Sau khi yểm trợ cuộc đổ bộ lên Philippines vào tháng 10 — trong đó lực lượng này đã đánh bại chiến dịch lớn cuối cùng của Hải quân Đế quốc Nhật tại vịnh Leyte và phải đối phó với mối đe dọa liên tục từ máy bay Nhật Bản trên đất liền, bao gồm cả việc sử dụng máy bay cảm tử lần đầu tiên — Lực lượng Tàu sân bay tốc độ cao (được đổi phiên hiệu thành TF 38 trong biên chế Hạm đội 3) đã rút về đảo san hô Ulithi để nghỉ ngơi ngắn hạn. Khung cảnh sức mạnh hải quân này được ghi lại tại Ulithi ngày 8 tháng 12 năm 1944, bao gồm (từ trước ra sau) các tàu sân bay lớp Essex: Wasp, Yorktown, Hornet, Hancock và Ticonderoga. (Naval History and Heritage Command - NHHC)
Sau khi yểm trợ cuộc đổ bộ lên Philippines vào tháng 10 — trong đó lực lượng này đã đánh bại chiến dịch lớn cuối cùng của Hải quân Đế quốc Nhật tại vịnh Leyte và phải đối phó với mối đe dọa liên tục từ máy bay Nhật Bản trên đất liền, bao gồm cả việc sử dụng máy bay cảm tử lần đầu tiên — Lực lượng Tàu sân bay tốc độ cao (được đổi phiên hiệu thành TF 38 trong biên chế Hạm đội 3) đã rút về đảo san hô Ulithi để nghỉ ngơi ngắn hạn. Khung cảnh sức mạnh hải quân này được ghi lại tại Ulithi ngày 8 tháng 12 năm 1944, bao gồm (từ trước ra sau) các tàu sân bay lớp Essex: Wasp, Yorktown, Hornet, Hancock và Ticonderoga. (Naval History and Heritage Command - NHHC)

CHƯƠNG 9: KẾT LUẬN VÀ PHÂN TÍCH

CUỘC ĐỤNG ĐỘ CUỐI CÙNG GIỮA CÁC TÀU SÂN BAY

Sau trận chiến Biển Philippines, Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay tốc độ cao được đổi tên thành Lực lượng Đặc nhiệm 38 (TF 38) với một tư lệnh mới – William F. Halsey. Với 17 tàu sân bay hạm đội và hạng nhẹ trong tay, Halsey bắt đầu nhiệm vụ làm suy yếu sức mạnh không quân Nhật Bản ở Tây Thái Bình Dương để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ vào Philippines. Rời khỏi Eniwetok vào ngày 28 tháng 8, Halsey dẫn đầu lực lượng tàu sân bay tiến hành các cuộc không kích vào quần đảo Palau, đảo Mindanao ở phía nam Philippines, và quần đảo Visayas trong tháng 9. Sự kháng cự của phía Nhật yếu đến mức Halsey phải đề xuất đẩy sớm ngày đổ bộ Philippines – một ý tưởng sớm được Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân tán thành. TF 38 sau đó đã giao chiến trong một trận hải - không chiến lớn ở ngoài khơi Đài Loan từ ngày 10 đến 20 tháng 10, mà ở đó không quân căn cứ trên đất liền của Nhật đã chịu một thất bại nặng nề.
Người Nhật đã đánh giá đúng rằng Philippine sẽ là mục tiêu tiếp theo của Mỹ. Việc phòng thủ Philippine rất khó khăn vì không có đủ thời gian để tái lập Hạm đội Cơ động, và sức mạnh không quân trên đất liền đã gần như bị xoá sổ sau những đợt tấn công dữ dội của Halsey trong tháng 9 và 10. Toyoda lập ra một kế hoạch tuyệt vọng, trong đó phần còn lại của lực lượng tàu sân bay Ozawa sẽ dụ Halsey – người nổi tiếng hiếu chiến – rời xa Philippine, nhằm tạo điều kiện cho Kurita đưa một lực lượng lớn thiết giáp hạm và tàu tuần dương tiến vào vịnh Leyte để tấn công lực lượng đổ bộ. Kế hoạch này có nhiều điểm yếu nghiêm trọng, nhưng nó đã mở màn cho cuộc đụng độ cuối cùng giữa các tàu sân bay trong chiến tranh. Dù tàu sân bay Mỹ và Nhật đối đầu trực tiếp lần cuối cùng trong trận chiến vịnh Leyte, thật phóng đại khi gọi đây là một trận đánh tàu sân bay.
Khi quân Mỹ đổ bộ lên đảo Leyte vào ngày 20 tháng 10, Toyoda đã bắt đầu thực hiện kế hoạch của mình. Lực lượng của Kurita rời căn cứ gần Singapore vào ngày 18 tháng 10, và lực lượng tàu sân bay của Ozawa rời Nhật hai ngày sau đó. Trong chiến dịch này, lực lượng của Ozawa gồm tàu Zuikaku kỳ cựu, các tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho, ChitoseChiyoda, cùng 12 tàu hộ tống, trong đó có hai thiết giáp hạm được cải hoán thành tàu sân bay lai bằng cách lắp thêm một sàn đáp nhỏ phía đuôi để vận hành một nhóm máy bay phao nhỏ. Tổng số máy bay trên bốn tàu sân bay của Ozawa là 116 chiếc – tương đương với số máy bay trên một tàu sân bay lớp Essex của Mỹ.
Trận chiến vịnh Leyte, trước đây còn có tên là "Trận biển Philippine lần thứ hai", được xem là trận hải chiến lớn nhất của Thế Chiến II cũng như là một trong những trận hải chiến lớn nhất lịch sử. Đây cũng là lần đụng độ cuối cùng của lực lượng tàu sân bay hai bên. Lực lượng chủ lực của Đô đốc Ozawa bao gồm bốn tàu sân bay: Zuikaku (chiếc cuối cùng còn sống sót trong số sáu tàu sân bay tấn công Trân Châu Cảng năm 1941), các tàu sân bay hạng nhẹ Zuihō, Chitose và Chiyoda với tổng số máy bay mang theo là 116 chiếc (chỉ tương đương với số máy bay mà một con tàu trong lớp Essex của Mỹ mang theo) sẽ phải đối đầu với một lực lượng tàu sân bay áp đảo của TF 38 (gồm 5 tàu sân bay hạm đội: Intrepid, Franklin, Lexington, Enterprise và Essex; 5 tàu sân bay hạng nhẹ: Independence, Belleau Wood, Langley, Cabot và San Jacinto với tổng số máy bay từ 600 đến 1000 chiếc). Dù tàu sân bay Mỹ và Nhật đối đầu trực tiếp lần cuối cùng trong trận chiến vịnh Leyte, thì khó có thể gọi đây là một trận đánh tàu sân bay. Lực lượng tàu sân bay Nhật Bản dưới Ozawa chỉ là một lực lượng mồi nhử theo kế hoạch Sho-Go 1 của Nhật. Hầu hết máy bay từ các tàu sân bay này đã được chuyển đi nơi khác (chủ yếu để hỗ trợ lực lượng mặt đất trên Philippines hoặc các trận trước đó). Chúng cũng không có khả năng tiến hành các đợt không kích nhằm thiệt hại cho đối phương được nữa. Cũng như tính chất một chiều của nó khi trong trận này, người Mỹ chỉ đơn giản là săn lùng và tiêu diệt một lực lượng tàu sân bay Nhật đã bị tước mất sức mạnh không quân từ thời đỉnh cao của mình.
Trận chiến vịnh Leyte, trước đây còn có tên là "Trận biển Philippine lần thứ hai", được xem là trận hải chiến lớn nhất của Thế Chiến II cũng như là một trong những trận hải chiến lớn nhất lịch sử. Đây cũng là lần đụng độ cuối cùng của lực lượng tàu sân bay hai bên. Lực lượng chủ lực của Đô đốc Ozawa bao gồm bốn tàu sân bay: Zuikaku (chiếc cuối cùng còn sống sót trong số sáu tàu sân bay tấn công Trân Châu Cảng năm 1941), các tàu sân bay hạng nhẹ Zuihō, Chitose và Chiyoda với tổng số máy bay mang theo là 116 chiếc (chỉ tương đương với số máy bay mà một con tàu trong lớp Essex của Mỹ mang theo) sẽ phải đối đầu với một lực lượng tàu sân bay áp đảo của TF 38 (gồm 5 tàu sân bay hạm đội: Intrepid, Franklin, Lexington, Enterprise và Essex; 5 tàu sân bay hạng nhẹ: Independence, Belleau Wood, Langley, Cabot và San Jacinto với tổng số máy bay từ 600 đến 1000 chiếc). Dù tàu sân bay Mỹ và Nhật đối đầu trực tiếp lần cuối cùng trong trận chiến vịnh Leyte, thì khó có thể gọi đây là một trận đánh tàu sân bay. Lực lượng tàu sân bay Nhật Bản dưới Ozawa chỉ là một lực lượng mồi nhử theo kế hoạch Sho-Go 1 của Nhật. Hầu hết máy bay từ các tàu sân bay này đã được chuyển đi nơi khác (chủ yếu để hỗ trợ lực lượng mặt đất trên Philippines hoặc các trận trước đó). Chúng cũng không có khả năng tiến hành các đợt không kích nhằm thiệt hại cho đối phương được nữa. Cũng như tính chất một chiều của nó khi trong trận này, người Mỹ chỉ đơn giản là săn lùng và tiêu diệt một lực lượng tàu sân bay Nhật đã bị tước mất sức mạnh không quân từ thời đỉnh cao của mình.
Vào ngày 24 tháng 10, lực lượng của Kurita chuẩn bị vượt qua biển Sibuyan trên đường đến Leyte. Để Kurita có cơ hội tiếp cận mục tiêu, Ozawa buộc phải thực hiện nhiệm vụ nghi binh một cách nhanh chóng và hiệu quả. Ngay cả vào thời điểm muộn của chiến tranh, tàu sân bay Nhật vẫn vượt trội tàu Mỹ trong nhiệm vụ trinh sát. Máy bay trinh sát của Ozawa phát hiện TF 38 lúc 08 giờ 20 phút ngày 24 tháng 10, và toàn bộ lực lượng ông ta tiến sát đến trong phạm vi 210 hải lý với TF 38 ngay trước buổi trưa để tung ra một đợt tấn công. Dù đã cố gắng hết sức để tạo ra một nghi binh hiệu quả, lực lượng của Ozawa vẫn không bị phát hiện cho đến 16 giờ 40 phút.
Ngày 23 tháng 10 năm 1944, phía Nhật Bản tiến hành một nỗ lực tổng lực khác nhằm đánh gục Lực lượng Đặc nhiệm 38 (TF 38). Nỗ lực này thất bại, nhưng đã dẫn đến việc tàu sân bay hạng nhẹ Princeton bị đánh chìm. Bức ảnh này cho thấy chiếc tàu sân bay hạng nhẹ đang bốc cháy sau khi một quả bom trúng đích gây ra các vụ nổ dữ dội trên boong chứa máy bay. Princeton là tàu sân bay tốc độ cao đầu tiên bị mất kể từ tháng 10 năm 1942, và cũng là tàu sân bay cuối cùng bị đánh chìm trong chiến tranh. (NHHC)
Ngày 23 tháng 10 năm 1944, phía Nhật Bản tiến hành một nỗ lực tổng lực khác nhằm đánh gục Lực lượng Đặc nhiệm 38 (TF 38). Nỗ lực này thất bại, nhưng đã dẫn đến việc tàu sân bay hạng nhẹ Princeton bị đánh chìm. Bức ảnh này cho thấy chiếc tàu sân bay hạng nhẹ đang bốc cháy sau khi một quả bom trúng đích gây ra các vụ nổ dữ dội trên boong chứa máy bay. Princeton là tàu sân bay tốc độ cao đầu tiên bị mất kể từ tháng 10 năm 1942, và cũng là tàu sân bay cuối cùng bị đánh chìm trong chiến tranh. (NHHC)
Đợt tấn công cuối cùng của tàu sân bay Nhật trong chiến tranh được xuất phát vào lúc 11 giờ 45 phút ngày 24 tháng 10, nhằm vào TG 38.3 ngoài khơi đảo Luzon phía đông. TG 38.3 cũng bị tấn công ba lần bởi máy bay Nhật xuất phát từ căn cứ trên đất liền trong ngày hôm đó. Một chiếc D4Y bổ nhào đã xuyên qua lớp CAP và đánh trúng tàu sân bay hạng nhẹ Princeton. Con tàu sau đó chìm, trở thành tàu sân bay không phải loại hộ tống đầu tiên bị đánh chìm kể từ khi Hornet bị mất vào tháng 10 năm 1942, và là tàu sân bay tốc độ cao cuối cùng bị đánh chìm trong chiến tranh. Năm mươi chiếc máy bay từ các tàu sân bay Ozawa tấn công TG 38.3 thậm chí không được người Mỹ xác định là xuất phát từ tàu sân bay Nhật. Mười bốn máy bay Nhật bị bắn rơi mà không gây tổn thất nào cho Mỹ. Chỉ ba chiếc máy bay Nhật quay trở lại được tàu sân bay; 34 chiếc còn lại hạ cánh xuống các căn cứ trên đất liền khác nhau.
Trong trận Hải chiến biển Sibuyan, siêu thiết giáp hạm Musashi là mục tiêu của các đợt không kích Mỹ không ngừng nghỉ. Trong hơn năm giờ đồng hồ ngày 24 tháng 10, con tàu bị đánh trúng từ 11 đến 15 ngư lôi và tới 16 quả bom. Đến giai đoạn này của chiến tranh, Lực lượng Tàu sân bay Nhanh đã có thể tiêu diệt ngay cả những chiến hạm được bọc giáp nặng nhất, chủ yếu nhờ việc máy bay Avenger đã có ngư lôi hoạt động hoàn toàn tin cậy. Hình ảnh này cho thấy Musashi đang cơ động né tránh trong lúc bị tấn công. (NHHC)
Trong trận Hải chiến biển Sibuyan, siêu thiết giáp hạm Musashi là mục tiêu của các đợt không kích Mỹ không ngừng nghỉ. Trong hơn năm giờ đồng hồ ngày 24 tháng 10, con tàu bị đánh trúng từ 11 đến 15 ngư lôi và tới 16 quả bom. Đến giai đoạn này của chiến tranh, Lực lượng Tàu sân bay Nhanh đã có thể tiêu diệt ngay cả những chiến hạm được bọc giáp nặng nhất, chủ yếu nhờ việc máy bay Avenger đã có ngư lôi hoạt động hoàn toàn tin cậy. Hình ảnh này cho thấy Musashi đang cơ động né tránh trong lúc bị tấn công. (NHHC)
Khi TG 38.3 ứng phó với các đợt tấn công từ không quân Nhật, chiến dịch chính của TF 38 trong ngày hôm đó là tung ra hàng loạt đợt không kích nhằm vào lực lượng của Kurita khi họ đang di chuyển về phía đông. Chuỗi không kích này là một trong những trận không - hải chiến lớn nhất trong lịch sử. 29 tàu trong lực lượng của Kurita phải hứng chịu tổng cộng 259 lượt xuất kích từ TF 38. Người Mỹ đã gây thiệt hại nặng cho Kurita bằng cách đánh chìm siêu thiết giáp hạm Musashi và buộc một tàu tuần dương hạng nặng phải quay trở lại Singapore. Tổng thể thiệt hại cho lực lượng của Kurita được giảm bớt nhờ Musashi thu hút phần lớn sự chú ý của các phi công Mỹ, phải hứng chịu ít nhất 11 – và có thể lên tới 15 – quả ngư lôi cùng với 16 quả bom.
Mục tiêu giá trị nhất đang chờ các phi công của Halsey vào sáng 25 tháng 10 là tàu sân bay hạm đội Zuikaku, một cựu chiến binh đã tham gia bốn trong năm trận đánh tàu sân bay của cuộc chiến. Trong đòn không kích đầu tiên, Zuikaku bị các máy bay ném bom bổ nhào và Avenger từ Intrepid cùng hai tàu sân bay hạng nhẹ tấn công. Lực lượng tuần tra không chiến (CAP) nhỏ bé của Nhật Bản tỏ ra kém hiệu quả trong việc bảo vệ tàu sân bay; con tàu vì thế chỉ còn trông cậy vào hỏa lực phòng không và những động tác cơ động né tránh khéo léo để chống đỡ. Khung cảnh này cho thấy Zuikaku đang vòng gấp sang mạn trái ở tốc độ cao. Khói xuất phát từ dàn 96 pháo phòng không 25 mm của con tàu. Chú ý lớp ngụy trang trên sàn bay; cả bốn tàu sân bay của Ozawa tại Trận mũi Engaño đều mang kiểu ngụy trang tương tự. Chỉ vài phút sau khi cuộc tấn công bắt đầu, sàn bay của Zuikaku đã trúng 3 quả bom. Các quả bom gây hỏa hoạn trên hai boong chứa máy bay, phải mất khoảng 15 phút mới dập tắt được. Phần lớn bom 1.000 lb do các máy bay Helldiver thả đều trượt mục tiêu, như thể hiện trong cảnh này. Sau khi các Helldiver hoàn tất phần việc của mình, các Avenger đánh trúng tàu sân bay cỡ lớn bằng một quả ngư lôi ở mạn trái, giữa thang nâng số 2 và số 3. Nước tràn vào sau đó khiến con tàu nghiêng tạm thời gần 30°, nhưng nhanh chóng được giảm xuống mức có thể kiểm soát là khoảng 6°. Zuikaku sống sót sau đòn tấn công đầu tiên; tuy nhiên, đòn tấn công thứ ba, với quy mô lớn hơn, đã tập trung hỏa lực vào con tàu và giáng xuống một loạt đòn hủy diệt gồm 6 cú đánh ngư lôi và 4 cú đánh bom. Đến 14 giờ 14 phút, Zuikaku - con tàu cuối cùng từng tham gia vào chiến dịch mở đầu Chiến tranh Thái Bình Dương - đã bị đánh chìm. (Tranh của Jim Laurier)
Mục tiêu giá trị nhất đang chờ các phi công của Halsey vào sáng 25 tháng 10 là tàu sân bay hạm đội Zuikaku, một cựu chiến binh đã tham gia bốn trong năm trận đánh tàu sân bay của cuộc chiến. Trong đòn không kích đầu tiên, Zuikaku bị các máy bay ném bom bổ nhào và Avenger từ Intrepid cùng hai tàu sân bay hạng nhẹ tấn công. Lực lượng tuần tra không chiến (CAP) nhỏ bé của Nhật Bản tỏ ra kém hiệu quả trong việc bảo vệ tàu sân bay; con tàu vì thế chỉ còn trông cậy vào hỏa lực phòng không và những động tác cơ động né tránh khéo léo để chống đỡ. Khung cảnh này cho thấy Zuikaku đang vòng gấp sang mạn trái ở tốc độ cao. Khói xuất phát từ dàn 96 pháo phòng không 25 mm của con tàu. Chú ý lớp ngụy trang trên sàn bay; cả bốn tàu sân bay của Ozawa tại Trận mũi Engaño đều mang kiểu ngụy trang tương tự. Chỉ vài phút sau khi cuộc tấn công bắt đầu, sàn bay của Zuikaku đã trúng 3 quả bom. Các quả bom gây hỏa hoạn trên hai boong chứa máy bay, phải mất khoảng 15 phút mới dập tắt được. Phần lớn bom 1.000 lb do các máy bay Helldiver thả đều trượt mục tiêu, như thể hiện trong cảnh này. Sau khi các Helldiver hoàn tất phần việc của mình, các Avenger đánh trúng tàu sân bay cỡ lớn bằng một quả ngư lôi ở mạn trái, giữa thang nâng số 2 và số 3. Nước tràn vào sau đó khiến con tàu nghiêng tạm thời gần 30°, nhưng nhanh chóng được giảm xuống mức có thể kiểm soát là khoảng 6°. Zuikaku sống sót sau đòn tấn công đầu tiên; tuy nhiên, đòn tấn công thứ ba, với quy mô lớn hơn, đã tập trung hỏa lực vào con tàu và giáng xuống một loạt đòn hủy diệt gồm 6 cú đánh ngư lôi và 4 cú đánh bom. Đến 14 giờ 14 phút, Zuikaku - con tàu cuối cùng từng tham gia vào chiến dịch mở đầu Chiến tranh Thái Bình Dương - đã bị đánh chìm. (Tranh của Jim Laurier)
Lực lượng tàu sân bay của Ozawa đã phải trả một cái giá rất đắt cho việc hoàn thành nhiệm vụ nghi binh tại vịnh Leyte. Cả bốn tàu sân bay Nhật Bản đều bị đánh chìm trong trận đánh ngoài khơi mũi Engano ngày 25 tháng 10. Bức ảnh này cho thấy Zuikaku và một tàu khu trục lớp Akizuki đang bị tấn công. Tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho có thể thấy ở phía sau. (NHHC)
Lực lượng tàu sân bay của Ozawa đã phải trả một cái giá rất đắt cho việc hoàn thành nhiệm vụ nghi binh tại vịnh Leyte. Cả bốn tàu sân bay Nhật Bản đều bị đánh chìm trong trận đánh ngoài khơi mũi Engano ngày 25 tháng 10. Bức ảnh này cho thấy Zuikaku và một tàu khu trục lớp Akizuki đang bị tấn công. Tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho có thể thấy ở phía sau. (NHHC)
Trận Mũi Engano cũng là hồi chuông cáo chung của Zuikaku, con tàu đã có mặt trong mọi trận trận chiến tàu sân bay của cuộc chiến ngoại trừ trận Midway. Đây cũng là tàu sân bay Nhật Bản cuối cùng còn sót lại từ cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Trong bức ảnh này, thủy thủ đoàn Zuikaku đang chào khi quốc kỳ Nhật Bản được hạ xuống. Con tàu chìm không lâu sau đó, mang theo 843 người trong thủy thủ đoàn. (NHHC)
Trận Mũi Engano cũng là hồi chuông cáo chung của Zuikaku, con tàu đã có mặt trong mọi trận trận chiến tàu sân bay của cuộc chiến ngoại trừ trận Midway. Đây cũng là tàu sân bay Nhật Bản cuối cùng còn sót lại từ cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Trong bức ảnh này, thủy thủ đoàn Zuikaku đang chào khi quốc kỳ Nhật Bản được hạ xuống. Con tàu chìm không lâu sau đó, mang theo 843 người trong thủy thủ đoàn. (NHHC)
Bức ảnh mang tính biểu tượng này cho thấy Zuiho đang bị máy bay từ Enterprise tấn công ngày 25 tháng 10. Sau khi đã tham gia ba trận hải chiến tàu sân bay trước đó, vận may của Zuiho đã chấm dứt tại Mũi Engano. (NHHC)
Bức ảnh mang tính biểu tượng này cho thấy Zuiho đang bị máy bay từ Enterprise tấn công ngày 25 tháng 10. Sau khi đã tham gia ba trận hải chiến tàu sân bay trước đó, vận may của Zuiho đã chấm dứt tại Mũi Engano. (NHHC)
Thiệt hại của Zuikaku trong ngày 25 tháng 10 gồm 7 quả bom và 7 quả ngư lôi trong hai đợt không kích lớn từ lực lượng tàu sân bay Mỹ. Trong đợt (1) thì con tàu chịu 3 quả bom đánh vào sàn bay ở mạn trái và 1 quả ngư lôi mạn trái gần đuôi tàu. Trong đợt (3) thì con tàu chịu thêm 4 quả bom cùng với 6 quả ngư lôi. Việc con tàu có thể chịu nhiều đòn đánh như vậy cho thấy sự vững chắc từ thiết kế của mình cũng như những đội sửa chữa kỹ thuật giàu kinh nghiệm của con tàu.
Thiệt hại của Zuikaku trong ngày 25 tháng 10 gồm 7 quả bom và 7 quả ngư lôi trong hai đợt không kích lớn từ lực lượng tàu sân bay Mỹ. Trong đợt (1) thì con tàu chịu 3 quả bom đánh vào sàn bay ở mạn trái và 1 quả ngư lôi mạn trái gần đuôi tàu. Trong đợt (3) thì con tàu chịu thêm 4 quả bom cùng với 6 quả ngư lôi. Việc con tàu có thể chịu nhiều đòn đánh như vậy cho thấy sự vững chắc từ thiết kế của mình cũng như những đội sửa chữa kỹ thuật giàu kinh nghiệm của con tàu.
Những đợt tấn công cuối cùng xuất phát từ tàu sân bay nhằm vào tàu sân bay trên biển xảy ra vào ngày hôm sau. Những tưởng rằng đã vô hiệu hóa được lực lượng của Kurita, Halsey tiến quân lên phía bắc để tấn công lực lượng của Ozawa với toàn bộ TF 38. Ozawa đã hoàn thành nhiệm vụ thu hút Halsey rời khỏi Leyte, nhưng cái giá phải trả là rất đắt. Halsey tung ra 527 phi vụ tấn công lực lượng của Ozawa trong sáu đợt. Đợt tấn công đầu tiên được radar của Zuikaku phát hiện ở khoảng cách 108 hải lý. Lực lượng CAP của Nhật chỉ có 13 chiếc Zero và nhanh chóng bị quét sạch. Đợt tấn công đầu tiên đánh trúng Zuikaku với ba quả bom và một quả ngư lôi, nhưng các đội kiểm soát hư hại giàu kinh nghiệm đã dập lửa và khắc phục tình trạng nghiêng tàu. Chitose bị đánh chìm nhanh chóng và mang theo 904 thủy thủ xuống biển. Chiyoda bị hư hại nặng và chờ số phận từ các tàu mặt nước Mỹ vào chiều hôm đó. Đợt không kích thứ ba của Mỹ đã chấm dứt sự nghiệp lẫy lừng của Zuikaku. Con tàu trúng 6 quả ngư lôi và 4 quả bom, khiến nó dừng lại, bốc cháy dữ dội và nghiêng nặng. Zuikaku sau đó bị lật úp với tổn thất lớn về nhân mạng. Khoảng hai giờ sau khi Zuikaku chìm, Zuiho cũng chịu chung số phận.
Chiến dịch lớn cuối cùng của Hải quân Đế quốc Nhật sau trận vịnh Leyte là cuộc xuất kích của siêu thiết giáp hạm Yamato cùng chín tàu hộ tống nhằm tấn công hạm đội Mỹ ngoài khơi Okinawa vào tháng 4 năm 1945. Trong loạt đợt không kích ngày 7 tháng 4, Yamato bị đánh trúng từ 9 đến 12 ngư lôi và 7 quả bom, rồi bị đánh chìm. Sự hy sinh vô ích này đã cướp đi sinh mạng của hơn 3.000 người trong thủy thủ đoàn. Bức ảnh cho thấy Yamato đang cơ động ở giai đoạn đầu của cuộc tấn công khi một quả bom phát nổ bên mạn trái. (NHHC)
Chiến dịch lớn cuối cùng của Hải quân Đế quốc Nhật sau trận vịnh Leyte là cuộc xuất kích của siêu thiết giáp hạm Yamato cùng chín tàu hộ tống nhằm tấn công hạm đội Mỹ ngoài khơi Okinawa vào tháng 4 năm 1945. Trong loạt đợt không kích ngày 7 tháng 4, Yamato bị đánh trúng từ 9 đến 12 ngư lôi và 7 quả bom, rồi bị đánh chìm. Sự hy sinh vô ích này đã cướp đi sinh mạng của hơn 3.000 người trong thủy thủ đoàn. Bức ảnh cho thấy Yamato đang cơ động ở giai đoạn đầu của cuộc tấn công khi một quả bom phát nổ bên mạn trái. (NHHC)
Mặc dù Kurita đã tấn công một lực lượng tàu sân bay hộ tống của Mỹ ngoài khơi đảo Samar vào ngày 25 tháng 10 và đánh chìm một số tàu Mỹ, bao gồm cả một tàu sân bay hộ tống, trận chiến vịnh Leyte vẫn là hồi chuông báo tử của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Ngoại trừ đợt xuất kích của siêu thiết giáp hạm Yamato đến Okinawa vào đầu tháng 4 năm 1945, phần lớn các tàu còn lại của Hải quân Nhật đều lần lượt bị săn lùng và đánh chìm trong các cảng tại Nhật trước khi chiến tranh kết thúc. Tính đến thời điểm Nhật đầu hàng, chỉ còn các tàu sân bay Hosho, Junyo, RyuhoAmagi (một tàu sân bay hạm đội được đặt lườn năm 1942 theo thiết kế của tàu Hiryu) là vẫn còn nổi.
Tháng 7 năm 1945, Hạm đội 3 của Halsey tiến hành loạt không kích nhằm tiêu diệt những đơn vị lớn còn lại của Hải quân Nhật tại căn cứ hải quân Kure. Bức ảnh này chụp ngày 28 tháng 7 cho thấy Amagi ở chính giữa — con tàu đã bị tấn công ngày 24 tháng 7 và chịu hư hại nặng nhưng vẫn nổi. Tàu bị lật úp vào ngày hôm sau do tổn thất tích lũy. Cuộc tấn công ngày 28 tháng 7 tập trung vào Katsuragi, xuất hiện ở góc trên bên trái. Con tàu bị trúng ít nhất một quả bom nhưng vẫn đủ khả năng đi biển và sau chiến tranh được sử dụng làm tàu hồi hương. (NHHC)
Tháng 7 năm 1945, Hạm đội 3 của Halsey tiến hành loạt không kích nhằm tiêu diệt những đơn vị lớn còn lại của Hải quân Nhật tại căn cứ hải quân Kure. Bức ảnh này chụp ngày 28 tháng 7 cho thấy Amagi ở chính giữa — con tàu đã bị tấn công ngày 24 tháng 7 và chịu hư hại nặng nhưng vẫn nổi. Tàu bị lật úp vào ngày hôm sau do tổn thất tích lũy. Cuộc tấn công ngày 28 tháng 7 tập trung vào Katsuragi, xuất hiện ở góc trên bên trái. Con tàu bị trúng ít nhất một quả bom nhưng vẫn đủ khả năng đi biển và sau chiến tranh được sử dụng làm tàu hồi hương. (NHHC)
Tàu sân bay Amagi của IJN bị lật úp vào tháng 7 năm 1945 sau khi bị trúng nhiều bom trong các cuộc không kích của máy bay từ tàu sân bay Mỹ tại Căn cứ Hải quân Kure. Amagi được trục vớt vào năm 1946 và bị tháo dỡ vào cuối năm đó.
Tàu sân bay Amagi của IJN bị lật úp vào tháng 7 năm 1945 sau khi bị trúng nhiều bom trong các cuộc không kích của máy bay từ tàu sân bay Mỹ tại Căn cứ Hải quân Kure. Amagi được trục vớt vào năm 1946 và bị tháo dỡ vào cuối năm đó.
Sau trận vịnh Leyte, Lực lượng Tàu sân bay tốc độ cao đã đóng vai trò then chốt trong những tháng cuối của cuộc chiến. Kể từ tháng 10 năm 1944, các tàu sân bay tốc độ cao phải đối mặt với một mối đe dọa mới nguy hiểm không kém gì lực lượng tàu sân bay Nhật thời kỳ đỉnh cao – đó là các cuộc tấn công cảm tử bằng máy bay tự sát (kamikaze), một hình thức tấn công đã đặt ra thách thức lớn chưa từng có đối với khả năng phòng không của hạm đội Mỹ. Việc đảm bảo phòng thủ tuyệt đối trước các máy bay cảm tử là điều bất khả thi, nhưng những máy bay ít ỏi vượt qua được lớp tuần tra không chiến (CAP) và hoả lực phòng không cũng không có đủ sức công phá để đánh chìm các tàu chiến lớn. Năm 1944, các tàu sân bay lớp Essex bị máy bay kamikaze đánh trúng sáu lần, nhưng không tàu nào bị hư hại nghiêm trọng. Một tàu sân bay hạng nhẹ lớp Independence cũng bị trúng, nhưng vẫn sống sót.
Trong khi hoạt động ngoài khơi Philippines, Lực lượng Tàu sân bay Nhanh đã phải hứng chịu các cuộc tấn công kamikaze đầu tiên vào ngày 29 tháng 10 năm 1944. Tháng tiếp theo, ngày 25 tháng 11, Nhật Bản đã đánh trúng cả Intrepid và Essex trong cùng một ngày. Bức ảnh này cho thấy khoảnh khắc một máy bay D4Y lao trúng Essex. Mặc dù vụ nổ rất mạnh, Essex chỉ chịu hư hại kết cấu nhẹ và được sửa chữa trong vòng hai tuần tại khu neo đậu hạm đội ở Ulithi. (NHHC)
Trong khi hoạt động ngoài khơi Philippines, Lực lượng Tàu sân bay Nhanh đã phải hứng chịu các cuộc tấn công kamikaze đầu tiên vào ngày 29 tháng 10 năm 1944. Tháng tiếp theo, ngày 25 tháng 11, Nhật Bản đã đánh trúng cả Intrepid và Essex trong cùng một ngày. Bức ảnh này cho thấy khoảnh khắc một máy bay D4Y lao trúng Essex. Mặc dù vụ nổ rất mạnh, Essex chỉ chịu hư hại kết cấu nhẹ và được sửa chữa trong vòng hai tuần tại khu neo đậu hạm đội ở Ulithi. (NHHC)
Cuộc tấn công kamikaze gây tổn thất nặng nề nhất nhằm vào một tàu sân bay Mỹ xảy ra ngày 11 tháng 5 năm 1945. Hai chiếc Zero lợi dụng mây che phủ để tạo yếu tố bất ngờ và lần lượt đâm trúng Bunker Hill chỉ trong vài giây. Nhiều máy bay đang đầy nhiên liệu trên boong bay và boong chứa đã bốc cháy, khiến thủy thủ đoàn phải đối mặt với một đám hỏa hoạn khủng khiếp, làm 346 người thiệt mạng, 43 mất tích và 264 bị thương. Con tàu không kịp quay trở lại phục vụ trước khi chiến tranh kết thúc. (NHHC)
Cuộc tấn công kamikaze gây tổn thất nặng nề nhất nhằm vào một tàu sân bay Mỹ xảy ra ngày 11 tháng 5 năm 1945. Hai chiếc Zero lợi dụng mây che phủ để tạo yếu tố bất ngờ và lần lượt đâm trúng Bunker Hill chỉ trong vài giây. Nhiều máy bay đang đầy nhiên liệu trên boong bay và boong chứa đã bốc cháy, khiến thủy thủ đoàn phải đối mặt với một đám hỏa hoạn khủng khiếp, làm 346 người thiệt mạng, 43 mất tích và 264 bị thương. Con tàu không kịp quay trở lại phục vụ trước khi chiến tranh kết thúc. (NHHC)
Mối đe dọa trở nên nghiêm trọng hơn vào năm 1945, khi các tàu sân bay hạm đội bị trúng đòn mười lần, trong đó có một tàu gần như bị đánh chìm. Một tàu sân bay hạng nhẹ cũng bị trúng vào năm 1945 nhưng vẫn trụ vững. Mặc dù phải đối mặt với hiểm hoạ kamikaze, các tàu sân bay nhanh vẫn luôn hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Sau trận vịnh Leyte, lực lượng này hoạt động ngoài khơi Philippines trong một thời gian dài. Trong chiến dịch Okinawa, lực lượng tàu sân bay hoạt động hơn 70 ngày trong tầm tấn công bằng cả máy bay thông thường lẫn máy bay cảm tử từ các căn cứ không quân Nhật trên đảo Kyushu, nhưng vẫn duy trì quyền kiểm soát mặt biển và không phận quanh Okinawa. Tính đến cuối chiến tranh, máy bay kamikaze đã đánh chìm 47 tàu của Hải quân Mỹ và làm hư hại hơn 270 tàu khác, đồng thời gây ra khoảng 8.000 cái chết cho binh sĩ Mỹ. Về mặt chiến lược, kamikaze không thể ngăn cản hoặc làm gián đoạn kế hoạch cũng như hoạt động của Lực lượng Tàu sân bay tốc độ cao.
Hai chiếc SB2C-3 Helldiver của Lexington bay phía trên TF 58 vào ngày 16 hoặc 17 tháng 2 năm 1945 trên đường tham gia cuộc không kích tàu sân bay đầu tiên vào thủ đô Nhật Bản kể từ cuộc đột kích Doolittle tháng 4 năm 1942. Trong hai ngày, TF 38 đã thực hiện khoảng 2.400 phi vụ tấn công nhằm vào các mục tiêu tại khu vực Tokyo. (NHHC)
Hai chiếc SB2C-3 Helldiver của Lexington bay phía trên TF 58 vào ngày 16 hoặc 17 tháng 2 năm 1945 trên đường tham gia cuộc không kích tàu sân bay đầu tiên vào thủ đô Nhật Bản kể từ cuộc đột kích Doolittle tháng 4 năm 1942. Trong hai ngày, TF 38 đã thực hiện khoảng 2.400 phi vụ tấn công nhằm vào các mục tiêu tại khu vực Tokyo. (NHHC)
Trong chiến dịch cuối cùng năm 1945, lực lượng tàu sân bay tốc độ cao tiến hành các đợt không kích dọc toàn bộ quần đảo Nhật Bản. TF 58 với 11 tàu sân bay hạm đội và 5 tàu sân bay hạng nhẹ đã tấn công khu vực Tokyo lần đầu tiên vào ngày 16–17 tháng 2. Xuất phát từ một vị trí chỉ cách Honshu 60 hải lý, hơn 1.000 phi vụ tấn công được xuất kích trong ngày đầu và gần 1.400 phi vụ trong ngày thứ hai. Các tàu sân bay quay lại chỉ hơn một tuần sau đó để tiếp tục ném bom Tokyo. Từ tháng 3 đến đầu tháng 6, lực lượng tàu sân bay nhanh tập trung tấn công Kyushu để hỗ trợ cuộc đổ bộ vào Okinawa. Dưới quyền chỉ huy trở lại của Halsey, TF 38 đánh vào Tokyo trong tháng 7 và sau đó tấn công các mục tiêu trên đảo Hokkaido phía bắc. Vào ngày 24–25 tháng 7, lực lượng tàu sân bay tốc độ cao đã thực hiện tổng cộng 2.018 phi vụ tấn công vào các mục tiêu hải quân trong khu vực Kure, gần như tiêu diệt hoàn toàn những gì còn lại của Hải quân Đế quốc Nhật. So sánh với Kido Butai (Lực lượng tàu sân bay Nhật) ở thời kỳ đỉnh cao thì cũng chỉ thực hiện được 343 phi vụ trong đợt tấn công Hawaii lúc mở đầu chiến tranh.
Lực lượng Đặc nhiệm 38 của Hải quân Mỹ, thuộc Hạm đội 3 Hoa Kỳ, đang diễn tập ngoài khơi bờ biển Nhật Bản vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật Bản đồng ý đầu hàng. Tàu sân bay ở phía dưới bên phải là USS Wasp (CV-18).
Lực lượng Đặc nhiệm 38 của Hải quân Mỹ, thuộc Hạm đội 3 Hoa Kỳ, đang diễn tập ngoài khơi bờ biển Nhật Bản vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật Bản đồng ý đầu hàng. Tàu sân bay ở phía dưới bên phải là USS Wasp (CV-18).
Trong giai đoạn cuối của chiến dịch hải quân chống lại Nhật Bản, TF 38 đã thực hiện gần 4.000 phi vụ tấn công vào quần đảo chính quốc Nhật trong tháng 8 năm 1945. Halsey đánh vào Tokyo lần cuối cùng vào ngày 13 tháng 8, trước khi chính phủ Nhật chính thức tuyên bố chấp nhận các điều kiện đầu hàng. Trong Chiến dịch Olympic – cuộc đổ bộ dự kiến vào Kyushu – sẽ có hai Lực lượng Tàu sân bay tốc độ cao tham gia, với tổng cộng 15 tàu sân bay hạm đội và bảy tàu sân bay hạng nhẹ của Mỹ, cùng với năm tàu sân bay hạm đội và bốn tàu sân bay hạng nhẹ của Anh.Trong suốt cuộc chiến, lực lượng tàu sân bay của Hải quân Mỹ đã phát triển từ ba nhóm tàu đơn lẻ chỉ thực hiện những cuộc tập kích yếu ớt ở vùng rìa đế quốc Nhật, trở thành một vũ khí chiến lược.

PHÂN TÍCH

Biểu đồ thanh ngang này minh họa rõ nét sự thay đổi tương quan lực lượng tàu sân bay hạm đội (fleet carriers) giữa Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Mỹ trong Chiến tranh Thái Bình Dương từ cuối năm 1941 đến năm 1945. Ban đầu, Nhật Bản chiếm ưu thế vượt trội với 6 tàu sân bay hạm đội hiện đại (Akagi, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku, Zuikaku), được huấn luyện tinh nhuệ và phối hợp nhịp nhàng. Mỹ chỉ có 3–4 tàu sân bay ở Thái Bình Dương (Lexington, Enterprise, Hornet, Yorktown, riêng Sagatora không tham chiến giai đoạn đầu). Tuy nhiên, với hai bước ngoặt quan trọng là trận Midway năm 1942 và trận Biển Phillipine năm 1944 đã làm suy giảm ưu thế cũng chất lượng chiến đấu của các tàu sân bay hạm đội bên Nhật Bản.  Ngoài ra, việc người Nhật không có ưu thế công nghiệp nên không thể sản xuất thêm tàu mới (năm 1944 chỉ có mỗi Taiho). Sau trận vịnh Leyte, người Nhật chỉ còn các tàu còn lại như Unryū, Amagi, Katsuragi thì lại hoàn thành quá muộn, thiếu phi công và nhiên liệu, hầu như không tham chiến. Mỹ tiếp tục đưa thêm hàng chục tàu sân bay mới vào hoạt động, duy trì lực lượng khổng lồ đến cuối chiến tranh. Như vậy có thể thấy, nguyên nhân sâu xa dẫn đến thất bại của Nhật Bản ở Thái Bình Dương là do họ không thể bù đắp tổn thất tàu sân bay và phi công, trong khi Mỹ có năng lực sản xuất công nghiệp vượt trội và đưa vào biên chế liên tục các tàu mới. Đây chính là yếu tố quyết định sự thay đổi cục diện chiến tranh Thái Bình Dương.
Biểu đồ thanh ngang này minh họa rõ nét sự thay đổi tương quan lực lượng tàu sân bay hạm đội (fleet carriers) giữa Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Mỹ trong Chiến tranh Thái Bình Dương từ cuối năm 1941 đến năm 1945. Ban đầu, Nhật Bản chiếm ưu thế vượt trội với 6 tàu sân bay hạm đội hiện đại (Akagi, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku, Zuikaku), được huấn luyện tinh nhuệ và phối hợp nhịp nhàng. Mỹ chỉ có 3–4 tàu sân bay ở Thái Bình Dương (Lexington, Enterprise, Hornet, Yorktown, riêng Sagatora không tham chiến giai đoạn đầu). Tuy nhiên, với hai bước ngoặt quan trọng là trận Midway năm 1942 và trận Biển Phillipine năm 1944 đã làm suy giảm ưu thế cũng chất lượng chiến đấu của các tàu sân bay hạm đội bên Nhật Bản. Ngoài ra, việc người Nhật không có ưu thế công nghiệp nên không thể sản xuất thêm tàu mới (năm 1944 chỉ có mỗi Taiho). Sau trận vịnh Leyte, người Nhật chỉ còn các tàu còn lại như Unryū, Amagi, Katsuragi thì lại hoàn thành quá muộn, thiếu phi công và nhiên liệu, hầu như không tham chiến. Mỹ tiếp tục đưa thêm hàng chục tàu sân bay mới vào hoạt động, duy trì lực lượng khổng lồ đến cuối chiến tranh. Như vậy có thể thấy, nguyên nhân sâu xa dẫn đến thất bại của Nhật Bản ở Thái Bình Dương là do họ không thể bù đắp tổn thất tàu sân bay và phi công, trong khi Mỹ có năng lực sản xuất công nghiệp vượt trội và đưa vào biên chế liên tục các tàu mới. Đây chính là yếu tố quyết định sự thay đổi cục diện chiến tranh Thái Bình Dương.
Hình ảnh phổ biến về cuộc chiến ở Thái Bình Dương là những nhóm tàu sân bay tác chiến cơ động, thuộc cả hai phía, đều tiến hành các cuộc tấn công quy mô lớn, trong khi các thành phần hải quân khác chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Bỏ qua cách hình dung đó, có thể nói công bằng rằng chiến tranh Thái Bình Dương là một cuộc chiến của tàu sân bay. Điều này đặc biệt đúng trong nửa sau của cuộc chiến. Nhưng ở giai đoạn đầu, các tàu sân bay của Nhật và Mỹ đều thiếu sức mạnh và hỗ trợ hậu cần cần thiết để tạo ra hiệu ứng chiến lược. Theo hình dung của Yamamoto, đòn tấn công mở màn vào Trân Châu Cảng do Kido Butai thực hiện với sáu tàu sân bay hạm đội lẽ ra phải là một chiến dịch quyết định mang tầm chiến lược. Tuy nhiên, thay vì mang lại lợi thế chiến lược cho Nhật Bản trước Hoa Kỳ, chiến dịch này lại trở thành một thảm hoạ chiến lược không thể chối cãi đối với Nhật.
Hơn nữa, Kido Butai không phải là yếu tố duy nhất mang lại những thắng lợi ban đầu cho Nhật. Không quân căn cứ trên đất liền mới là lực lượng đi đầu trong cuộc tiến công của Nhật vào khu vực Đông Nam Á. Khi các tàu sân bay Nhật đụng độ với tàu sân bay Mỹ ở Biển San Hô và tại Midway, chúng đã bị chặn đứng và lần đầu tiên bị đánh bại. Khi Kido Butai dẫn đầu một chiến dịch chiến lược ở Trung tâm Thái Bình Dương, lực lượng này đã chiến đấu mà không có sự hỗ trợ và đã bị đánh bại. Trong nửa sau năm 1942, Kido Butai đã cầm chân lực lượng tàu sân bay Mỹ trong hai trận đánh nhưng vẫn không thể ngăn chặn được đà tiến công của Mỹ. Đây là một bước ngoặt, vì lực lượng tàu sân bay Nhật (bao gồm cả nguồn nhân lực gồm các phi công giàu kinh nghiệm) đã bị tiêu hao nghiêm trọng và không còn được tung ra trận cho đến giữa năm 1944.
Một lực lượng tàu sân bay mạnh là thành phần thiết yếu trong chiến lược phòng thủ của Nhật vào năm 1944. Tuy nhiên, khi Hải quân Đế quốc Nhật rơi vào thế phòng ngự chiến lược, sức mạnh của lực lượng tàu sân bay đã suy giảm đến mức không còn đủ khả năng hỗ trợ cho các đơn vị đồn trú trên các đảo khi bị tấn công. Mặc dù đã cố gắng hai lần để mở một trận đánh quyết định tại trận chiến Biển Philippines và vịnh Leyte, lực lượng tàu sân bay Nhật Bản không thể gây ảnh hưởng thực sự nào đến kết cục của cả hai trận đánh đó. Trong chín tháng cuối cùng của chiến tranh, lực lượng này hoàn toàn bất lực.
Hải quân Mỹ đã sớm coi tàu sân bay là trung tâm của hạm đội hơn nhiều so với Hải quân Nhật. Vì Mỹ ở trong thế tấn công trong phần lớn thời gian chiến tranh, nên việc làm chủ các hoạt động chiến dịch trong chiến tranh tàu sân bay là điều bắt buộc, từ đó việc phát triển Lực lượng Tàu sân bay tốc độ cao đã trở thành một công cụ thực sự để phô diễn sức mạnh. Người Mỹ đã đạt được điều này bằng cách kết hợp sản lượng sản xuất tàu chiến và máy bay vượt trội với công nghệ giúp cải thiện đáng kể khả năng phòng không của hạm đội, khiến lực lượng tàu sân bay trở nên bền vững hơn. Tất cả điều này được hậu thuẫn bởi hệ thống hậu cần hạm đội cực kỳ đáng nể, cho phép tàu sân bay có thể duy trì khả năng tấn công liên tục. Sự kết hợp này đã hoàn toàn áp đảo Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
Sau khi chặn đứng đà tiến công của Nhật Bản vào năm 1942, các tàu sân bay Mỹ đã khiến khái niệm phòng thủ bằng cách thiết lập một vành đai kháng cự để buộc Mỹ phải mở các cuộc tấn công tiêu hao của người Nhật đều trở nên vô nghĩa. Hải quân Mỹ tập trung lực lượng tàu sân bay và sức mạnh hải quân tại những điểm then chốt được lựa chọn kỹ lưỡng, sau đó cô lập và áp đảo lực lượng phòng thủ Nhật. Hy vọng duy nhất còn lại của Nhật Bản để đảo ngược cục diện là sử dụng hạm đội tàu sân bay nhằm giải vây cho các đồn binh đang bị bao vây. Nhưng đến lúc này, các tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật (IJN) đã bị áp đảo cả về số lượng lẫn công nghệ.
Sức mạnh thực sự của Lực lượng Tàu sân bay tốc độ cao được thể hiện rõ trong năm cuối cùng của chiến tranh. Sau khi đập tan hạm đội Nhật tại vịnh Leyte, các tàu sân bay Mỹ tiếp tục vượt qua một mối đe dọa chết người khác – máy bay cảm tử (kamikaze). Khả năng chịu đựng và chống đỡ mối đe dọa kamikaze đã cho phép Lực lượng Tàu sân bay tốc độ cao tiếp tục thực hiện một cuộc phong tỏa tàn khốc đối với Nhật Bản và biến nó thành một vũ khí chiến lược mang tính quyết định thắng lợi trong cuộc chiến.
Mỗi trận đánh tàu sân bay trong năm 1942 đều thể hiện những đặc điểm chung, và gần như tất cả các đặc điểm này vẫn còn được thấy trong trận đánh tàu sân bay duy nhất của năm 1944. Như bảng thống kê chỉ ra, người Nhật vượt trội về các khía cạnh chiến thuật trong chiến tranh tàu sân bay. Những thế mạnh này thể hiện qua hoạt động trinh sát xuất sắc (ngoại trừ trận Midway), khả năng phối hợp các đợt không kích một cách đều đặn, và chiến thuật tấn công phối hợp với máy bay ném ngư lôi hiệu quả, mang lại khả năng đánh chìm tàu chiến đáng tin cậy. Tuy nhiên, về năng lực phòng thủ, thì lực lượng tàu sân bay Nhật lại thể hiện khả năng phòng không hạm đội yếu kém, bắt nguồn từ chiến thuật tuần tra không chiến (CAP) thiếu hiệu quả và hỏa lực phòng không yếu. Cả các điểm mạnh lẫn điểm yếu này đều phản ánh các ưu tiên tổng thể của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
Ngược lại, người Mỹ lại vượt trội ở khía cạnh chiến dịch và chiến lược trong chiến tranh tàu sân bay. Phòng không hạm đội cũng là một thế mạnh, chủ yếu nhờ sự mong manh của các máy bay tấn công Nhật và khả năng của Mỹ trong việc phát triển và nhanh chóng triển khai công nghệ mới. Về mặt tấn công, lực lượng tàu sân bay Mỹ cho thấy sự thiếu hiệu quả trong việc phối hợp các đợt không kích, nguyên nhân đến từ chiến thuật sử dụng từng nhóm không quân riêng lẻ, các vấn đề liên lạc, và máy bay ném ngư lôi (hoặc ngư lôi) kém hiệu quả, khiến họ buộc phải phụ thuộc vào máy bay ném bom bổ nhào để tạo uy lực tấn công chính.
Trinh sát là một ưu tiên quan trọng với cả hai bên, và cả hai đều thường dành nhiều nguồn lực cho công tác này. Tuy nhiên, việc thu thập thông tin từ máy bay trinh sát chỉ là bước đầu tiên trong quy trình tình báo. Phân tích thông tin và truyền đạt thành công đến người ra quyết định mới là yếu tố then chốt. Tại trận Biển San Hô, người Nhật đã không tận dụng được thông tin trinh sát vô giá vào ngày 6 tháng 5, và thậm chí còn không thể khai thác thông tin trinh sát tốt hơn vào ngày hôm sau do một chuỗi các sự cố liên lạc kỳ lạ, khiến họ không thể giăng bẫy cho lực lượng của đô đốc Fletcher. Trận đánh này hoàn toàn có thể trở thành một phiên bản “Midway” với Nhật trong vai trò kẻ phục kích, nếu không vì những thông tin chưa đầy đủ mà phía Mỹ nhận được. Trận Biển San Hô là trận đánh tàu sân bay đầu tiên, nên cả hai phía đều mắc sai lầm trong thu thập và truyền đạt thông tin.
Midway là trận đánh tàu sân bay duy nhất trong đó một cuộc phục kích được thực hiện thành công. Điều đó chủ yếu là do sự kiêu ngạo và quá tự tin từ phía Nhật, dẫn đến việc họ coi nhẹ nhiệm vụ trinh sát – một sai lầm chí tử. Nếu Kido Butai nghiêm túc hơn trong công tác trinh sát, họ đã có thể làm vô hiệu hóa lợi thế tình báo chiến lược của Mỹ và có thể tạo ra một trận đánh mà lực lượng tàu sân bay của Nimitz có thể bị tiêu diệt. Không nghi ngờ gì nữa, Midway là trận hải chiến nổi tiếng nhất trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Mặc dù chịu tổn thất nặng tại Midway, Kido Butai vẫn được tái tổ chức và tiếp tục tham chiến trong hai trận nữa vào năm 1942 – trong đó có trận thắng duy nhất trước lực lượng tàu sân bay Mỹ.
Chiến dịch Guadalcanal bao gồm hai trong số năm trận đánh tàu sân bay của Chiến tranh Thái Bình Dương. Hai trận này – trận Đông Solomon và trận Santa Cruz – thường bị xem nhẹ hơn so với Biển San Hô và Midway, nhưng chúng lại đóng vai trò quyết định trong việc giành quyền kiểm soát vùng biển quanh Guadalcanal, và là những bước quan trọng trong quá trình vô hiệu hóa lực lượng tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nagumo vẫn tiếp tục chỉ huy lực lượng tàu sân bay trong cả hai trận và đã quá thận trọng trong cả hai lần. Trận Đông Solomon là trận dè dặt nhất trong số các trận đánh tàu sân bay, và vì thế cũng là trận ít mang tính quyết định nhất.
Santa Cruz có lẽ là trận đánh tàu sân bay thú vị nhất. Những xu hướng được đề cập ở trên đều thể hiện rõ và đạt đỉnh trong trận này. Người Nhật đã rút ra bài học từ Midway và áp dụng chúng khá hiệu quả. Sai lầm chí tử tại Midway là việc không chú trọng công tác trinh sát; tại Santa Cruz, các cuộc tìm kiếm của Nhật rất hiệu quả – đến mức phía Mỹ cũng phải thừa nhận rằng máy bay trinh sát Nhật hoạt động vượt trội hơn máy bay của họ. Chiến thuật CAP của Nhật cũng được cải tiến, với tiêm kích được bố trí ở nhiều độ cao khác nhau. Tuy nhiên, vẫn cần lưu ý rằng CAP của Nhật vẫn không thể gây gián đoạn đáng kể cho đợt không kích của Mỹ khi họ tìm thấy tàu sân bay Nhật. Hiệu quả của hỏa lực phòng không Nhật vẫn chỉ ở mức trung bình, vì vậy biện pháp phòng thủ tốt nhất vẫn là cơ động tránh né điêu luyện. Sự chú trọng lớn hơn đến công tác kiểm soát thiệt hại và những quy trình kiểm soát thiệt hại được cải tiến rõ rệt – chính những điều đó đã giúp Shokaku thoát khỏi sự phá hủy. Chiến thuật sử dụng Lực lượng Tiên Phong làm màn chắn phía trước cho tàu sân bay cũng tỏ ra hiệu quả và được các báo cáo hậu chiến của Mỹ đều ghi nhận tích cực. Trong trận đánh tàu sân bay tiếp theo, người Mỹ cũng áp dụng chiến thuật này – nhưng với độ hiệu quả cao hơn nhiều.
Lực lượng tàu sân bay Mỹ đã hứng chịu thiệt hại nặng nề tại Santa Cruz và chỉ vừa thoát khỏi nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Quyết định gây tranh cãi nhất trong trận đánh là việc Halsey không hủy bỏ mệnh lệnh yêu cầu Kinkaid di chuyển lên phía bắc quần đảo Santa Cruz. Kế hoạch của Halsey chỉ cho phép cuộc càn quét lên phía bắc được tiến hành nếu không phát hiện tàu sân bay địch. Ngay cả sau khi rõ ràng các tàu sân bay của Nagumo đang hoạt động trong khu vực, Halsey vẫn để chiến dịch tiếp tục. Dù đã đánh giá thấp mức độ rủi ro, Halsey vẫn mắc sai lầm khi điều hai tàu sân bay duy nhất của mình ra ngoài tầm hỗ trợ hiệu quả từ không quân trên bộ để đối đầu một lực lượng tàu sân bay Nhật có quy mô gấp đôi. Đây là một ví dụ điển hình cho sự bốc đồng tồi tệ nhất của Halsey, và đây không phải là lần cuối cùng ông liều lĩnh để truy kích lực lượng tàu sân bay Nhật trong chiến tranh.
Về mặt chiến thuật, Santa Cruz là màn trình diễn yếu kém nhất của lực lượng tàu sân bay Mỹ trong toàn bộ cuộc chiến. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này, bao gồm học thuyết sai lầm, các vấn đề liên lạc kéo dài, trình độ huấn luyện kém của không đoàn mới trên tàu Enterprise, và hàng loạt quyết định gây nghi vấn từ Kinkaid. Sự bất lực trong phối hợp các cuộc không kích được thể hiện rõ qua việc các đợt tấn công rời rạc, chủ yếu nhắm vào các mục tiêu phụ. Điều đáng chê trách nhất là trong số 75 máy bay xuất kích, chỉ có 10 chiếc thực sự tấn công một tàu sân bay Nhật. Về phòng thủ, người Mỹ thể hiện tốt hơn nhưng vẫn có vấn đề. Hoạt động của sĩ quan điều hành chiến đấu (FDO) của Lực lượng Đặc nhiệm 61 bị đánh giá là thiếu hiệu quả, từ Halsey trở xuống. Một yếu tố quan trọng là hệ thống radar trên các tàu sân bay hoạt động kém, dẫn đến cảnh báo không đầy đủ. Các báo cáo sau trận đánh cho thấy thay vì đánh chặn địch từ khoảng cách 20 hải lý như mong muốn, máy bay tiêm kích chỉ tiếp cận được vài dặm trước khi bị tấn công, khiến Wildcat không có đủ thời gian tiêu diệt đội hình Nhật đang áp sát. Santa Cruz là lần cuối cùng trong chiến tranh mà không quân tàu sân bay Nhật gây thiệt hại nghiêm trọng cho một lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay Mỹ.
Trong trận đánh tàu sân bay cuối cùng của chiến tranh, Hải quân Đế quốc Nhật phải chịu một thất bại mang tính quyết định tại trận chiến Biển Philippine. Trong số 9 tàu sân bay Nhật có mặt, 3 tàu bị đánh chìm, 2 chiếc khác bị hư hại. Trong số 400 máy bay trên tàu sân bay mà Ozawa có lúc bắt đầu trận đánh, chỉ còn 35 chiếc còn tồn tại đến ngày 21 tháng 6. Trận đánh quyết định mà Toyoda kỳ vọng đã diễn ra – và thất bại. Thất bại này dẫn đến sự sụp đổ của Saipan và sau đó là cuộc đổ bộ chiếm toàn bộ quần đảo Marianas. Đây là bước ngoặt rõ ràng đối với Nhật Bản, vì thảm họa chiến tranh sắp ập đến các đảo chính quốc thông qua các cuộc không kích B-29.
Trong số các trận đánh tàu sân bay, kết quả của trận Biển Philippine là dễ đoán nhất. Người Nhật đã cân nhắc rất kỹ Chiến dịch A-Go, nhưng các trụ cột của chiến dịch này lại cực kỳ mong manh, nếu không muốn nói là đã rạn nứt. Kế hoạch dựa trên việc áp dụng sức mạnh không quân áp đảo, từ cả tàu sân bay và căn cứ trên bộ – nhưng đó lại chính là điểm yếu nhất của Nhật Bản. Không quân căn cứ không thể tiến hành trinh sát hiệu quả, giúp Mỹ đạt được yếu tố bất ngờ về chiến thuật và chiến dịch. Việc thiếu cảnh báo chiến dịch khiến không quân căn cứ bị đặt sai vị trí và khiến Lực lượng Cơ động số 1 xuất phát muộn. Tệ hơn nữa, không quân căn cứ trên đảo không thể tấn công thành công TF 58, buộc hạm đội của Ozawa phải đối đầu với một lực lượng tàu sân bay Mỹ vẫn còn nguyên sức mạnh. Dù Ozawa điều động thành công để triển khai toàn bộ lực lượng không quân tấn công TF 58, đòn tấn công lớn đầu tiên của ông không mang lại chiến thắng như năm 1942. Với niềm tin vào khả năng đánh bại đòn tấn công đầu tiên của Nhật, Spruance chủ động chọn lối đánh phòng thủ. Trong năm 1942, chiến thuật này sẽ dẫn đến thảm họa, nhưng đến năm 1944, với năng lực kém cỏi của không quân Nhật và chiến thuật đánh chặn bằng radar của Mỹ, một cuộc tấn công quy mô lớn từ phía Nhật cũng trở nên vô hiệu. Dù vậy, trận không chiến ngày 19 tháng 6 vẫn tạo cơ hội cho Nhật tấn công TF 58. Một vài nhóm nhỏ máy bay Nhật lọt qua CAP và tấn công tàu sân bay Mỹ. Nếu trình độ tấn công – đặc biệt là không kích bằng ngư lôi – của họ còn giữ được như năm 1942, tổn thất của TF 58 có thể đã nặng nề hơn.
Trong hai đối thủ chính, Ozawa là người chỉ huy trận đánh một cách thông minh hơn. Ông đánh giá đúng rằng tính cẩn trọng của Spruance sẽ khiến ông không rời xa Saipan. Chính nhận định then chốt này cho phép Lực lượng Cơ động Thứ nhất tung ra 4 đợt không kích – điều sẽ mang tính chí mạng với hạm đội tàu sân bay Mỹ nếu nó xảy ra vào năm 1942. Tuy nhiên, Nhật Bản không nhận ra rằng chiến tranh tàu sân bay đã thay đổi hoàn toàn vào năm 1944. Ví dụ, họ không biết Mỹ sử dụng tuần tra không chiến dẫn đường bằng radar – điều khiến các đợt không kích tầm cao quy mô lớn trở nên vô dụng. Dù Ozawa điều hành hạm đội của mình một cách điêu luyện, ông vẫn không có phương tiện gây tổn thất đáng kể cho TF 58. Ngay cả khi một vài máy bay Nhật lọt qua CAP của TF 58 và đánh trúng mục tiêu, kết quả trận đánh cũng không thay đổi. Sai lầm duy nhất của Ozawa là sẵn sàng tin vào các báo cáo thành tích phóng đại đến mức vô lý từ Không quân căn cứ của Kakuta và phi công của chính ông.
Spruance là người chiến thắng rõ ràng trong trận đánh, chỉ mất 130 máy bay và 76 phi công trong khi đã làm tê liệt Lực lượng Cơ động số 1 của Nhật. Tuy nhiên, các quyết định của ông vẫn bị chỉ trích vì đã để Ozawa lấn lướt và không thể phát huy hết sức mạnh vượt trội của TF 58. Một bước ngoặt quan trọng là quyết định không di chuyển về phía tây trong đêm ngày 18–19 tháng 6. Sự thiếu sự chủ động này khiến TF 58 chỉ có thể phòng thủ vào ngày 19 và gặp khó khăn trong việc phản công vào ngày 20. Spruance đưa ra quyết định dựa trên sự ưu tiên tuyệt đối cho an toàn của chiến dịch đổ bộ vào Saipan. Ông tin rằng Nhật sẽ tìm cách lừa ông tiến về phía tây rồi đánh úp lực lượng đổ bộ. Kế hoạch Z bị bắt giữ và mô hình di chuyển của Nhật ngày 17–18 dường như củng cố cho đánh giá đó. Tuy nhiên, Spruance đã đánh giá sai hoàn toàn ý định của Nhật, vì Ozawa thực chất muốn tiêu diệt TF 58 chứ không phải tấn công lực lượng đổ bộ. Kế hoạch phòng thủ mà Spruance chọn có thể dẫn đến thảm họa vì ông đã đặt các tàu sân bay của mình vào thế bị tấn công mà không đảm bảo khả năng phản công. Không một trận đánh tàu sân bay nào khác của chiến tranh mà một chỉ huy lại chọn cách tiếp cận như vậy. Chỉ có sự chênh lệch rõ rệt về kỹ năng giữa phi công Mỹ và Nhật mới khiến chiến lược này không phản tác dụng. Spruance tin vào sự vượt trội của phi công Mỹ, nhưng không ai có thể lường trước việc phi công Nhật sẽ hoàn toàn vô hiệu trong các cuộc tấn công ngày 19.
Nỗi lo của Spruance rằng Nhật có thể vòng qua TF 58 để tấn công lực lượng đổ bộ không chỉ là sai lầm mà còn bị đặt nhầm chỗ. Ông đã cho di chuyển lực lượng đổ bộ 200 hải lý về phía đông Saipan, và ngay cả sau khi TF 58 nhận thêm tàu chiến từ lực lượng đổ bộ, vẫn còn một lực lượng Mỹ đáng kể bảo vệ bãi biển. Bất kỳ cuộc đánh vòng lớn nào của Nhật nhằm vào lực lượng đổ bộ đều khó có cơ hội thành công trước khả năng trinh sát rộng và tấn công mạnh mẽ của TF 58. Spruance đã suy nghĩ như một sĩ quan tác chiến lực lượng hải quân mặt nước, chứ không phải là chỉ huy của lực lượng tàu sân bay mạnh nhất thế giới – một lực lượng có khả năng tấn công mục tiêu từ hàng trăm dặm.
Dù là một chiến thắng chưa trọn vẹn, Spruance đã loại bỏ hoàn toàn lực lượng tàu sân bay Nhật khỏi cuộc chiến trong phần còn lại. Việc sáu tàu sân bay của Ozawa thoát thân với boong tàu trống rỗng không còn nhiều ý nghĩa. Nhưng dư âm của trận Biển Philippine vẫn vang vọng sau tháng 6 năm 1944. Chiến thắng “gây thất vọng” đó có lẽ đã ảnh hưởng đến quyết định sau này của Halsey – coi việc tiêu diệt tàu sân bay Nhật là mục tiêu tối thượng. Hệ quả còn lâu dài hơn nữa là việc Hải quân Nhật nhận ra rằng các cuộc tấn công đường không quy mô lớn thông thường nhằm vào hạm đội Mỹ là vô nghĩa. Nhận thức đó đã buộc họ phải sử dụng các cuộc tấn công cảm tử – mối đe dọa khó khăn nhất mà các tàu sân bay Mỹ phải đối mặt trong toàn bộ cuộc chiến.
Dù việc so sánh tổn thất giữa hai bên có thể là phiến diện, tổng hợp con số từ năm trận đánh tàu sân bay trong Chiến tranh Thái Bình Dương vẫn cho thấy sự khác biệt rõ rệt. Trong các trận đánh này, Nhật mất 9 tàu sân bay, Mỹ chỉ mất 3. Tổn thất máy bay cũng chênh lệch hẳn – Nhật mất gần 900 chiếc, Mỹ chỉ khoảng 450. Về mặt chiến dịch, Nhật không đạt được mục tiêu trong bất kỳ trận nào; trong khi Mỹ đạt được mục tiêu của mình trong cả năm trận. Từ góc nhìn này, các trận đánh tàu sân bay là một nhân tố chủ chốt góp phần vào chiến thắng của Mỹ trong cuộc chiến.

PHỤ LỤC: So sánh tổn thất của hai bên trong năm trận chiến tàu sân bay

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(phần này nằm trong cuốn sách "Pacific Carrier War: Carrier combat from Pearl Harbor to Okinawa")
Aiken, David, “Torpedoing Pearl Harbor,” Military History, December 2001
Aiken, David, “Ghosts of Pearl Harbor,” Flight Journal, June 2007
Bicheno, Hugh, Midway, Cassell and Company, London, 2001
Bullard, Steven (translator), Japanese Army Operations in the South Pacific Area, Australian War Memorial, Canberra, 2007
Cressman, Robert J., et al., A Glorious Page in Our History, Pictorial Histories Publishing Company, Missoula, Montana, 1990
De Virgilio, John, “Japanese Thunderfish,” Naval History, Winter 1991
Dickson, W.D., The Battle of the Philippine Sea, Ian Allan, London, 1975
Dillon, Katherine and Goldstein, Donald, ed., The Pearl Harbor Papers: Inside the Japanese Plans, Brassey’s, Washington, DC, 1993
Dillon, Katherine and Goldstein, Donald, ed., The Pacific War Papers: Japanese Documents of World War II, Potomac Books, Washington, DC, 2004
Dull, Paul, A Battle History of the Imperial Japanese Navy, Naval Institute Press, Annapolis, 1978
Evans, David, ed., The Japanese Navy in World War II, Naval Institute Press, Annapolis, 1986
Foreign Histories Division, General Headquarters Far East Command, Japanese Monograph No. 90, The “A-Go” Operations May–June 1944, Tokyo, 1950
Foreign Histories Division, General Headquarters Far East Command, Japanese Monograph No. 91, The “A-Go” Operations Log Supplement: May– June 1944, Tokyo, 1950
Foreign Histories Division, General Headquarters Far East Command, Japanese Monograph No. 117, Outline of Third Phase Operations (February 1943 to August 1945), Tokyo, 1950
Frank, Richard B., Guadalcanal, Random House, New York, 1990
Fuchida, Mitsuo and Okumiya, Masatake, Midway, Naval Institute Press, Annapolis, 1955
Hammel, Eric, Guadalcanal: The Carrier Battles, Crown Publishers, New York, 1987
Hammel, Eric, Carrier Strike, Pacifica Press, California, 1999
Isom, Dallas Woodbury, Midway Inquest, Indiana University Press, Bloomington, Indiana, 2007
Kawasaki, Manabu, A New View of the Battle of Philippine Sea, Dainihon Kaiga, Tokyo, 2007
Lord, Walter, Day of Infamy, Henry Holt and Company, New York, 2001
Lundstrom, John B., The First Team, Naval Institute Press, Annapolis, 1984
Lundstrom, John B., The First Team and the Guadalcanal Campaign, Naval Institute Press, Annapolis, 1994
Lundstrom, John B., Black Shoe Carrier Admiral, Naval Institute Press, Annapolis, 2006
McGovern, Terrance and Williford, Glen, Defenses of Pearl Harbor and Oahu 1907–50, Osprey, Botley, 2003
Millot, Bernard, The Battle of the Coral Sea, Ian Allan, London, 1974
Morison, Samuel Eliot, The Rising Sun in the Pacific, 1931–April 1942 (Volume III of The History of United States Naval Operations in World War II), Little, Brown and Company, Boston, 1975
Morison, Samuel Eliot, Coral Sea, Midway and Submarine Actions May 1942 - August 1942 (Volume IV of The History of United States Naval Operations in World War II), Little, Brown and Company, Boston, 1975
Morison, Samuel Eliot, The Struggle for Guadalcanal (Volume V of The History of United States Naval Operations in World War II), Little, Brown and Company, Boston, 1975
Morison, Samuel Eliot, New Guinea and the Marianas March 1944– August 1944 (Volume VIII of The History of United States Naval Operations in World War II), Little, Brown and Company, Boston, 1975
Morison, Samuel Eliot, Leyte: June 1944–January 1945 (Volume XII of The History of United States Naval Operations in World War II), Little, Brown and Company, Boston, 1975
Parshall, Jonathan and Tully, Anthony, Shattered Sword, Potomac Books, Washington, DC, 2005
Peattie, Mark, Sunburst: The Rise of Japanese Naval Air Power, 1909–1941, Naval Institute Press, Annapolis, 2001
Prange, Gordon, At Dawn We Slept, McGraw-Hill, New York, 1981
Prange, Gordon, Miracle at Midway, McGraw-Hill, New York, 1982
Prange, Gordon, December 7, 1941: The Day the Japanese Attacked Pearl Harbor, Wings Books, New York, 1991
Reynolds, Clark, The Fast Carriers, Naval Institute Press, Annapolis, 1992
Smith, Peter C., Midway: Dauntless Victory, Pen and Sword, Barnsley, 2007
Tillman, Barrett, Clash of the Carriers, NAL Caliber, New York, 2005
United States Fleet, Battle Experience: Supporting Operations for the Capture of the Marianas Islands (Saipan, Guam, and Tinian) June–August 1944, 1944
Vego, Milan, Major Fleet-versus-Fleet Operations in the Pacific War, 1941– 1945, Naval War College Press, Newport, 2014
Willmott, H.P., The Barrier and the Javelin, Naval Institute Press, Annapolis, 1983
Willmott, H.P., Pearl Harbor, Sterling Publishing Co, New York, 2001
Willmott, H.P., The Battle of Leyte Gulf, Indiana University Press, Bloomington, 2005
Y’Blood, William T., Red Sun Setting, Naval Institute Press, Annapolis, 1981
Zimm, Alan, The Attack on Pearl Harbor: Strategy, Combat, Myths, Deceptions, Casemate, Havertown, Pennsylvania, 2011
Hết
PHẦN 7:
PHẦN 1: