Có một số dân tộc nổi tiếng với những trường phái triết học của riêng mình. Chẳng hạn như: Hy Lạp, Trung Hoa, Ấn Độ… Dân tộc ta không phải một trong số đó.
Cha ông ta giỏi nhiều thứ: đoàn kết dân tộc, tinh thần chống ngoại xâm, tính tình chịu thương chịu khó,… triết học không phải một trong số đó.
Nói như vậy không có nghĩa là dân tộc Việt Nam không biết gì về triết học. Suy cho cùng, triết học là rút ra những quy luật. Triết học trả lời cho những câu hỏi về thế giới và về con người. Xuyên suốt lịch sử dân tộc, ông cha ta, và sau này là chúng ta, đã dần dần tìm ra những câu trả lời cho các vấn đề triết học.
Tri thức triết học là sự tổng hợp của các trường phái đi trước. Trên cơ sở đó, chúng ta phản biện và phát triển lý luận lên một tầm cao hơn. Vì vậy, khi nghiên cứu triết học Marx – Lenin ở Việt Nam, bạn nên biết về những hệ thống tư tưởng đã xuất hiện trước nó. Bởi chúng có thể ảnh hưởng đến cách thực hành triết học Marx – Lenin.
Bài viết này sẽ tóm tắt một số tư tưởng triết học ảnh hưởng đến xã hội và tư duy của dân tộc Việt Nam. Những kiến thức tôi thu thập được có thể có thiếu sót. Tôi hi vọng được bạn đọc lắng nghe và đóng góp thêm để chủ đề trao đổi của chúng ta được hoàn thiện.

Triết học dân gian

Tôi xin nhắc lại. Bạn đừng nghĩ dân tộc ta không biết gì về triết học. Ngay từ thuở sơ khai, cha ông ta đã có lý giải cho một số vấn đề. Chúng ta có sự nhìn nhận riêng về nguồn gốc của vũ trụ và con người. Điều này được thể hiện qua các tác phẩm văn học dân gian như ca dao, thần thoại, truyền thuyết… Nhiều lý giải tuy hoang đường, hư ảo, nhưng nó cho thấy ông cha ta đã có những tư duy về thế giới xung quanh.
Lớp 6 bạn đã học truyện này. Tức là bạn đã học Triết học từ lớp 6.
Lớp 6 bạn đã học truyện này. Tức là bạn đã học Triết học từ lớp 6.
“Con rồng cháu tiên” là câu chuyện phản ánh tương đối nhiều tư tưởng triết học của cha ông xưa. Cụ thể như sau:
Về nguồn gốc dân tộc: cha ông ta tự hào là những con người sinh ra từ dòng dõi của những sinh vật linh thiêng. Đây là biểu hiện của lòng tự tôn dân tộc. Tương tự chúng ta, nhiều dân tộc khác cũng đặt mình ở vị trí cao, là những đứa con trực tiếp của thần thánh. Ví dụ: người Bắc Âu là sự sáng tạo của ba vị thần Odin, Vili và Ve; người Ai Cập sinh ra từ nước mắt của Atum; người Trung Hoa là do Nữ Oa nặn ra từ đất…
Về đoàn kết cộng đồng dân tộc: Âu Cơ sinh ra 100 người con khác nhau. Tuy nhiên, tất cả đều thuộc về cùng một cộng đồng. Lời của Lạc Long Quân khi chia tay: “Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn” cũng cho thấy tinh thần đoàn kết dân tộc, dù là người sống trên núi hay dưới biển.
Về toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc: điều này cũng thể hiện qua câu vừa rồi của Lạc Long Quân. Toàn bộ núi non, biển cả của Âu Cơ và Lạc Long Quân đều là lãnh thổ mà con cháu của họ làm chủ và phải cùng nhau giữ gìn.
Một câu chuyện khác là “Thần Trụ Trời” mang tư tưởng triết học về nguồn gốc của thế giới. Cụ thể, vạn vật là do ông Trời sinh ra. Núi non, sông, biển, cỏ cây, muông thú đều là sản phẩm của Thần Trụ Trời.
Còn truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh” lý giải về nguồn gốc của thiên tai (do Thủy Tinh cay cú và hình như càng ngày càng mạnh). Đồng thời, câu chuyện phản ánh thái độ chống bão lũ của dân tộc. Ông cha ta muốn chế ngự thiên tai để bảo vệ cho mùa màng, cho nghề trồng lúa nước lâu đời.
Ông cha ta cũng có tư tưởng đạo đức “ở hiền gặp lành” thể hiện qua nhiều truyện cổ tích. Những người sống thật thà, nhân hậu như Tấm hay Thạch Sanh sẽ được các thế lực giúp đỡ. Ngược lại, sống lỗi như mẹ con Cám hay Lý Thông thì bị trừng phạt. Nhẹ thì bị sét đánh. Còn nặng thì như mẹ con Cám (tôi quá sợ để viết ra).
Truyện này mà đăng hết lên Facebook thì thế nào cũng dính tiêu chuẩn cộng đồng.
Truyện này mà đăng hết lên Facebook thì thế nào cũng dính tiêu chuẩn cộng đồng.
Về cơ bản, những câu chuyện này đã trả lời cho các vấn đề triết học về nguồn gốc của vũ trụ, của thế giới xung quanh, của con người, về sự gắn bó trong cộng đồng, về thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và về đạo đức. Còn nhiều tư tưởng khác mà tôi chưa liệt kê ra. Nhưng điểm chung của những câu chuyện này là tính duy tâm. Con người ở thời điểm này chưa đủ khả năng quan sát và rút ra những quy luật khách quan về thế giới. Vì vậy, họ nghĩ ra các giả thuyết liên quan đến thần linh, truyền miệng cho nhau và ít nhiều tin vào chúng.
Tuy vậy, ông cha ta không phải là hoàn toàn duy tâm hay hoang đường. Vẫn có những tư tưởng duy vật được thể hiện qua các câu ca dao như:
Hòn đất mà biết nói năng Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn.
Câu ca dao này chỉ ra hòn đất không biết nói, cho nên không thể vạch trần những ông thầy địa lý đang thổi phồng về giá trị của nó. Trên cơ sở đó, ông cha ta phê phán thói bốc phét của cò đất.
Hay:
Số cô chẳng giàu thì nghèo, Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà. Số cô có mẹ, có cha, Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ, có chồng, Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
Câu ca dao này lại phê phán thói mê tín dị đoan và châm biếm những người lợi dụng lòng tin của người khác để lừa gạt.
Điều này trở nên rõ ràng hơn khi các tư tưởng triết học từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam.
Âm – Dương, Ngũ hành
Âm – Dương và ngũ hành là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của triết học Trung Hoa khi quan sát sự vận động của vũ trụ. Hai học thuyết này mang tính duy vật.  Chúng nhìn nhận vũ trụ là tập hợp của các sự vật gắn bó hữu cơ với nhau.
Một số người cho rằng Âm – Dương và Ngũ hành là mê tín. Tuy nhiên, đây là hai học thuyết triết học tiến bộ so với thời đại của chúng. Bởi lẽ chúng giải phóng con người khỏi sự khống chế về tư tưởng của Thượng đế và quỷ thần truyền thống.
Trước tiên, hãy nói về Âm – Dương. Dương là ánh sáng, mặt trời. Dương biểu thị cho giống đực, hoạt động, hơi nóng, rắn rỏi… Âm là bóng tối, thiếu sáng. Âm biểu thị cho giống cái, thụ động, hơi lạnh, mềm mỏng…
Theo học thuyết này, Thái cực sinh ra vũ trụ. Thái cực có biểu tượng là một vòng tròn khép kín chứa Âm và Dương. Chúng vừa đối lập, vừa tương tác với nhau, hợp thành một chỉnh thể.
Thái cực đồ.
Thái cực đồ.
Trong vòng tròn này, chỗ hình trắng phồng ra có một điểm đen. Chỗ hình đen phồng ra lại có một điểm trắng. Hình đen phồng ra thì hình trắng thu lại. Hình trắng phồng ra thì hình đen thu lại. Đây chính là sự diễn tả của Âm thịnh Dương suy – Dương thịnh Âm suy. Khi Dương cực thịnh thì có một mầm Âm. Âm cực thịnh thì có một mầm Dương. Trong Dương có Âm, trong Âm có Dương.
Tiếp đến là Ngũ hành. Tư tưởng Ngũ hành giải thích sự sinh trưởng của sự vật trong vũ trụ. Những vật giống nhau thì không thể kết hợp thành vật mới. Chỉ có những vật khác nhau tương tác thì mới sinh ra vật mới.
“Ngũ” là năm, “hành” là “hoạt động”. Vậy Ngũ hành là năm hoạt động tương tác lẫn nhau. Năm nguyên tố đó là: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Những nguyên tố này có tính chất cụ thể là:
Kim: màu trắng, vị cay, mùa thu, phía Tây… Mộc: màu xanh, vị chua, mùa xuân, phía Đông… Thủy: màu đen, vị mặn, mùa đông, phía Bắc… Hỏa: màu đỏ, vị đắng, mùa hạ, phía Nam… Thổ: màu vàng, vị ngọt, mùa cuối hạ, trung tâm…
Ngũ hành tương sinh, tương khắc.
Ngũ hành tương sinh, tương khắc.
Cần hiểu rõ, những nguyên tố này không phải là vật chất cụ thể trong tên gọi của chúng. Mộc không phải là một cái cây cụ thể. Mà là nhiều vật chất khác mang tính chất của Mộc thì sẽ có tính Mộc.
Ví dụ, trong mùa xuân, vạn vật sinh sôi nảy nở. Mùa xuân là biểu trưng của sức sống. Vì vậy, nó mang tính Mộc – đại diện cho sự sinh trưởng và phát triển.
Vật chất thuộc 5 nguyên tố tương tác với nhau để hình thành nên vũ trụ. Tùy thuộc vào tính chất, chúng có thể tương sinh hoặc tương khắc với nhau. Hệ thống sinh – khắc hoạt động dựa trên hai nguyên lý sau:
Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ.
Tương khắc (ức chế lẫn nhau): Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ.
Âm – Dương và Ngũ hành khởi đầu là tư tưởng mang tính duy vật. Nhưng sau này, các nhà thống trị phong kiến Trung Hoa đã phát triển Âm – Dương và Ngũ hành thành những học thuyết thần học.
Tại Việt Nam, Âm – Dương và Ngũ hành thường được đồng nhất và xem như một học thuyết duy tâm. Chẳng hạn như trong xem mệnh. Người sinh năm nào thì thuộc mệnh ấy. Người thuộc mệnh nào thì lại có tính cách đặc trưng gắn liền với mệnh. Việc xét đoán tính cách và cuộc đời dựa trên mệnh chỉ dựa vào niềm tin tâm linh của cộng đồng, chứ không có bằng chứng khoa học rõ ràng. Ví dụ, người mệnh Mộc nhanh nhẹn, tư duy mạch lạc, đầu óc nhạy cảm, người mệnh Hỏa thì cởi mở, ấm áp, hướng ngoại, nhiệt tình.
Trong một số lĩnh vực thì Âm – Dương và Ngũ hành lại là duy vật. Chẳng hạn như y học cổ truyền. Trong đó, sức khỏe con người là trạng thái cân bằng giữa Âm và Dương. Mất đi sự cân bằng sẽ dẫn đến bệnh tật. Vì vậy, việc chữa bệnh trong y học cổ truyền là dựa vào tính chất của bệnh và tình trạng của cơ thể mà tìm cách cân bằng Âm – Dương.
Nho giáo
Nho giáo (hay Nho gia, Khổng giáo) được sáng lập bởi Khổng Tử vào khoảng thế kỷ VI TCN tại Trung Hoa. Những tư tưởng nổi bật của Nho giáo là về đạo đức và xã hội. Bên cạnh đó, cũng có những tư tưởng về vũ trụ và thế giới tự nhiên, dù không mang tính chủ đạo. Vũ trụ trong Nho giáo cũng chỉ là nền tảng cho tư tưởng về xã hội.
Nho giáo đề cập đến “thiên mệnh” hay “mệnh trời”. Khổng Tử tin vào một vũ trụ màu nhiệm và biến hóa không ngừng mà “trời” làm chủ. Con người không thể cưỡng lại “mệnh trời”. Nhưng không vì vậy mà con người cứ nhắm mắt mặc cho ý trời. Con người vẫn cần nỗ lực trong việc mình làm. Chỉ khi có kết quả thành công hay thất bại thì mới là do “mệnh trời”.
Đạo đức là lĩnh vực được Nho giáo bàn luận nhiều nhất. Trong đó, phẩm chất mang tính quyết định nhất là “nhân nghĩa”. “Nhân” là thương người, “nghĩa” là lòng thủy chung. Mọi phẩm chất khác đều từ nhân nghĩa mà ra. Chỉ khi thực lòng thương người khác, người ta mới làm tròn nghĩa vụ của mình.
Tính cách và địa vị con người là do “mệnh trời” quy định. Nghĩa vụ của mỗi người phải phù hợp với mệnh trời. Con người thực hiện nghĩa vụ chỉ vì họ phải thực hiện nghĩa vụ thì được coi là hợp nghĩa. Nếu vì lý do khác thì không phải là làm tròn bổn phận.
Ví dụ: nghĩa vụ của một người thầy là giáo huấn học trò. Người thầy phải dạy học trò vì đó là việc đúng phải làm. Không thể phân biệt đối xử bằng cách kèm cặp học trò giàu và ngó lơ học trò nghèo. Động lực của người thầy ở đây là lòng thương học trò.
Một ví dụ khác: nghĩa vụ của người con là luôn tôn kính cha. Không phải là nếu cha chăm chỉ làm lụng thì tôn kính nhiều. Còn cha lười biếng, hay say xỉn, đánh đập vợ con thì bất kính. Cho dù người cha thế nào, con cái phải làm tròn bổn phận tôn kính cha thì mới là hợp nghĩa, hợp “mệnh trời”.
Kinh điển nho gia đề cập đến “luân thường”. Trong đó, “ngũ luân” là 5 quan hệ lớn, bao gồm: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em (hoặc trưởng - ấu) và bầu bạn. Từ những quan hệ ấy sinh ra 11 đức lớn: vua nhân – tôi trung, cha từ - con hiếu, trưởng có ân - ấu ngoan ngoãn, chồng có nghĩa – vợ vâng lời, anh lành – em đễ, với bạn hữu thì phải có đức tín.
Còn “ngũ thường” là 5 đức lớn, bao gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đây là những đức tính mà con người phải thường xuyên trau dồi.
The man, the myth, the mysogyny.
The man, the myth, the mysogyny.
Một nét nổi bật khác trong tư tưởng Nho giáo là thuyết “chính danh”. Thuyết này nghĩa là mọi vật phải phù hợp với cái danh nó mang. Quay lại hai ví dụ trên: người thầy phải đức độ, thông thái, thương học trò thì mới là thầy. Người cha phải nghiêm khắc, thương con cái, chăm chỉ lao động để nuôi gia đình thì mới là cha. Không thương học trò thì không phải thầy. Không thương con thì không phải cha.
Bên cạnh đó là thuyết “lễ trị”. “Lễ” hiểu theo nghĩa rộng là những kỷ cương trong xã hội và sự thực hành đúng những kỷ cương đó. Lễ đảm bảo trật tự xã hội luôn có tổ chức, có trên có dưới, không xáo trộn. Lễ trị đưa tất cả hoạt động vào nền nếp, ngăn chặn những hành vi và tình cảm cá nhân thái quá.
Tuy nhiên, “lễ” có một nhược điểm chí mạng. Trong Nho giáo, đông đảo nông dân, phụ nữ, trẻ em là đối tượng dễ sai khiến. Vì vậy, quy định về lễ trở nên rườm rà, cay nghiệt và làm họ mất đi nhiều về phẩm chất con người. Lễ trị cũng ngăn ngừa tinh thần đấu tranh của những người thuộc tầng lớp dưới.
Tư tưởng của Khổng Tử về cơ bản là duy tâm. Sau khi ông mất, một học trò của ông là Mạnh Tử đã phát triển hệ thống triết học duy tâm đó. Ông chính là người đề ra thuyết “tính thiện”.
Mạnh Tử cũng cho rằng “thiên mệnh” quyết định vận mệnh con người. Nhưng nếu Khổng Tử chủ trương con người không thể hiểu mà chỉ cần tin vào “thiên mệnh”, thì Mạnh Tử chủ trương con người có thể nhận thức được thế giới thông qua rèn luyện đạo đức.
Trái với Mạnh Tử, một học trò khác của Nho gia là Tuân Tử thì cho rằng con người có “tính ác”. Nhưng ông coi trọng vai trò của con người hơn. Ông tin rằng thế giới có quy luật vận động của riêng nó, không hoàn toàn phụ thuộc vào ý trời. Và vì vậy, sức người có thể thắng được “mệnh trời”. Tư tưởng của ông thuộc chủ nghĩa duy vật thô sơ.
Nho Giáo là quốc giáo của Việt Nam trong thời gian dài do phù hợp với xã hội Việt Nam xưa. Dân tộc ta có tính cộng đồng, đề cao sự gắn bó trong tập thể, mà tập thể gần gũi nhất là gia đình. Điều này phù hợp với tư tưởng Nho giáo cũng đề cao mối quan hệ gia đình, đề cao lòng hiếu thảo, hướng đến duy trì tôn ti trật tự trong gia đình và xã hội.
Tư tưởng “nhân nghĩa” trong Nho giáo cũng phù hợp với đạo đức truyền thống “Thương người như thể thương thân” của dân tộc.
Nhưng tư tưởng hạ thấp phụ nữ của Nho giáo thì lại mâu thuẫn với tư tưởng dân gian. Xưa kia, ông cha ta có câu ca dao:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
Nữ quyền (và nữ nghĩa vụ) dân gian.
Nữ quyền (và nữ nghĩa vụ) dân gian.
Như vậy, phụ nữ cũng là chủ thể làm kinh tế, chứ không quanh quẩn trong xó bếp và chịu thói gia trưởng của đàn ông như nhiều người nghĩ.
Tôi cho rằng chủ đề ghét phụ nữ trong Nho giáo và đề cao tính nữ trong văn hóa truyền thống Việt Nam là một chủ đề hay, xứng đáng có một bài viết riêng sau này.
Nội hàm của Nho giáo rất dài. Ở đây, tôi chỉ tóm lược những điểm tôi cho là có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến dân tộc. Nhìn chung, hệ tư tưởng này có rất nhiều điểm nhân văn. Chúng ta nên chắt lọc ra những điều tốt để học tập. Còn những điều không phù hợp như coi thường vai trò của phụ nữ và người lao động chân tay thì chúng ta phê phán và loại bỏ.
Phật giáo
Phật giáo (hay đạo Phật) được sáng lập bởi Thích ca Mâu ni vào thế kỷ VI TCN tại Ấn Độ. Hệ thống tư tưởng trong Phật giáo đề cập đến nhiều vấn đề triết học. Trong đó bao gồm nguồn gốc và quy luật của vũ trụ và vai trò của con người.
Tư tưởng bao trùm của Phật giáo là tính “không”. Đây là một khái niệm trừu tượng vô cùng. Tôi chưa đủ trình độ để giải thích cho bạn về nội hàm của tính không. Vì vậy, mong bạn thông cảm và tự tìm hiểu. Tại đây, tôi chỉ xin phép đề cập đến những khái niệm mà tôi cảm thấy dễ hiểu hơn.
Giải thích về vũ trụ, Phật giáo cho rằng không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên hình thành ra nó. Cũng không có Thượng đế nào sáng tạo ra vũ trụ. Bởi lẽ bản thân vũ trụ và mọi sự vật bên trong nó đều vận động theo nhân – quả. Nhân – quả là một chuỗi liên tục, không bị gián đoạn, nhân nào quả ấy. Nguyên nhân sinh ra kết quả. Kết quả lại trở thành nguyên nhân và sinh ra một kết quả khác.
Vai trò của các thực thể là thoát khỏi “luân hồi”. Thuyết luân hồi là sau khi chúng ta sống hết một kiếp, chúng ta sẽ trở lại một kiếp sống khác. Điều này là do chúng ta vẫn còn tham, sân, si và gây nghiệp. Vì vậy, luân hồi là để nhận quả báo.
Sáu cõi (không phải trong hình).
Sáu cõi (không phải trong hình).
Vậy “nghiệp” là gì? Nói đơn giản, mọi điều chúng ta nghĩ, nói và làm một cách có mục đích đều là “nghiệp”. Căn nguyên của nghiệp là “tác ý” hay đơn giản là ý chí khi nghĩ, nói hoặc làm (tạo nghiệp). Nghiệp chỉ có thể sinh ra khi chủ thể của nghiệp hoàn toàn nhận thức được về động lực của hành động và hoàn thành hành động đó.
Kết quả của hành động sẽ sinh ra “quả báo”. Vì quả báo là kết quả của nghiệp, nên tốt xấu tùy thuộc vào nghiệp. Áp dụng luật nhân quả, nếu ý định tốt thúc đẩy hành động tốt thì sẽ sinh ra quả tốt. Ngược lại, động cơ xấu, hành vi xấu thì quả báo xấu. Bản thân người tạo nghiệp sẽ nhận được quả báo đúng với hành động của mình.
Như đã nói, chừng nào chúng ta vẫn còn tạo nghiệp thì vẫn sẽ còn ở trong luân hồi, gồm 6 cõi. Cụ thể là: cõi Trời, cõi Tu-la, cõi Người, cõi Súc sinh, cõi Ngạ quỷ và cõi Địa ngục. Khi kết thúc kiếp sống ở một cõi, thực thể sẽ chuyển sinh sang cõi khác. Riêng những thực thể đã giải thoát và nhập Niết bàn thì không còn luân hồi sau khi qua đời.
Sự chuyển sinh giữa các kiếp sống cũng không phải là một linh hồn bất tử nhảy từ thân xác này sang thân xác khác. Thay vào đó, ý thức của con người được hình thành bởi tâm thức. Tâm thức lại được quyết định bởi nghiệp mà một chủ thể đã tạo nên trong những kiếp sống trước.
(Ngoài lề một chút. Tôi tham khảo trên Reddit, Quora và Wikipedia thì họ bảo, nếu người ngoài hành tinh tồn tại, họ cũng sẽ rơi vào một trong sáu cõi này
Ngoài lề tiếp. Tôi nghĩ vi khuẩn và virus không thuộc cõi nào. Vì chúng vô tri, giống cái cây. Chúng không có tác ý nên không tạo nghiệp.)
Niết Bàn (không phải trong hình. Niết Bàn cũng không yêu cầu bạn kể tên 3 bài hát để đạt tới).
Niết Bàn (không phải trong hình. Niết Bàn cũng không yêu cầu bạn kể tên 3 bài hát để đạt tới).
Đặc tính chung của mọi vật chất là “vô thường”. Nghĩa là mọi thứ đều thay đổi. Vô thường là tính chất cơ bản của vũ trụ và là động lực của sự tồn tại. Vạn vật đều biến đổi theo chu trình bất tận: sinh – trụ - dị - diệt (sinh ra – tồn tại – biến đổi – kết thúc). Hiểu được vô thường giúp con người dễ buông bỏ sự gắn bó với những gì tạm thời.
Phật giáo quan niệm con người là “vô ngã”. “Vô” là không, “ngã” là cái tôi hay chính là linh hồn bất tử. Vô ngã đơn giản là chẳng có cái tôi nào bên trong tâm trí của bạn cả. Con người tồn tại là do “ngũ uẩn” hội tụ. Ngũ uẩn bao gồm: sắc (thân thể), thọ (cảm giác), tưởng (nhận thức), hành (tư duy) và thức (ý thức). Hiểu được vô ngã giúp con người buông bỏ sự gắn bó với bản ngã, từ đó giảm bớt khổ đau. Khi không còn chấp niệm về cái tôi, chúng ta dễ dàng đạt Niết bàn hơn.
Một khái niệm quan trọng khác là “khổ”. Khổ trong Phật giáo không chỉ là đau khổ hay khổ sở. Nó rộng hơn thế rất nhiều và rất khó định nghĩa. Nhưng theo tôi hiểu, khổ là khái niệm bao hàm mọi hiện tượng về vật chất và ý thức, xuất phát từ ngũ uẩn và do vô thường gây nên. Ví dụ: bị ngã đau là một loại khổ về thân thể. Niềm vui khi chiến thắng một cuộc thi cũng là một loại khổ, vì niềm vui sẽ biến mất. Thậm chí sinh ra đã là khổ, vì cuộc đời có bắt đầu thì cũng có kết thúc. Tựu trung, khổ là bản chất của sự tồn tại. Hiểu về khổ giúp con người thấy rõ hơn về thực tại và đến với con đường giải thoát.
Việc thực hành Phật giáo ở Việt Nam có khá nhiều khác biệt so với Phật giáo nguyên thủy. Phật giáo vốn dĩ mang tính đường lối tu tập nhiều hơn tôn giáo. Nhưng tôi nghĩ do có nhiều thuật ngữ trừu tượng và vi diệu nên nhiều người thần thánh hóa, coi Phật là vị thần ban phước và cứu độ chúng sinh.
Ngoài ra, đạo Phật có tư tưởng về “Tâm từ”, nghĩa là lòng từ bi, thương người, quan tâm đến người khác. Điều này cũng tương đồng với truyền thống “Thương người như thể thương thân” của dân tộc. Và vì vậy, Phật giáo Việt Nam mang đậm tính chất cộng đồng với lời cầu nguyện “Quốc thái dân an”. Tâm từ là tư tưởng chính của Phật giáo Việt Nam, khác biệt với tư tưởng giải thoát của Phật giáo nguyên thủy.
Nhân vật trong hình dẫn bạn tới con đường giải thoát, chứ không cho bạn 3 tầng hay 4 bánh.
Nhân vật trong hình dẫn bạn tới con đường giải thoát, chứ không cho bạn 3 tầng hay 4 bánh.
Đây là một chủ đề thú vị. Sau này tôi sẽ có một bài viết về chủ đề này và so sánh thực hành Phật giáo với thực hành triết học Marx – Lenin. Tôi nghĩ hai trường phái này tuy khác biệt nhưng có rất nhiều điểm chung. Hi vọng bạn cũng thấy hứng thú giống tôi.
Còn nhiều vấn đề quan trọng khác như tứ diệu đế, bát chính đạo, tam học… Để nói về Phật giáo thì rất dài. Nhưng tôi cố gắng trình bày một số điểm nổi bật của Phật giáo như trên để bạn hình dung được ảnh hưởng của tư tưởng này đến dân tộc.
Đạo giáo
Đạo giáo (hay Đạo gia, Lão giáo) được Lão Tử sáng lập. Đạo giáo đã xuất hiện từ rất lâu tại Trung Quốc. Học thuyết này có nhiều tư tưởng hay về vũ trụ, tự nhiên và xã hội. Đạo giáo không được nhắc đến nhiều như Khổng giáo hay Phật giáo. Nhưng hệ thống tư tưởng này âm thầm ăn sâu bén rễ bên trong nếp nghĩ của người Việt.
Khái niệm trung tâm trong Đạo giáo là “Đạo”. Đạo là bản nguyên của vũ trụ, có trước trời đất, sinh ra trời đất. Đạo là tất cả và vĩnh viễn. Nhưng Đạo không thể nhận biết trọn vẹn vì quá huyền diệu. Chúng ta không thể biết nó là gì, nên tạm gọi là Đạo. Và danh từ Đạo tạm gọi đó không phải là vĩnh viễn, mà chỉ là nhất thời.
Nói cách khác, Đạo chỉ là tên nhất thời mà chúng ta dùng để gọi một thứ gì đó vĩnh viễn, là nguồn gốc của vạn vật.
Đạo của Lão Tử tên là Đạo. Bạn có thể gọi nó là Đạo Đạo.
Đạo của Lão Tử tên là Đạo. Bạn có thể gọi nó là Đạo Đạo.
Đạo vì thế phải được nhận diện qua hai mặt là “Vô” (nguyên lý vô hình, là gốc của trời đất) và “Hữu” (nguyên lý hữu hình, là gốc của vạn vật). Hữu là những thứ giác quan tri giác được. là những thứ không tri giác được, nhưng không phải là hư vô. Ví dụ như không khí là , vì giác quan không cảm nhận được. Và vì Đạo không thể nhận biết, nên nó cũng là , một cái vĩnh viễn.
Một vật vừa là Hữu, vì chúng ta nhận biết được. Nhưng nó vừa là , vì nó sẽ biến đổi, và chúng ta chưa nhận biết được nó biến đổi cụ thể ra sao. Hữu vừa mâu thuẫn với nhau, vừa sinh ra nhau và quyết định nhau. Chẳng hạn như một lọ hoa, bản thân cái lọ là Hữu vì bạn nhìn được, cầm nắm được. Nhưng khoảng không bên trong nó là . Bạn không nhìn được khoảng không – cái , nhưng bạn biết nó ở đó, vì có cái Hữu bao quanh. Cả Hữu đều có tác dụng. Nếu lọ hoa không có thì không không có khoảng trống cắm hoa. Nếu nó không có Hữu thì từ đầu chẳng có cái lọ hoa nào tồn tại cả.
Sự vận động của con người vì thế có hai khuynh hướng là “vô vi” và “hữu vi”. “Vô vi” là trở về nguồn gốc để sống với tự nhiên, hợp thể với Đạo. Hành động theo khuynh hướng vô vi là cho phép mọi thứ diễn ra theo cách tự nhiên của chúng. Không gượng ép, không can thiệp vào quy luật tự nhiên. Sống đơn giản, không cố gắng kiểm soát mọi thứ xung quanh. Đây là cách sống mà Đạo giáo hướng đến.
Ngược lại, “hữu vi” là tìm cách tác động vào thế giới tự nhiên một cách có chủ đích. Hữu vi bao gồm nỗ lực, lên kế hoạch, hành động có tính toán. Đạo giáo phê phán khuynh hướng này vì cho rằng nó có thể gây ra căng thẳng và xung đột.
Trung bình người thực hành Đạo giáo.
Trung bình người thực hành Đạo giáo.
Đạo giáo đề cao tính thống nhất giữa con người và vũ trụ. Khái niệm “Thiên Đình” là từ học thuyết này mà ra. Thiên Đình có Ngọc Hoàng Thượng Đế cai quản mọi vật. Ngoài ra còn có các thiên thần, địa kì, tiên nhân và nhân quỷ. Đây là những vị thần cai quản nhiều lĩnh vực khác nhau.
Vì có sự đồng nhất tương đối lớn với tín ngưỡng bản địa nên Ngọc Hoàng đồng nhất với ông Trời trong văn hóa Việt Nam. Các vị thần đại diện cho hiện tượng tự nhiên như mưa, sét và các thần thành hoàng làng cũng đồng nhất vào Thiên Đình Đạo giáo.
Hình này không cần đùa ở caption để trở nên buồn cười.
Hình này không cần đùa ở caption để trở nên buồn cười.
Nhiều tập tục, thói quen ngày nay cũng có nguồn gốc từ Đạo giáo. Chẳng hạn như xem phong thủy, luyện tập các môn võ thuật và dưỡng sinh, các hình thức trừ tà, bói toán và cúng bái.
Vì vậy, tôi đánh giá Đạo giáo là học thuyết có sự hòa nhập lớn nhất với niềm tin triết học của dân tộc. Rất có thể bạn cũng đang thực hành Đạo giáo theo một cách nào đó mà không nhận ra.
Trên đây là một vài điều tôi đã tìm hiểu về Đạo giáo. Tài liệu về Đạo giáo không dồi dào như Phật giáo và Nho giáo (hoặc do tôi tìm chưa kĩ). Vì vậy, tôi mong phần này được bổ sung kĩ bởi các bạn đọc để chúng ta cùng biết thêm về học thuyết này.
Kết luận
Bài viết này dài hơn so với những gì tôi dự định. Nhưng do bị chia nhỏ thành nhiều phần nên có những vấn đề tôi chưa chạm tới được. Tôi sẽ để dành các phần này cho những bài viết sắp tới. Lúc đó, tôi sẽ đi cụ thể vào từng trường phái. Bên cạnh đó, nếu thông tin bị thiếu chính xác, tôi mong được góp ý để cuộc thảo luận giữa chúng ta trọn vẹn hơn.
Tôi liệt kê một loạt như vậy để bạn thấy trước khi có triết học Marx – Lenin, chúng ta đã tin vào rất nhiều tư tưởng khác nhau trong thời gian dài. Chúng có những điểm tương đồng và mâu thuẫn. Nhưng chúng đã hòa hợp với nhau, tạo thành những tư tưởng mang tính dân tộc và ảnh hưởng đến cách chúng ta tiếp nhận triết học Marx – Lenin sau này.
Điểm chung của các hệ thống tư tưởng trên là du nhập vào Việt Nam từ rất lâu. Tới nay chúng đã hòa quyện vào tiềm thức, lời ăn, tiếng nói và nếp sống hàng ngày. Vì vậy bạn hãy cho triết học Marx – Lenin thêm 1000 năm nữa xem. Biết đâu lúc đó dân tộc ta sẽ coi nó là thân thuộc như chúng ta đang coi Âm – Dương, Ngũ hành và Nho – Phật – Đạo thân thuộc như bây giờ.