hơn, cũng có những thứ như vậy ở đầu mũi, chân và các đầu ngón tay. Một pha điện giật có thể sẽ thay đổi tôi. Một con dao cắm vào mắt cũng sẽ giúp thay đổi tôi. Có thứ gì đó bên trong đã không còn hoạt động. Có thứ gì đó có thể đã rời rạc ở bên trong và, bùm, tôi té ngã, và chỉ vài giây sau nhịp tim của tôi sẽ tăng lên, mồ hôi sẽ toát ra ướt sũng và tôi sẽ nghiến chặt răng lại, và tôi sẽ tự nhủ cơ thể mình là một khối, không phải chỉ ghép lại từ từng phần, nhưng tôi cảm thấy mình như đang thuộc về những phần nhỏ ấy, như một sinh vật nhỏ nhoi đang di chuyển trong một cỗ máy cơ thể người hỏng hóc, và chỉ có thể nhìn được thế giới bên ngoài thông qua đôi mắt.
Nhiều đêm, tôi lại xách xe đi đến những khu nhà mà mẹ vẫn thường dẫn tôi đi ngày ấy- những căn biệt thự trên mặt nước. Một số căn đã bị đập đi và xây lại, một số căn đã được dời đi sâu hơn vào trong đất liền. Mực nước biển nơi đây cũng đã rút xa hơn, có những đêm tôi thấy được khoảng hai hoặc ba xác tàu xe từng được sử dụng làm bờ bao xưa kia xuất hiện mập mờ trong những cơn sóng. Thỉnh thoảng, tôi sẽ lại vào trong những căn nhà ấy, đi dạo một vòng, thậm chí cả mở tủ lạnh xem có gì.
Căn nhà Quả Trứng cũng không thay đổi mấy. Bây giờ nó có thêm một hồ bơi ở dưới hầm, có một vệt nước nhỏ đã cắt xuyên qua những khuôn bằng đá hoa cương, nhưng nhìn chung thì căn nhà vẫn y như nhiều năm trước. Lão người Nga vẫn còn đấy, và vẫn sinh hoạt đều đặn như xưa.
Ở lần thứ hai hoặc thứ ba gì đó thì tôi đã nghĩ đến việc trộm đồ từ trong căn nhà quả trứng.
Tôi đã tự nhủ mình rằng việc mình lấy chúng đi là để nhớ về những điều tốt đẹp hơn, cất giữ chúng như kỷ vật. Nhưng thật sự thì chính bản thân tôi khi ấy còn biết tôi làm vậy vì một lí do khác.
Ban đầu chỉ là những vật nhỏ.
Một hộp đựng vỏ sò trong nhà tắm.
Một ly rượu màu nâu ở quầy bar.
Phải mất một thời gian thì tôi mới đủ dũng khí để đánh cắp bức “Vùng đất sữa và mật ong.”