Bức ảnh biểu tượng chụp tàu sân bay Enterprise (CV-6) đang cơ động và khai hỏa pháo phòng không trong giai đoạn cao điểm của cuộc tấn công bằng máy bay ném bom bổ nhào của Nhật Bản trong trận Đông Solomon. Enterprise đều tham chiến cả hai trận chiến tàu sân bay ở vùng Nam Thái Bình Dương và dẫu đều phải hứng chịu thiệt hại nặng nề do bom nhưng con tàu chưa bao giờ có nguy cơ bị đánh chìm. (Naval History and Heritage Command - NHHC)
Bức ảnh biểu tượng chụp tàu sân bay Enterprise (CV-6) đang cơ động và khai hỏa pháo phòng không trong giai đoạn cao điểm của cuộc tấn công bằng máy bay ném bom bổ nhào của Nhật Bản trong trận Đông Solomon. Enterprise đều tham chiến cả hai trận chiến tàu sân bay ở vùng Nam Thái Bình Dương và dẫu đều phải hứng chịu thiệt hại nặng nề do bom nhưng con tàu chưa bao giờ có nguy cơ bị đánh chìm. (Naval History and Heritage Command - NHHC)

CHƯƠNG 5: TRẬN ĐÁNH NGOÀI KHƠI ĐÔNG SOLOMON

CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN SOLOMON

Đô đốc Ernest King là nhân vật có ảnh hưởng chủ chốt trong việc quyết định chiến lược hải quân Mỹ trên mọi chiến trường. Sau Midway, ông yêu cầu thực hiện các hành động tấn công ở Nam Thái Bình Dương, điều dẫn đến cuộc đổ bộ vào Tulagi và Guadalcanal vào tháng 8 năm 1942. (NHHC)
Đô đốc Ernest King là nhân vật có ảnh hưởng chủ chốt trong việc quyết định chiến lược hải quân Mỹ trên mọi chiến trường. Sau Midway, ông yêu cầu thực hiện các hành động tấn công ở Nam Thái Bình Dương, điều dẫn đến cuộc đổ bộ vào Tulagi và Guadalcanal vào tháng 8 năm 1942. (NHHC)
Trận Midway đã chặn đứng đà tiến công của quân Nhật ở Trung Thái Bình Dương và khiến các kế hoạch tiếp tục tiến xuống Nam Thái Bình Dương của Bộ Tổng Tham mưu Hải quân Nhật Bản rơi vào tình trạng “sống thoi thóp.” Trong lúc Nhật Bản còn đang loay hoay tìm hướng hành động tiếp theo, Đô đốc Ernest King đã nhanh chóng giành lại thế chủ động. Từ đầu cuộc chiến, King đã chú trọng đến khu vực Nam Thái Bình Dương. Giờ đây, khi mối đe dọa từ Nhật đối với Hawaii đã được loại bỏ, ông có thể tập trung tìm cách phát động các chiến dịch tấn công tại đây. King không hài lòng với chiến lược phòng thủ đơn thuần nhằm bảo vệ tuyến liên lạc đường biển giữa Hoa Kỳ và Australia. Ngay từ tháng 3 năm 1942, ông đã hình dung một cuộc tiến công ngược lên phía bắc qua quần đảo Solomon để tái chiếm Rabaul.
Diễn biến tại Nam Thái Bình Dương đã khiến mối lo ngại gia tăng, không chỉ đối với King mà còn với tất cả các chỉ huy Đồng Minh trong khu vực. Là một phần của Chiến dịch MO, Nhật Bản đã chiếm Tulagi ở phía nam Solomon vào ngày 3 tháng 5. Đến ngày 13 tháng 6, họ quyết định xây dựng một sân bay trên đảo Guadalcanal – một đảo lớn chỉ cách Tulagi khoảng 20 hải lý. Ngày 6 tháng 7, một đoàn vận tải gồm 12 tàu của Nhật đã đến Guadalcanal, mang theo hai đơn vị xây dựng để bắt đầu thi công sân bay.
Ngay trước khi sự kiện này xảy ra, King đã phối hợp với Đô đốc Nimitz để lên kế hoạch tái chiếm “Tulagi và các vị trí lân cận.” Công tác lập kế hoạch diễn ra với tốc độ chóng mặt nhằm kịp thời hạn đổ bộ ban đầu là ngày 1 tháng 8. Sau khi tình báo Mỹ xác nhận có đơn vị xây dựng của Nhật đang hoạt động trên Guadalcanal, hòn đảo này cũng được đưa vào danh sách mục tiêu. Một lực lượng đổ bộ được tập hợp nhanh chóng và kế hoạch hành quân được tăng tốc, nhưng các trục trặc trong quá trình chất hàng cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 1 tại Wellington (New Zealand) đã khiến cuộc đổ bộ phải lùi lại đến ngày 7 tháng 8.
Phó đô đốc Robert Ghormley được trao quyền chỉ huy Khu vực Đại dương Nam Thái Bình Dương, qua đó trở thành chỉ huy chiến dịch tấn công của Mỹ vào quần đảo Solomon. Ông chưa bao giờ tin tưởng vào chiến dịch này và trở nên bi quan về khả năng thành công của nó. Nimitz đã thực hiện một bước đi phi thường khi cách chức ông vào tháng 10, ngay trước một cuộc tấn công lớn của Nhật Bản. (NHHC)
Phó đô đốc Robert Ghormley được trao quyền chỉ huy Khu vực Đại dương Nam Thái Bình Dương, qua đó trở thành chỉ huy chiến dịch tấn công của Mỹ vào quần đảo Solomon. Ông chưa bao giờ tin tưởng vào chiến dịch này và trở nên bi quan về khả năng thành công của nó. Nimitz đã thực hiện một bước đi phi thường khi cách chức ông vào tháng 10, ngay trước một cuộc tấn công lớn của Nhật Bản. (NHHC)
Để giám sát chiến dịch đổ bộ, Phó Đô đốc Robert Ghormley được bổ nhiệm làm Tư lệnh Khu vực Nam Thái Bình Dương vào ngày 19 tháng 6. Khi đó Đô đốc Halsey vẫn đang dưỡng bệnh, nên Đô đốc Fletcher tiếp tục nắm quyền chỉ huy lực lượng tàu sân bay.
Chiến dịch phản công đầu tiên của Hoa Kỳ trong Thế chiến II chính thức bắt đầu vào ngày 7 tháng 8 và đạt được yếu tố bất ngờ hoàn toàn. Giao tranh dữ dội diễn ra trong thời gian ngắn tại Tulagi và các đảo lân cận Gavutu – Tanambogo, nhưng quân Mỹ đã nhanh chóng kiểm soát được các đảo này. Cuộc đổ bộ chủ lực lên Guadalcanal gần như không vấp phải sự kháng cự nào; đến cuối ngày thứ hai, lính thủy đánh bộ Mỹ đã chiếm được sân bay còn đang thi công.
Ngay lập tức, Nhật Bản đã mở cuộc đáp trả bằng cả về đường không lẫn đường biển. Các máy bay ném bom tầm trung G4M từ Rabaul tấn công đội hình tàu Đồng Minh ngoài khơi Guadalcanal vào các ngày 7 và 8 tháng 8, nhưng phải chịu tổn thất nặng nề chỉ để đánh chìm một tàu vận tải và một tàu khu trục của Mỹ. Tuy nhiên, phản ứng từ lực lượng mặt biển Nhật xuất phát từ Rabaul lại gây thiệt hại nghiêm trọng hơn nhiều. Vào tối ngày 7 tháng 8, các chỉ huy hải quân Nhật tại Rabaul đã lên kế hoạch phản công, tập hợp lực lượng và khởi hành để tấn công đội hình đổ bộ Đồng Minh ngoài khơi Guadalcanal.
Cuộc tấn công đầu tiên của Mỹ trong Thế chiến II diễn ra vào ngày 8 tháng 8 năm 1942 khi Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 1 đổ bộ lên quần đảo Solomon. Bức ảnh này cho thấy lính Thủy quân Lục chiến đang đổ bộ lên Tulagi. (NHHC)
Cuộc tấn công đầu tiên của Mỹ trong Thế chiến II diễn ra vào ngày 8 tháng 8 năm 1942 khi Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 1 đổ bộ lên quần đảo Solomon. Bức ảnh này cho thấy lính Thủy quân Lục chiến đang đổ bộ lên Tulagi. (NHHC)
Dù bị máy bay trinh sát Đồng Minh phát hiện, hạm đội mặt nước Nhật vẫn gây bất ngờ hoàn toàn về mặt chiến thuật vào sáng ngày 9 tháng 8. Nhờ kỹ năng và chiến thuật chiến đấu ban đêm vượt trội, người Nhật đã gây ra thất bại ê chề cho lực lượng yểm trợ Mỹ khi đánh chìm bốn tàu tuần dương hạng nặng của Đồng Minh mà không chịu tổn thất nào.
Ngày 20 tháng 8, máy bay Thủy quân Lục chiến Mỹ đầu tiên đến sân bay vừa hoàn thành – được đặt tên là Sân bay Henderson để tưởng nhớ Thiếu tá Lofton Henderson, người đã tử trận trong trận Midway. Sự hiện diện của máy bay Mỹ trên Guadalcanal làm tăng đáng kể những khó khăn cho người Nhật trong nỗ lực tái chiếm đảo. Ngay hôm sau, cuộc tấn công mặt đất đầu tiên của Nhật nhằm vào sân bay đã thất bại.
Sân bay Henderson chính là trái tim, là linh hồn và cũng là nguyên nhân khiến cả hai bên đổ máu suốt sáu tháng trời trên Guadalcanal. Trong bản đồ có thể phạm vi hoạt động của các loại máy bay Mỹ hoạt động từ sân bay này. Với Nhật Bản, sân bay này là mối đe dọa chết người: chỉ cần nó còn hoạt động, mọi đoàn tàu vận tải chở quân, pháo hạng nặng, xe tăng hay lương thực đều trở thành mồi ngon cho Lực lượng Không quân Cactus đóng trên đảo. Với người Mỹ, Sân bay Henderson không chỉ là một sân bay, mà là điều kiện tồn tại của toàn bộ chiến dịch. Mất sân bay đồng nghĩa với mất đảo, mất đảo đồng nghĩa với mất cả chiến lược chặn đứng bước tiến của Nhật về phía nam Thái Bình Dương. Vì vậy, dù đường băng chỉ là đất lầy lún, dù máy bay phải tiếp nhiên liệu bằng tay từ thùng phuy, dù phi công ngủ dưới cánh máy bay giữa bùn và muỗi, dù phải đối mặt với không quân Nhật đông hơn và máy bay Zero vượt trội, người Mỹ vẫn dốc toàn bộ nguồn lực để giữ cho bằng được. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến hai trận chiến tàu sân bay diễn ra vào cuối năm 1942.
Sân bay Henderson chính là trái tim, là linh hồn và cũng là nguyên nhân khiến cả hai bên đổ máu suốt sáu tháng trời trên Guadalcanal. Trong bản đồ có thể phạm vi hoạt động của các loại máy bay Mỹ hoạt động từ sân bay này. Với Nhật Bản, sân bay này là mối đe dọa chết người: chỉ cần nó còn hoạt động, mọi đoàn tàu vận tải chở quân, pháo hạng nặng, xe tăng hay lương thực đều trở thành mồi ngon cho Lực lượng Không quân Cactus đóng trên đảo. Với người Mỹ, Sân bay Henderson không chỉ là một sân bay, mà là điều kiện tồn tại của toàn bộ chiến dịch. Mất sân bay đồng nghĩa với mất đảo, mất đảo đồng nghĩa với mất cả chiến lược chặn đứng bước tiến của Nhật về phía nam Thái Bình Dương. Vì vậy, dù đường băng chỉ là đất lầy lún, dù máy bay phải tiếp nhiên liệu bằng tay từ thùng phuy, dù phi công ngủ dưới cánh máy bay giữa bùn và muỗi, dù phải đối mặt với không quân Nhật đông hơn và máy bay Zero vượt trội, người Mỹ vẫn dốc toàn bộ nguồn lực để giữ cho bằng được. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến hai trận chiến tàu sân bay diễn ra vào cuối năm 1942.
Sân bay Henderson trên Guadalcanal được chụp vào cuối tháng 8 năm 1942 bởi một máy bay từ Saratoga. Chú ý các hố bom cho thấy dấu hiệu nhiều cuộc không kích của Nhật vào sân bay. Việc kiểm soát Sân bay Henderson đã cho phép người Mỹ làm chủ vùng biển quanh Guadalcanal vào ban ngày và cuối cùng quyết định toàn bộ chiến dịch theo hướng có lợi cho họ. (NHHC)
Sân bay Henderson trên Guadalcanal được chụp vào cuối tháng 8 năm 1942 bởi một máy bay từ Saratoga. Chú ý các hố bom cho thấy dấu hiệu nhiều cuộc không kích của Nhật vào sân bay. Việc kiểm soát Sân bay Henderson đã cho phép người Mỹ làm chủ vùng biển quanh Guadalcanal vào ban ngày và cuối cùng quyết định toàn bộ chiến dịch theo hướng có lợi cho họ. (NHHC)
Ban đầu, phía Nhật tin rằng cuộc đổ bộ của Mỹ chỉ là một cuộc tập kích, nhưng đến cuối tháng 8, Yamamoto đã tập hợp đủ lực lượng cho một chiến dịch quy mô lớn nhằm tái chiếm hòn đảo. Được bảo vệ bởi lực lượng tàu sân bay đã được tái xây dựng, chiến dịch này có các mục tiêu như sau: đưa quân tiếp viện lên đảo và tiêu diệt hạm đội Mỹ đang hỗ trợ cho lực lượng Thủy quân Lục chiến.

LỰC LƯỢNG TÀU SÂN BAY MỸ TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI ĐẦU CỦA CHIẾN DỊCH GUADALCANAL

Việc tiêu diệt bốn tàu sân bay hạm đội của Nhật tại Midway với cái giá chỉ mất tàu sân bay Yorktown đã làm thay đổi cục diện cán cân lực lượng tàu sân bay trên Thái Bình Dương. Trong số 7 tàu sân bay hạm đội mà Hải quân Mỹ có vào đầu chiến tranh, 5 chiếc vẫn còn hoạt động vào tháng 8 năm 1942. Một trong số đó có tàu sân bay Ranger, nhưng nó lại bị đánh giá là không đủ khả năng sống sót khi đối đầu với người Nhật. Điều này khiến Mỹ giờ chỉ còn bốn tàu sân bay có thể triển khai ở Thái Bình Dương. Chiếc tàu sân bay được đóng trước chiến tranh cuối cùng được điều sang Thái Bình Dương là Wasp. Sau khi vận chuyển máy bay tiêm kích của Anh đến Malta ở Địa Trung Hải vào tháng 4 và 5 năm 1942, Wasp đến Thái Bình Dương vào tháng 6 năm 1942. Nó lập tức gia nhập đội hình cùng EnterpriseSaratoga ở Nam Thái Bình Dương dưới quyền chỉ huy của Fletcher. Hornet được giữ lại ở Trung Thái Bình Dương để bảo vệ Hawaii.
Tàu sân bay Saratoga đã bỏ lỡ 3 trong số bốn trận hải chiến tàu sân bay năm 1942 do hư hại từ ngư lôi của tàu ngầm Nhật. Đây là hình ảnh tàu sân bay trong một giai đoạn hiếm hoi nó hoạt động được vào năm 1942. Saratoga đóng vai trò quan trọng trong trận Đông Solomon khi không đoàn của nó đã đánh chìm tàu sân bay hạng nhẹ Ryujo.
Tàu sân bay Saratoga đã bỏ lỡ 3 trong số bốn trận hải chiến tàu sân bay năm 1942 do hư hại từ ngư lôi của tàu ngầm Nhật. Đây là hình ảnh tàu sân bay trong một giai đoạn hiếm hoi nó hoạt động được vào năm 1942. Saratoga đóng vai trò quan trọng trong trận Đông Solomon khi không đoàn của nó đã đánh chìm tàu sân bay hạng nhẹ Ryujo.
Các tàu sân bay Wasp (phía trước), Saratoga và Enterprise (phía sau) của Hoa Kỳ hoạt động ở Thái Bình Dương phía nam Guadalcanal vào ngày 12 tháng 8 năm 1942.
Các tàu sân bay Wasp (phía trước), Saratoga và Enterprise (phía sau) của Hoa Kỳ hoạt động ở Thái Bình Dương phía nam Guadalcanal vào ngày 12 tháng 8 năm 1942.
Một trong những bài học chính từ Midway là cần nhiều máy bay tiêm kích hơn trong không đoàn của các tàu sân bay Mỹ. Theo đó, số lượng của một phi đội tiêm kích được tăng từ 27 lên 36 chiếc Wildcat. Các không đoàn tàu sân bay vẫn giữ cấu trúc bốn phi đội, với mỗi phi đội ném bom bổ nhào và phi đội ngư lôi có quân số trên danh nghĩa là 18 máy bay. Tổn thất nặng nề tại Midway và chính sách thận trọng đưa các cựu chiến binh trở về đơn vị huấn luyện khiến các không đoàn phải được tái tổ chức lại vào tháng 8 năm 1942. Những thiệt hại nặng trong hai trận đánh tàu sân bay đầu tiên buộc Hải quân Mỹ phải từ bỏ chính sách tiền chiến là phân bổ một không đoàn cho một tàu cụ thể trên cơ sở lâu dài. Không đoàn của Saratoga bao gồm một phi đội tiêm kích mới không có kinh nghiệm chiến đấu nhưng có một số phi công dày dạn kinh nghiệm. Các phi đội bổ nhào bao gồm VB-3 của Yorktown, từng chiến đấu ở Biển San hô và Midway, cùng một phi đội khác chưa từng tham chiến. Phi đội ngư lôi là VT-8 của Hornet, được tái lập sau khi bị xóa sổ tại Midway. Không đoàn của Enterprise đã chịu tổn thất nặng tại Midway và phải được tái thiết. Phi đội tiêm kích ban đầu được giữ lại nhưng gần như mất hết cựu binh. Các phi đội bổ nhào đến từ EnterpriseYorktown. Phi đội ngư lôi là của Yorktown, vốn cũng gần như bị tiêu diệt hoàn toàn tại Midway. Không đoàn của Hornet vẫn không thay đổi kể từ khi ra mắt không thành công tại Midway.
Chỉ huy tàu sân bay Mỹ dày dạn kinh nghiệm chiến đấu nhất khi bước vào chiến dịch Guadalcanal là Phó đô đốc Frank “Jack” Fletcher. Ông nắm quyền chỉ huy lực lượng tàu sân bay Mỹ tại trận Biển San Hô và được Nimitz khen ngợi về màn thể hiện của mình. Ông cũng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc thực hiện những đợt tấn công ban đầu khiến các tàu sân bay Nhật bị bất ngờ hoàn toàn trong trận Midway. Ông được đồng nghiệp mô tả là người khiêm tốn, có bản lĩnh, nhưng có xu hướng thận trọng trừ khi ông cho rằng rủi ro là đáng giá. Đến thời điểm chiến dịch Guadalcanal, đặc biệt là sau khi ông rút các tàu sân bay ngay sau cuộc đổ bộ, những lời chỉ trích về việc ông quá rụt rè ngày càng gay gắt hơn. Fletcher nhận được sự ủng hộ của Nimitz, nhưng không phải của King. Sau trận Đông Solomon, Fletcher được lên lịch nghỉ phép tại Mỹ, và King đảm bảo rằng ông không bao giờ nhận được một quyền chỉ huy tàu sân bay nào nữa.
Chỉ huy tàu sân bay Mỹ dày dạn kinh nghiệm chiến đấu nhất khi bước vào chiến dịch Guadalcanal là Phó đô đốc Frank “Jack” Fletcher. Ông nắm quyền chỉ huy lực lượng tàu sân bay Mỹ tại trận Biển San Hô và được Nimitz khen ngợi về màn thể hiện của mình. Ông cũng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc thực hiện những đợt tấn công ban đầu khiến các tàu sân bay Nhật bị bất ngờ hoàn toàn trong trận Midway. Ông được đồng nghiệp mô tả là người khiêm tốn, có bản lĩnh, nhưng có xu hướng thận trọng trừ khi ông cho rằng rủi ro là đáng giá. Đến thời điểm chiến dịch Guadalcanal, đặc biệt là sau khi ông rút các tàu sân bay ngay sau cuộc đổ bộ, những lời chỉ trích về việc ông quá rụt rè ngày càng gay gắt hơn. Fletcher nhận được sự ủng hộ của Nimitz, nhưng không phải của King. Sau trận Đông Solomon, Fletcher được lên lịch nghỉ phép tại Mỹ, và King đảm bảo rằng ông không bao giờ nhận được một quyền chỉ huy tàu sân bay nào nữa.
Có một thay đổi lớn về loại máy bay trên các tàu sân bay Mỹ – máy bay ném ngư lôi Grumman TBF-1 Avenger thay thế cho máy bay Douglas TBD-1 Devastator. Avenger có tầm hoạt động tốt hơn nhiều và tốc độ nhanh hơn. Ngoài ra, nó có hệ thống phòng vệ tốt hơn và khả năng chịu đòn lớn hơn. Tuy nhiên, ngư lôi tiêu chuẩn của Mỹ được thả từ máy bay vẫn là loại Mark XIII, nổi tiếng về độ kém tin cậy. Vì vậy, Avenger thường được trang bị bom trong các nhiệm vụ tấn công hải quân. Các vấn đề liên tục với ngư lôi khiến máy bay bổ nhào Douglas SBD-3 Dauntless vẫn là phương tiện tấn công chính của các không đoàn tàu sân bay Mỹ trong chiến dịch Guadalcanal. Máy bay tiêm kích tiêu chuẩn của Mỹ trong chiến dịch là Grumman F4F-4 Wildcat. Tại Biển San hô và Midway, Wildcat vẫn có thể đối đầu với tiêm kích Zero của Nhật miễn là các phi công sử dụng đúng chiến thuật.
Các đô đốc Mỹ vẫn đang vật lộn với chiến thuật tác chiến của tàu sân bay. Bất chấp các vấn đề phối hợp nghiêm trọng tại Midway, công cụ tấn công tiêu chuẩn vẫn là một không đoàn đơn lẻ, với các phi đội trong đó di chuyển rời rạc đến mục tiêu với hy vọng có thể tiến hành một cuộc tấn công phối hợp. Một vấn đề gây tranh cãi hơn là liệu các tàu sân bay nên được tập trung lại hay không. Quan điểm thiểu số, bao gồm cả Fletcher, cho rằng các tàu sân bay sẽ hiệu quả hơn khi triển khai trong cùng một đội hình vì điều này sẽ tăng cường hỗ trợ lẫn nhau và khả năng phòng thủ. Quan trọng nhất, nó cho phép tập trung máy bay tiêm kích và hộ tống để tăng sức mạnh phòng thủ của lực lượng đặc nhiệm. Đây là chiến thuật Fletcher đã sử dụng tại Biển San Hô. Ngược lại, tại Midway, tàu sân bay đơn độc của Fletcher phải chiến đấu một mình ngoài tầm hỗ trợ liên tục từ TF 16 và bị đánh chìm. Hầu hết các chỉ huy tàu sân bay khác, bao gồm đa số phi công và cả Đô đốc King, lại ủng hộ sự phân tán với các tàu sân bay hoạt động cách nhau 15–20 hải lý. Họ tin rằng điều này làm giảm khả năng một máy bay trinh sát Nhật có thể phát hiện nhiều hơn một tàu sân bay, đồng nghĩa là không phải tất cả các tàu đều sẽ bị tấn công. Một lý do khác cho việc sử dụng đội hình một tàu là theo các sĩ quan hàng không, điều hành công tác bay cho hai tàu trong cùng một đội hình là quá phức tạp.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Mỹ lúc 05 giờ vào ngày 24 tháng 8 năm 1942.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Mỹ lúc 05 giờ vào ngày 24 tháng 8 năm 1942.
Trong chiến dịch Guadalcanal, chiến thuật phân tán được sử dụng với kết quả hỗn hợp. Tại trận Đông Solomon, EnterpriseSaratoga hoạt động trong các lực lượng đặc nhiệm riêng biệt và Saratoga tránh được bị tấn công. Các đô đốc hàng không cho rằng đó là nhờ khoảng cách giữa các tàu, nhưng Fletcher lại tin chính xác hơn rằng nguyên nhân là nhờ tuần tra không chiến hiệu quả. Tại Santa Cruz, EnterpriseHornet cũng hoạt động riêng biệt nhưng chỉ cách nhau 10 hải lý. Điều này vừa không đủ để tập trung đủ máy bay tiêm kích hay hộ tống, lại vừa quá gần để gây nhầm lẫn cho phía Nhật Bản.
Tại Biển San hô và Midway, hệ thống phòng không của Mỹ có thể gây tổn thất đáng kể cho các không đoàn tấn công của Nhật, nhưng vẫn không thể ngăn chặn người Nhật đánh trúng các mục tiêu chính. Xu hướng này tiếp tục kéo dài đến nửa cuối năm 1942 với tổn thất của Nhật ngày càng gia tăng. Người Mỹ có lợi thế rõ rệt nhờ radar trinh sát đường không, nhưng điều này vẫn chưa chuyển hóa thành một hệ thống tuần tra không chiến (CAP) hiệu quả một cách nhất quán. Việc phát hiện máy bay Nhật ở khoảng cách lên đến 70 hải lý là đủ để cho các chiếc Wildcat cất cánh và thậm chí đạt độ cao cần thiết, nhưng việc thiếu radar xác định độ cao đã ngăn cản khả năng kiểm soát tiêm kích một cách thực sự hiệu quả. Việc điều phối tiêm kích vẫn là một nghệ thuật đang trong quá trình hoàn thiện, phụ thuộc vào kinh nghiệm của sĩ quan điều phối tiêm kích (FDO) và nhiều yếu tố chiến thuật thường nằm ngoài tầm kiểm soát của ông ta.
Pháo phòng không Mỹ đã trở thành một phần quan trọng trong các trận hải chiến tàu sân bay năm 1942 khi gây tổn thất ngày càng lớn cho máy bay tấn công Nhật. Khẩu pháo Oerlikon 20mm, được chụp ở đây trên tàu Yorktown, là vũ khí phòng không hiệu quả nhất về số lượng máy bay Nhật bị bắn hạ. Tuy nhiên, tầm bắn hiệu quả ngắn của khẩu pháo đồng nghĩa với việc hầu hết máy bay Nhật đã thả vũ khí trước khi bị bắn rơi. (NHHC)
Pháo phòng không Mỹ đã trở thành một phần quan trọng trong các trận hải chiến tàu sân bay năm 1942 khi gây tổn thất ngày càng lớn cho máy bay tấn công Nhật. Khẩu pháo Oerlikon 20mm, được chụp ở đây trên tàu Yorktown, là vũ khí phòng không hiệu quả nhất về số lượng máy bay Nhật bị bắn hạ. Tuy nhiên, tầm bắn hiệu quả ngắn của khẩu pháo đồng nghĩa với việc hầu hết máy bay Nhật đã thả vũ khí trước khi bị bắn rơi. (NHHC)
Hệ thống phòng không trên tàu của Mỹ được nâng cấp liên tục trong năm 1942 khi các tàu chiến mới, mạnh mẽ hơn được biên chế vào hạm đội và các tàu hiện có được trang bị thêm pháo phòng không. Học thuyết điều động nhóm tác chiến tàu sân bay như một khối thống nhất để tập trung hỏa lực bảo vệ tàu sân bay đã cho thấy hiệu quả cho đến thời điểm đó. Trong giai đoạn này, pháo 20mm là loại vũ khí hiệu quả nhất chống lại máy bay Nhật bất chấp tầm bắn ngắn của nó. Mỗi tàu, từ tàu khu trục cho đến tàu sân bay, đều được trang bị số lượng đáng kể loại pháo này, vốn có thể được lắp ở bất cứ vị trí nào có cung bắn trống. Loại pháo hai chức năng 5 inch/38 xuất sắc được triển khai với số lượng lớn hơn trên các tàu tuần dương hạng nhẹ lớp Atlanta mới và các thiết giáp hạm lớp North Carolina và South Dakota, những tàu đã được tích hợp vào các nhóm tác chiến tàu sân bay.

TÁI TỔ CHỨC KIDO BUTAI

Phó đô đốc Nagumo Chuichi là chỉ huy tàu sân bay dày dạn kinh nghiệm nhất thế giới vào thời điểm bắt đầu chiến dịch Guadalcanal. Tuy nhiên, đối với Hải quân Đế quốc Nhật Bản, không phải tất cả những kinh nghiệm đó đều là những kinh nghiệm tốt. Sau thất bại tại Midway, ông thể hiện sự thận trọng quá mức trong hai trận chiến tàu sân bay tại Guadalcanal.
Phó đô đốc Nagumo Chuichi là chỉ huy tàu sân bay dày dạn kinh nghiệm nhất thế giới vào thời điểm bắt đầu chiến dịch Guadalcanal. Tuy nhiên, đối với Hải quân Đế quốc Nhật Bản, không phải tất cả những kinh nghiệm đó đều là những kinh nghiệm tốt. Sau thất bại tại Midway, ông thể hiện sự thận trọng quá mức trong hai trận chiến tàu sân bay tại Guadalcanal.
Thảm họa tại Midway đã khiến Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) buộc phải tái tổ chức toàn diện lực lượng tàu sân bay. Mặc cho danh tiếng là một nhà cải cách thiên về hàng không, Yamamoto vẫn coi thiết giáp hạm là thành phần quan trọng nhất của Hạm đội Liên hợp, điều được thể hiện rõ trong kế hoạch cho Chiến dịch MI. Cuộc tái tổ chức Hạm đội Liên hợp vào ngày 14 tháng 7 cuối cùng đã công nhận tàu sân bay là trung tâm của hạm đội. Hạm đội Không quân số 1 được đổi tên thành Hạm đội số 3 và trở thành lực lượng tấn công chủ lực của Hạm đội Liên hợp. Yamamoto vẫn để Nagumo chỉ huy lực lượng tàu sân bay, có lẽ vì ông là chỉ huy tàu sân bay nhiều kinh nghiệm nhất của IJN. Hạm đội số 2, vốn là lực lượng trinh sát truyền thống gồm các tàu tuần dương hạng nặng và khu trục, được giao vai trò sửa đổi làm màn hình tiên phong cho Hạm đội số 3. Lực lượng này triển khai cách các tàu sân bay từ 100 đến 150 hải lý và có thể tiêu diệt các tàu Mỹ bị không kích làm tê liệt. Lực lượng Tiên Phong cũng được kỳ vọng sẽ thu hút một phần các đợt không kích của Mỹ nhắm vào tàu sân bay Nhật.
Như đã đề cập, trận Midway đã xóa bỏ ưu thế tàu sân bay hạm đội của Nhật. Sau Midway, IJN chỉ còn lại hai tàu sân bay hạm đội cộng với ba tàu sân bay hạng nhẹ hoặc hoán cải, và một tàu nữa sắp được đưa vào biên chế. So với 6 tàu sân bay các loại mà Nhật có thể triển khai, Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ chỉ có 4, tuy nhiên bốn tàu sân bay Mỹ có sức chứa máy bay lớn hơn so với sáu tàu sân bay Nhật. Hạm đội 3 mới gồm hai hải đội tàu sân bay. Hải đội Tàu sân bay 1 (dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Nagumo) gồm Shokaku và tàu chị em Zuikaku. Tàu sân bay hạng nhẹ cải hoán Zuiho gia nhập cùng hai tàu lớn này. Mục tiêu khi đưa tàu sân bay hạng nhẹ vào là để tập trung vào phòng không và trinh sát, để lại các tàu sân bay hạm đội cho nhiệm vụ tấn công. Hải đội Tàu sân bay 2 do Chuẩn Đô đốc Kakuta chỉ huy, người từng chỉ huy các tàu sân bay trong chiến dịch Aleutian. Hải đội này gồm các tàu sân bay cải hoán JunyoHiyo (hoàn thành vào tháng 7) cùng tàu sân bay hạng nhẹ Ryujo. Hạm đội 3 cũng được tăng cường số lượng tàu hộ tống, điều này nhằm khắc phục một trong những bài học rút ra từ trận Midway.
Những bài học cay đắng từ Midway cũng dẫn đến thay đổi trong thành phần trong các không đoàn tàu sân bay Nhật. Trên hai tàu sân bay hạm đội, số lượng phi đội tiêm kích được tăng lên 27 chiếc, tương tự với phi đội ném bom bổ nhào. Máy bay ném ngư lôi được đánh giá là dễ tổn thương hơn nên số lượng máy bay Type 97 bị giảm xuống còn 18 chiếc. Hai tàu sân bay cải hoán lớp Hiyo cũng có cơ cấu tương tự, với tổng cộng 48 máy bay chia thành 21 chiếc Zero, 18 máy bay ném bom bổ nhào và 9 chiếc Type 97. Biên chế máy bay của hai tàu sân bay hạng nhẹ phản ánh rõ vai trò phòng không của chúng. Ryujo mang theo 24 chiếc Zero và 9 chiếc Type 97, trong khi Zuiho mang 21 và 6 chiếc tương ứng.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Nhật Bản lúc 05 giờ vào ngày 24 tháng 8 năm 1942.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Nhật Bản lúc 05 giờ vào ngày 24 tháng 8 năm 1942.
Khi người Mỹ đổ bộ lên Guadalcanal vào ngày 7 tháng 8, quá trình tái tổ chức lực lượng tàu sân bay IJN vẫn đang được tiến hành. Yamamoto phải khẩn cấp phản ứng với hành động của Mỹ, nhưng đến giữa tháng chỉ có Hải đội Tàu sân bay 1 là sẵn sàng chiến đấu. Để làm được điều này, Nhật phải rút toàn bộ tiêm kích và máy bay ném bom bổ nhào từ Hải đội Tàu sân bay 2. Kết quả là Hải đội Tàu sân bay 2 không đủ khả năng chiến đấu cho đến tận tháng 9. Do phần lớn các phi công IJN vẫn còn sống sót sau Midway, tất cả các phi đội tiêm kích đều gồm nhiều cựu binh, còn các phi đội ném bom bổ nhào và ném ngư lôi ít nhất cũng được dẫn dắt bởi những phi công đã từng tham chiến.
Phó đô đốc Kondo Nobutake, người chỉ huy Lực lượng Tiên phong sau khi Hạm đội Liên hợp tái tổ chức lại sau trận Midway. Là thành viên của cái gọi là “phe thiết giáp hạm,” ông cũng được biết đến với tính khí quyết đoán. Ông là một nhân vật quan trọng, dù thường bị xem nhẹ, trong các trận hải chiến tại Guadalcanal. Ông giữ những vị trí chỉ huy quan trọng trong các trận Đông Solomon, Santa Cruz và trong các trận hải chiến cao trào vào tháng 11 năm 1942.
Phó đô đốc Kondo Nobutake, người chỉ huy Lực lượng Tiên phong sau khi Hạm đội Liên hợp tái tổ chức lại sau trận Midway. Là thành viên của cái gọi là “phe thiết giáp hạm,” ông cũng được biết đến với tính khí quyết đoán. Ông là một nhân vật quan trọng, dù thường bị xem nhẹ, trong các trận hải chiến tại Guadalcanal. Ông giữ những vị trí chỉ huy quan trọng trong các trận Đông Solomon, Santa Cruz và trong các trận hải chiến cao trào vào tháng 11 năm 1942.
Học thuyết và chiến thuật tàu sân bay Nhật cũng được điều chỉnh sau Midway. Bài học lớn nhất và rõ ràng nhất là tầm quan trọng của trinh sát. Trong ba trận đánh tàu sân bay tiếp theo của cuộc chiến, công tác trinh sát của Nhật đã đạt tới trình độ ngang bằng hoặc tốt hơn so với Mỹ. Người Nhật cũng áp dụng các biện pháp nhằm giảm thiểu tính dễ tổn thương của tàu sân bay. Các máy bay tấn công không được giữ nguyên trạng thái nạp nhiên liệu và vũ khí; nếu không thể cất cánh, máy bay sẽ được xả nhiên liệu và tháo vũ khí. Về mặt tấn công, Nhật vẫn cho thấy khả năng vượt trội trong việc tổ chức các cuộc tấn công không quân giữa nhiều tàu sân bay. Các tàu sân bay không hoạt động riêng lẻ mà theo từng hải đội tàu sân bay. Các máy bay của một hải đội được sử dụng như một đơn vị chiến thuật thống nhất. Điều này mang lại sự linh hoạt lớn hơn, tốc độ xuất kích nhanh hơn và quy mô tấn công lớn hơn so với người Mỹ. Một bài học khác từ Midway là sự dễ tổn thương của máy bay ném ngư lôi. Học thuyết của người Nhật khi đối đầu với các mục tiêu hải quân được phòng vệ tốt là tấn công đồng thời bằng máy bay ném bom bổ nhào và máy bay ném ngư lôi để áp đảo hệ thống phòng thủ của mục tiêu và giảm thiểu tổn thất cho các máy bay ném ngư lôi dễ bị tổn thương hơn. Trong trận đánh tàu sân bay đầu tiên của chiến dịch Guadalcanal, Nhật Bản chọn giữ lại các máy bay ném ngư lôi cho đến khi các tàu sân bay Mỹ bị đánh tê liệt bởi máy bay ném bom bổ nhào. Tuy nhiên, các máy bay ném bom bổ nhào không thể tự mình hạ một tàu sân bay nên chiến thuật này đã thất bại ở trận Đông Solomon. Đến trận đánh thứ hai vào tháng 10, Nhật đã quay lại phương thức kết hợp truyền thống với các đòn tấn công đồng thời từ máy bay ném bom bổ nhào và ném ngư lôi.
Tuy người Nhật rất giỏi trong việc tập trung và phối hợp sức mạnh không quân tàu sân bay, họ lại kém hơn nhiều trong việc phòng không bảo vệ chính tàu sân bay của mình. Hệ thống phòng không của họ đã hoàn toàn thất bại tại Midway do không có radar, học thuyết CAP yếu kém và khả năng pháo phòng không thấp. Kết hợp với các quy trình kiểm soát thiệt hại tồi tệ, hậu quả từ những điều đó được xem là thảm họa. Không có thay đổi nào về học thuyết CAP được thực hiện trước chiến dịch Guadalcanal. Cảnh báo sớm được cải thiện nhờ việc triển khai Lực lượng Tiên Phong làm hàng rào phòng không và lần đầu tiên triển khai radar trên tàu sân bay Nhật. Vào tháng 8, Shokaku được trang bị radar Number 21 với tầm hiệu quả khoảng 60 hải lý đối với các tốp máy bay bay cao. Tại trận Đông Solomon, Nhật vẫn đang học cách sử dụng radar nên nó không đóng vai trò hiệu quả trong trận đánh. Tuy vậy, những cải thiện trong việc cảnh báo sớm, kết hợp với trinh sát tốt hơn nhiều, đã làm giảm đáng kể khả năng tàu sân bay Nhật bị đánh úp hoàn toàn như ở Midway.

TRẬN ĐÁNH TẠI ĐÔNG SOLOMON

Diễn biến Trận Đông Solomon ngày 24 tháng 8 năm 1942.
Diễn biến Trận Đông Solomon ngày 24 tháng 8 năm 1942.
Như Ghormley đã phác thảo vào ngày 11 tháng 8, Fletcher và lực lượng tàu sân bay của ông được giao nhiều nhiệm vụ. Các nhiệm vụ này bao gồm: tiêu diệt lực lượng tàu sân bay Nhật nếu có thể, bảo vệ tuyến thông tin liên lạc Espiritu Santo–Noumea, hỗ trợ Thủy quân Lục chiến trên Guadalcanal và Tulagi, và bảo vệ các đoàn tiếp tế và tăng viện đến Guadalcanal. Tập hợp nhiệm vụ này yêu cầu Fletcher phải duy trì các tàu sân bay gần Guadalcanal để có thể chặn đứng một chiến dịch lớn của Nhật nhằm vào hòn đảo. Đồng thời, Fletcher cũng không muốn tiến quá gần đến mức các tàu sân bay bị đặt trong tầm trinh sát và tấn công của không quân Nhật hoạt động từ Rabaul. Để có cảnh báo về một chiến dịch hải quân lớn của Nhật sắp xảy ra, Fletcher phải dựa vào thủy phi cơ PBY Catalina hoạt động tầm xa. Ông cũng kỳ vọng có cảnh báo chiến lược từ tình báo về các chiến dịch lớn của Nhật. Tuy nhiên, các chỉ huy Mỹ lại không có được mức độ hiểu biết về ý đồ của Nhật như trước Trận Biển San hô và Midway. Trước trận đánh tàu sân bay đầu tiên của chiến dịch, Fletcher không có thông tin chắc chắn nào về ý đồ hay đội hình tác chiến của Nhật. Việc thiếu hụt thông tin tình báo càng trở nên nghiêm trọng vào ngày 18 tháng 8 khi Hải quân Nhật thay đổi tín hiệu vô tuyến, khiến việc phân tích lưu lượng radio của Nhật bị gián đoạn tạm thời. Tính đến ngày 21 tháng 8, Fletcher vẫn được thông báo rằng các tàu sân bay Nhật vẫn đang ở Nhật Bản. Fletcher đã thiếu chắc chắn đến mức đã cho tách một trong ba tàu sân bay ra để tiếp nhiên liệu ngay trước trận đánh.
Đội hình của lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay của Enterprise trong trận Đông Solomon ngày 24 tháng 8 năm 1942.
Đội hình của lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay của Enterprise trong trận Đông Solomon ngày 24 tháng 8 năm 1942.
Để cân bằng giữa việc tránh bị Nhật tấn công và sẵn sàng phản ứng trước bất kỳ đòn đánh lớn nào, Fletcher triển khai các tàu sân bay giữa San Cristobal và Espiritu Santo. Vị trí này nằm ngoài tầm trinh sát đường không của Nhật và cách Guadalcanal 12 giờ hành quân để vào tầm tấn công. Trong những ngày trước trận đánh tại Đông Solomon, các cuộc trinh sát đường không và thông tin tình báo đã cho Fletcher đủ thời gian để điều lực lượng tàu sân bay lên phía bắc can thiệp vào đợt tấn công đầu tiên của Yamamoto nhằm đẩy quân Mỹ ra khỏi Guadalcanal.
Dù quân Nhật bị bất ngờ hoàn toàn khi Mỹ đổ bộ lên Guadalcanal, Yamamoto đã phản ứng một cách nhanh chóng và chỉ trong vòng hai tuần đã tập kết phần lớn Hạm đội Liên hợp tại Truk để chuẩn bị cho một chiến dịch lớn. Kế hoạch của Yamamoto có hai mục tiêu. Mục tiêu chính là tiêu diệt hạm đội Mỹ đang yểm trợ Thủy quân Lục chiến trên Guadalcanal. Mục tiêu phụ là đưa viện binh lên đảo. Để thực hiện điều này, chiến dịch bao gồm một đoàn vận tải gồm ba tàu chở 1.500 quân. Tuy nhiên, đoàn tàu này không thể tiếp cận được đảo nếu sân bay Henderson chưa bị vô hiệu hóa. Sân bay sẽ bị đánh phá bởi các đợt không kích hàng ngày từ Rabaul và các đợt pháo kích ban đêm của các tàu tuần dương. Nếu các biện pháp này thất bại, trách nhiệm đánh sập Henderson Field sẽ được giao cho lực lượng tàu sân bay của Nagumo. Điều này gây ra nhiều vấn đề, vì Yamamoto không muốn sử dụng tàu sân bay của Nagumo cho nhiệm vụ này vì điều đó sẽ để lộ sự hiện diện của chúng cho người Mỹ. Giải pháp thỏa hiệp là chỉ sử dụng tàu sân bay để tấn công Sân bay Henderson vào ngày 24 tháng 8 nếu đến hết ngày 23 mà chưa bị phát hiện. Nhiệm vụ chính của lực lượng tàu sân bay của Nagumo, phối hợp với Lực lượng Tiên Phong và Lực lượng Yểm trợ, là tiêu diệt tàu sân bay Mỹ. Nếu hạm đội Mỹ bị tiêu diệt, Thủy quân Lục chiến trên đảo sẽ phải đầu hàng.
Nhiệm vụ của các tàu sân bay do Nagumo chỉ huy càng trở nên rối rắm hơn trong những ngày trước trận đánh khi Nhật không thể loại bỏ mối đe dọa đường không từ Henderson Field. Để chế áp sân bay này trước ngày 24 tháng 8, thời điểm đoàn vận tải dự kiến sẽ đến nơi, Yamamoto ra lệnh cho một cuộc không kích từ tàu sân bay vào sân bay. Tàu sân bay hạng nhẹ Ryujo, được hộ tống bởi tàu tuần dương hạng nặng Tone và hai tàu khu trục, được tách ra khỏi lực lượng của Nagumo để thực hiện nhiệm vụ này. Đây không phải là hành động nghi binh hay mồi nhử nhằm đánh lạc hướng tàu sân bay Mỹ như thường được mô tả trong các tài liệu về trận đánh. Kế hoạch do Yamamoto và bộ tham mưu của ông vạch ra có nhiều lỗ hổng nghiêm trọng. Với chỉ hai tàu sân bay hạm đội và một tàu sân bay hạng nhẹ, lực lượng tàu sân bay của IJN chỉ đạt mức ngang bằng với Mỹ về tàu sân bay hạm đội. Giả định rằng họ có thể giành chiến thắng quyết định và đánh bật hạm đội Mỹ khỏi vùng biển Guadalcanal là điều viển vông. Mục tiêu phụ là đổ bộ 1.500 quân tiếp viện lên Guadalcanal trở nên vô nghĩa vì lực lượng đồn trú Thủy quân Lục chiến trên đảo có hơn 10.000 người, và hàng ngàn quân khác đóng ở Tulagi. Việc Yamamoto tung ra hạm đội lớn vào một chiến dịch chỉ để đưa 1.500 quân lên bờ chỉ có thể được giải thích bằng giả định của Nhật rằng cuộc đổ bộ của Mỹ lên Guadalcanal chỉ là một cuộc tập kích. Nếu người Nhật để ý, giả định này đã bị chứng minh là sai lầm tai hại khi đợt phản công trên bộ đầu tiên của họ với khoảng 900 quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn vào ngày 21 tháng 8. Hơn nữa, việc sử dụng một tàu sân bay hạng nhẹ duy nhất để chế áp Henderson Field là một hành động liều lĩnh. Thật ngây thơ khi cho rằng không đoàn của một tàu sân bay hạng nhẹ có thể làm được trong một cuộc không kích đơn lẻ điều mà hàng chục phi vụ từ Rabaul không làm được trong suốt hai tuần qua.
Máy bay trinh sát tầm xa tiêu chuẩn của Mỹ năm 1942 là PBY Catalina. Trong hai trận hải chiến tàu sân bay của chiến dịch Guadalcanal, PBY, hoạt động từ Espiritu Santo và các tàu tiếp liệu ở quần đảo Santa Cruz, đã hỗ trợ xuất sắc cho lực lượng tàu sân bay Hải quân Mỹ. Thật không may cho người Mỹ, lợi thế tiềm năng từ các báo cáo liên lạc của PBY đã bị lãng phí do các vấn đề liên lạc. (NHHC)
Máy bay trinh sát tầm xa tiêu chuẩn của Mỹ năm 1942 là PBY Catalina. Trong hai trận hải chiến tàu sân bay của chiến dịch Guadalcanal, PBY, hoạt động từ Espiritu Santo và các tàu tiếp liệu ở quần đảo Santa Cruz, đã hỗ trợ xuất sắc cho lực lượng tàu sân bay Hải quân Mỹ. Thật không may cho người Mỹ, lợi thế tiềm năng từ các báo cáo liên lạc của PBY đã bị lãng phí do các vấn đề liên lạc. (NHHC)
 Hoạt động tìm kiếm của Không đoàn 6 vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Các khu vực được phân chia như sau: - 290°-300°: Welissenborn – Mears; - 300°-310°: Myers – Corl; - 310°-320°: Jorgenson – Bingham; - 320°-330°: Jett – Bye; - 330°-340°: Strong -  Richey; - 340°-350°: Davis – Shaw; - 350°-360°: Lowe – Gibson; - 360°-010°: Horenburger. Kết quả tìm kiếm trong vòng hơn hai tiếng đồng hồ đã mang lại những phát hiện quan trọng sau: 1. 14 giờ 40 phút – Jett và Bye phát hiện hàng tàu sân bay Ryūjō; 2. 15 giờ – Myers và Corl cũng nhìn thấy Ryūjō; 3. 15 giờ 10 phút – Jorgenson và Bingham xác nhận lại vị trí Ryūjō; 4. 15 giờ 10 phút – Strong và Richey phát hiện Ryūjō lần thứ tư; 5. 15 giờ 10 phút – Lowe và Gibson phát hiện các tàu tuần dương của Abe (lực lượng hộ tống Ryūjō); 6. 15 giờ 45 phút – Davis và Shaw phát hiện lực lượng chính của Nhật: hai tàu sân bay lớn Shōkaku và Zuikaku. (Erich Hammel)
Hoạt động tìm kiếm của Không đoàn 6 vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Các khu vực được phân chia như sau: - 290°-300°: Welissenborn – Mears; - 300°-310°: Myers – Corl; - 310°-320°: Jorgenson – Bingham; - 320°-330°: Jett – Bye; - 330°-340°: Strong - Richey; - 340°-350°: Davis – Shaw; - 350°-360°: Lowe – Gibson; - 360°-010°: Horenburger. Kết quả tìm kiếm trong vòng hơn hai tiếng đồng hồ đã mang lại những phát hiện quan trọng sau: 1. 14 giờ 40 phút – Jett và Bye phát hiện hàng tàu sân bay Ryūjō; 2. 15 giờ – Myers và Corl cũng nhìn thấy Ryūjō; 3. 15 giờ 10 phút – Jorgenson và Bingham xác nhận lại vị trí Ryūjō; 4. 15 giờ 10 phút – Strong và Richey phát hiện Ryūjō lần thứ tư; 5. 15 giờ 10 phút – Lowe và Gibson phát hiện các tàu tuần dương của Abe (lực lượng hộ tống Ryūjō); 6. 15 giờ 45 phút – Davis và Shaw phát hiện lực lượng chính của Nhật: hai tàu sân bay lớn Shōkaku và Zuikaku. (Erich Hammel)
Tình báo và trinh sát đường không của Mỹ đã cung cấp nhiều dấu hiệu cho thấy một chiến dịch lớn của Nhật sắp diễn ra. Vào ngày 23 tháng 8, các thủy phi cơ PBY phát hiện lực lượng vận tải Nhật. Đáp lại, Nagumo cho tàu sân bay chuyển hướng lên phía bắc để tránh bị phát hiện và do đó không bị xác định vị trí trong suốt cả ngày. Khi Fletcher nhận được báo cáo của PBY lúc 09 giờ 50 phút rằng các tàu vận tải Nhật ở cách Guadalcanal khoảng 250 hải lý về phía bắc, ông ra lệnh cho Saratoga phóng một đợt tấn công gồm 31 chiếc Dauntless và 6 máy bay Avenger. Tuy nhiên, sau khi bị PBY phát hiện, đoàn vận tải chuyển hướng lên phía bắc và tìm được nơi ẩn náu dưới điều kiện thời tiết xấu. Điều này khiến phi vụ của Saratoga không thể tìm thấy mục tiêu, và sau đó họ chuyển hướng về Guadalcanal và hạ cánh sau khi trời tối. Các đơn vị không quân Mỹ trên Guadalcanal (gọi là Cactus Air Force) cũng phóng một đợt tấn công gồm chín chiếc Dauntless, một Avenger và 12 Wildcat vào đoàn tàu vận tải, nhưng cũng không tìm được mục tiêu. Việc đoàn tàu chuyển hướng lên phía bắc buộc Nhật phải lùi thời điểm cập bến Guadalcanal sang ngày 25 tháng 8.
Nagumo biết rõ các tàu sân bay Mỹ đang hoạt động ngoài khơi Guadalcanal, điều này khiến ông rất thận trọng. Ngược lại, Fletcher không có thông tin nào cho thấy các tàu sân bay Nhật đang ở trong khu vực. Báo cáo tình báo mà ông nhận vào ngày 23 tháng 8 cho biết ShokakuZuikaku đang trên đường đến Truk từ Nhật Bản. Dựa trên thông tin sai lệch này và không có dữ kiện nào mâu thuẫn từ các máy bay trinh sát Mỹ, Fletcher đã đưa ra một trong những quyết định quan trọng nhất của trận đánh. Ông cho lực lượng đặc nhiệm của tàu sân bay Wasp rút về phía nam để tiếp nhiên liệu. Hai tàu sân bay còn lại vẫn thừa sức ngăn chặn đoàn tiếp viện nhỏ của Nhật tiếp cận Guadalcanal.
Ngày hôm sau, tức ngày 24 tháng 8, chứng kiến trận chiến tàu sân bay thứ ba của cuộc chiến. Nagumo tách Ryujo, tàu tuần dương hạng nặng Tone và hai tàu khu trục lúc 04 giờ để thực hiện một cuộc không kích vào Henderson Field. Ryujo được lệnh đến vị trí cách sân bay 200 hải lý về phía bắc vào buổi trưa để thực hiện vụ tập kích, với giả định rằng các tàu sân bay Mỹ vẫn chưa bị phát hiện. Lúc 06 giờ, Hạm đội Liên hợp chuyển hướng về phía đông nam. Lực lượng Tiên Phong, gồm hai thiết giáp hạm, ba tàu tuần dương hạng nặng, một tàu tuần dương hạng nhẹ và ba tàu khu trục, được triển khai cách các tàu sân bay khoảng 6 hải lý về phía trước. Lực lượng Tiến công của Kondo được triển khai cách tàu sân bay của Nagumo khoảng 120 hải lý về phía đông, phản ánh mối lo ngại rằng tàu sân bay Mỹ đang hoạt động ở hướng đó.
Đây là sàn bay của tàu Zuikaku vào ngày 5 tháng 5 năm 1942, trên đó bố trí 12 máy bay tiêm kích Zero và 17 máy bay ném bom bổ nhào Type 99. Cảnh tượng trên sàn bay của Zuikaku hẳn đã gần như giống hệt vào ngày 24 tháng 8 khi tàu sân bay chuẩn bị phóng các máy bay Zero và máy bay ném bom bổ nhào của mình vào các tàu sân bay Mỹ. (NHHC)
Đây là sàn bay của tàu Zuikaku vào ngày 5 tháng 5 năm 1942, trên đó bố trí 12 máy bay tiêm kích Zero và 17 máy bay ném bom bổ nhào Type 99. Cảnh tượng trên sàn bay của Zuikaku hẳn đã gần như giống hệt vào ngày 24 tháng 8 khi tàu sân bay chuẩn bị phóng các máy bay Zero và máy bay ném bom bổ nhào của mình vào các tàu sân bay Mỹ. (NHHC)
Chiếc máy bay ném bom bổ nhào Type 99 có số hiệu là EI-234 đang chuẩn bị cất cánh từ sàn bay của Shokaku. (Peter C. Smith)
Chiếc máy bay ném bom bổ nhào Type 99 có số hiệu là EI-234 đang chuẩn bị cất cánh từ sàn bay của Shokaku. (Peter C. Smith)
Phản ánh sự nhấn mạnh mới của mình vào công tác trinh sát, Nagumo phân bổ đáng kể lực lượng cho nhiệm vụ do thám. Từ ShokakuZuikaku, 19 máy bay Type 97 được phóng đi lúc 06 giờ 15 phút để trinh sát về phía đông. Lực lượng Tiến công của Kondo đóng góp thêm 7 thủy phi cơ. Đợt tấn công chính gồm 54 máy bay ném bom bổ nhào được hộ tống bởi 24 chiếc Zero được chuẩn bị trên hai tàu sân bay hạm đội. Nếu điều kiện cho phép, một đợt tấn công tiếp theo gồm 36 chiếc Type 97 mang ngư lôi và 12 chiếc Zero hộ tống sẽ được lên kế hoạch.
Fletcher cũng lên kế hoạch cho một cuộc trinh sát toàn diện vào ngày 24 tháng 8. Hai mươi chiếc Dauntless từ Enterprise cất cánh ngay trước 06 giờ để bao quát khu vực phía bắc Lực lượng Đặc nhiệm 61 (TF 61). Fletcher cũng có thể trông cậy vào sự hỗ trợ từ 6 thủy phi cơ PBY xuất phát từ một tàu tiếp tế thả neo tại Ndeni, đảo lớn nhất trong quần đảo Santa Cruz. Các chiếc PBY bay 650 hải lý về phía tây bắc và sẽ chứng tỏ là máy bay trinh sát hiệu quả nhất của cả hai phía trong trận đánh. Điều này được chứng minh khi các máy bay từ Enterprise không phát hiện được gì, nhưng các báo cáo tiếp xúc từ PBY bắt đầu được gửi về lúc 09 giờ 35 phút. Báo cáo của PBY đầu tiên xác nhận sự hiện diện của Ryujo và nhóm hộ tống cách TF 61 khoảng 280 hải lý về phía đông bắc. Điều này khiến Ryujo nằm ngoài tầm tấn công. Các PBY cũng phát hiện các yếu tố của cả Lực lượng Tiên Phong và Lực lượng Tiến công, nhưng không phát hiện được các tàu sân bay của Nagumo. Với bài học từ Trận Biển San hô hẳn còn in sâu trong trí nhớ, Fletcher quyết định không phóng đòn tấn công vào một tàu sân bay hạng nhẹ đơn độc khi chưa có thông tin nào về lực lượng tàu sân bay chính của Nhật. Để làm rõ tình hình, vào lúc 12 giờ 39 phút, thêm 23 máy bay trinh sát nữa được phóng đi từ Enterprise để tìm kiếm về phía tây bắc và đông bắc.
Khi đang chờ đợi báo cáo từ các máy bay trinh sát, những diễn biến khác buộc Fletcher phải hành động. Nhóm không kích của Saratoga quay lại từ Guadalcanal vào lúc 11 giờ. Do Enterprise đã sử dụng phần lớn máy bay ném bom bổ nhào cho nhiệm vụ trinh sát, vốn đây là lực lượng tấn công chính của Fletcher. Vào khoảng giữa trưa, và một lần nữa vào lúc 13 giờ, hai máy bay trinh sát Nhật bị bắn rơi gần vị trí của các tàu sân bay Mỹ. Fletcher buộc phải cho rằng lực lượng của ông đã bị phát hiện, nhưng thực tế không có máy bay Nhật nào kịp gửi báo cáo liên lạc. Ngay sau giữa trưa, Ryujo từng ra đòn không kích gồm sáu máy bay Type 97 xuất kích từ tàu sân bay, mỗi chiếc mang sáu quả bom 132lb, cùng với 15 chiếc Zero để vô hiệu hóa Henderson Field. Vào khoảng 14 giờ 30 phút, các máy bay Type 97 ném bom xuống sân bay nhưng gây ít thiệt hại. Trong trận không chiến với 16 chiếc Wildcat và hai chiếc P-400 phòng thủ, Nhật mất 3 chiếc Zero và 4 chiếc Type 97 trong khi bắn hạ 3 chiếc Wildcat. Không có gì ngạc nhiên khi đợt tấn công bằng không quân từ tàu sân bay Nhật nhằm vào Henderson Field đã thất bại trong việc hoàn thành nhiệm vụ.
Chiếc máy bay Type 99 có số hiệu EI-235 do một phi công phụ llái. Ở tiền cảnh là chiếc máy bay EI-232. Vào thời điểm đó, các máy bay Type 99 đã được sơn thêm một lớp xanh lá lên mặt trên để ngụy trang. Đoạn phim này được quay bởi Thiếu úy Quan sát viên Keiichi Arima, thuộc đội 21 Shotai của Phi đội Ném bom Tàu sân bay Type 99 trên Shōkaku, trong đợt tấn công thứ nhất tại trận Đông Solomon ngày 24 tháng 8 năm 1942. Sau khi đã đánh trúng trực tiếp chiếc USS Enterprise bằng bom thường 250 kg, Binh nhất hạng nhất (PO1c) Tamotsu Akimoto – người lái chính chiếc Type 99 mã hiệu EI-232, làm phi công phụ cho Arima trong  Shotai số 21 – quay đầu nhìn vào ống kính máy quay. Phi công chỉ huy của chiếc EI-232 là Binh nhất hạng nhất Hiroshi Koitabashi, ngồi ở ghế sau.
Chiếc máy bay Type 99 có số hiệu EI-235 do một phi công phụ llái. Ở tiền cảnh là chiếc máy bay EI-232. Vào thời điểm đó, các máy bay Type 99 đã được sơn thêm một lớp xanh lá lên mặt trên để ngụy trang. Đoạn phim này được quay bởi Thiếu úy Quan sát viên Keiichi Arima, thuộc đội 21 Shotai của Phi đội Ném bom Tàu sân bay Type 99 trên Shōkaku, trong đợt tấn công thứ nhất tại trận Đông Solomon ngày 24 tháng 8 năm 1942. Sau khi đã đánh trúng trực tiếp chiếc USS Enterprise bằng bom thường 250 kg, Binh nhất hạng nhất (PO1c) Tamotsu Akimoto – người lái chính chiếc Type 99 mã hiệu EI-232, làm phi công phụ cho Arima trong Shotai số 21 – quay đầu nhìn vào ống kính máy quay. Phi công chỉ huy của chiếc EI-232 là Binh nhất hạng nhất Hiroshi Koitabashi, ngồi ở ghế sau.
Tàu sân bay Enterprise (phía trên bên trái) và các tàu hộ tống đang di chuyển trong cuộc tấn công đường không. (NHHC)
Tàu sân bay Enterprise (phía trên bên trái) và các tàu hộ tống đang di chuyển trong cuộc tấn công đường không. (NHHC)
Diễn biến lớn đầu tiên trong trận chiến tàu sân bay diễn ra lúc 14 giờ khi một thủy phi cơ từ Chikuma phát hiện được các tàu sân bay của Fletcher. Đây chính là thông tin mà Nagumo đang chờ đợi. Đợt không kích đầu tiên gồm 18 máy bay ném bom bổ nhào và 4 tiêm kích từ Shokaku và 9 máy bay ném bom bổ nhào cùng 6 chiếc Zero từ Zuikaku được phóng đi nhanh chóng và hướng về phía nam ngay trước 15 giờ. Vào lúc 16 giờ, một đợt không kích khác gồm 18 máy bay ném bom bổ nhào và 6 chiếc Zero từ Zuikaku cùng 9 máy bay ném bom bổ nhào và 3 tiêm kích từ Shokaku được phóng đi và tiến đến vị trí các tàu sân bay Mỹ. Hai đợt đầu tiên tổng cộng có 73 máy bay; theo học thuyết mới của Nhật, không có máy bay mang ngư lôi nào được tung vào đợt tấn công.
Fletcher từ chối sử dụng lực lượng tấn công của mình mặc dù nhận được nhiều báo cáo về hoạt động của Ryujo. Các máy bay sẵn sàng cho nhiệm vụ tấn công gồm 11 máy bay ném bom bổ nhào, 7 máy bay Avenger và 15 chiếc Wildcat trên Enterprise và nhóm không đoàn của Saratoga vừa trở về từ Guadalcanal vào cuối buổi sáng. Do không có thông tin nào về lực lượng tàu sân bay chính của Nagumo và không muốn bị đánh úp khi máy bay của mình đang ở trên boong, vào khoảng 13 giờ 40 phút, Fletcher quyết định phóng đòn tấn công chính từ Saratoga, gồm 30 chiếc Dauntless và 8 chiếc Avenger, nhằm vào Ryujo. Sau khi một chiếc Avenger và một chiếc Dauntless bị hỏng, nhóm không kích tiếp tục hành trình đến vị trí cuối cùng được báo cáo của Ryujo. Sau khi đợt tấn công cất cánh, thông tin bắt đầu được gửi về từ nhóm trinh sát buổi chiều của Enterprise. Vào lúc 14 giờ 10 phút, Ryujo bị phát hiện bởi hai chiếc Avenger; các máy bay này tấn công tàu sân bay từ độ cao lớn lúc 14 giờ 28 phút nhưng không thành công. Hai chiếc Avenger khác lại tìm thấy Ryujo, nhưng một chiếc bị bắn hạ bởi các tiêm kích Zero. Vào 14 giờ 40 phút, các chiếc Dauntless phát hiện Lực lượng Tiến công và ném bom vào tàu tuần dương hạng nặng Maya. Vào lúc 15 giờ, Saratoga nhận được báo cáo hậu chiến từ hai máy bay ném bom bổ nhào của Enterprise, trong đó cho biết đã phát hiện ShokakuZuikaku và đã tấn công Shokaku nhưng không thành công.
Sự tiến triển này đặt Fletcher vào một vị trí chiến thuật đầy bất lợi. Đòn tấn công chính của ông đang trên đường tấn công một mục tiêu phụ, và lúc này ông lại nhận được thông tin về vị trí của lực lượng tàu sân bay chính của Nhật. Sau một số khó khăn trong việc tìm Ryujo, cuộc tấn công bởi không đoàn của Saratoga bắt đầu lúc 15 giờ 50 phút. Sau khi ngoặt gắt sang mạn phải để tránh các đợt bổ nhào của Dauntless, Ryujo đã né được 10 quả bom đầu tiên. Cuối cùng ít nhất ba chiếc Dauntless đã đánh trúng, và một cuộc tấn công bằng cái đe bởi các máy bay Avenger đã mang lại một cú đánh ngư lôi được xác nhận. Tàu sân bay này chìm lúc 20 giờ, làm thiệt mạng 121 thủy thủ. Tất cả máy bay trên tàu đều bị mất, mặc dù tổ bay của đợt tấn công Henderson Field vẫn còn sống sót và các phi công Zero thuộc CAP đã được cứu.
Máy bay B-17 từ Espiritu Santo đã thực hiện một số cuộc không kích vào tàu buôn Nhật trong trận Đông Solomon. Trong một dịp như vậy, ba máy bay ném bom hạng nặng đã tấn công chiếc Ryujo bị hư hại nặng (được cho thấy nằm bất động trên mặt nước ở bên trái bức ảnh) ngay sau 18 giờ. Không có phát trúng nào được ghi nhận như rõ ràng trong bức ảnh này. (NHHC)
Máy bay B-17 từ Espiritu Santo đã thực hiện một số cuộc không kích vào tàu buôn Nhật trong trận Đông Solomon. Trong một dịp như vậy, ba máy bay ném bom hạng nặng đã tấn công chiếc Ryujo bị hư hại nặng (được cho thấy nằm bất động trên mặt nước ở bên trái bức ảnh) ngay sau 18 giờ. Không có phát trúng nào được ghi nhận như rõ ràng trong bức ảnh này. (NHHC)
Hình ảnh tàu sân bay Ryujo của Nhật Bản bị hư hại và không thể di chuyển được chụp từ máy bay ném bom B-17 của Không quân Hoa Kỳ, trong một cuộc tấn công ném bom tầm cao vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Các tàu khu trục Amatsukaze và Tokitsukaze đã sơ tán thủy thủ đoàn của tàu và hiện đang di chuyển, một chiếc ở vị trí đối đầu mũi tàu và chiếc còn lại ở vị trí bên cạnh. Hai chùm bom đang phát nổ trên mặt nước, cách tàu sân bay hơn một chiều dài thân tàu. Mũi tàu tuần dương Tone có thể nhìn thấy ở phía cực bên phải. (NHHC)
Hình ảnh tàu sân bay Ryujo của Nhật Bản bị hư hại và không thể di chuyển được chụp từ máy bay ném bom B-17 của Không quân Hoa Kỳ, trong một cuộc tấn công ném bom tầm cao vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Các tàu khu trục Amatsukaze và Tokitsukaze đã sơ tán thủy thủ đoàn của tàu và hiện đang di chuyển, một chiếc ở vị trí đối đầu mũi tàu và chiếc còn lại ở vị trí bên cạnh. Hai chùm bom đang phát nổ trên mặt nước, cách tàu sân bay hơn một chiều dài thân tàu. Mũi tàu tuần dương Tone có thể nhìn thấy ở phía cực bên phải. (NHHC)
Hình ảnh tàu sân bay Ryujo của Nhật Bản bị hư hại và bất động được chụp từ máy bay ném bom B-17 của Không quân Hoa Kỳ, trong một cuộc tấn công ném bom tầm cao vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Một số quả bom đang phát nổ trên mặt nước, cách mũi tàu sân bay khoảng bảy chiều dài thân tàu. Giữa Ryujo và những quả bom là một tàu khu trục (có thể là Amatsukaze hoặc Tokitsukaze), trước đó đã áp sát mũi tàu sân bay bị hư hại, cứu hộ một số thủy thủ đoàn, và hiện đang lùi lại. (NHHC)
Hình ảnh tàu sân bay Ryujo của Nhật Bản bị hư hại và bất động được chụp từ máy bay ném bom B-17 của Không quân Hoa Kỳ, trong một cuộc tấn công ném bom tầm cao vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Một số quả bom đang phát nổ trên mặt nước, cách mũi tàu sân bay khoảng bảy chiều dài thân tàu. Giữa Ryujo và những quả bom là một tàu khu trục (có thể là Amatsukaze hoặc Tokitsukaze), trước đó đã áp sát mũi tàu sân bay bị hư hại, cứu hộ một số thủy thủ đoàn, và hiện đang lùi lại. (NHHC)
Thiệt hại của Ryujo từ cuộc tấn công của Không đoàn tàu sân bay Sagatora gồm 3 quả bom (một quả gần thang nâng bên mạn trái, hai quả bên mạn phải) và một quả ngư lôi bên mạn phải. Riêng một thiệt hại gần mũi tàu thì không rõ là do bom hay ngư lôi gây ra. (Minh hoạ của người dịch)
Thiệt hại của Ryujo từ cuộc tấn công của Không đoàn tàu sân bay Sagatora gồm 3 quả bom (một quả gần thang nâng bên mạn trái, hai quả bên mạn phải) và một quả ngư lôi bên mạn phải. Riêng một thiệt hại gần mũi tàu thì không rõ là do bom hay ngư lôi gây ra. (Minh hoạ của người dịch)
Trong khi Ryujo gặp phải số phận của mình, đợt tấn công của Nhật vào các tàu sân bay của Fletcher cũng bắt đầu. Radar của Enterprise bắt được tín hiệu đầu tiên từ một nhóm máy bay lớn cách 88 hải lý về phía tây bắc lúc 16 giờ 02 phút. Nhận được cảnh báo sớm nhiều hơn mức cần thiết, lực lượng CAP bảo vệ TF 61 được tăng cường lên 53 chiếc Wildcat. Chỉ huy đợt tấn công của Nhật chia 27 máy bay ném bom bổ nhào thành hai nhóm và tiếp cận từ hướng bắc ở độ cao 16.000 feet. Các máy bay tiêm kích phòng thủ không được triển khai đủ cao, dẫn đến việc gần như toàn bộ Wildcat bị đặt vào thế bất lợi chiến thuật nghiêm trọng. Thêm vào vấn đề ban đầu này là vấn đề lớn hơn: mạch vô tuyến điều phối tiêm kích bị quá tải bởi các thông tin không cần thiết khiến việc chỉ huy chiến đấu trở nên bất khả thi. Trong số 53 chiếc Wildcat, chỉ có từ năm đến bảy chiếc có thể tiếp cận các Type 99 trước khi chúng bắt đầu bổ nhào, và mười chiếc khác đuổi theo các máy bay ném bom Nhật khi chúng bổ nhào xuống. Chỉ huy đợt tấn công của Nhật ra lệnh cho 18 chiếc máy bay ném bom của Zuikaku đánh vào Enterprise và 9 chiếc Type 99 từ Shokaku nhắm vào Saratoga, nhưng sau khi bị những chiếc Wildcat can thiệp và gây thiệt hại nặng, tất cả các máy bay còn sống sót đều tấn công Enterprise.
Một máy bay tuần tra từ Enterprise được hộ tống bởi 4 máy bay tiêm kích thuộc Lực lượng CAP đang bay thẳng qua đội hình máy bay tấn công của Nhật Bản. Ảnh chụp từ tàu USS Portland. (NHHC)
Một máy bay tuần tra từ Enterprise được hộ tống bởi 4 máy bay tiêm kích thuộc Lực lượng CAP đang bay thẳng qua đội hình máy bay tấn công của Nhật Bản. Ảnh chụp từ tàu USS Portland. (NHHC)
Bức ảnh chụp lại khoảnh khắc một máy bay Type 99 đang bổ nhào xuống Enterprise. Ảnh chụp từ tàu USS Portland. (NHHC)
Bức ảnh chụp lại khoảnh khắc một máy bay Type 99 đang bổ nhào xuống Enterprise. Ảnh chụp từ tàu USS Portland. (NHHC)
Trong minh hoạ này cho thấy chiếc máy bay ném bom bổ nhào Type 99 từ Shokaku có số hiệu là EI-235 đang bổ nhào xuống Enterprise. Chiếc máy bay EI-235 có thể là do Binh nhì hạng nhất (PO2c) Ryoroku Tsuchiya lái, thuộc Shotai 22, vì trong toàn bộ 9 chiếc ném bom bổ nhào Type 99 thuộc Chutai thứ hai của Shōkaku chỉ có ba chiếc do Arima, Koitabashi và Tsuchiya lái là sống sót trở về sau khi đối mặt với hoả lực phòng không cực mạnh và sự ngăn chặn quyết liệt của các tiêm kích F4F Wildcat của Mỹ. (Tranh của Stefan Draminski)
Trong minh hoạ này cho thấy chiếc máy bay ném bom bổ nhào Type 99 từ Shokaku có số hiệu là EI-235 đang bổ nhào xuống Enterprise. Chiếc máy bay EI-235 có thể là do Binh nhì hạng nhất (PO2c) Ryoroku Tsuchiya lái, thuộc Shotai 22, vì trong toàn bộ 9 chiếc ném bom bổ nhào Type 99 thuộc Chutai thứ hai của Shōkaku chỉ có ba chiếc do Arima, Koitabashi và Tsuchiya lái là sống sót trở về sau khi đối mặt với hoả lực phòng không cực mạnh và sự ngăn chặn quyết liệt của các tiêm kích F4F Wildcat của Mỹ. (Tranh của Stefan Draminski)
Cả hai bên đều do dự tại trận Đông Solomon, như thể hiện qua việc chỉ có Enterprise bị Nhật tấn công, và cuộc tấn công này chỉ được thực hiện bởi máy bay ném bom bổ nhào. Trong số 15 máy bay ném bom bổ nhào từ Shokaku và 3 chiếc từ Zuikaku tấn công Enterprise, chỉ ba chiếc ghi được phát trúng và những phát này chỉ gây hư hại vừa phải. (Tranh của John Hamilton)
Cả hai bên đều do dự tại trận Đông Solomon, như thể hiện qua việc chỉ có Enterprise bị Nhật tấn công, và cuộc tấn công này chỉ được thực hiện bởi máy bay ném bom bổ nhào. Trong số 15 máy bay ném bom bổ nhào từ Shokaku và 3 chiếc từ Zuikaku tấn công Enterprise, chỉ ba chiếc ghi được phát trúng và những phát này chỉ gây hư hại vừa phải. (Tranh của John Hamilton)
Hình ảnh Enterprise được nhìn thấy từ một tàu hộ tống trong lúc bị máy bay ném bom bổ nhào của Nhật Bản tấn công. Một đám cháy dữ dội đang bùng phát ở bệ pháo 5 inch phía sau mạn phải của tàu, do một quả bom đánh trúng làm bốc cháy đạn dược dự trữ. Chú ý mức độ hoả lực phòng không dày đặc từ tàu sân bay. (NHHC)
Hình ảnh Enterprise được nhìn thấy từ một tàu hộ tống trong lúc bị máy bay ném bom bổ nhào của Nhật Bản tấn công. Một đám cháy dữ dội đang bùng phát ở bệ pháo 5 inch phía sau mạn phải của tàu, do một quả bom đánh trúng làm bốc cháy đạn dược dự trữ. Chú ý mức độ hoả lực phòng không dày đặc từ tàu sân bay. (NHHC)
Một ảnh chụp khác từ USS Portland cho thấy một trong ba quả bom từ máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản đã đánh trúng Enterprise. (NHHC)
Một ảnh chụp khác từ USS Portland cho thấy một trong ba quả bom từ máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản đã đánh trúng Enterprise. (NHHC)
Trong bức ảnh này, một trong những chiếc Type 99 tấn công Enterprise được cho thấy đang bốc cháy ngay trên tàu sân bay, có lẽ vào lúc kết thúc cú bổ nhào. Một lần nữa, tổn thất máy bay Nhật rất nặng nề. Chỉ có 8 trong số 27 máy bay ném bom bổ nhào tấn công TF 16 trở về tàu sân bay của họ. (NHHC)
Trong bức ảnh này, một trong những chiếc Type 99 tấn công Enterprise được cho thấy đang bốc cháy ngay trên tàu sân bay, có lẽ vào lúc kết thúc cú bổ nhào. Một lần nữa, tổn thất máy bay Nhật rất nặng nề. Chỉ có 8 trong số 27 máy bay ném bom bổ nhào tấn công TF 16 trở về tàu sân bay của họ. (NHHC)
Một máy bay Type 99 của Nhật Bản tấn công  Enterprise đang trong làn hoả lực phòng không dày đặc. Hình ảnh được chụp từ tàu USS Portland. (NHHC)
Một máy bay Type 99 của Nhật Bản tấn công Enterprise đang trong làn hoả lực phòng không dày đặc. Hình ảnh được chụp từ tàu USS Portland. (NHHC)
 Enterprise lướt qua đống đổ nát đang bốc cháy của hai máy bay ném bom bổ nhào của Nhật Bản bị bắn hạ trong cuộc tấn công. (NHHC)
Enterprise lướt qua đống đổ nát đang bốc cháy của hai máy bay ném bom bổ nhào của Nhật Bản bị bắn hạ trong cuộc tấn công. (NHHC)
Bức ảnh này chụp lại khoảnh khắc khi thiết giáp hạm North Carolina khai hỏa toàn bộ pháo phòng không của mình để đẩy lùi một cuộc tấn công đồng loạt và có phối hợp của máy bay Nhật Bản từ góc nhìn trên tàu sân bay Enterprise. Cùng lúc đó, North Carolina còn bắn pháo 5 inch vào những chiếc máy bay Nhật đang tấn công Enterprise, tạo thành một “chiếc ô” bằng những quả đạn nổ trên không bao phủ con tàu, buộc máy bay đối phương phải xuyên qua làn hỏa lực này mới có thể thả bom.
Bức ảnh này chụp lại khoảnh khắc khi thiết giáp hạm North Carolina khai hỏa toàn bộ pháo phòng không của mình để đẩy lùi một cuộc tấn công đồng loạt và có phối hợp của máy bay Nhật Bản từ góc nhìn trên tàu sân bay Enterprise. Cùng lúc đó, North Carolina còn bắn pháo 5 inch vào những chiếc máy bay Nhật đang tấn công Enterprise, tạo thành một “chiếc ô” bằng những quả đạn nổ trên không bao phủ con tàu, buộc máy bay đối phương phải xuyên qua làn hỏa lực này mới có thể thả bom.
Các phi công Nhật ném bom với độ chính xác quen thuộc, đánh trúng Enterprise ba lần. Quả bom đầu tiên đánh trúng lúc 16 giờ 44 phút gần thang nâng phía sau và xuyên qua nhiều tầng boong trước khi phát nổ trong phòng ăn, giết chết 35 người. Quả bom thứ hai đánh trúng cùng khu vực chỉ vài giây sau đó và giết thêm 33 người. Quả bom thứ ba và cuối cùng đánh trúng sàn cất hạ cánh gần thang nâng giữa tàu nhưng chỉ phát nổ yếu. Bảy máy bay ném bom bổ nhào khác tấn công thiết giáp hạm North Carolina, lúc đó đang cách Enterprise 2.500 yard về phía sau. Một vài cú nổ gần gây ra thiệt hại không đáng kể. Sau khi kết thúc đợt tấn công, Enterprise bị hư hại nhưng không gặp nguy cơ bị chìm. Sàn bay được sửa chữa nhanh chóng và cho phép nối lại hoạt động bay lúc 17 giờ 46 phút. Mặc dù thiệt hại khá nhẹ, nhưng con tàu lại có thương vong về nhân mạng nặng nề gồm 75 người chết và 95 người bị thương. Cuộc tấn công khiến người Nhật mất 17 chiếc Type 99 và 3 chiếc Zero; thêm một máy bay ném bom bổ nhào và ba chiếc Zero khác phải hạ cánh khẩn cấp xuống biển khi quay về tàu sân bay. Phía Mỹ mất 8 chiếc tiêm kích Wildcat trong khi phòng thủ.
Một quả bom đánh trúng vào bệ pháo 5 inch phía sau mạn phải của tàu Enterprise , phá hủy nó và giết chết gần như toàn bộ 45 thành viên phi hành đoàn. Đây là quả bom thứ hai đánh trúng tàu Enterprise trong cuộc tấn công. Bên cạnh gần thang nâng có lỗ đang bốc khói do quả bom thứ nhất gây ra. (NHHC)
Một quả bom đánh trúng vào bệ pháo 5 inch phía sau mạn phải của tàu Enterprise , phá hủy nó và giết chết gần như toàn bộ 45 thành viên phi hành đoàn. Đây là quả bom thứ hai đánh trúng tàu Enterprise trong cuộc tấn công. Bên cạnh gần thang nâng có lỗ đang bốc khói do quả bom thứ nhất gây ra. (NHHC)
Một quả bom nặng 551lb thứ ba phát nổ khi trúng  Enterprise trong trận chiến Đông quần đảo Solomon. Đây là một loại bom nổ mạnh có thể đã gây ra vụ nổ ở cấp độ thấp, tuy hoành tráng nhưng chỉ gây thiệt hại nhẹ cho tàu sân bay. Chiếc máy bay Type 99 thả quả bom này đã bị bắn rơi ngay sau khi thả bom. (NHHC)
Một quả bom nặng 551lb thứ ba phát nổ khi trúng Enterprise trong trận chiến Đông quần đảo Solomon. Đây là một loại bom nổ mạnh có thể đã gây ra vụ nổ ở cấp độ thấp, tuy hoành tráng nhưng chỉ gây thiệt hại nhẹ cho tàu sân bay. Chiếc máy bay Type 99 thả quả bom này đã bị bắn rơi ngay sau khi thả bom. (NHHC)
Các đội kiểm soát thiệt hại của Enterprise đang dập tắt đám cháy do trúng bom trong cuộc tấn công trên không của Nhật Bản. (NHHC)
Các đội kiểm soát thiệt hại của Enterprise đang dập tắt đám cháy do trúng bom trong cuộc tấn công trên không của Nhật Bản. (NHHC)
Các thủy thủ đoàn của Enterprise kiểm tra và bắt đầu sửa chữa thiệt hại do quả bom thứ ba đánh trúng sàn bay. (NHHC)
Các thủy thủ đoàn của Enterprise kiểm tra và bắt đầu sửa chữa thiệt hại do quả bom thứ ba đánh trúng sàn bay. (NHHC)
Hình ảnh về thiệt hại của Enterprise trong trận Đông Solomon. Quả bom đầu tiên đánh trúng khoảng hai phút sau khi cuộc tấn công bắt đầu, xuyên thủng thang máy số 3 trên sàn bay và phát nổ cách đó 10 m, giữa boong thứ hai và thứ ba, gần mạn phải. Nó gây ra thiệt hại cấu trúc đáng kể, mặc dù không nghiêm trọng, ngập nước nhẹ, làm hỏng thang máy số 3 và một số đám cháy dai dẳng. Nửa phút sau, quả bom thứ hai đánh trúng sàn bay ở khung 179, gần mép mạn phải của cùng thang máy đó, phát nổ cách đó 8 feet. Một phần sàn bay của tàu bị hất lên trên và một đám cháy dữ dội bùng phát khi 40 viên đạn thuốc phóng của pháo 5 inch bốc cháy. Quả bom thứ ba, được thả xuống một phút sau đó, phát nổ khi va chạm với sàn bay gần góc mạn phải phía sau của thang máy số 2, làm thang máy ngừng hoạt động và gây ra một đám cháy nhỏ.
Hình ảnh về thiệt hại của Enterprise trong trận Đông Solomon. Quả bom đầu tiên đánh trúng khoảng hai phút sau khi cuộc tấn công bắt đầu, xuyên thủng thang máy số 3 trên sàn bay và phát nổ cách đó 10 m, giữa boong thứ hai và thứ ba, gần mạn phải. Nó gây ra thiệt hại cấu trúc đáng kể, mặc dù không nghiêm trọng, ngập nước nhẹ, làm hỏng thang máy số 3 và một số đám cháy dai dẳng. Nửa phút sau, quả bom thứ hai đánh trúng sàn bay ở khung 179, gần mép mạn phải của cùng thang máy đó, phát nổ cách đó 8 feet. Một phần sàn bay của tàu bị hất lên trên và một đám cháy dữ dội bùng phát khi 40 viên đạn thuốc phóng của pháo 5 inch bốc cháy. Quả bom thứ ba, được thả xuống một phút sau đó, phát nổ khi va chạm với sàn bay gần góc mạn phải phía sau của thang máy số 2, làm thang máy ngừng hoạt động và gây ra một đám cháy nhỏ.
Enterprise bị hỏng lái lúc 18 giờ 21 phút khiến con tàu phải giảm tốc độ và quay vòng trong trạng thái bất lực. Hệ thống lái không được sửa xong cho đến 18 giờ 58 phút. Trong thời gian đó, đợt tấn công thứ hai của các máy bay ném bom bổ nhào Nhật tiếp cận đội hình Mỹ và có vẻ sẵn sàng đánh gục Enterprise đang gặp trục trặc. Trong một diễn biến cực kỳ có lợi cho phía Mỹ, chỉ huy đợt tấn công (Trung úy Takahashi – nổi tiếng từ trận Biển San Hô) đã không tìm thấy mục tiêu của mình sau khi một báo cáo vị trí cập nhật bị vô tuyến viên chép sai. Radar trên Enterprise theo dõi các máy bay Nhật bay cách tàu 50 hải lý về phía nam trước khi chuyển hướng tây bắc rồi rút khỏi khu vực. Người Nhật đã bỏ lỡ một cơ hội vàng để có thể kết liễu Enterprise. Đây là cơ hội cuối cùng để tấn công một trong hai tàu sân bay Mỹ vì Nagumo từ chối phát động đòn tấn công tiếp theo và thay vào đó ra lệnh cho các tàu sân bay rút về phía bắc để tiếp nhiên liệu.
Người Nhật gặp khó khăn trong việc đưa các đợt tấn công trúng mục tiêu, nhưng phía Mỹ cũng không khá hơn. Ngay trước khi đợt đầu tiên của các máy bay ném bom bổ nhào Nhật đến nơi, Đô đốc Fletcher ra lệnh cho toàn bộ các máy bay Dauntless và Avenger sẵn sàng cất cánh để tìm và tấn công các tàu sân bay Nhật. Từ tàu sân bay Enterprise, 11 máy bay ném bom bổ nhào Dauntless và 7 máy bay ném ngư lôi Avenger được phái đi với mệnh lệnh tấn công Ryujo. Saratoga chỉ đóng góp 2 chiếc Dauntless và 5 chiếc Avenger; nhóm này được lệnh hợp lực với nhóm của Enterprise. Tuy nhiên, cuộc hội quân đã không bao giờ diễn ra, và không chiếc máy bay nào của Enterprise tìm thấy mục tiêu. Nhóm tấn công nhỏ từ Saratoga đã may mắn phát hiện được Lực lượng Tiên phong vào lúc 17 giờ 35 phút, và tấn công chiếc tàu thủy phi cơ Chitose, con tàu lớn nhất trong đội hình này. Toàn bộ máy bay đều mang bom, và hai quả suýt trúng đã gây ngập nước cùng độ nghiêng cho con tàu, nhưng Chitose vẫn sống sót, sau đó được cải hoán thành tàu sân bay hạng nhẹ vào năm 1943.
Với trận chiến tàu sân bay tạm thời khép lại, vấn đề còn lại duy nhất là số phận của đoàn vận tải tăng viện của người Nhật. Yamamoto ra lệnh cho đoàn tàu chuyển hướng tiến về phía nam tới Guadalcanal rất muộn trong ngày 24 tháng 8, mặc dù Henderson Field vẫn chưa bị vô hiệu hóa và các tàu sân bay Mỹ vẫn còn là mối đe dọa. Ngày hôm sau, đoàn bị lực lượng không quân Cactus đánh phá bằng các máy bay ném bom bổ nhào, làm hư hại một tàu tuần dương hạng nhẹ và một trong ba tàu vận tải. Các máy bay B-17 từ Espiritu Santo đã đánh chìm một tàu khu trục đang ở cạnh tàu vận tải bị hư sau đó trong buổi sáng. Điều này cuối cùng đã buộc Yamamoto phải hủy bỏ chiến dịch vận tải.
Trận Đông Solomon kết thúc mà không bên nào giành được chiến thắng rõ rệt, nhưng kết quả của trận đánh nửa vời này lại nghiêng về phía người Mỹ. Yamamoto đã thất bại trong cả hai mục tiêu của mình – hạm đội Mỹ rõ ràng không bị tiêu diệt, thậm chí không bị tổn thất đáng kể, và chiến dịch đổ bộ quân tiếp viện lên Guadalcanal hoàn toàn thất bại. Thiệt hại của Nhật Bản là đáng kể, gồm tàu sân bay Ryujo, một tàu khu trục và một tàu vận tải bị đánh chìm, cùng với 75 máy bay bị mất. Tổn thất nặng nề về phi công cũng là điều đáng lo ngại, tiếp tục làm suy giảm lực lượng phi công tinh nhuệ được huấn luyện trước chiến tranh.
Ngược lại, người Mỹ đã đẩy lùi được chiến dịch lớn đầu tiên của Nhật nhằm tái chiếm Guadalcanal, chỉ với tổn thất nhỏ. Tổng cộng 25 máy bay bị mất, và tàu sân bay Enterprise bị hư hại đủ nghiêm trọng để buộc phải quay về Trân Châu Cảng sửa chữa. Tuy kết quả của trận chiến là thuận lợi, người Mỹ vẫn không thể hài lòng với màn trình diễn của mình. Không có cuộc tấn công lớn nào được thực hiện nhằm vào lực lượng tàu sân bay chủ lực của Nhật, do vẫn còn những khó khăn trong việc truyền đạt thông tin trinh sát trên không đến bộ chỉ huy kịp thời, cũng như vấn đề trong việc phối hợp các đợt tấn công hỗn hợp. Công tác chỉ huy tiêm kích đánh chặn cũng tiếp tục là một vấn đề, khi chỉ có một phần ba số tiêm kích trong đội CAP thực sự kịp thời đánh chặn đối phương. Người Mỹ may mắn khi một trục trặc liên lạc khiến đợt tấn công bằng máy bay ném bom bổ nhào thứ hai của Nhật không tìm thấy chiếc Enterprise bị hư hại.

CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA TÀU SÂN BAY SAU TRẬN ĐÔNG SOLOMON

Cả hai phía đều bắt đầu nhận ra rằng Guadalcanal đang trở thành trận chiến quyết định của cuộc chiến cho đến thời điểm đó. Người Nhật đang vật lộn với câu hỏi làm thế nào để đưa một lực lượng bộ binh lớn tới hòn đảo nhằm chiếm lại sân bay. Chừng nào sân bay vẫn còn hoạt động, cách duy nhất để đưa quân đến đảo là bằng tàu khu trục – một quá trình kéo dài và tốn kém. Yamamoto đã chuẩn bị một chiến dịch lớn khác để quét sạch lực lượng hải quân Mỹ khỏi vùng biển quanh đảo. Người Mỹ buộc phải duy trì lực lượng tàu sân bay gần Guadalcanal để đối phó với bất kỳ nỗ lực lớn nào từ phía Nhật.
Không quả bom nào trong ba quả đánh trúng Enterprise gây ra hư hại mang tính chí mạng. Tác động của một trong những cú đánh được thể hiện trong bức ảnh này. Một quả bom nổ mạnh nặng 532 pound đánh trúng gần khẩu đội pháo 5 inch/38 ở mạn phải phía sau, và ngọn lửa bùng lên sau đó đã bao trùm toàn bộ vị trí khẩu đội, khiến toàn bộ 38 người của khẩu đội thiệt mạng và kích nổ các tủ đạn sẵn có của pháo 5 inch. (NHHC)
Không quả bom nào trong ba quả đánh trúng Enterprise gây ra hư hại mang tính chí mạng. Tác động của một trong những cú đánh được thể hiện trong bức ảnh này. Một quả bom nổ mạnh nặng 532 pound đánh trúng gần khẩu đội pháo 5 inch/38 ở mạn phải phía sau, và ngọn lửa bùng lên sau đó đã bao trùm toàn bộ vị trí khẩu đội, khiến toàn bộ 38 người của khẩu đội thiệt mạng và kích nổ các tủ đạn sẵn có của pháo 5 inch. (NHHC)
Hình ảnh khẩu pháo 5 inch và khán đài bị hư hại trên tàu Enterprise, được chụp ngay sau trận chiến ngày 24 tháng 8 năm 1942. (NHHC)
Hình ảnh khẩu pháo 5 inch và khán đài bị hư hại trên tàu Enterprise, được chụp ngay sau trận chiến ngày 24 tháng 8 năm 1942. (NHHC)
Bức ảnh này cho thấy những thiệt hại do bom gây ra trên tàu Enterprise trong trận chiến Đông Solomon vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Chú ý các dây khử từ bị xé khỏi giá đỡ và lớp vỏ tàu bị lõm ở phần dưới mực nước và sát mực nước biển. Tàu sân bay được nhìn thấy trong ụ tàu tại Xưởng Hải quân Trân Châu Cảng vào ngày 10 tháng 9 năm 1942. (NHHC)
Bức ảnh này cho thấy những thiệt hại do bom gây ra trên tàu Enterprise trong trận chiến Đông Solomon vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Chú ý các dây khử từ bị xé khỏi giá đỡ và lớp vỏ tàu bị lõm ở phần dưới mực nước và sát mực nước biển. Tàu sân bay được nhìn thấy trong ụ tàu tại Xưởng Hải quân Trân Châu Cảng vào ngày 10 tháng 9 năm 1942. (NHHC)
Sau trận Đông Solomon, Enterprise trở về Trân Châu Cảng vào ngày 10 tháng 9 và lập tức được đưa vào ụ khô để sửa chữa. Điều này khiến chỉ còn có hai tàu sân bay SaratogaWasp để đối phó với bất kỳ chiến dịch nào của Nhật. Ngày 29 tháng 8, Hornet hội quân với TF 61 để thay thế cho Enterprise. Fletcher tiếp tục mô hình di chuyển về phía bắc vào ban đêm để vào tầm tấn công Guadalcanal vào buổi sáng, rồi quay về phía nam vào ban ngày để tránh tầm trinh sát của máy bay Nhật. Vì khu vực này thường xuyên có tàu ngầm Nhật hoạt động, nên việc xảy ra sự cố chỉ còn là vấn đề thời gian. Điều không thể tránh khỏi đã xảy đến vào sáng sớm ngày 31 tháng 8 khi tàu ngầm I-26 bắn trúng Saratoga bằng một ngư lôi. Cú đánh khiến con tàu tạm thời dừng lại và bị ngập nước. Saratoga lại rút khỏi chiến trường trong vài tháng để sửa chữa, nhưng phần lớn phi đội của con tàu đã được chuyển sang Guadalcanal, tạo nên một sự tăng viện quan trọng cho Lực lượng Không quân Cactus. Tàu sân bay bị hư hại tới Trân Châu Cảng vào ngày 21 tháng 9 với Fletcher ở trên tàu. Màn thể hiện của ông trong chiến dịch Guadalcanal bị đánh dấu bởi sự thiếu quyết đoán rõ rệt, dẫn đến việc mất lòng tin từ cả King lẫn Nimitz. Fletcher được cho nghỉ phép cần thiết và không bao giờ trở lại làm nhiệm vụ với tàu sân bay nữa. Chuẩn đô đốc Leigh Noyes tiếp nhận quyền chỉ huy TF 61.
Chiến dịch tiếp theo của Yamamoto nhằm tái chiếm hòn đảo diễn ra vào giữa tháng 9 và được liên kết với đợt tấn công bộ binh thứ hai của Nhật. Ngày 9 tháng 9, Shokaku, Zuikaku, và Zuiho rời Truk trong một lực lượng được lệnh tiêu diệt tàu sân bay Mỹ sau khi sân bay Henderson bị chiếm. Kế hoạch này đổ vỡ khi cuộc tấn công mặt đất bị đẩy lùi trong đêm ngày 13 tháng 9 với tổn thất nặng nề cho phía Nhật. Để bảo vệ đơn vị Thủy quân lục chiến khỏi bị tấn công từ biển, các tàu sân bay WaspHornet đã bố trí vị trí ở phía đông bắc quần đảo Santa Cruz nhưng không thể xác định được vị trí tàu sân bay Nhật cũng đang trên biển. Máy bay trinh sát Nhật phát hiện ra TF 61, nhưng Noyes đã di chuyển về phía đông nam trước khi người Nhật có thể tấn công. Ngày hôm sau, máy bay PBY phát hiện Lực lượng Tiên phong của Nhật và Noyes cho phóng các đợt tấn công từ cả hai tàu sân bay. Các đòn tấn công không tìm thấy mục tiêu vì Yamamoto đã ra lệnh cho Lực lượng Tiên phong quay lên phía bắc để tiếp nhiên liệu. Nếu đòn tấn công của Mỹ bắt kịp Lực lượng Tiên phong, Nagumo có thể đã tiến xuống phía nam hỗ trợ và một trận chiến tàu sân bay khác sẽ diễn ra vào ngày 15 tháng 9.
Lực lượng tàu ngầm IJN thường bị chỉ trích vì thiếu thành công trong chiến tranh, nhưng nó đã có tác động đáng kể đến các trận hải chiến tàu sân bay năm 1942. Ngoài việc đánh chìm Yorktown ở Midway, và khiến Saratoga phải nằm ụ trong phần lớn thời gian năm 1942, vào ngày 15 tháng 9, I-19 đã phóng ngư lôi đánh trúng Wasp ở phía nam đảo San Cristobal. Với việc Wasp bị đánh chìm, Hải quân Mỹ giảm xuống chỉ còn một tàu sân bay hoạt động ở Nam Thái Bình Dương. (NHHC)
Lực lượng tàu ngầm IJN thường bị chỉ trích vì thiếu thành công trong chiến tranh, nhưng nó đã có tác động đáng kể đến các trận hải chiến tàu sân bay năm 1942. Ngoài việc đánh chìm Yorktown ở Midway, và khiến Saratoga phải nằm ụ trong phần lớn thời gian năm 1942, vào ngày 15 tháng 9, I-19 đã phóng ngư lôi đánh trúng Wasp ở phía nam đảo San Cristobal. Với việc Wasp bị đánh chìm, Hải quân Mỹ giảm xuống chỉ còn một tàu sân bay hoạt động ở Nam Thái Bình Dương. (NHHC)
Kết quả của một trận hải chiến tàu sân bay có lẽ còn không tồi tệ bằng những gì thực sự xảy ra trong ngày 15 tháng 9. TF 61 vô tình đi vào một tuyến tuần tra của tàu ngầm Nhật; một trong số đó, tàu ngầm I-19, đã có thể phóng trọn một loạt sáu ngư lôi vào tàu sân bay Wasp. Hai quả ngư lôi trúng tàu sân bay, gây ra các vụ cháy lớn; những vụ nổ do hơi xăng sau đó đã định đoạt số phận con tàu. Wasp bị bỏ lại vào khoảng 14 giờ 20 phút và chìm sau đó trong buổi tối. Tình hình còn tồi tệ hơn khi các ngư lôi còn lại từ loạt phóng của I-19 tiếp tục lao về phía đông bắc, nơi có TF 17 ở cách đó khoảng 7 hải lý. Một quả ngư lôi khác đã đánh trúng thiết giáp hạm North Carolina, tạo một lỗ thủng lớn ở mạn trái khiến con tàu phải quay về Trân Châu Cảng để sửa chữa. Lại thêm một quả nữa đánh trúng tàu khu trục O’Brien, khiến con tàu chìm trên đường về Trân Châu Cảng. Giờ đây người Mỹ chỉ còn một tàu sân bay hoạt động duy nhất ở Thái Bình Dương, trong khi một cuộc tấn công khác của Nhật nhằm tái chiếm Guadalcanal đang được mong đợi. Về phần mình, người Nhật có đến 5 tàu sân bay hoạt động để chuẩn bị cho trận đánh tàu sân bay tiếp theo tại Guadalcanal.
____________________________________________
Các căn cứ không quân và hải quân của Mỹ và Nhật tại vùng Nam Thái Bình Dương trong giai đoạn từ tháng 9-10 năm 1942.
Các căn cứ không quân và hải quân của Mỹ và Nhật tại vùng Nam Thái Bình Dương trong giai đoạn từ tháng 9-10 năm 1942.

CHƯƠNG 6. CUỘC ĐỐI ĐẦU TẠI SANTA CRUZ

TÌNH HÌNH PHÍA NHẬT

Sau hai nỗ lực thất bại nhằm đánh bật lực lượng Thủy quân lục chiến khỏi Guadalcanal vào tháng 8 và tháng 9, Yamamoto đã thay đổi cách tiếp cận chiến dịch từ việc tiêu diệt hạm đội Mỹ sang mở một cuộc tấn công trên bộ quy mô lớn hơn nhằm chiếm sân bay Henderson. Điều này đòi hỏi sân bay phải bị vô hiệu hóa để cho phép di chuyển một lực lượng bộ binh đủ lớn đến hòn đảo. Cuộc tấn công quyết định nhằm chiếm Henderson Field được lên kế hoạch cho đêm ngày 22 tháng 10. Tuy nhiên, người Nhật đã không tính đến địa hình rừng rậm dày đặc mà lực lượng tấn công phải vượt qua để đến được khu vực tập kết trước trận đánh, nên việc trì hoãn là điều không thể tránh khỏi. Trong cuộc tấn công này, người Nhật huy động một sư đoàn đầy đủ. Kết hợp với việc tiếp tục đánh giá thấp số lượng lính Mỹ có mặt trên đảo, điều này khiến Yamamoto tin tưởng rằng việc chiếm được sân bay là điều chắc chắn. Một khi bên Lục quân Đế quốc ra tín hiệu rằng sân bay đã bị chiếm, Yamamoto sẽ ra lệnh cho Hạm đội Liên hợp tiến xuống phía nam để tiêu diệt lực lượng hải quân Mỹ đang hỗ trợ Thủy quân lục chiến.
Tàu sân bay Zuiho được chụp khi đang tiến hành hoạt động không lực vào một ngày không xác định tháng 10 năm 1942, ngay trước trận Santa Cruz. Máy bay vừa cất cánh là một chiếc B5N. Tuy nhiên, hầu hết máy bay được mang trên Zuiho vào thời điểm này là máy bay tiêm kích Zero, và chúng đóng vai trò quan trọng trong trận chiến. (NHHC)
Tàu sân bay Zuiho được chụp khi đang tiến hành hoạt động không lực vào một ngày không xác định tháng 10 năm 1942, ngay trước trận Santa Cruz. Máy bay vừa cất cánh là một chiếc B5N. Tuy nhiên, hầu hết máy bay được mang trên Zuiho vào thời điểm này là máy bay tiêm kích Zero, và chúng đóng vai trò quan trọng trong trận chiến. (NHHC)
Yamamoto đã huy động phần lớn lực lượng Hạm đội Liên hợp để yểm trợ cho cuộc tấn công tháng 10. Phần lớn các đơn vị được biên chế vào Lực lượng Yểm trợ do Phó đô đốc Kondō chỉ huy, bao gồm Lực lượng Tiến công dưới quyền trực tiếp của ông và Lực lượng Chủ lực của Nagumo. Lực lượng Tiến công sẽ hoạt động ở vị trí cách lực lượng tàu sân bay 100–120 hải lý về phía trước. Hải đội Tàu sân bay số 2 khi đó đã trở lại trạng thái sẵn sàng chiến đấu và được phân vào Lực lượng Tiến công. Nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch, lực lượng này sẽ đạt vị trí cuối cùng ở khu vực đông nam Guadalcanal, nhằm cắt đứt tuyến tiếp tế và tăng viện của đồn trú Mỹ. Lực lượng Chủ lực của Nagumo được giao nhiệm vụ tiêu diệt các tàu sân bay Mỹ. Lực lượng này được xây dựng quanh Hải đội Tàu sân bay số 1, gồm hai tàu sân bay hạm đội ShokakuZuikaku, tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho, cùng lực lượng hộ tống gồm một tàu tuần dương hạng nặng và tám tàu khu trục. Phần còn lại của lực lượng Nagumo được tổ chức thành Lực lượng Tiền vệ, gồm hai thiết giáp hạm, ba tàu tuần dương hạng nặng, một tàu tuần dương hạng nhẹ và bảy tàu khu trục, có nhiệm vụ bảo vệ sườn trái của Nagumo.
Chuẩn đô đốc Kakuta Kakuji là chỉ huy của Hải đội tàu sân bay 2. Trong trận Midway, ông chỉ huy lực lượng của mình một cách hiệu quả và yểm trợ cho việc chiếm hai hòn đảo ở Aleutians, vốn hóa ra là phần duy nhất thành công của toàn bộ chiến dịch. Màn thể hiện của ông tại Santa Cruz cho thấy ông là một sĩ quan đầy quyết đoán.
Chuẩn đô đốc Kakuta Kakuji là chỉ huy của Hải đội tàu sân bay 2. Trong trận Midway, ông chỉ huy lực lượng của mình một cách hiệu quả và yểm trợ cho việc chiếm hai hòn đảo ở Aleutians, vốn hóa ra là phần duy nhất thành công của toàn bộ chiến dịch. Màn thể hiện của ông tại Santa Cruz cho thấy ông là một sĩ quan đầy quyết đoán.
Kế hoạch của Nhật Bản bắt đầu được triển khai vào ngày 11 tháng 10. Yamamoto dự định chuyển một đoàn tiếp viện lớn tới Guadalcanal, gồm sáu tàu vận tải cao tốc được hộ tống bởi tám tàu khu trục. Để yểm hộ cho hoạt động di chuyển của đoàn này, hai thiết giáp hạm đã pháo kích vào sân bay Henderson trong rạng sáng ngày 14 tháng 10, bắn tổng cộng 918 quả đạn pháo 14 inch, phá huỷ 40 máy bay và khiến sân bay tạm thời tê liệt. Đoàn vận tải Nhật đến ngoài khơi Guadalcanal trong đêm ngày 14–15 tháng 10, được hai tàu tuần dương hạng nặng đi trước pháo kích sân bay. Các tiêm kích Zero từ tàu sân bay JunyoHiyo thực hiện nhiệm vụ CAP để bảo vệ đoàn tàu, nhưng máy bay Mỹ từ Henderson Field vẫn đánh chìm ba trong sáu tàu vận tải. Dù vậy, chiến dịch vận tải nhìn chung vẫn thành công, khi 4.500 binh sĩ Nhật cùng phần lớn trang bị và tiếp liệu đã đổ bộ an toàn.
Ở giai đoạn đầu của cuộc tấn công này, tàu sân bay Mỹ duy nhất còn hoạt động là USS Hornet. Ngày 16 tháng 10, Hornet áp sát trong phạm vi 95 hải lý tính từ Guadalcanal và phóng bốn đợt không kích nhằm vào ba tàu vận tải Nhật bị mắc cạn. Ngày hôm sau (17 tháng 10), Yamamoto ra lệnh cho Hải đội Tàu sân bay số 2 tấn công các tàu trong vịnh Lunga ngoài khơi Guadalcanal. Đợt không kích, gồm 18 máy bay ném ngư lôi Type 97 mang bom, được 18 tiêm kích Zero hộ tống, đã hoàn toàn thất bại – không có tàu Mỹ nào bị trúng đạn, và chỉ tám máy bay ném bom quay trở lại được tàu sân bay. Rắc rối lại tiếp tục xảy ra với Hải đội Tàu sân bay số 2. Ngày 21 tháng 10, một vụ cháy buồng máy bùng phát trên tàu sân bay Hiyo. Dù công tác sửa chữa giúp khôi phục tốc độ tối đa lên 16 hải lý/giờ, con số này vẫn không đủ cho hoạt động của đội hình hạm đội. Trước khi rút về Truk, Hiyo đã chuyển giao ba tiêm kích Zero, một máy bay ném bom bổ nhào, và năm máy bay ném ngư lôi Type 97 sang tàu Junyo. Sự rút lui của Hiyo đồng nghĩa với việc Hải đội Tàu sân bay số 2 mất đi 16 tiêm kích Zero và 17 máy bay ném bom bổ nhào khỏi đội hình chiến đấu ngay trước thềm trận đánh tàu sân bay sắp diễn ra.

TÌNH HÌNH PHÍA MỸ

Hornet gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương vào tháng 4 năm 1942. Bức ảnh chụp vào tháng 5 cho thấy con tàu trong kiểu ngụy trang đặc trưng Measure 12 (modified). Sau khi bỏ lỡ trận Đông Solomon vì được giữ lại ở Trung tâm Thái Bình Dương để bảo vệ Hawaii, Hornet được điều đến Nam Thái Bình Dương vào tháng 9 và bị đánh chìm tại Santa Cruz vào tháng sau đó. (NHHC)
Hornet gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương vào tháng 4 năm 1942. Bức ảnh chụp vào tháng 5 cho thấy con tàu trong kiểu ngụy trang đặc trưng Measure 12 (modified). Sau khi bỏ lỡ trận Đông Solomon vì được giữ lại ở Trung tâm Thái Bình Dương để bảo vệ Hawaii, Hornet được điều đến Nam Thái Bình Dương vào tháng 9 và bị đánh chìm tại Santa Cruz vào tháng sau đó. (NHHC)
Cuộc tổng tấn công của Nhật Bản vào tháng 10 đã diễn ra vào lúc người Mỹ đang ở trong tình thế suy yếu nhất. Đô đốc Chester Nimitz nhận thấy tình hình nghiêm trọng đến mức ông đưa ra quyết định đặc biệt: miễn nhiệm Đô đốc Robert Ghormley khỏi quyền chỉ huy. Người thay thế là Đô đốc William F. Halsey, một sĩ quan nhiệt huyết và hiếu chiến, được bổ nhiệm ngày 18 tháng 10 với nhiệm vụ giữ vững Guadalcanal trước đợt tấn công quy mô lớn sắp tới. Ngay sau khi tiếp nhận quyền chỉ huy, Halsey quyết định chuyển sang thế tấn công, và chỉ trong vài ngày, ông vạch ra một kế hoạch táo bạo để thực hiện điều đó. Đúng như phong cách quen thuộc, Halsey dự định sẽ sử dụng lực lượng tàu sân bay một cách mạnh mẽ và chủ động. Lực lượng Đặc nhiệm 61 (TF 61) được tăng cường vào ngày 24 tháng 10, khi tàu sân bay Enterprise hợp lực với Hornet ở phía đông bắc quần đảo New Hebrides. Các tàu sân bay này nằm dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc Thomas C. Kinkaid, một sĩ quan không thuộc ngành hàng không hải quân. Halsey ra lệnh cho Kinkaid đưa lực lượng tàu sân bay tiến lên phía bắc quần đảo Santa Cruz và tích cực tìm kiếm lực lượng Nhật Bản; nếu không phát hiện gì, TF 61 sẽ tiếp tục di chuyển về đảo San Cristobal. Tại thời điểm đó, nếu kết quả trinh sát của TF 61 cho thấy không có dấu hiệu một cuộc tấn công lớn của Nhật nhằm vào Guadalcanal, Halsey dự định tung ra một đòn đánh phủ đầu nhằm vào các tàu Nhật ở vịnh Shortland – căn cứ trung chuyển chính của họ trong việc đưa quân tiếp viện đến Guadalcanal.
Khi Halsey tiếp nhận quyền chỉ huy lực lượng Đồng minh ở Nam Thái Bình Dương, ông đã hứa với Thiếu tướng Alexander Vandegrift, chỉ huy Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 1 trên Guadalcanal, mức độ hỗ trợ tăng cường. Hai người được chụp tại một cuộc hội đàm ở đây. Halsey đã giữ lời hứa một phần bằng cách lên kế hoạch sử dụng các tàu sân bay của mình một cách mạnh mẽ, dẫn đến trận Santa Cruz.
Khi Halsey tiếp nhận quyền chỉ huy lực lượng Đồng minh ở Nam Thái Bình Dương, ông đã hứa với Thiếu tướng Alexander Vandegrift, chỉ huy Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 1 trên Guadalcanal, mức độ hỗ trợ tăng cường. Hai người được chụp tại một cuộc hội đàm ở đây. Halsey đã giữ lời hứa một phần bằng cách lên kế hoạch sử dụng các tàu sân bay của mình một cách mạnh mẽ, dẫn đến trận Santa Cruz.
George Murray, được chụp ở đây bên trái với cấp bậc đại tá trong một buổi lễ trao tặng trên tàu Enterprise tháng 5 năm 1942, là chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm 17 tại Santa Cruz. Ông là một trong những người tiên phong của không quân hải quân Mỹ và chỉ huy Enterprise từ đầu chiến tranh cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1942.
George Murray, được chụp ở đây bên trái với cấp bậc đại tá trong một buổi lễ trao tặng trên tàu Enterprise tháng 5 năm 1942, là chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm 17 tại Santa Cruz. Ông là một trong những người tiên phong của không quân hải quân Mỹ và chỉ huy Enterprise từ đầu chiến tranh cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1942.
Kế hoạch này cực kỳ táo bạo và thậm chí có thể bị xem là liều lĩnh. Halsey đã mạo hiểm tung ra toàn bộ hai tàu sân bay duy nhất còn hoạt động của Mỹ tại Thái Bình Dương vào một chiến dịch gần như không có sự yểm trợ đáng kể từ không quân trên bộ. Sau trận đánh, Halsey nói với Đô đốc Nimitz rằng ông chỉ định cho TF 61 tiến qua quần đảo Santa Cruz nếu không phát hiện thấy lực lượng Nhật Bản. Nếu điều này là đúng, thì Chuẩn đô đốc Kinkaid đã không hiểu rõ yếu tố then chốt trong mệnh lệnh của ông. Chiến dịch táo bạo của Halsey ẩn chứa rất nhiều rủi ro. Nếu cả hai tàu sân bay bị đánh chìm hoặc hư hại nặng, khả năng hỗ trợ hải quân cho lực lượng Thủy quân Lục chiến tại Guadalcanal sẽ hoàn toàn tê liệt. Một cách hành động thận trọng hơn sẽ là giữ các tàu sân bay ở vị trí phía nam hoặc đông nam Guadalcanal, nơi chúng có thể dựa vào công tác trinh sát từ các máy bay tầm xa PBY Catalina và B-17 để cảnh báo sớm về một đợt tấn công lớn của Nhật Bản. Tuy nhiên, cách tiếp cận thận trọng đó hoàn toàn trái ngược với bản chất của Halsey – một người ưa mạo hiểm và luôn chủ trương tấn công trước khi đối phương kịp ra tay.
Chuẩn đô đốc Thomas Kinkaid được chụp tại đây trên tàu Enterprise vào tháng 7 năm 1942. Với cấp bậc cao nhất giữa hai lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay Hải quân Mỹ tại Santa Cruz, ông là tổng chỉ huy trong trận chiến. Thành tích của ông không thực sự xuất sắc, nhưng ông đã tiếp tục thiết lập một hồ sơ chiến tranh tốt trong các nhiệm vụ chỉ huy không phải tàu sân bay.
Chuẩn đô đốc Thomas Kinkaid được chụp tại đây trên tàu Enterprise vào tháng 7 năm 1942. Với cấp bậc cao nhất giữa hai lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay Hải quân Mỹ tại Santa Cruz, ông là tổng chỉ huy trong trận chiến. Thành tích của ông không thực sự xuất sắc, nhưng ông đã tiếp tục thiết lập một hồ sơ chiến tranh tốt trong các nhiệm vụ chỉ huy không phải tàu sân bay.
Khi đang cân nhắc các kế hoạch cho TF 61, Halsey chỉ có một ý niệm mơ hồ về vị trí của lực lượng tàu sân bay Nhật Bản. Trụ sở của Cục Tình báo Hải quân ở Washington, D.C. cung cấp các bản đánh giá hàng tuần về cách bố trí và ý đồ của các đơn vị hải quân Nhật, nhưng trong những tuần trước trận Santa Cruz, các bản đánh giá này liên tục sai lệch. Nimitz đã cảnh báo Halsey về một chiến dịch sắp xảy ra của Nhật nhằm vào Guadalcanal ngay từ ngày 17 tháng 10, nhưng các ước tính về cách bố trí lực lượng Nhật Bản lại không chính xác. Trong số sáu tàu sân bay của Nhật, sĩ quan tình báo cấp cao của Nimitz đánh giá rằng chỉ có ShokakuZuikaku hiện diện ở Nam Thái Bình Dương. Hải đội Tàu sân bay số 2 vẫn được cho là đang ở vùng biển nội địa Nhật (trên thực tế, nó đã đến Truk vào ngày 9 tháng 10). Tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho thì không xác định được vị trí. Nguồn tin tình báo sai lệch này đã trở thành cơ sở cho kế hoạch đầy rủi ro của Halsey: điều hai tàu sân bay của mình đi đối đầu với một lực lượng tàu sân bay Nhật đông đảo hơn nhiều.

TIẾP XÚC VỚI ĐỊCH QUÂN

Đội hình của lực lượng tàu sân bay Nhật trong ngày 26 tháng 10 năm 1942. Hải đội Tàu sân bay 1 (Shokaku, Zuikaku và Zuiho) nằm trong Lực lượng Chủ lực (Main Body) và Hải đội Tàu sân bay số 2 (gồm Junyo và Hiyo, riêng Hiyo bị rút khỏi đội hình đó sự cố hoả hoạn) nằm trong Lực lượng Tiến công.
Đội hình của lực lượng tàu sân bay Nhật trong ngày 26 tháng 10 năm 1942. Hải đội Tàu sân bay 1 (Shokaku, Zuikaku và Zuiho) nằm trong Lực lượng Chủ lực (Main Body) và Hải đội Tàu sân bay số 2 (gồm Junyo và Hiyo, riêng Hiyo bị rút khỏi đội hình đó sự cố hoả hoạn) nằm trong Lực lượng Tiến công.
Sau khi cuộc tấn công trên bộ bị hoãn lại một ngày, sang ngày 23 tháng 10, Yamamoto ra lệnh cho Kondo di chuyển về phía bắc cho đến trưa ngày 22, rồi sau đó quay xuống phía nam hướng về Guadalcanal. Đến sáng ngày 23 tháng 10, sau khi dự kiến chiếm được sân bay Henderson, Lực lượng Tiến công sẽ ở vị trí cách Henderson Field 200 hải lý về phía đông bắc, với các tàu sân bay của Nagumo ở phía sau thêm 100 hải lý nữa. Khi Nagumo thận trọng cơ động ở phía bắc Guadalcanal, các máy bay trinh sát PBY đã phát hiện Lực lượng Tiên phong và một trong các tàu sân bay của ông vào ngày 23 tháng 10. Điều này xác nhận rằng có một lực lượng Nhật Bản mạnh đang hiện diện trong khu vực, nhưng Halsey vẫn không thay đổi kế hoạch đưa các tàu sân bay của mình lên phía bắc quần đảo Santa Cruz.
Cuộc hành quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản xuyên qua rừng rậm đến vị trí phía nam Sân bay Henderson gian khổ hơn nhiều so với dự đoán. Điều này buộc họ phải hoãn cuộc tấn công thêm một lần nữa, sang đêm ngày 24 tháng 10. Sự trì hoãn mới nhất này khiến Lực lượng Yểm trợ lại quay trở ra bắc. Yamamoto nghi ngờ rằng các tàu sân bay Mỹ đang ở phía đông nam của Lực lượng Yểm trợ và ra lệnh cho Kondo cùng Nagumo tìm kiếm theo hướng đó. Sự thận trọng của Nagumo sau trận Midway lại càng tăng lên bởi những diễn biến trong ngày 24 tháng 10. Rạng sáng hôm đó, các máy bay PBY đã tiến hành một cuộc tấn công không thành công vào Lực lượng Tiên phong. Nhớ lại rằng các tàu sân bay của mình đã bị phát hiện một ngày trước đó, Nagumo quyết định tiếp tục di chuyển lên phía bắc lâu hơn so với mệnh lệnh của Yamamoto. Các tàu sân bay tiếp tục đi về tây bắc cho đến chiều ngày 24 tháng 10, và Nagumo không thông báo cho Kondo hay Yamamoto về việc thay đổi hướng đi này cho đến tận buổi chiều hôm đó. Khi ấy, Kondo đã quay xuống phía nam theo đúng kế hoạch tổng thể, nhưng phải đổi hướng trở lại khi biết được sự thay đổi của Nagumo. Vào 21 giờ 47 phút, Yamamoto ra lệnh cho Nagumo và Kondo quay lại đúng lịch trình. Do đó, vào 23 giờ ngày 24 tháng 10, Nagumo đổi hướng về phía nam và tăng tốc.
Khi cuộc tấn công trên bộ của Nhật Bản cuối cùng cũng được phát động trong đêm 24 tháng 10, nó lập tức trở thành một thảm họa. Địa hình hiểm trở giúp Thủy quân Lục chiến Mỹ đánh bại từng phần lực lượng tấn công của đối phương. Giữa lúc hỗn loạn, lúc 01 giờ 30 phút sáng ngày 25 tháng 10, Lục quân Đế quốc gửi tín hiệu báo cáo rằng họ đã chiếm được sân bay. Trên thực tế, nó vẫn nằm trong tay người Mỹ. Sự thật này nhanh chóng được chứng minh vào sau đó trong ngày 25 tháng 10, khi các máy bay tiêm kích Mỹ tham gia đánh chặn loạt không kích đầu tiên của Nhật Bản. Trong số này có một đợt tấn công gồm 12 chiếc Zero và 12 máy bay ném bom bổ nhào từ tàu sân bay Junyo vào khoảng 16 giờ.
Khi Yamamoto biết vào buổi sáng rằng báo cáo về việc chiếm được Sân bay Henderson là sai, ông lập tức ra lệnh cho Kondo và Nagumo quay lại hướng bắc. Cả hai chỉ huy Nhật Bản đã trải qua một ngày 25 tháng 10 đầy sóng gió, do hoạt động xuất sắc của các máy bay trinh sát PBY và B-17 xuất phát từ Espiritu Santo, cùng các máy bay PBY khác cất cánh từ tàu tiếp tế thủy phi cơ Ballard triển khai tại quần đảo Santa Cruz. Một chiếc B-17 phát hiện Lực lượng Tiến công lúc 09 giờ 30 phút, và chỉ vài phút sau, một chiếc PBY khác phát hiện Lực lượng Tiên phong. Lúc 10 giờ, thêm một chiếc PBY khác phát hiện và bắt đầu bám theo Lực lượng Chủ lực của Nagumo; đến 11 giờ 03 phút, nó đã có được quan sát trực tiếp toàn bộ ba tàu sân bay của Nagumo.
Những báo cáo đầu tiên của các máy bay PBY không đến tay Chuẩn đô đốc Kinkaid cho đến 10 giờ 25 phút, và chỉ cho biết có thiết giáp hạm cùng tàu hộ tống, không thấy tàu sân bay nào. Các lực lượng Nhật được xác định ở cách 375 hải lý về phía tây bắc của TF 61 — tức là vẫn nằm ngoài tầm tấn công. Một báo cáo PBY sau đó, được nhận trên tàu Enterprise, lại cho biết có hai tàu sân bay Nhật ở 355 hải lý về phía tây TF 61. Dù vẫn nằm ngoài tầm đánh, Kinkaid và ban tham mưu bắt đầu suy tính cách tận dụng nguồn tin vô giá này. Báo cáo tương tự cũng được chuyển đến Đô đốc Halsey, và ông lập tức ra lệnh ngắn gọn: “Tấn công, nhắc lại, tấn công.” Tuy nhiên, dù mệnh lệnh của Halsey có khẩn cấp đến đâu, việc tung ra một đòn tấn công vào mục tiêu xa như vậy là cực kỳ khó khăn. Kinkaid chỉ nhận được báo cáo lúc 11 giờ 50 phút, và với gió thổi từ hướng đông nam, TF 61 buộc phải xoay hướng ngược lại với mục tiêu để có thể cất cánh. Cách tốt nhất mà Kinkaid có thể làm là tăng tốc lên 27 hải lý/giờ nhằm rút ngắn khoảng cách, đồng thời hy vọng các tàu sân bay Nhật vẫn giữ hướng đi về phía đông — nếu may mắn, một cuộc tấn công vào buổi chiều có thể thực hiện được nếu hai bên tiếp tục tiến gần nhau.
Đội hình của Lực lượng Đặc nhiệm 17 (TF 17) và Lực lượng Đặc nhiệm 16 (TF 16) trong ngày 26 tháng 10 năm 1942.
Đội hình của Lực lượng Đặc nhiệm 17 (TF 17) và Lực lượng Đặc nhiệm 16 (TF 16) trong ngày 26 tháng 10 năm 1942.
Kinkaid chỉ định Enterprise làm tàu sân bay trực nhiệm vụ trong ngày 25 tháng 10, nên nhóm không đoàn của con tàu này đảm nhận nhiệm vụ trinh sát và CAP. Một phi đội tấn công đầy đủ đã được vũ trang và chuẩn bị sẵn trên boong tàu Hornet. Tuy nhiên, sau đó trong ngày, Kinkaid lại bất ngờ chỉ định không đoàn của Enterprise, vốn còn thiếu kinh nghiệm, thực hiện đợt tấn công buổi chiều, thay vì dùng không đoàn dày dạn kinh nghiệm của Hornet vốn đã trong tư thế sẵn sàng. Lúc 13 giờ 30 phút, Kinkaid cho phóng đi 12 chiếc Dauntless để trinh sát về phía tây bắc ở cự ly đến 200 hải lý. Enterprise bắt đầu tung ra nhóm xuất kích tấn công lúc 14 giờ, với nhiệm vụ bay 150 hải lý về phía tây bắc và chờ kết quả từ nhóm trinh sát. Nhiệm vụ trinh sát và tấn công này, gồm 16 chiếc Wildcat, 12 chiếc Dauntless và 7 chiếc Avenger, đã nhanh chóng trở thành một mớ hỗn loạn. Khi cất cánh lúc 14 giờ 25 phút, phi đội chỉ còn 8 chiếc Wildcat, 5 chiếc Dauntless và 6 chiếc Avenger. Đến 15 giờ 10 phút, Kinkaid nhận được tin rằng một nhóm B-17 vừa ném bom vào Lực lượng Tiên phong của Nhật, lực lượng này đang hướng bắc với tốc độ 25 hải lý/giờ. Giả định rằng đợt không kích của mình sẽ tìm thấy mục tiêu giờ không còn đúng nữa, vì người Nhật đang di chuyển xa ra chứ không tiến lại gần TF 61. Mọi chuyện tệ hơn khi chỉ huy phi đội tấn công đã phớt lờ mệnh lệnh, bay xa đến 200 hải lý thay vì 150 hải lý trước khi quay về, rồi lại rẽ thêm 80 hải lý lên phía bắc. Việc bay vòng và trở về trễ này khiến họ phải hạ cánh trong đêm — một nhiệm vụ nguy hiểm với phi công còn non kinh nghiệm. Kết quả là 1 chiếc Wildcat, 4 chiếc Dauntless và 3 chiếc Avenger bị mất hoặc hư hại nặng không thể sửa chữa.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Nhật Bản lúc 05 giờ vào ngày 26 tháng 10 năm 1942.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Nhật Bản lúc 05 giờ vào ngày 26 tháng 10 năm 1942.
Những di chuyển của hải quân Nhật vào cuối ngày 25 tháng 10 khiến trận hải chiến tàu sân bay vào ngày hôm sau trở nên không thể tránh khỏi. Lực lượng Tiến công của Kondo rẽ về phía nam lúc 19 giờ, và Lực lượng của Nagumo theo sau một giờ sau đó. Lực lượng Tiên phong giữ vị trí 60 hải lý phía trước các tàu sân bay. Lực lượng Yểm trợ, vốn đã ở ngoài khơi từ 11 tháng 10, bắt đầu thiếu nhiên liệu nghiêm trọng. Tuy nhiên, đến lúc này, Yamamoto đã quá mệt mỏi với những trì hoãn. Lúc 22 giờ 18 phút, tham mưu trưởng của ông gửi thông điệp cho Kondo và Nagumo, ra lệnh phải nỗ lực hơn nữa để buộc quân Mỹ giao chiến vào ngày hôm sau. Sáng 26 tháng 10, ba tàu sân bay của Nagumo đã chuẩn bị sẵn sàng với máy bay trinh sát, CAP và phi đội tấn công đã bố trí trên boong; nhóm xuất kích thứ hai được tiếp nhiên liệu và vũ trang đầy đủ trong hai hầm chứa máy bay (tàu sân bay hạm đội Nhật có hai tầng nhà chứa). Tính cả các máy bay trên Junyo thuộc Lực lượng Tiến công, người Nhật có 194 máy bay hoạt động trên bốn tàu sân bay.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Mỹ lúc 05 giờ vào ngày 26 tháng 10 năm 1942.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Mỹ lúc 05 giờ vào ngày 26 tháng 10 năm 1942.
Trong khi đó, cả EnterpriseHornet chỉ có 137 máy bay hoạt động. Cả Halsey lẫn Kinkaid đều không nhận ra rằng, trong trận chiến tàu sân bay thứ tư của cuộc chiến, người Nhật vượt trội hơn Mỹ trong mọi hạng mục quan trọng. Sau một tai nạn nghiêm trọng trên boong và phi vụ thất bại trong ngày 25 tháng 10, không đoàn của Enterprise giờ chỉ còn lại 31 chiếc Wildcat, 23 chiếc Dauntless và 10 chiếc Avenger. Kinkaid chỉ định Enterprise làm tàu sân bay trực cho ngày 26 tháng 10, do đó phi đoàn của Hornet được chọn làm đơn vị tấn công chủ lực.

TRẬN CHIẾN BẮT ĐẦU

Trận Quần đảo Santa Cruz giai đoạn 1: từ 00 giờ - 12 giờ
Trận Quần đảo Santa Cruz giai đoạn 1: từ 00 giờ - 12 giờ
Khi cả hai vị chỉ huy đều nhận được mệnh lệnh tấn công, không còn nghi ngờ gì nữa rằng ngày 26 tháng 10 sẽ chứng kiến một trận đánh tàu sân bay khác. Trận đánh bắt đầu từ rạng sáng khi các thủy phi cơ PBY tiếp tục thăm dò đội hình của Nhật Bản. Báo cáo đầu tiên của PBY được phát đi lúc 00 giờ 22 phút, cho biết có một lực lượng Nhật Bản cách TF 61 khoảng 300 hải lý về phía tây bắc. Chiếc máy bay này sau đó tiến hành một cuộc tấn công bằng ngư lôi vào mục tiêu mà nó nhận định là một tàu tuần dương hạng nặng. Cuộc tấn công không thành công này thực chất nhằm vào một tàu khu trục thuộc Lực lượng Tiên phong. Một chiếc PBY khác phát hiện Zuikaku và thực hiện một cuộc tấn công bổ nhào bằng bom lúc 02 giờ 50 phút. Bốn quả bom 500 pound rơi chệch tàu sân bay khoảng 300 yard về phía mạn phải. Những cuộc tấn công của các máy bay PBY chậm chạp này cũng đủ để khơi dậy bản tính thận trọng của Nagumo.
Lực lượng của Nagumo lúc này đã bị phát hiện, và điều đó càng khiến ông lo sợ bị phục kích bởi các tàu sân bay Mỹ mà ông cho rằng đang hoạt động ở phía đông. Lúc 03 giờ 30 phút, ông ra lệnh cho các tàu sân bay hướng mũi về phía bắc, đồng thời xả hết nhiên liệu và tháo vũ khí khỏi toàn bộ máy bay trong boong chứa máy bay. Khi trời vừa rạng sáng, ông cho triển khai một cuộc trinh sát quy mô lớn với 14 chiếc Type 97, bao quát các khu vực phía đông và phía nam trong phạm vi 300 hải lý. ShokakuZuikaku mỗi tàu đóng góp 4 chiếc Type 97, còn Zuiho cung cấp 6 chiếc. Sau khi cất cánh các máy bay trinh sát lúc 04 giờ 45 phút, Zuiho cho xuất kích nhóm CAP đầu tiên lúc 05 giờ 20 phút. Đợt tấn công đầu tiên vẫn được giữ trên sàn bay, sẵn sàng phóng đi ngay lập tức.
Hoạt động tấn công của Enterprise ngày 26 tháng 10 thiếu phối hợp. Bức ảnh này cho thấy một chiếc Avenger sẵn sàng cất cánh. Các biển báo phía sau làm nổi bật sự nhầm lẫn. Biển bên trái ghi "TÀU SÂN BAY NHẬT TỐC ĐỘ 25 LÚC 08 GIỜ 30 PHÚT" nhưng không cung cấp vị trí mục tiêu cập nhật. Biển bên phải ghi "TIẾN HÀNH KHÔNG CÓ HORNET", xác nhận việc Lực lượng Đặc nhiệm 61 không thể tổ chức các cuộc tấn công phối hợp.
Hoạt động tấn công của Enterprise ngày 26 tháng 10 thiếu phối hợp. Bức ảnh này cho thấy một chiếc Avenger sẵn sàng cất cánh. Các biển báo phía sau làm nổi bật sự nhầm lẫn. Biển bên trái ghi "TÀU SÂN BAY NHẬT TỐC ĐỘ 25 LÚC 08 GIỜ 30 PHÚT" nhưng không cung cấp vị trí mục tiêu cập nhật. Biển bên phải ghi "TIẾN HÀNH KHÔNG CÓ HORNET", xác nhận việc Lực lượng Đặc nhiệm 61 không thể tổ chức các cuộc tấn công phối hợp.
Một máy bay tiêm kích F4F Wildcat chuẩn bị phóng từ Enterprise vào ngày 24 tháng 10 năm 1942. Cảnh tượng này sẽ lập lại tương tự vào hai ngày sau đó trong trận Santa Cruz.
Một máy bay tiêm kích F4F Wildcat chuẩn bị phóng từ Enterprise vào ngày 24 tháng 10 năm 1942. Cảnh tượng này sẽ lập lại tương tự vào hai ngày sau đó trong trận Santa Cruz.
Các phi hành đoàn xử lý máy bay đang làm việc chăm chỉ trên tàu Enterprise khi con tàu nghiêng mạnh trong Trận chiến Santa Cruz ngày 26 tháng 10 năm 1942. Máy bay ở giữa là một máy bay tiêm kích F4F Wildcat. Bên phải là một chiếc SBD Dauntless. Các máy bay khác bay phía trên.
Các phi hành đoàn xử lý máy bay đang làm việc chăm chỉ trên tàu Enterprise khi con tàu nghiêng mạnh trong Trận chiến Santa Cruz ngày 26 tháng 10 năm 1942. Máy bay ở giữa là một máy bay tiêm kích F4F Wildcat. Bên phải là một chiếc SBD Dauntless. Các máy bay khác bay phía trên.
Sàn bay của EnterpriseHornet cũng nhộn nhịp với các hoạt động vào buổi sáng sớm. Enterprise cho cất cánh 7 chiếc Wildcat làm nhiệm vụ CAP và 16 chiếc Dauntless bay theo cặp để trinh sát về phía tây trong phạm vi 200 hải lý. Khi mặt trời mọc, Hornet bổ sung thêm 7 chiếc tiêm kích nữa cho CAP. Việc phải huy động tới 16 chiếc Dauntless cho nhiệm vụ trinh sát sẽ không cần thiết nếu báo cáo của PBY đến tay Kinkaid sớm hơn. Thực tế là ông không nhận được tin báo về cuộc tấn công Zuikaku của PBY cho đến 05 giờ 12 phút. Trong khi đó, các tàu khác thuộc TF 61 đã nhận được tin báo này sớm hơn một tiếng, nhưng không chuyển thông tin đến soái hạm của Kinkaid. Các vấn đề liên lạc kéo dài này đã khiến người Mỹ đánh mất cơ hội vàng để bắt gặp các tàu sân bay Nhật khi máy bay còn đang ở trên boong. Khi ban tham mưu của Kinkaid cuối cùng nhận được tin rằng các thủy phi cơ PBY đã phát hiện ra các tàu sân bay của Nagumo, họ đã đề nghị cho xuất kích ngay đợt tấn công đã sẵn sàng của Hornet để thực hiện một nhiệm vụ trinh sát – tấn công. Tuy nhiên, Kinkaid từ chối, có lẽ vì vẫn còn bị ám ảnh bởi thất bại thảm hại của không đoàn Enterprise trong ngày hôm trước.
Hoạt động tìm kiếm của Không đoàn 10 vào ngày 26 tháng 10 năm 1942. Phân chia khu vực như sau: - 235°-250°: Wakeham – Stevens; - 250°-266°: Buell – Wakeham; - 266°-282°: Welch – McGraw  ; - 282°-298°: Burnett – Miller; - 298°-314°: Lee – Johnson; - 314°-330°: Ward – Carmody; - 330°-345°: Strong – Irvine; - 345°-360°: Ramsay – Bloch. Kết quả tìm kiếm: 1. 07 giờ 17 phút – Welch và McGraw phát hiện lực lượng mặt nước của Đô đốc Abe; 2. 17 giờ 40 phút – Burnett và Miller cũng nhìn thấy lực lượng của Abe; 3. 07 giờ 50 phút – Lee và Johnson phát hiện lực lượng tàu sân bay của Đô đốc Nagumo; 4. 08 giờ 20 phút – Ward và Carmody xác nhận lại vị trí các tàu sân bay của Nagumo; 5. 08 giờ 30 phút – Strong và Irvine lần thứ ba báo cáo chính xác toạ độ của các tàu sân bay Nhật.
Hoạt động tìm kiếm của Không đoàn 10 vào ngày 26 tháng 10 năm 1942. Phân chia khu vực như sau: - 235°-250°: Wakeham – Stevens; - 250°-266°: Buell – Wakeham; - 266°-282°: Welch – McGraw ; - 282°-298°: Burnett – Miller; - 298°-314°: Lee – Johnson; - 314°-330°: Ward – Carmody; - 330°-345°: Strong – Irvine; - 345°-360°: Ramsay – Bloch. Kết quả tìm kiếm: 1. 07 giờ 17 phút – Welch và McGraw phát hiện lực lượng mặt nước của Đô đốc Abe; 2. 17 giờ 40 phút – Burnett và Miller cũng nhìn thấy lực lượng của Abe; 3. 07 giờ 50 phút – Lee và Johnson phát hiện lực lượng tàu sân bay của Đô đốc Nagumo; 4. 08 giờ 20 phút – Ward và Carmody xác nhận lại vị trí các tàu sân bay của Nagumo; 5. 08 giờ 30 phút – Strong và Irvine lần thứ ba báo cáo chính xác toạ độ của các tàu sân bay Nhật.
Người Mỹ vẫn giữ được thế chủ động khi các báo cáo từ đội trinh sát của Enterprise lần lượt được gửi về. Hai chiếc Dauntless phát hiện Lực lượng Tiên phong chỉ cách TF 61 khoảng 170 hải lý về phía tây lúc 06 giờ 17 phút. Tàu tuần dương hạng nặng Tone bị hai chiếc Dauntless tấn công lúc 06 giờ 45 phút. Cả hai máy bay đều trượt mục tiêu khi thả bom 500 pound, và một chiếc Dauntless bị bắn rơi bởi hỏa lực phòng không. Gần như cùng thời điểm đó, một cặp Dauntless khác phát hiện một trong các tàu sân bay của Nagumo, và đến 07 giờ, chúng đã nhìn thấy cả ba chiếc. Trong vài phút đầu, phía Nhật không hề nhận ra có máy bay địch đang bay trên đầu. Khi người Mỹ cuối cùng bị phát hiện, lực lượng CAP được tăng cường thêm 17 chiếc Zero từ ShokakuZuikaku.
Vị trí các tàu sân bay Nhật được báo cáo cách TF 61 khoảng 185–200 hải lý về phía tây bắc — chỉ vừa đủ trong tầm tấn công. Dù vậy, Đô đốc Kinkaid vẫn ra lệnh phát động tấn công ngay lập tức từ cả hai tàu sân bay. Để rút ngắn khoảng cách, ông cho TF 61 đổi hướng về phía mục tiêu và tăng tốc lên 27 hải lý/giờ. Tuy nhiên, các mục tiêu vẫn ở rìa ngoài tầm tấn công, vì phía Nhật đang di chuyển nhanh về hướng bắc, trong khi hướng gió thổi từ đông nam buộc Kinkaid phải xoay hạm đội theo hướng đông nam để có thể phóng máy bay. Hornet đã chuẩn bị sẵn đợt xuất kích trên boong, nên là tàu đầu tiên mở đợt tấn công. Đến 07 giờ 43 phút, 8 chiếc Wildcat, 15 chiếc Dauntless, và 6 chiếc Avenger mang ngư lôi đã ở trên không. Ngay sau đó, đợt thứ hai gồm 7 chiếc Wildcat, 9 chiếc Dauntless, và 10 chiếc Avenger (được trang bị bom 500 pound thay vì ngư lôi) cũng nhanh chóng xuất kích. Hai nhóm này bay riêng rẽ đến mục tiêu. Lệnh xuất kích của Kinkaid khiến Enterprise bị bất ngờ — tàu này chỉ kịp tổ chức được một đợt tấn công nhỏ gồm 8 chiếc Avenger, 3 chiếc Dauntless và 8 chiếc Wildcat hộ tống. Đi cùng đội hình này là chỉ huy không đoàn, bay trên một chiếc Avenger không vũ trang. Đợt tấn công của Enterprise được lệnh hành động độc lập, khiến ba nhóm tấn công của Mỹ cùng bay đến tấn công lực lượng của Nagumo mà không có sự phối hợp giữa họ.
Trong khi người Mỹ đang chuẩn bị cho đợt tấn công của mình, Nagumo nhận được thông tin mang tính quyết định. Một trong các máy bay tấn công từ Shokaku đã phát hiện một tàu sân bay Mỹ ở hướng đông–đông nam, chỉ cách 210 dặm. Phi công của chiếc máy bay này lần đầu nhìn thấy mục tiêu lúc 06 giờ 12 phút, nhưng phải mất thêm thời gian để xác nhận sự hiện diện của tàu sân bay, và khi gửi báo cáo, anh ta lại dùng sai mật hiệu. Tuy nhiên, khi Nagumo nhận được báo cáo lúc 06 giờ 58 phút rằng có tàu sân bay địch hiện diện, ông không hề chần chừ. Ông ra lệnh phóng ngay đợt tấn công thứ nhất. Ông cũng cho chiếc máy bay trinh sát Yokosuka D4Y1-C Type 2 duy nhất (sau này được Đồng minh đặt mật danh “Judy”) bay đi xác nhận lại việc phát hiện. Đợt xuất kích của Nhật bắt đầu phóng lúc 07 giờ 10 phút. Đợt này do Thiếu tá Murata Shigeharu thuộc Shokaku chỉ huy. Từ Shokaku cất cánh 4 tiêm kích và 20 máy bay cường kích mang ngư lôi. Từ Zuikaku, bắt đầu lúc 07 giờ 25 phút, có tám tiêm kích, 21 máy bay ném bom (một chiếc buộc phải quay lại) và một máy bay tấn công không mang ngư lôi được giao nhiệm vụ bám theo lực lượng tàu sân bay Mỹ. Tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho đóng góp chín tiêm kích và một máy bay tấn công khác làm nhiệm vụ “bóng đuôi”. Đến 07 giờ 30 phút, Murata hướng xuống phía đông nam. Tổng lực lượng tấn công của Nhật gồm 21 tiêm kích, 21 máy bay ném bom hạm đội mang bom 550 pound, và 22 máy bay cường kích (chỉ có 20 chiếc mang ngư lôi).
Trong khi người Mỹ đang chuẩn bị cho đợt tấn công của mình, Nagumo nhận được thông tin mang tính quyết định. Một trong các máy bay tấn công từ Shokaku đã phát hiện một tàu sân bay Mỹ ở hướng đông–đông nam, chỉ cách 210 dặm. Phi công của chiếc máy bay này lần đầu nhìn thấy mục tiêu lúc 06 giờ 12 phút, nhưng phải mất thêm thời gian để xác nhận sự hiện diện của tàu sân bay, và khi gửi báo cáo, anh ta lại dùng sai mật hiệu. Tuy nhiên, khi Nagumo nhận được báo cáo lúc 06 giờ 58 phút rằng có tàu sân bay địch hiện diện, ông không hề chần chừ. Ông ra lệnh phóng ngay đợt tấn công thứ nhất. Ông cũng cho chiếc máy bay trinh sát Yokosuka D4Y1-C Type 2 duy nhất (sau này được Đồng minh đặt mật danh “Judy”) bay đi xác nhận lại việc phát hiện. Đợt xuất kích của Nhật bắt đầu phóng lúc 07 giờ 10 phút. Đợt này do Thiếu tá Murata Shigeharu thuộc Shokaku chỉ huy. Từ Shokaku cất cánh 4 tiêm kích và 20 máy bay cường kích mang ngư lôi. Từ Zuikaku, bắt đầu lúc 07 giờ 25 phút, có tám tiêm kích, 21 máy bay ném bom (một chiếc buộc phải quay lại) và một máy bay tấn công không mang ngư lôi được giao nhiệm vụ bám theo lực lượng tàu sân bay Mỹ. Tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho đóng góp chín tiêm kích và một máy bay tấn công khác làm nhiệm vụ “bóng đuôi”. Đến 07 giờ 30 phút, Murata hướng xuống phía đông nam. Tổng lực lượng tấn công của Nhật gồm 21 tiêm kích, 21 máy bay ném bom hạm đội mang bom 550 pound, và 22 máy bay cường kích (chỉ có 20 chiếc mang ngư lôi).
Bức ảnh này cho thấy một đợt tấn công chuẩn bị cất cánh từ Shokaku hoặc Zuikaku. Các máy bay tiêm kích Zero được bố trí phía trước vì chúng cần ít không gian hơn để cất cánh và các máy bay ném bom bổ nhào Type 99 nặng hơn được bố trí phía sau. Cảnh boong tàu này được cho là được chụp trong trận Santa Cruz.
Bức ảnh này cho thấy một đợt tấn công chuẩn bị cất cánh từ Shokaku hoặc Zuikaku. Các máy bay tiêm kích Zero được bố trí phía trước vì chúng cần ít không gian hơn để cất cánh và các máy bay ném bom bổ nhào Type 99 nặng hơn được bố trí phía sau. Cảnh boong tàu này được cho là được chụp trong trận Santa Cruz.
Chiếc máy bay A6M2 Model 21 Zero này cất cánh từ tàu sân bay Shokaku vào ngày 26 tháng 10 năm 1942 trong Trận chiến quần đảo Santa Cruz. Đây là chiếc máy bay của Trung úy Hideki Shingo và ở bên cạnh máy bay có thể thấy các thủy thủ trên boong reo hò cổ vũ phi công.
Chiếc máy bay A6M2 Model 21 Zero này cất cánh từ tàu sân bay Shokaku vào ngày 26 tháng 10 năm 1942 trong Trận chiến quần đảo Santa Cruz. Đây là chiếc máy bay của Trung úy Hideki Shingo và ở bên cạnh máy bay có thể thấy các thủy thủ trên boong reo hò cổ vũ phi công.
Phi hành đoàn Nhật Bản được hướng dẫn chính thức trên boong tàu sân bay trước khi khởi hành nhiệm vụ.
Phi hành đoàn Nhật Bản được hướng dẫn chính thức trên boong tàu sân bay trước khi khởi hành nhiệm vụ.
Lúc 06 giờ 12 phút, một chiếc máy bay trinh sát của Shokaku đã phát hiện một tàu sân bay Mỹ chỉ cách 210 hải lý. Tuy nhiên, Nagumo chỉ nhận được báo cáo này lúc 06 giờ 58 phút, nhưng ông đã phản ứng ngay lập tức. Chiếc D4Y1 trinh sát trên Shokaku được phái đi để xác nhận mục tiêu, và đến 07 giờ 10 phút, đợt tấn công đầu tiên đã bắt đầu được phóng lên không trung. Lực lượng tấn công bao gồm 22 máy bay ném ngư lôi Type 97 (20 chiếc từ Shokaku mang ngư lôi, cùng 1 chiếc từ Zuikaku và 1 chiếc từ Zuiho làm máy bay dẫn đường không vũ trang), 21 máy bay ném bom bổ nhào từ Zuikaku, cùng 21 tiêm kích Zero hộ tống (4 chiếc từ Shokaku, 8 chiếc từ Zuikaku và 9 chiếc từ Zuiho). Đợt tấn công này do Trung tá Murata chỉ huy — người đã từng tàn phá dãy thiết giáp hạm tại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941.
Ngay sau khi đợt tấn công đầu tiên được phóng đi, các nhân viên trên sàn bay của ShokakuZuikaku bắt đầu chuyển đợt thứ hai từ boong chứa máy bay lên sàn bay. Trong khoảng thời gian dễ bị tấn công này, hai chiếc Dauntless của Mỹ xuất hiện trên đầu đội hình của Nagumo. Các máy bay ném bom bổ nhào này không bị radar của Shokaku hoặc 21 chiếc Zero đang bay tuần tra phát hiện. Hai phi công Mỹ bắt đầu lao xuống tấn công một tàu mà họ cho là cùng lớp Shokaku vào 07 giờ 40 phút. Cả hai đều báo cáo rằng bom 500 lb của mình đã trúng mục tiêu, và đều thoát được sau khi bị Zero truy đuổi suốt 45 hải lý. Trên thực tế, hai chiếc Dauntless đã tấn công Zuiho, và một quả bom trúng phần đuôi tàu. Nhờ nỗ lực kiểm soát hỏa hoạn, thủy thủ đoàn đã dập tắt được lửa, nhưng thiết bị hãm đà bị phá hỏng. Vốn không thể thu hồi máy bay được nữa, Zuiho buộc phải rút lui về Truk, rời khỏi trận chiến.
Đòn tấn công đầu tiên của trận chiến được thực hiện bởi một cặp máy bay ném bom bổ nhào Dauntless thuộc tàu sân bay Enterprise đang làm nhiệm vụ trinh sát. Được cảnh báo bởi báo cáo ban đầu về các tàu sân bay đối phương từ một cặp máy bay ném bom bổ nhào khác của Enterprise, Trung úy Stockton Strong và Thiếu úy Charles Irvine đã hướng về phía tây nam đến vị trí các tàu sân bay Nhật Bản. Họ tránh được sự phát hiện của radar và lực lượng CAP của Nhật, rồi bổ nhào xuống một mục tiêu mà họ nhận dạng là một tàu sân bay lớp Shokaku vào lúc 07 giờ 40 phút. Cặp máy bay này đã hoàn toàn gây bất ngờ và bắt đầu cắt bom từ độ cao 14.000 feet. Mục tiêu thực tế của họ là tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho, đang di chuyển cách tàu Shokaku vài dặm về phía mạn trái. Strong đã đặt quả bom 500 pound của mình trúng vào phần sau sàn bay của Zuiho. Hai chiếc Dauntless đã sống sót qua các đợt tấn công của ba máy bay Zero từ tàu sân bay Zuikaku suốt 45 dặm vượt ra ngoài lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản, và một xạ thủ súng máy đuôi của Dauntless đã bắn hạ một trong những chiếc Zero. Zuiho sẽ sống sót sau các đám cháy bùng phát, nhưng nó đã bị loại khỏi trận chiến. Chỉ huy của tàu Enterprise rất ấn tượng với chiến tích này đến mức đã đề nghị tặng thưởng Huân chương Danh dự cho Strong. (Tranh của Howard Gerrard)
Đòn tấn công đầu tiên của trận chiến được thực hiện bởi một cặp máy bay ném bom bổ nhào Dauntless thuộc tàu sân bay Enterprise đang làm nhiệm vụ trinh sát. Được cảnh báo bởi báo cáo ban đầu về các tàu sân bay đối phương từ một cặp máy bay ném bom bổ nhào khác của Enterprise, Trung úy Stockton Strong và Thiếu úy Charles Irvine đã hướng về phía tây nam đến vị trí các tàu sân bay Nhật Bản. Họ tránh được sự phát hiện của radar và lực lượng CAP của Nhật, rồi bổ nhào xuống một mục tiêu mà họ nhận dạng là một tàu sân bay lớp Shokaku vào lúc 07 giờ 40 phút. Cặp máy bay này đã hoàn toàn gây bất ngờ và bắt đầu cắt bom từ độ cao 14.000 feet. Mục tiêu thực tế của họ là tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho, đang di chuyển cách tàu Shokaku vài dặm về phía mạn trái. Strong đã đặt quả bom 500 pound của mình trúng vào phần sau sàn bay của Zuiho. Hai chiếc Dauntless đã sống sót qua các đợt tấn công của ba máy bay Zero từ tàu sân bay Zuikaku suốt 45 dặm vượt ra ngoài lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản, và một xạ thủ súng máy đuôi của Dauntless đã bắn hạ một trong những chiếc Zero. Zuiho sẽ sống sót sau các đám cháy bùng phát, nhưng nó đã bị loại khỏi trận chiến. Chỉ huy của tàu Enterprise rất ấn tượng với chiến tích này đến mức đã đề nghị tặng thưởng Huân chương Danh dự cho Strong. (Tranh của Howard Gerrard)
Thiệt hại của Zuiho trong trận Santa Cruz là một quả bom 500 pound (230 kg) từ máy bay Dauntless trong lúc đang triển khai đợt tấn công đầu tiên và thứ hai vào các tàu sân bay Mỹ. Dù con tàu không bị hư hại nghiêm trọng nhưng điều này khiến sàn bay của tàu bị vô hiệu hóa và bị loại khỏi trận chiến. (Minh hoạ của người dịch)
Thiệt hại của Zuiho trong trận Santa Cruz là một quả bom 500 pound (230 kg) từ máy bay Dauntless trong lúc đang triển khai đợt tấn công đầu tiên và thứ hai vào các tàu sân bay Mỹ. Dù con tàu không bị hư hại nghiêm trọng nhưng điều này khiến sàn bay của tàu bị vô hiệu hóa và bị loại khỏi trận chiến. (Minh hoạ của người dịch)
Nagumo rất may mắn khi cuộc tấn công bất ngờ của các máy bay Dauntless không nhằm vào một trong hai tàu sân bay lớn của ông, bởi vì chúng đang ở thời điểm dễ tổn thương nhất, khi đang được nạp nhiên liệu và vũ khí cho đợt tấn công thứ hai. Nhớ lại những gì đã xảy ra tại Midway, các đội trên sàn bay của cả hai tàu sân bay làm việc khẩn trương để phóng máy bay càng sớm càng tốt. Mong muốn đưa máy bay rời tàu nhanh nhất có thể khiến việc phóng bị chia nhỏ. Trên Shokaku, các máy bay ném bom bổ nhào cần ít thời gian chuẩn bị hơn so với các máy bay Type 97 trên Zuikaku, vốn vẫn đang được lắp ngư lôi Type 91. Nhằm giảm mức độ dễ bị tấn công, vào lúc 08 giờ 10 phút, Nagumo ra lệnh phóng ngay các máy bay từ Shokaku. Việc phóng diễn ra hiệu quả, và đến 08 giờ 18 phút, năm máy bay tiêm kích Zero và 20 máy bay ném bom bổ nhào (một chiếc sau đó phải quay lại) đã hướng về phía các tàu sân bay Mỹ. Zuikaku sau đó phóng 17 chiếc Type 97 (bao gồm một máy bay dẫn đường không vũ trang) cùng bốn chiếc Zero. Mỗi nhóm tấn công hoạt động độc lập.
Vì người Nhật có ưu thế đáng kể về hỏa lực hải pháo, Kondo đã điều động lực lượng của mình để chuẩn bị cho một trận chiến trên mặt biển. Lực lượng Tiến công tăng tốc và di chuyển để hợp nhất với lực lượng Tiến công của Nagumo, điều này đưa Junyo vào tầm hoạt động tấn công. Lực lượng Tiên phong tăng tốc lên 26 hải lý/giờ và hướng về TF 61 trong hai nhóm. Một nhóm bao gồm hai tàu tuần dương hạng nặng ToneChikuma cùng hai tàu khu trục, trong khi phần còn lại của Lực lượng Tiên phong tạo thành nhóm kia.

CUỘC TẤN CÔNG CỦA MỸ

MÁY BAY TÀU SÂN BAY MỸ TẤN CÔNG SHOKAKU: Trong cuộc tấn công đầu tiên của trận chiến, máy bay Mỹ đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho tàu sân bay Nhật.
MÁY BAY TÀU SÂN BAY MỸ TẤN CÔNG SHOKAKU: Trong cuộc tấn công đầu tiên của trận chiến, máy bay Mỹ đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho tàu sân bay Nhật.
Vì các nhóm tấn công của Mỹ và Nhật đang bay trên các hướng gần như đối nghịch, nên chắc chắn sẽ có sự chạm trán giữa họ. Vào khoảng 08 giờ 35 phút, đội tiêm kích hộ tống cho nhóm tấn công đầu tiên của Nhật đã phát hiện nhóm tàu của Enterprise. Chỉ huy của chín chiếc Zero từ Zuiho quyết định tấn công những chiếc máy bay Mỹ chưa cảnh giác. Lao xuống từ độ cao 14.000 feet, từ hướng mặt trời, phi công Nhật đạt được yếu tố bất ngờ hoàn toàn. Cuộc không chiến hỗn loạn diễn ra ngay sau đó gây thiệt hại cho cả hai bên. Người Mỹ mất ba chiếc Wildcat và hai chiếc Avenger; thêm hai chiếc Avenger và một Wildcat khác phải quay về Enterprise. Bốn chiếc Zero rơi xuống biển và một chiếc khác bị hư hại nặng. Đội tấn công vốn đã nhỏ của Enterprise giờ chỉ còn lại năm chiếc Avenger (bao gồm cả chiếc không mang vũ khí của chỉ huy không đoàn), ba chiếc Dauntless và bốn chiếc Wildcat hộ tống. Tác động đối với phía Nhật còn nghiêm trọng hơn. Cả năm chiếc tiêm kích Zuiho còn sống sót buộc phải quay về tàu mẹ. Việc mất toàn bộ chín chiếc tiêm kích Zuiho khỏi đợt tấn công sẽ tỏ ra là một yếu tố then chốt.
Lúc 08 giờ 40 phút, radar của Shokaku báo cáo một nhóm máy bay Mỹ ở hướng tây nam, cách 78 dặm. Đây là đợt tấn công thứ nhất của Hornet. Vào thời điểm này, có 23 chiếc Zero đang tuần tra không chiến (CAP). Ba chiếc đã được phái xuống phía nam để yểm hộ Lực lượng Tiên phong, còn lại 20 chiếc bảo vệ các tàu sân bay. Người Nhật bố trí chúng ở nhiều độ cao khác nhau để phòng ngừa cả tấn công bổ nhào lẫn tấn công bằng ngư lôi. Không giống như các tiêm kích Mỹ — vốn được dẫn đường ra một khoảng cách xa khỏi tàu sân bay để chặn đánh máy bay tấn công từ càng xa càng tốt — CAP của Nhật được giữ gần tàu sân bay. Điều này có lẽ là bắt buộc vì tầm hoạt động của máy vô tuyến trên Zero quá hạn chế. Các máy bay ném bom bổ nhào từ đợt tấn công đầu tiên của Hornet là những chiếc đầu tiên lao vào tấn công. Lúc 08 giờ 50 phút, chỉ huy đợt tấn công phát hiện các tàu tuần dương hạng nặng Tone và Chikuma thuộc Lực lượng Tiên phong, cách 150 dặm về phía tây bắc so với TF 61. Ông không tấn công, mà tiếp tục bay về hướng tây bắc và lúc 0910 giờ nhìn thấy phần còn lại của Lực lượng Tiên phong. Trên không phận của lực lượng này, máy bay của Hornet bị ba chiếc Zero từ Zuiho tấn công. Chỉ trong một loạt tấn công duy nhất, một chiếc Wildcat hộ tống bị bắn rơi, hai chiếc khác bị hư hại nặng buộc phải quay về. Đổi lại, một chiếc Zero bị bắn rơi. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Lúc 08 giờ 40 phút, radar của Shokaku báo cáo một nhóm máy bay Mỹ ở hướng tây nam, cách 78 dặm. Đây là đợt tấn công thứ nhất của Hornet. Vào thời điểm này, có 23 chiếc Zero đang tuần tra không chiến (CAP). Ba chiếc đã được phái xuống phía nam để yểm hộ Lực lượng Tiên phong, còn lại 20 chiếc bảo vệ các tàu sân bay. Người Nhật bố trí chúng ở nhiều độ cao khác nhau để phòng ngừa cả tấn công bổ nhào lẫn tấn công bằng ngư lôi. Không giống như các tiêm kích Mỹ — vốn được dẫn đường ra một khoảng cách xa khỏi tàu sân bay để chặn đánh máy bay tấn công từ càng xa càng tốt — CAP của Nhật được giữ gần tàu sân bay. Điều này có lẽ là bắt buộc vì tầm hoạt động của máy vô tuyến trên Zero quá hạn chế. Các máy bay ném bom bổ nhào từ đợt tấn công đầu tiên của Hornet là những chiếc đầu tiên lao vào tấn công. Lúc 08 giờ 50 phút, chỉ huy đợt tấn công phát hiện các tàu tuần dương hạng nặng Tone và Chikuma thuộc Lực lượng Tiên phong, cách 150 dặm về phía tây bắc so với TF 61. Ông không tấn công, mà tiếp tục bay về hướng tây bắc và lúc 0910 giờ nhìn thấy phần còn lại của Lực lượng Tiên phong. Trên không phận của lực lượng này, máy bay của Hornet bị ba chiếc Zero từ Zuiho tấn công. Chỉ trong một loạt tấn công duy nhất, một chiếc Wildcat hộ tống bị bắn rơi, hai chiếc khác bị hư hại nặng buộc phải quay về. Đổi lại, một chiếc Zero bị bắn rơi. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Trong trận Santa Cruz, một nhóm máy bay ném ngư lôi TBF Avenger của Hải quân Mỹ bị các tiêm kích Zero của Nhật tấn công khi đang trên đường tới mục tiêu. Một chiếc Zero bốc cháy lao xuyên qua đội hình, trong khi chiếc thứ hai thực hiện một lượt bắn. Bốn trong số 9 chiếc A6M2 Zero đã bị hạ bởi xạ thủ TBF và phi công F4F. Tuy nhiên, đồng thời trong trận không chiến này, đơn vị của Hidaka bị lạc hướng và mỗi shotai phải tự tìm đường quay trở lại. Bốn chiếc Zero (bao gồm toàn bộ shotai 2) do Thượng sĩ quan hạng 3 (PO3c) Shizuta Takagi (shotai 1), Trung úy cấp dưới (Lt(jg)) Shu-ichi Utsumi (shotai 2), Thượng sĩ quan hạng 1 (PO1c) Masao Kawasaki (shotai 2) và Thượng sĩ quan hạng 3 (PO3c) Zenpei Matsumoto (shotai 2) lái đã không trở về. Một hoặc hai chiếc A6M2 khác, có thể bao gồm cả chiếc của Trung úy Hidaka, bị hư hại nặng. Họ buộc phải quay về tàu sân bay của mình. (Tranh của Jim Laurier)
Trong trận Santa Cruz, một nhóm máy bay ném ngư lôi TBF Avenger của Hải quân Mỹ bị các tiêm kích Zero của Nhật tấn công khi đang trên đường tới mục tiêu. Một chiếc Zero bốc cháy lao xuyên qua đội hình, trong khi chiếc thứ hai thực hiện một lượt bắn. Bốn trong số 9 chiếc A6M2 Zero đã bị hạ bởi xạ thủ TBF và phi công F4F. Tuy nhiên, đồng thời trong trận không chiến này, đơn vị của Hidaka bị lạc hướng và mỗi shotai phải tự tìm đường quay trở lại. Bốn chiếc Zero (bao gồm toàn bộ shotai 2) do Thượng sĩ quan hạng 3 (PO3c) Shizuta Takagi (shotai 1), Trung úy cấp dưới (Lt(jg)) Shu-ichi Utsumi (shotai 2), Thượng sĩ quan hạng 1 (PO1c) Masao Kawasaki (shotai 2) và Thượng sĩ quan hạng 3 (PO3c) Zenpei Matsumoto (shotai 2) lái đã không trở về. Một hoặc hai chiếc A6M2 khác, có thể bao gồm cả chiếc của Trung úy Hidaka, bị hư hại nặng. Họ buộc phải quay về tàu sân bay của mình. (Tranh của Jim Laurier)
Đợt tấn công đầu tiên của Hornet là nhóm đầu tiên đến được khu vực mục tiêu. Người Nhật đã sẵn sàng đối phó tốt nhất có thể. Radar của Shokaku cung cấp cảnh báo sớm khi phát hiện các máy bay Mỹ ở khoảng cách 78 hải lý vào lúc 08 giờ 40 phút. Hai mươi ba chiếc Zero đang bay tuần trên không. Hai mươi trong số đó được bố trí trên các tàu sân bay ở nhiều độ cao khác nhau để phòng thủ trước cả tấn công bổ nhào lẫn tấn công ngư lôi, trong khi ba chiếc còn lại được bố trí trên lực lượng Tiên phong. Đợt tấn công của Hornet phát hiện các tàu ToneChikuma lúc 08 giờ 50 phút, và chỉ huy phi đội tiếp tục bay về phía tây bắc, nơi anh ta phát hiện phần còn lại của lực lượng Tiên phong vào khoảng 09 giờ 10 phút. Tại thời điểm đó, ba chiếc Zero thuộc CAP của Zuiho tấn công đội hình Mỹ. Sau hai đợt công kích, các chiếc Zero đã tách rời lớp tiêm kích hộ tống của phi đội Hornet và chia cắt 15 chiếc Dauntless khỏi 6 chiếc Avenger. Đáp trả cuộc tấn công của Zero, chỉ huy phi đội bổ nhào của Hornet, Trung tá William Widhelm, cho máy bay của mình bay vào đám mây. Vài phút sau, anh ta phát hiện những con tàu cách đó 25 hải lý. Trong số đó có một tàu sân bay lớn và một tàu sân bay nhỏ đang nhả khói đen. Widhelm đã phát hiện Shokaku và chiếc Zuiho bị hư hại. Zuikaku đang ẩn dưới tầng mây và Widhelm không thể nhìn thấy nó.
Chỉ huy tốp máy bay ném bom bổ nhào của Hornet, Thiếu tá Hải quân William Widhelm, chỉ huy phi đoàn VS-8, đã tung đòn mạnh nhất của Mỹ trong trận chiến. Để phản ứng với cuộc tấn công của Zero trên Lực lượng Tiên phong, ông cho đội hình rẽ phải chui vào các cụm mây. Chỉ vài phút sau, ông phát hiện các tàu cách đó 25 dặm, mà sau này ông xác nhận là một tàu sân bay lớn và một tàu nhỏ hơn đang nhả khói đen. Đó là Shokaku và Zuiho — vốn đã bị hư hại trước đó. Zuikaku đang ẩn dưới mây nên không bị phát hiện. Widhelm cố gắng dẫn đường cho đợt tấn công thứ hai của Hornet đánh vào mục tiêu này nhưng không thành công. Sau khi vượt qua tường lửa của các máy bay Zero — vốn đã bắn rơi chính máy bay Dauntless của Widhelm và ba chiếc khác — đến 09 giờ 27 phút, 10 chiếc Dauntless còn lại đã đến vị trí bắt đầu bổ nhào. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Chỉ huy tốp máy bay ném bom bổ nhào của Hornet, Thiếu tá Hải quân William Widhelm, chỉ huy phi đoàn VS-8, đã tung đòn mạnh nhất của Mỹ trong trận chiến. Để phản ứng với cuộc tấn công của Zero trên Lực lượng Tiên phong, ông cho đội hình rẽ phải chui vào các cụm mây. Chỉ vài phút sau, ông phát hiện các tàu cách đó 25 dặm, mà sau này ông xác nhận là một tàu sân bay lớn và một tàu nhỏ hơn đang nhả khói đen. Đó là Shokaku và Zuiho — vốn đã bị hư hại trước đó. Zuikaku đang ẩn dưới mây nên không bị phát hiện. Widhelm cố gắng dẫn đường cho đợt tấn công thứ hai của Hornet đánh vào mục tiêu này nhưng không thành công. Sau khi vượt qua tường lửa của các máy bay Zero — vốn đã bắn rơi chính máy bay Dauntless của Widhelm và ba chiếc khác — đến 09 giờ 27 phút, 10 chiếc Dauntless còn lại đã đến vị trí bắt đầu bổ nhào. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Bên dưới các máy bay Dauntless, Shokaku đang cơ động dữ dội và bắn trả phòng không mạnh mẽ. Các máy bay ném bom bổ nhào tấn công từ phía đuôi, nhưng Thuyền trưởng Arima của Shokaku đã tránh được ba hoặc bốn quả bom 1.000 pound đầu tiên. Tuy vậy, các máy bay còn lại đã gây thiệt hại nặng, giáng ít nhất 4 và có thể tới 6 quả bom trúng đích. Bất kể tổng số bom trúng đích là bao nhiêu, thiệt hại gây ra đã chứng tỏ là thảm khốc. Một quả đánh trúng phía sau đảo tàu ở mạn phải, và các quả còn lại trúng quanh khu vực thang nâng giữa và thang nâng phía sau. Sàn đáp bị uốn cong và thang nâng giữa bị phá hủy. Các vị trí pháo ở phía sau bên mạn phải bị phá hủy với tổn thất nhân mạng nặng nề. Dù thiệt hại rất lớn, nó không mang tính chí tử. Không có máy bay nào trong khoang chứa và các đường dẫn nhiên liệu đã được khóa lại. Chỉ có hai máy bay trên tàu – hai máy bay tấn công từ tàu sân bay đậu trên sàn đáp. Một chiếc bị thiêu rụi, nhưng chiếc còn lại ở cuối đuôi tàu vẫn sống sót. Một đám cháy lớn bùng lên, nhưng sau năm giờ, các đội kiểm soát hư hại đã dập tắt được. Quan trọng nhất là không có thiệt hại nào bên dưới mức khoang chứa và con tàu vẫn duy trì được tốc độ tối đa. Tổng thương vong rất lớn với khoảng 130 người thiệt mạng. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Bên dưới các máy bay Dauntless, Shokaku đang cơ động dữ dội và bắn trả phòng không mạnh mẽ. Các máy bay ném bom bổ nhào tấn công từ phía đuôi, nhưng Thuyền trưởng Arima của Shokaku đã tránh được ba hoặc bốn quả bom 1.000 pound đầu tiên. Tuy vậy, các máy bay còn lại đã gây thiệt hại nặng, giáng ít nhất 4 và có thể tới 6 quả bom trúng đích. Bất kể tổng số bom trúng đích là bao nhiêu, thiệt hại gây ra đã chứng tỏ là thảm khốc. Một quả đánh trúng phía sau đảo tàu ở mạn phải, và các quả còn lại trúng quanh khu vực thang nâng giữa và thang nâng phía sau. Sàn đáp bị uốn cong và thang nâng giữa bị phá hủy. Các vị trí pháo ở phía sau bên mạn phải bị phá hủy với tổn thất nhân mạng nặng nề. Dù thiệt hại rất lớn, nó không mang tính chí tử. Không có máy bay nào trong khoang chứa và các đường dẫn nhiên liệu đã được khóa lại. Chỉ có hai máy bay trên tàu – hai máy bay tấn công từ tàu sân bay đậu trên sàn đáp. Một chiếc bị thiêu rụi, nhưng chiếc còn lại ở cuối đuôi tàu vẫn sống sót. Một đám cháy lớn bùng lên, nhưng sau năm giờ, các đội kiểm soát hư hại đã dập tắt được. Quan trọng nhất là không có thiệt hại nào bên dưới mức khoang chứa và con tàu vẫn duy trì được tốc độ tối đa. Tổng thương vong rất lớn với khoảng 130 người thiệt mạng. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Lực lượng CAP cảnh giới của Nhật lập tức phản ứng và lao đến tấn công các máy bay Dauntless đang áp sát. Chiếc Dauntless của Widhelm cùng một máy bay bổ nhào khác bị bắn rơi trước khi những chiếc Dauntless còn lại bắt đầu lao bổ nhào tấn công Shokaku vào lúc 09 giờ 27 phút. Người Mỹ tấn công từ phía đuôi tàu, nhưng ba hoặc bốn quả bom 1.000 pound đầu tiên đã trượt khỏi mục tiêu khi chiếc tàu sân bay liên tục cơ động dữ dội. Trong cú đánh mạnh nhất của phía Mỹ trong toàn trận chiến, những chiếc Dauntless còn lại đã ghi được ít nhất bốn, và có thể lên đến sáu, phát trúng bom đích. Trong bè cứu sinh gần đó, Widhelm đếm được sáu phát trúng. Thiệt hại do loạt bom nặng 1.000 pound này gây ra là nghiêm trọng. Một quả đánh trúng gần đảo chỉ huy và các quả còn lại rơi quanh khu vực thang nâng giữa và thang nâng phía sau. Mặc dù phía đuôi sàn bay bị phá hủy, con tàu không có nguy cơ bị đánh chìm. Một đám cháy lớn bùng phát, nhưng vì trong các khoang chứa máy bay không có máy bay nào và các đường ống nhiên liệu đã được khóa, nên sau năm giờ vật lộn, các đội kiểm soát hư hại được huấn luyện tốt của Shokaku đã khống chế được ngọn lửa. Thiệt hại không ảnh hưởng đến hệ thống máy móc, nên Shokaku vẫn có thể duy trì tốc độ tối đa. Không thể tiến hành hoạt động bay và với khoảng 130 thủy thủ thiệt mạng, Shokaku bị loại khỏi trận chiến.
Thiệt hại của Shokaku trong trận chiến Santa Cruz bảo gồm 4 quả bom được ghi nhận, hoặc có thể là 6 quả (theo ghi nhận của Widhelm trên xuồng cứu sinh đếm được). Bất chấp phải chịu nhiều phát bom trúng từ máy bay Mỹ, nhưng con tàu vẫn sống sót và trở về căn cứ để sửa chữa. Điều này cho thấy phía Nhật đã áp dụng những bài học từ trận Midway từ việc sắp xếp vũ khí trang bị cho máy bay cho đến hệ thống phòng chống hỏa hoạn để cứu sống con tàu trước số bom có thể lấy mạng chúng khi còn ở trận Midway. (Minh hoạ của người dịch)
Thiệt hại của Shokaku trong trận chiến Santa Cruz bảo gồm 4 quả bom được ghi nhận, hoặc có thể là 6 quả (theo ghi nhận của Widhelm trên xuồng cứu sinh đếm được). Bất chấp phải chịu nhiều phát bom trúng từ máy bay Mỹ, nhưng con tàu vẫn sống sót và trở về căn cứ để sửa chữa. Điều này cho thấy phía Nhật đã áp dụng những bài học từ trận Midway từ việc sắp xếp vũ khí trang bị cho máy bay cho đến hệ thống phòng chống hỏa hoạn để cứu sống con tàu trước số bom có thể lấy mạng chúng khi còn ở trận Midway. (Minh hoạ của người dịch)
Thủy thủ đoàn của tàu Shokaku dập tắt đám cháy sau khi con tàu bị trúng bom từ máy bay ném bom bổ nhào của tàu sân bay Mỹ.
Thủy thủ đoàn của tàu Shokaku dập tắt đám cháy sau khi con tàu bị trúng bom từ máy bay ném bom bổ nhào của tàu sân bay Mỹ.
Vị trí của các quả bom trúng ở trên sàn bay của Shokaku. Trong đó có một quả bom rơi ở vị trí (D) bên mạn phải của con tàu, còn 3 quả (A), (B), (C) rơi bên mạn trái. Hai quả ở vị trí (B) và (C) phá hủy hoàn toàn khu vực pháo phòng không 5 inch ở phía sau con tàu.
Vị trí của các quả bom trúng ở trên sàn bay của Shokaku. Trong đó có một quả bom rơi ở vị trí (D) bên mạn phải của con tàu, còn 3 quả (A), (B), (C) rơi bên mạn trái. Hai quả ở vị trí (B) và (C) phá hủy hoàn toàn khu vực pháo phòng không 5 inch ở phía sau con tàu.
Hình ảnh cho thấy thiệt hại ở sàn bay phía mạn phải của Shokaku, bên dưới là bức tường bên của boong chứa máy bay.
Hình ảnh cho thấy thiệt hại ở sàn bay phía mạn phải của Shokaku, bên dưới là bức tường bên của boong chứa máy bay.
 Hình ảnh khác cho thấy thiệt hại ở sàn bay phía mạn phải của Shokaku, bên dưới là bức tường bên của boong chứa máy bay.
Hình ảnh khác cho thấy thiệt hại ở sàn bay phía mạn phải của Shokaku, bên dưới là bức tường bên của boong chứa máy bay.
Chiếc Dauntless cuối cùng của Hornet tấn công tàu khu trục Teruzuki nhưng không thành công. Sáu chiếc Avenger của Hornet đã không theo kịp hướng ngoặt về phía bắc của Widhelm và cũng không nhận được các tín hiệu vô tuyến của ông về vị trí của các tàu sân bay Nhật. Vì không nhìn thấy các tàu sân bay của Nagumo, chỉ huy nhóm sáu chiếc Avenger quyết định tấn công các phần tử của Lực lượng Tiên phong. Mục tiêu duy nhất trong tầm mắt là hai tàu tuần dương ToneChikuma. Sáu chiếc Avenger mang ngư lôi lập đội hình tấn công Tone; người Mỹ tuyên bố đạt ba phát trúng đích bằng ngư lôi, nhưng trên thực tế, không quả ngư lôi nào trong số năm quả được thả trúng chiếc tàu tuần dương.
Đợt thứ hai của Hornet cũng không phát hiện được các tàu sân bay Nhật. Chín chiếc Dauntless và mười chiếc Avenger (tất cả đều mang bom) bay qua khu vực của ToneChikuma vào khoảng 09 giờ 20 phút. Nhóm này cũng không nhận được các thông điệp của Widhelm về vị trí các tàu sân bay Nhật. Không còn lựa chọn nào khác, chỉ huy nhóm máy bay bổ nhào quyết định tấn công Chikuma. Chiếc tàu tuần dương bị đánh trúng một quả bom 1.000 pound ở khu vực đài chỉ huy và một quả khác ở phần cấu trúc thượng tầng phía trước. Các máy bay Avenger cũng quyết định tấn công các tàu tuần dương nhưng bị hai chiếc Zero tấn công trong lúc tiếp cận. Chín chiếc Avenger còn lại, mỗi chiếc mang bốn quả bom 500 pound, chọn Chikuma làm mục tiêu. Người Mỹ tiếp cận con tàu từ phía đuôi để tiến hành cuộc tấn công bổ nhào nông, nhưng chiếc tàu tuần dương được điều khiển khéo léo đã né tránh được hầu hết các quả bom, chỉ một quả trúng vào bệ phóng ngư lôi mạn phải phía sau, gây cháy và phá hủy một thủy phi cơ trinh sát đang đặt trên máy phóng mạn phải. Thiệt hại của Chikuma là nghiêm trọng, nhưng con tàu vẫn duy trì được tốc độ và không có nguy cơ chìm. Trong tổng số khoảng 900 thủy thủ, 192 người thiệt mạng và 95 người bị thương.
Rất ít cuộc tấn công của máy bay Mỹ vào ngày 26 tháng 10 nhắm vào một tàu sân bay Nhật. Chikuma phải chịu nhiều cuộc tấn công bởi các máy bay không tìm thấy tàu sân bay Nhật. Trong góc nhìn này, tàu tuần dương hạng nặng đang di chuyển với tốc độ cao với tất cả các tháp pháo 8-inch phía trước hướng sang mạn trái. Lưu ý ký hiệu nhận dạng trên không nằm trên tháp pháo thứ hai và cả hai máy phóng đều đã được xoay ra. Con tàu bị trúng một quả bom 1.000 lb trên cấu trúc thượng tầng phía trước, nơi khói rõ ràng trong góc nhìn này. Chikuma sống sót qua trận chiến bất chấp hư hại nặng. Bức ảnh này được chụp từ chiếc Avenger của chỉ huy không đoàn tàu Hornet, Chỉ huy Rodee.
Rất ít cuộc tấn công của máy bay Mỹ vào ngày 26 tháng 10 nhắm vào một tàu sân bay Nhật. Chikuma phải chịu nhiều cuộc tấn công bởi các máy bay không tìm thấy tàu sân bay Nhật. Trong góc nhìn này, tàu tuần dương hạng nặng đang di chuyển với tốc độ cao với tất cả các tháp pháo 8-inch phía trước hướng sang mạn trái. Lưu ý ký hiệu nhận dạng trên không nằm trên tháp pháo thứ hai và cả hai máy phóng đều đã được xoay ra. Con tàu bị trúng một quả bom 1.000 lb trên cấu trúc thượng tầng phía trước, nơi khói rõ ràng trong góc nhìn này. Chikuma sống sót qua trận chiến bất chấp hư hại nặng. Bức ảnh này được chụp từ chiếc Avenger của chỉ huy không đoàn tàu Hornet, Chỉ huy Rodee.
Những máy bay Mỹ cuối cùng tham gia tấn công là nhóm nhỏ của Enterprise gồm ba chiếc Dauntless và năm chiếc Avenger, được hộ tống bởi bốn chiếc Wildcat. Nhóm của Enterprise đã nghe được thông điệp của Widhelm về việc tấn công một tàu sân bay Nhật, nhưng chỉ huy nhóm không nhận ra rằng Widhelm đã rẽ lên phía bắc thay vì tiếp tục bay về hướng tây bắc. Cánh xuất kích của Enterprise vẫn giữ hướng tây bắc và phát hiện Tone cùng Chikuma, sau đó là đội hình chủ lực của Lực lượng Tiên phong. Sau một thời gian tìm kiếm mà không thấy kết quả, chỉ huy phi vụ quyết định quay lại tấn công Lực lượng Tiên phong. Các máy bay Avenger tấn công con tàu lớn gần nhất, tàu tuần dương hạng nặng Suzuya, vào lúc 09 giờ 30 phút. Chỉ có ba chiếc Avenger kịp phóng ngư lôi và tất cả đều trượt mục tiêu. Ba chiếc Dauntless bị tách khỏi nhóm Avenger trong quá trình tìm kiếm mục tiêu và cuối cùng tấn công chiếc Chikuma bị hư hại vào lúc 09 giờ 39 phút. Chiếc tàu tuần dương chịu hai phát suýt trúng ở mạn phải, gây ngập nước và giảm tốc độ di chuyển.
Mặc dù gặp phải những vấn đề phối hợp nghiêm trọng, các máy bay Mỹ vẫn gây hư hại cho hai tàu sân bay và giáng tổn thất nặng nề cho Chikuma. Mười sáu chiếc Dauntless của Enterprise được giao nhiệm vụ trinh sát buổi sáng đã thể hiện xuất sắc khi cung cấp dữ liệu vị trí quan trọng về hạm đội Nhật, khiến Nagumo mất thế chủ động và loại Zuiho khỏi trận chiến. Đợt tấn công chính của Kinkaid gồm 75 máy bay lại không đạt kết quả tốt như vậy. Chỉ có mười chiếc thực sự tấn công được một tàu sân bay Nhật, và điều đó gần như xảy ra tình cờ sau khi Widhelm tự ý quyết định rẽ về phía bắc để tránh sự tấn công của Zero. Các cuộc tấn công của phía Mỹ cho thấy sự thiếu gắn kết quen thuộc và gần như mang tính ngẫu hứng. Tổn thất trực tiếp trong chiến đấu gồm bốn chiếc Wildcat, hai chiếc Dauntless và hai chiếc Avenger; nhiều chiếc khác buộc phải hạ cánh xuống biển khi quay trở lại TF 61. Chiến thuật của Nhật triển khai Lực lượng Tiên phong ở phía trước các tàu sân bay, cùng với hiệu quả được cải thiện rõ rệt của lực lượng CAP, đã làm giảm hơn nữa hiệu quả của các đợt tấn công của Mỹ. Lần đầu tiên, radar Nhật đã cung cấp cảnh báo sớm, và các máy bay CAP được bố trí hợp lý ở nhiều độ cao khác nhau. Năm chiếc Zero bị mất trong khi làm nhiệm vụ CAP; một chiếc khác sau đó buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống biển. Ngoài ra, bốn chiếc tiêm kích của Zuiho từng tấn công nhóm xuất kích của Enterprise cũng bị mất. Shokaku vẫn nổi dù đã chịu đựng một trận đòn nặng nề.

CUỘC TẤN CÔNG CỦA NHẬT BẢN

CUỘC TẤN CÔNG VÀO TÀU HORNET: Cuộc tấn công của Nhật Bản đã phá hủy tàu sân bay Mỹ.
CUỘC TẤN CÔNG VÀO TÀU HORNET: Cuộc tấn công của Nhật Bản đã phá hủy tàu sân bay Mỹ.
So với những đợt tấn công rời rạc của Mỹ, các nhóm tấn công của Nhật sắp sửa trình diễn một màn phối hợp xuất sắc. Phía Mỹ đã nhận được nhiều cảnh báo rằng máy bay Nhật đang trên đường đến. Phi đội tấn công của Hornet trên đường trở về đã báo động về máy bay địch đang tiến vào lúc 08 giờ 30 phút. Để ứng phó, lực lượng CAP của TF 16 được tăng cường lên 22 tiêm kích. Hornet bổ sung thêm bảy chiếc Wildcat cho CAP của mình, nâng tổng số lên 15 chiếc. Yếu tố then chốt của một hệ thống phòng không tiêm kích hiệu quả là phải chặn đánh được máy bay địch càng xa tàu sân bay càng tốt và bố trí Wildcat ở đúng độ cao. Những gì diễn ra sau đó cho thấy việc điều khiển tiêm kích vẫn còn là một nghệ thuật đang trong quá trình hoàn thiện. Vấn đề đầu tiên là TF 16 và TF 17 đang hoạt động cách nhau 10 hải lý, với Hornet ở phía tây nam. Khoảng cách này đủ lớn để khiến việc hỗ trợ lẫn nhau trở nên bất khả thi. Sĩ quan điều phối tiêm kích (FDO) của TF 61 bố trí bảy chiếc Wildcat ở độ cao 10.000 feet trên TF 16 và bốn chiếc khác giữa TF 16 và TF 17. Tám chiếc Wildcat khác được đặt trên Hornet ở cùng độ cao 10.000 feet. Quyết định về độ cao này hóa ra lại là thảm họa. Nghĩ rằng radar sẽ cho ông ta đủ thời gian cảnh báo để điều động máy bay lên cao hơn nếu cần, viên FDO đã chọn duy trì Wildcat ở 10.000 feet nhằm tiết kiệm nhiên liệu và dưỡng khí.
Người Mỹ chuẩn bị tinh thần cho đợt tấn công của Nhật mà họ biết chắc sẽ đến. Yếu tố then chốt trong phòng thủ là đưa các Wildcat làm nhiệm vụ tuần tiễu chiến đấu trên không (CAP) đánh chặn đội hình tấn công từ khoảng cách xa các tàu sân bay. Sĩ quan điều phối bay của Enterprise, Trung tá John Griffin, được chỉ định làm sĩ quan FDO cấp cao cho TF 61. Griffin có 11 tiêm kích đang bay; ông bố trí bảy chiếc ở độ cao 10.000ft phía trên TF-16 và bốn chiếc còn lại ở khu vực giữa TF 16 và TF 17. Hornet, hoạt động cách 10 dặm về phía tây nam, có tám tiêm kích ở 10.000ft. Griffin đặt Wildcat ở độ cao 10.000ft để tiết kiệm nhiên liệu và oxy, tin rằng radar sẽ cho ông đủ cảnh báo để đưa chúng lên cao hơn nếu cần, và đáng chú ý là ông không hề biết TF-16 đã bị phát hiện. Quyết định về độ cao này là quyết định quan trọng nhất của Griffin trong trận chiến – và hóa ra lại thảm họa. Lúc 08 giờ 30 phút, đội tấn công của Hornet trên đường đi đã cảnh báo có máy bay Nhật đang đến. Cả hai tàu sân bay chuẩn bị phóng toàn bộ máy bay sẵn sàng trên sàn đáp để giải phóng sàn trước khi quân Nhật tới. CAP của TF 16 được tăng cường lên 22 tiêm kích, một nửa ở 10.000ft và nửa còn lại đang leo lên độ cao đó. Hornet bổ sung thêm bảy chiếc, nâng tổng số lên 15; tổng cộng có 37 tiêm kích đang bay. Khi đội tấn công của Nhật tiếp tục bay vào, radar trên Enterprise lẫn Hornet đều không phát hiện được gì. Radar CXAM trên tàu tuần dương Northampton phát hiện tốp máy bay đang đến lúc 0841 giờ, ở hướng tây bắc cách 70 dặm, và thông tin được truyền bằng cờ hiệu sang Hornet, nhưng đến tay sĩ quan FDO của tàu quá muộn và không bao giờ đến được Griffin trên Enterprise. Lúc 08 giờ 53 phút, phi đội máy bay cường kích tàu sân bay của Murata (thuộc Shokaku) phát hiện các tàu được xác nhận ngay sau đó là một tàu sân bay, hai tàu tuần dương và bốn tàu khu trục. Đó chính là Hornet và TF 17; vào lúc đó thì mây đã che khuất TF 16. Murata ra lệnh tấn công ngay lập tức. Ông có hai nhóm: ở độ cao 17.000 ft là 21 máy bay ném bom bổ nhào từ Zuikaku với 8 chiếc Zero hộ tống ở 21.000 feet theo sau; nhóm thứ hai gồm 20 máy bay tấn công mang ngư lôi của Shokaku ở 14.000ft với bốn chiếc Zero hộ tống. Đến 08 giờ 55 phút, radar của Hornet cuối cùng cũng phát hiện một nhóm mục tiêu lạ ở 35 dặm về hướng tây - tây nam. Enterprise cũng bắt được tín hiệu này ở 45 dặm. Griffin điều 8 chiếc tiêm kích về phía tây, và các phi công quyết định leo lên trên 10.000 feet. Lúc 08 giờ 59 phút, các tiêm kích của Hornet nhìn thấy quân Nhật — nhưng đã quá muộn. Murata triển khai máy bay mang ngư lôi của mình thành hai nhóm, chuẩn bị đánh theo thế tấn công cái đe từ hai phía mũi tàu sân bay. Ông dẫn đầu 11 máy bay mang ngư lôi với bốn tiêm kích hộ tống về phía nam, chúi xuống để tăng tốc; chín chiếc còn lại tiến công từ phía bắc. Máy bay ném bom bổ nhào phát hiện Hornet lúc 08 giờ 58 phút. Người Nhật đã đạt được một đòn tấn công hiệp đồng hoàn toàn. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Người Mỹ chuẩn bị tinh thần cho đợt tấn công của Nhật mà họ biết chắc sẽ đến. Yếu tố then chốt trong phòng thủ là đưa các Wildcat làm nhiệm vụ tuần tiễu chiến đấu trên không (CAP) đánh chặn đội hình tấn công từ khoảng cách xa các tàu sân bay. Sĩ quan điều phối bay của Enterprise, Trung tá John Griffin, được chỉ định làm sĩ quan FDO cấp cao cho TF 61. Griffin có 11 tiêm kích đang bay; ông bố trí bảy chiếc ở độ cao 10.000ft phía trên TF-16 và bốn chiếc còn lại ở khu vực giữa TF 16 và TF 17. Hornet, hoạt động cách 10 dặm về phía tây nam, có tám tiêm kích ở 10.000ft. Griffin đặt Wildcat ở độ cao 10.000ft để tiết kiệm nhiên liệu và oxy, tin rằng radar sẽ cho ông đủ cảnh báo để đưa chúng lên cao hơn nếu cần, và đáng chú ý là ông không hề biết TF-16 đã bị phát hiện. Quyết định về độ cao này là quyết định quan trọng nhất của Griffin trong trận chiến – và hóa ra lại thảm họa. Lúc 08 giờ 30 phút, đội tấn công của Hornet trên đường đi đã cảnh báo có máy bay Nhật đang đến. Cả hai tàu sân bay chuẩn bị phóng toàn bộ máy bay sẵn sàng trên sàn đáp để giải phóng sàn trước khi quân Nhật tới. CAP của TF 16 được tăng cường lên 22 tiêm kích, một nửa ở 10.000ft và nửa còn lại đang leo lên độ cao đó. Hornet bổ sung thêm bảy chiếc, nâng tổng số lên 15; tổng cộng có 37 tiêm kích đang bay. Khi đội tấn công của Nhật tiếp tục bay vào, radar trên Enterprise lẫn Hornet đều không phát hiện được gì. Radar CXAM trên tàu tuần dương Northampton phát hiện tốp máy bay đang đến lúc 0841 giờ, ở hướng tây bắc cách 70 dặm, và thông tin được truyền bằng cờ hiệu sang Hornet, nhưng đến tay sĩ quan FDO của tàu quá muộn và không bao giờ đến được Griffin trên Enterprise. Lúc 08 giờ 53 phút, phi đội máy bay cường kích tàu sân bay của Murata (thuộc Shokaku) phát hiện các tàu được xác nhận ngay sau đó là một tàu sân bay, hai tàu tuần dương và bốn tàu khu trục. Đó chính là Hornet và TF 17; vào lúc đó thì mây đã che khuất TF 16. Murata ra lệnh tấn công ngay lập tức. Ông có hai nhóm: ở độ cao 17.000 ft là 21 máy bay ném bom bổ nhào từ Zuikaku với 8 chiếc Zero hộ tống ở 21.000 feet theo sau; nhóm thứ hai gồm 20 máy bay tấn công mang ngư lôi của Shokaku ở 14.000ft với bốn chiếc Zero hộ tống. Đến 08 giờ 55 phút, radar của Hornet cuối cùng cũng phát hiện một nhóm mục tiêu lạ ở 35 dặm về hướng tây - tây nam. Enterprise cũng bắt được tín hiệu này ở 45 dặm. Griffin điều 8 chiếc tiêm kích về phía tây, và các phi công quyết định leo lên trên 10.000 feet. Lúc 08 giờ 59 phút, các tiêm kích của Hornet nhìn thấy quân Nhật — nhưng đã quá muộn. Murata triển khai máy bay mang ngư lôi của mình thành hai nhóm, chuẩn bị đánh theo thế tấn công cái đe từ hai phía mũi tàu sân bay. Ông dẫn đầu 11 máy bay mang ngư lôi với bốn tiêm kích hộ tống về phía nam, chúi xuống để tăng tốc; chín chiếc còn lại tiến công từ phía bắc. Máy bay ném bom bổ nhào phát hiện Hornet lúc 08 giờ 58 phút. Người Nhật đã đạt được một đòn tấn công hiệp đồng hoàn toàn. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Góc nhìn này, được chụp bởi một trong những máy bay trở về của Hornet, cho thấy TF 17 đang cơ động khi chuẩn bị cho một cuộc không kích của Nhật. Hornet có thể nhìn thấy ở bên trái với các tàu hộ tống ở gần. (NHHC)
Góc nhìn này, được chụp bởi một trong những máy bay trở về của Hornet, cho thấy TF 17 đang cơ động khi chuẩn bị cho một cuộc không kích của Nhật. Hornet có thể nhìn thấy ở bên trái với các tàu hộ tống ở gần. (NHHC)
Chỉ huy đợt tấn công, Thiếu tá Murata, phát hiện ra Hornet và TF 17 lúc 08 giờ 53 phút; lúc đó có đám mây che phủ TF 16. Ông lập tức ra lệnh tấn công. Đội hình tấn công được chia thành hai nhóm – 21 máy bay ném bom bổ nhào của Zuikaku ở độ cao 17.000 feet với tám chiếc Zero hộ tống phía sau ở 21.000 feet, và nhóm thứ hai gồm 20 máy bay ném ngư lôi Type 97 của Shokaku bay ở độ cao 14.000 feet với bốn chiếc Zero hộ tống. Lực lượng Nhật không bị radar phát hiện cho đến 08 giờ 55 phút, khi họ ở cách Hornet 35 hải lý về phía tây - tây nam. Để đối phó, viên FDO điều động tám chiếc Wildcat về hướng tây, và các phi công quyết định leo lên trên 10.000 feet. Các tiêm kích của Hornet phát hiện máy bay Nhật lúc 08 giờ 59 phút, nhưng khi đó đã quá muộn để chặn đánh từ xa. Murata triển khai các máy bay Type 97 thành hai nhóm để thực hiện chiến thuật tấn công cái đe. Ông dẫn đầu 11 chiếc Type 97 cùng bốn chiếc Zero về phía nam, hạ độ cao để tăng tốc; chín máy bay ném ngư lôi còn lại sẽ tấn công từ phía bắc. Các máy bay ném bom bổ nhào phát hiện Hornet lúc 08 giờ 58 phút và lao tới tấn công. Người Nhật đã đạt được một đợt tấn công phối hợp hoàn hảo.
Phi đội ném bom bổ nhào dưới quyền Trung úy Takahashi Sadamu tấn công trước. Phi đội được triển khai thành ba nhóm 7 chiếc với 8 chiếc Zero bay phía trên và phía sau. Tám chiếc Wildcat của Hornet đã kịp leo lên đủ cao để thực hiện một đòn công kích trực diện vào tốp máy bay ném bom bổ nhào đang tiến đến, và đội hình Nhật bị đánh tan tác — chỉ một nhóm 7 chiếc không chịu tổn thất nặng. Trong minh hoạ này, một chiếc Wildcat từ lực lượng CAP xuyên qua đội hình và khai hỏa vào những chiếc máy bay Type 99. Các Zero hộ tống bắn rơi 3 chiếc Wildcat và đuổi số còn lại đi, mặc dù trước đó các tiêm kích Mỹ bắn rơi ít nhất ba máy bay ném bom bổ nhào và làm hư hại nặng ba chiếc khác. Nhóm tiêm kích thứ hai của Hornet chỉ bắn rơi thêm một máy bay ném bom. Đến 09 giờ 10 phút, quân Nhật bắt đầu lao xuống tấn công Hornet. Griffin điều phần CAP của TF 16 đang dưới quyền ông xuống phía nam để hỗ trợ bảo vệ Hornet. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Phi đội ném bom bổ nhào dưới quyền Trung úy Takahashi Sadamu tấn công trước. Phi đội được triển khai thành ba nhóm 7 chiếc với 8 chiếc Zero bay phía trên và phía sau. Tám chiếc Wildcat của Hornet đã kịp leo lên đủ cao để thực hiện một đòn công kích trực diện vào tốp máy bay ném bom bổ nhào đang tiến đến, và đội hình Nhật bị đánh tan tác — chỉ một nhóm 7 chiếc không chịu tổn thất nặng. Trong minh hoạ này, một chiếc Wildcat từ lực lượng CAP xuyên qua đội hình và khai hỏa vào những chiếc máy bay Type 99. Các Zero hộ tống bắn rơi 3 chiếc Wildcat và đuổi số còn lại đi, mặc dù trước đó các tiêm kích Mỹ bắn rơi ít nhất ba máy bay ném bom bổ nhào và làm hư hại nặng ba chiếc khác. Nhóm tiêm kích thứ hai của Hornet chỉ bắn rơi thêm một máy bay ném bom. Đến 09 giờ 10 phút, quân Nhật bắt đầu lao xuống tấn công Hornet. Griffin điều phần CAP của TF 16 đang dưới quyền ông xuống phía nam để hỗ trợ bảo vệ Hornet. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Các máy bay ném bom bổ nhào chia thành ba nhóm để phân tán hỏa lực phòng không của Hornet. Tám chiếc Wildcat của Hornet đạt được đủ độ cao để tiến hành một cuộc tấn công trực diện, và kết quả là tiêu diệt ít nhất ba chiếc máy bay ném bom bổ nhào. Ba chiếc khác bị hư hại nghiêm trọng trước khi các Zero can thiệp và bắn rơi ba chiếc Wildcat, đồng thời buộc những chiếc còn lại phải rút lui. Một nhóm tiêm kích thứ hai của Hornet có thể bắn hạ thêm một chiếc Type 99. Lúc 09 giờ 10 phút, các máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản còn sống sót bắt đầu lao xuống tấn công Hornet. TF 17 đã tăng tốc lên 28 hải lý/giờ; bốn tàu tuần dương và sáu tàu khu trục được triển khai trong đội hình tròn ở khoảng cách 2.000 yard xung quanh tàu sân bay. Hornet phát hiện bảy chiếc ném bom bổ nhào đầu tiên đang tiếp cận từ hướng tây lúc 09 giờ 05 phút và khai hỏa bằng dàn pháo phòng không 5 inch ở cự ly 10.500 yard.
Nhóm máy bay ném bom đầu tiên bắt đầu bổ nhào lúc 09 giờ 10 phút, xuất hiện ở độ cao 5.000 feet phía đuôi của Hornet xuyên qua một đám mây. Chiếc đầu tiên thả bom nhưng trượt sang mạn phải. Chiếc thứ hai thả một quả bom bán xuyên giáp nặng 550 pound xuống chính giữa sàn đáp, ngang vị trí đảo tàu, và quả bom xuyên qua ba boong tàu. Chiếc thứ ba bị hỏa lực phòng không bắn rơi trước khi kịp thả bom, rơi xuống nước cách mũi Hornet 30 ft về phía mạn phải. Chiếc tiếp theo thực hiện một đòn tấn công thành công bằng một quả bom nổ mạnh, đánh trúng sàn đáp phía đuôi chỉ cách mép phải 20 ft. Vụ nổ tạo ra một lỗ thủng rộng 11 feet trên sàn đáp và gây thương vong nặng cho các khẩu đội pháo gần đó. Chiếc máy bay này bị trúng đạn 20mm và rơi, nhưng trước khi rơi, pháo thủ phía sau đã nhảy dù thoát ra. Người này sống sót và một cách đáng kinh ngạc đã được một tàu khu trục Nhật vớt vào ngày hôm sau. Chiếc thứ năm vòng lại phía trước để tấn công Hornet từ mũi trái. Nó cũng ghi một cú trúng đích bằng bom bán xuyên giáp đánh gần vị trí cú trúng đích thứ hai và xuyên qua bốn boong, gây tổn thất nhân mạng nặng nề. Chiếc kế tiếp cũng vòng lại để tấn công từ mũi nhưng trượt. Chiếc thứ bảy và cuối cùng đã bị Wildcats bắn thương nặng và không bao giờ đến được Hornet. Bom của nó rơi xuống phía sau đuôi tàu, ngay sau đó là bản thân chiếc máy bay đâm xuống. Xét trên mọi phương diện, kết quả của đợt ném bom bổ nhào đầu tiên là rất đáng kể. Trong 7 máy bay tham gia tấn công, 3 chiếc đánh bom trúng mục tiêu và 4 chiếc sống sót. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Nhóm máy bay ném bom đầu tiên bắt đầu bổ nhào lúc 09 giờ 10 phút, xuất hiện ở độ cao 5.000 feet phía đuôi của Hornet xuyên qua một đám mây. Chiếc đầu tiên thả bom nhưng trượt sang mạn phải. Chiếc thứ hai thả một quả bom bán xuyên giáp nặng 550 pound xuống chính giữa sàn đáp, ngang vị trí đảo tàu, và quả bom xuyên qua ba boong tàu. Chiếc thứ ba bị hỏa lực phòng không bắn rơi trước khi kịp thả bom, rơi xuống nước cách mũi Hornet 30 ft về phía mạn phải. Chiếc tiếp theo thực hiện một đòn tấn công thành công bằng một quả bom nổ mạnh, đánh trúng sàn đáp phía đuôi chỉ cách mép phải 20 ft. Vụ nổ tạo ra một lỗ thủng rộng 11 feet trên sàn đáp và gây thương vong nặng cho các khẩu đội pháo gần đó. Chiếc máy bay này bị trúng đạn 20mm và rơi, nhưng trước khi rơi, pháo thủ phía sau đã nhảy dù thoát ra. Người này sống sót và một cách đáng kinh ngạc đã được một tàu khu trục Nhật vớt vào ngày hôm sau. Chiếc thứ năm vòng lại phía trước để tấn công Hornet từ mũi trái. Nó cũng ghi một cú trúng đích bằng bom bán xuyên giáp đánh gần vị trí cú trúng đích thứ hai và xuyên qua bốn boong, gây tổn thất nhân mạng nặng nề. Chiếc kế tiếp cũng vòng lại để tấn công từ mũi nhưng trượt. Chiếc thứ bảy và cuối cùng đã bị Wildcats bắn thương nặng và không bao giờ đến được Hornet. Bom của nó rơi xuống phía sau đuôi tàu, ngay sau đó là bản thân chiếc máy bay đâm xuống. Xét trên mọi phương diện, kết quả của đợt ném bom bổ nhào đầu tiên là rất đáng kể. Trong 7 máy bay tham gia tấn công, 3 chiếc đánh bom trúng mục tiêu và 4 chiếc sống sót. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Một máy bay ném bom bổ nhào Type 99 của Nhật Bản rơi xuống cạnh tàu tuần dương hạng nhẹ USS San Diego (CL-53). Bên phải bức ảnh có thể thấy cột nước do chiếc Type 99 trước đó cũng bị hỏa lực phòng không bắn hạ và rơi xuống nước.
Một máy bay ném bom bổ nhào Type 99 của Nhật Bản rơi xuống cạnh tàu tuần dương hạng nhẹ USS San Diego (CL-53). Bên phải bức ảnh có thể thấy cột nước do chiếc Type 99 trước đó cũng bị hỏa lực phòng không bắn hạ và rơi xuống nước.
Một ảnh chụp từ USS Pensacola cho thấy chiếc máy bay Type 99 đang quá làn đạn dày đặc được biểu hiện rõ trong ảnh. (NHHC)
Một ảnh chụp từ USS Pensacola cho thấy chiếc máy bay Type 99 đang quá làn đạn dày đặc được biểu hiện rõ trong ảnh. (NHHC)
Ảnh chụp từ USS Pensacola cho thấy một chiếc máy bay Type 99 đang bay qua làn hỏa lực phòng không của các tàu hộ tống. Có thể vết trắng từ cánh của máy bay là hậu quả từ việc trúng đạn. (NHHC)
Ảnh chụp từ USS Pensacola cho thấy một chiếc máy bay Type 99 đang bay qua làn hỏa lực phòng không của các tàu hộ tống. Có thể vết trắng từ cánh của máy bay là hậu quả từ việc trúng đạn. (NHHC)
Một ảnh chụp khác từ USS Pensacola rõ ràng hơn về chiếc máy bay Type 99 đang bay qua làn hỏa lực phòng không với dầu máy phun ra và bốc hơi ngay lập tức do nhiệt độ cao, tạo thành vệt khói trắng dày, dài kéo theo từ cánh máy bay. (NHHC)
Một ảnh chụp khác từ USS Pensacola rõ ràng hơn về chiếc máy bay Type 99 đang bay qua làn hỏa lực phòng không với dầu máy phun ra và bốc hơi ngay lập tức do nhiệt độ cao, tạo thành vệt khói trắng dày, dài kéo theo từ cánh máy bay. (NHHC)
Ảnh chụp từ USS Pensacola về chiếc máy bay Type 99 phát nổ trên bầu trời khi trúng đạn từ hoả lực phòng không của các tàu hộ tống. (NHHC)
Ảnh chụp từ USS Pensacola về chiếc máy bay Type 99 phát nổ trên bầu trời khi trúng đạn từ hoả lực phòng không của các tàu hộ tống. (NHHC)
Bảy chiếc máy bay ném bom bổ nhào đầu tiên xuất hiện phía sau đuôi Hornet xuyên qua một đám mây. Chiếc đầu tiên thả bom và trượt sang mạn phải. Chiếc thứ hai thả một quả bom xuyên giáp nặng 550 pound trúng ngay giữa sàn bay, xuyên qua ba tầng boong trước khi phát nổ. Chiếc Type 99 thứ ba bị hỏa lực phòng không bắn hạ trước khi kịp thả bom và rơi xuống nước chỉ cách mũi phải của Hornet khoảng 30 feet. Chiếc ném bom bổ nhào thứ tư thả một quả bom nổ mạnh trúng phần sau của sàn bay trước khi bị trúng đạn pháo 20mm. Khi máy bay rơi xuống, xạ thủ phía sau nhảy dù thoát ra và sống sót, được một tàu khu trục Nhật cứu vớt vào ngày hôm sau. Chiếc máy bay tấn công thứ năm vòng lên phía trước và tiếp cận Hornet từ hướng mũi bên trái. Chiếc máy bay này khéo léo thả một quả bom xuyên giáp khác trúng phần sau, xuyên qua bốn tầng boong trước khi phát nổ và gây thiệt hại nhân mạng nghiêm trọng. Chiếc thứ sáu cũng lao đến từ hướng mũi nhưng đánh trượt. Chiếc ném bom bổ nhào cuối cùng bị Wildcat tấn công và không thể thực hiện cuộc tấn công. Trong số sáu chiếc ném bom bổ nhào lao xuống Hornet, ba chiếc ghi được phát trúng và bốn chiếc trong số đó sống sót.
Vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, trong Trận quần đảo Santa Cruz, Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJNAF) đã thực hiện cuộc tấn công phối hợp tốt nhất và chết chóc nhất nhằm vào một tàu sân bay của Hải quân Mỹ trong suốt toàn bộ cuộc chiến. Trong một trận đánh chỉ kéo dài 30 phút, cả máy bay ném bom bổ nhào D3A1 “Val” và máy bay ném ngư lôi B5N2 “Kate” đều tấn công USS Hornet (CV-8). Phần lớn các máy bay “Kate” xuất phát từ Zuikaku, do Thiếu tá Shigeharu Murata – phi công ném ngư lôi xuất sắc nhất của IJNAF – chỉ huy. Trước đó, ông đã chỉ huy 40 chiếc B5N2 thả ngư lôi Type 91 tàn phá dãy thiết giáp hạm trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Trong bức minh họa này, Murata dẫn đầu hai phi công cánh của mình tiếp cận Hornet từ góc phía sau mạn phải của con tàu. Dưới làn hỏa lực dày đặc, cả ba máy bay đều thả được ngư lôi Type 91, trong đó hai quả trúng tàu sân bay, trực tiếp dẫn đến việc Hornet bị mất. Murata đã không sống sót sau cuộc tấn công. (Tranh của Jim Laurier)
Vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, trong Trận quần đảo Santa Cruz, Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJNAF) đã thực hiện cuộc tấn công phối hợp tốt nhất và chết chóc nhất nhằm vào một tàu sân bay của Hải quân Mỹ trong suốt toàn bộ cuộc chiến. Trong một trận đánh chỉ kéo dài 30 phút, cả máy bay ném bom bổ nhào D3A1 “Val” và máy bay ném ngư lôi B5N2 “Kate” đều tấn công USS Hornet (CV-8). Phần lớn các máy bay “Kate” xuất phát từ Zuikaku, do Thiếu tá Shigeharu Murata – phi công ném ngư lôi xuất sắc nhất của IJNAF – chỉ huy. Trước đó, ông đã chỉ huy 40 chiếc B5N2 thả ngư lôi Type 91 tàn phá dãy thiết giáp hạm trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Trong bức minh họa này, Murata dẫn đầu hai phi công cánh của mình tiếp cận Hornet từ góc phía sau mạn phải của con tàu. Dưới làn hỏa lực dày đặc, cả ba máy bay đều thả được ngư lôi Type 91, trong đó hai quả trúng tàu sân bay, trực tiếp dẫn đến việc Hornet bị mất. Murata đã không sống sót sau cuộc tấn công. (Tranh của Jim Laurier)
Một trong những máy bay cường kích Type 97 của Murata trong lúc lao vào tấn công Hornet. Chiếc máy bay vẫn chưa thả ngư lôi. Bức ảnh được chụp từ tàu tuần dương hạng nặng Pensacola, với tàu tuần dương hạng nặng Northampton ở phía nền sau. (NHHC)
Một trong những máy bay cường kích Type 97 của Murata trong lúc lao vào tấn công Hornet. Chiếc máy bay vẫn chưa thả ngư lôi. Bức ảnh được chụp từ tàu tuần dương hạng nặng Pensacola, với tàu tuần dương hạng nặng Northampton ở phía nền sau. (NHHC)
Một ảnh chụp từ USS Pensacola cho thấy chiếc máy bay Type 97 đang qua làn đạn từ hoả lực phòng không của con tàu và hướng đến tàu sân bay Hornet. (NHHC)
Một ảnh chụp từ USS Pensacola cho thấy chiếc máy bay Type 97 đang qua làn đạn từ hoả lực phòng không của con tàu và hướng đến tàu sân bay Hornet. (NHHC)
Một máy bay Type 97 đang thả ngư lôi xuống vào vị trí của tàu Hornet sắp đi qua ở bên dưới. Ảnh được chụp từ USS Pensacola. (NHHC)
Một máy bay Type 97 đang thả ngư lôi xuống vào vị trí của tàu Hornet sắp đi qua ở bên dưới. Ảnh được chụp từ USS Pensacola. (NHHC)
Một máy bay Type 97 (có thể nhìn thấy ngay phía trên và bên phải đảo chỉ huy của tàu Hornet) đã thả một quả ngư lôi (vệt nước bắn tung tóe ở phía dưới bên phải) và đánh trúng tàu sân bay, gây thiệt hại nghiêm trọng. Ảnh chụp từ USS Pensacola. (NHHC)
Một máy bay Type 97 (có thể nhìn thấy ngay phía trên và bên phải đảo chỉ huy của tàu Hornet) đã thả một quả ngư lôi (vệt nước bắn tung tóe ở phía dưới bên phải) và đánh trúng tàu sân bay, gây thiệt hại nghiêm trọng. Ảnh chụp từ USS Pensacola. (NHHC)
Máy bay Hornet (phía dưới bên phải) bị tấn công và bốc cháy do bom thả trước đó. Có thể nhìn thấy những vệt đạn pháo phòng không trên bầu trời phía trên tàu sân bay. (NHHC)
Máy bay Hornet (phía dưới bên phải) bị tấn công và bốc cháy do bom thả trước đó. Có thể nhìn thấy những vệt đạn pháo phòng không trên bầu trời phía trên tàu sân bay. (NHHC)
Giữa lúc cuộc tấn công bổ nhào đang diễn ra, các máy bay ném ngư lôi của Murata bắt đầu lao vào giai đoạn tấn công cuối cùng. Những chiếc Zero hộ tống đã bảo vệ thành công đội hình khỏi lực lượng CAP, bắn rơi hai chiếc Wildcat với tổn thất chỉ một Zero. Kế hoạch của Murata nhằm thực hiện một cuộc tấn công kiểu “đe” từ hai hướng bị phá vỡ khi Hornet đổi hướng về phía đông bắc; thuyền trưởng Hornet đang cố giữ phần đuôi hướng về phía kẻ tấn công để giảm diện tích mục tiêu. Động tác cơ động này buộc Murata phải tiến hành một cuộc tấn công khó khăn từ phía sau đuôi. Để ứng phó, 11 chiếc Type 97 tăng tốc để thiết lập một hướng phóng ngư lôi thuận lợi hơn ở góc ngang mạn tàu. Ba chiếc do chính Murata dẫn đầu là những chiếc đầu tiên tấn công. Chúng tiếp cận Hornet từ hướng sau mạn phải ở độ cao 300 foot. Chiếc Type 97 đầu tiên thả ngư lôi từ cự ly 1.500 yard và bị bắn rơi. Hai chiếc kế tiếp áp sát đến 1.000 yard trước khi thả vũ khí. Murata đã không sống sót sau cuộc tấn công; sau khi bẻ lái rời đi, chiếc máy bay của ông trúng hỏa lực phòng không và rơi ngoài mạn phải của Hornet.
Cuộc tấn công bằng ngư lôi đầy điêu luyện này mang tính hủy diệt và đóng vai trò then chốt trong việc định đoạt toàn bộ trận chiến. Quả ngư lôi đầu tiên đánh trúng Hornet ở giữa thân tàu lúc 09 giờ 15 phút. Quả thứ hai trúng chỉ vài giây sau đó, ngay tại khu vực động cơ. Phòng máy trước và hai phòng nồi hơi bị ngập nước; Hornet mất điện và nhanh chóng bất động giữa biển. Con tàu cũng bắt đầu nghiêng 10 độ về mạn phải.
Tám chiếc Type 97 khác vẫn đang lao vào tấn công Hornet. Nhóm ba chiếc tiếp theo không đạt được kết quả; chiếc đầu tiên vứt bỏ ngư lôi và bị bắn rơi, hai chiếc còn lại thả ngư lôi nhưng đều trượt. Năm chiếc cuối cùng phải đối mặt với góc tấn công ngày càng xấu khi Hornet tiếp tục quay hướng về tây bắc. Nhóm ba chiếc kế tiếp chịu chung số phận với nhóm trước: một chiếc vứt bỏ ngư lôi và bị bắn hạ khi rời đội hình; hai chiếc còn lại phóng ngư lôi nhưng trượt, song cả hai đều sống sót. Hai chiếc Type 97 cuối cùng đổi mục tiêu sang tàu tuần dương Pensacola. Một chiếc phóng ngư lôi vào tàu tuần dương nhưng trượt, chiếc thứ hai – sau khi trúng đạn phòng không – thì cố lao thẳng vào tàu. Chiếc máy bay này suýt đâm trúng mũi Pensacola, chỉ cách vài feet. Trong số 11 chiếc Type 97 thuộc nhóm của Murata, tám chiếc đã ném ngư lôi vào Hornet, trong đó có hai quả trúng mục tiêu. Sáu chiếc Type 97 sống sót sau trận chiến khốc liệt này.
Góc nhìn đáng chú ý này, chụp từ tàu tuần dương hạng nặng Pensacola, cho thấy cuộc tấn công phối hợp hoàn chỉnh của Nhật vào Hornet đang diễn ra. Phía trên tàu sân bay là một máy bay ném bom bổ nhào Type 99 từ Zuikaku sắp đâm xuống tàu. Một máy bay ném ngư lôi Type 97 từ Shokaku cũng có thể nhìn thấy ở phía sau sau khi phóng ngư lôi vào Hornet. (NHHC)
Góc nhìn đáng chú ý này, chụp từ tàu tuần dương hạng nặng Pensacola, cho thấy cuộc tấn công phối hợp hoàn chỉnh của Nhật vào Hornet đang diễn ra. Phía trên tàu sân bay là một máy bay ném bom bổ nhào Type 99 từ Zuikaku sắp đâm xuống tàu. Một máy bay ném ngư lôi Type 97 từ Shokaku cũng có thể nhìn thấy ở phía sau sau khi phóng ngư lôi vào Hornet. (NHHC)
Bức ảnh tiếp theo trong loạt ảnh từ Pensacola cho thấy vụ nổ từ chiếc Type 99 vừa đâm trúng cầu tín hiệu của Hornet. Chú ý chiếc máy bay ném ngư lôi Type 97 đang rút lui ở bên phải. (NHHC)
Bức ảnh tiếp theo trong loạt ảnh từ Pensacola cho thấy vụ nổ từ chiếc Type 99 vừa đâm trúng cầu tín hiệu của Hornet. Chú ý chiếc máy bay ném ngư lôi Type 97 đang rút lui ở bên phải. (NHHC)
Các đội cứu hỏa cố gắng dập tắt ngọn lửa trên Hornet sau khi chiếc máy bay Type 99 đâm vào ống khói của đảo chỉ huy Hornet. Có thể thấy các mảnh vỡ máy bay rải rác ở xung quanh cùng với khói bụi mịt mù. (NHHC)
Các đội cứu hỏa cố gắng dập tắt ngọn lửa trên Hornet sau khi chiếc máy bay Type 99 đâm vào ống khói của đảo chỉ huy Hornet. Có thể thấy các mảnh vỡ máy bay rải rác ở xung quanh cùng với khói bụi mịt mù. (NHHC)
Bức ảnh này cho thấy đài tín hiệu của Hornet sau vụ đâm của oanh tạc cơ bổ nhào Kiểu 99 từ Shokaku. Quả bom của máy bay không phát nổ, điều này làm giảm thiểu đáng kể thiệt hại. Tuy nhiên, nhiên liệu cháy từ máy bay đã giết chết bảy người trên đài tín hiệu, và thân máy bay xuyên qua boong tàu và gần như chạm đến một phòng sẵn sàng ở tầng bên dưới. (NHHC)
Bức ảnh này cho thấy đài tín hiệu của Hornet sau vụ đâm của oanh tạc cơ bổ nhào Kiểu 99 từ Shokaku. Quả bom của máy bay không phát nổ, điều này làm giảm thiểu đáng kể thiệt hại. Tuy nhiên, nhiên liệu cháy từ máy bay đã giết chết bảy người trên đài tín hiệu, và thân máy bay xuyên qua boong tàu và gần như chạm đến một phòng sẵn sàng ở tầng bên dưới. (NHHC)
Nhóm thứ hai của các máy bay ném bom bổ nhào từ Zuikaku tấn công Hornet đúng vào lúc các máy bay ném ngư lôi của Murata đang thực hiện đòn đánh chí tử. Sáu chiếc ném bom bổ nhào này đụng độ với các tiêm kích của Enterprise được điều đến hỗ trợ Hornet. Chỉ một chiếc trong số đó bị bắn rơi, để lại năm chiếc tiếp tục lao bổ nhào xuống Hornet. Tiếp cận từ mạn trái của tàu sân bay, tất cả đều thả bom nhưng trượt mục tiêu. Chiếc cuối cùng, khi xuất hiện trên Hornet lúc 09 giờ 14 phút, đã bốc cháy dữ dội. Giả sử phi công vẫn còn sống, anh ta đã quyết định lao thẳng vào con tàu. Cánh phải của chiếc máy bay va vào mép ống khói và thân máy bay xuyên qua sàn đáp. Vụ va chạm gây ra các đám cháy kéo dài suốt hai giờ. Nhóm ném bom bổ nhào cuối cùng cũng không đạt được kết quả nào. Các Wildcat của Hornet bắn rơi ba chiếc, và lúc 09 giờ 14 phút, các tiêm kích Enterprise bắn hạ thêm một chiếc khác. Chỉ ba chiếc còn lại tiếp tục tấn công Hornet, và tất cả đều đánh trượt. Hai chiếc trong số đó sau đó bị Wildcat bắn rơi khi rời khu vực TF 17.
Cuộc tấn công cuối cùng nhằm vào Hornet được thực hiện bởi chín chiếc Type 97 của Shokaku, vốn đã được Murata ra lệnh tấn công từ hướng bắc. Vì không có tiêm kích hộ tống, chúng trở thành mục tiêu dễ dàng cho các Wildcat, vốn đã bắn rơi ba chiếc đang bay thấp. Một chiếc khác cố gắng lao vào tàu tuần dương Juneau, nhưng bị bắn hạ trước khi kịp tiếp cận. Khi năm chiếc cuối cùng tiến vào vòng bảo vệ, một chiếc bị tàu khu trục Morris bắn rơi. Bốn chiếc còn lại áp sát Hornet ở khoảng cách 300–800 yard trước khi thả ngư lôi, nhưng tất cả đều trượt.
Sĩ quan phụ trách tác chiến trên không của Hornet đã thuật lại giai đoạn này như sau:
“Enterprise và Hornet hoạt động cách nhau khoảng 10 hải lý, Enterprise bị che khuất bởi một cơn mưa rào. Vì vậy, đối phương tập trung đợt tấn công đầu tiên vào Hornet. Chúng tôi chạy với tốc độ 29 hải lý/giờ và cơ động gắt khi kẻ địch tấn công từ mạn trái. Bất chấp hỏa lực phòng không hiệu quả, một quả bom nặng đánh trúng sàn bay phía sau, gây hư hại nặng và nhiều thương vong; hai quả suýt trúng khác làm chúng tôi chao đảo. Chỉ huy phi đội bổ nhào, chiếc máy bay đã bốc cháy, vẫn lao tới và đánh trúng chúng tôi ba quả bom; một quả nổ trên boong gần đảo chỉ huy, quả thứ hai trúng phần trước ống khói, quả thứ ba là bom lép xuyên xuống boong giữa. Thân máy bay làm vỡ sàn cầu hiệu, gây 12 thương vong và một đám cháy xăng khó dập ngay trên đầu tôi.Cùng lúc, một tá máy bay ném ngư lôi Kate bay hàng ngang cách nhau khoảng 30 mét, lao tới từ mạn phải thấp đến mức phải nhảy qua các tàu hộ tống để tránh va vào cột buồm. Hai quả ngư lôi đánh trúng phần giữa tàu, cạnh phòng máy trước, khiến khu này bị ngập… Một chiếc máy bay ném ngư lôi, bị phòng không bắn hỏng, lao dọc thân tàu, ngoặt 270 độ rồi đâm vào chúng tôi, kẹt dưới thang nâng số 1, gây một đám cháy dai dẳng. Số đạn chưa bắn của nó nổ lẻ tẻ.”
Hai máy bay Nhật bị hư hại nặng trước đó do Wildcat đã kết thúc đợt tấn công vào Hornet. Chiếc đầu tiên, một máy bay ném bom bổ nhào, xuất hiện ở phía đuôi tàu Hornet lúc 09 giờ 17 phút. Chiếc Type 99 đang bốc khói thả bom sau một pha bổ nhào nông, nhưng quả bom trượt khỏi mục tiêu khoảng 50 yard. Phi công Nhật kéo máy bay lên khỏi pha bổ nhào, quay đầu trở lại và hướng thẳng về Hornet với ý định lao vào con tàu. Chiếc máy bay đâm vào mạn trái phía trước của tàu sân bay, và xác máy bay rơi vào hố thang nâng phía trước, gây ra một đám cháy khác. Một phút sau, một chiếc Type 97 thuộc nhóm phía bắc, sau khi đã vứt bỏ ngư lôi, tiếp cận Hornet trực diện từ phía trước, nhưng chiếc máy bay bị hỏng này rơi xuống biển trước khi kịp đến nơi.
Thiệt hại của Hornet trong đợt tấn công buổi sáng của không quân Nhật. Lúc 10 giờ 12 phút, một quả bom nổ chậm trúng sàn đáp tại khung 80 gần trục giữa con tàu. Quả bom xuyên xuống boong thứ ba và phát nổ trong khoang A-310-1LM. Chỉ vài giây sau, hai quả bom nữa trúng sàn bay phía đuôi: quả đầu tiên trúng khung 151, phát nổ ngay lập tức, thổi bay một lỗ rộng 3,3 mét trên sàn đáp, cách mép mạn phải khoảng 6 mét. Quả thứ hai, cũng nổ chậm, trúng khung 155, xuyên xuống boong thứ ba và phát nổ trong khoang D-503-1L. Đến 10 giờ 14 phút, một máy bay ném bom bổ nhào Nhật mang theo ba quả bom lao thẳng vào góc trước mạn trái của ống khói. Máy bay trượt đi, đâm xuống sàn bay. Một quả bom phát nổ ngay khi chạm ống khói; hai quả còn lại xuyên qua sàn đáp. Một quả nổ trong phòng sẵn sàng của phi đoàn, quả kia là bom lép. Khoảng 30 giây sau, quả ngư lôi đầu tiên trong hai quả trúng mạn phải. Ngư lôi chạy nông này trúng khung 112, ngay khu vực phòng máy phía trước. Trong 20 giây tiếp theo, quả ngư lôi thứ hai cũng chạy nông trúng khung 160, khu vực kho đạn. Lúc 10 giờ 17 phút, một máy bay ném bom bổ nhào khác, không còn vũ khí và đang cháy dữ dội, từ phía đuôi mạn trái lao vào cố đâm Hornet nhưng bay quá đầu. Máy bay vòng qua mũi tàu rồi đâm vào mạn trái, ngay khu vực sàn mũi phía trước thang máy số 1. (Minh hoạ của người dịch)
Thiệt hại của Hornet trong đợt tấn công buổi sáng của không quân Nhật. Lúc 10 giờ 12 phút, một quả bom nổ chậm trúng sàn đáp tại khung 80 gần trục giữa con tàu. Quả bom xuyên xuống boong thứ ba và phát nổ trong khoang A-310-1LM. Chỉ vài giây sau, hai quả bom nữa trúng sàn bay phía đuôi: quả đầu tiên trúng khung 151, phát nổ ngay lập tức, thổi bay một lỗ rộng 3,3 mét trên sàn đáp, cách mép mạn phải khoảng 6 mét. Quả thứ hai, cũng nổ chậm, trúng khung 155, xuyên xuống boong thứ ba và phát nổ trong khoang D-503-1L. Đến 10 giờ 14 phút, một máy bay ném bom bổ nhào Nhật mang theo ba quả bom lao thẳng vào góc trước mạn trái của ống khói. Máy bay trượt đi, đâm xuống sàn bay. Một quả bom phát nổ ngay khi chạm ống khói; hai quả còn lại xuyên qua sàn đáp. Một quả nổ trong phòng sẵn sàng của phi đoàn, quả kia là bom lép. Khoảng 30 giây sau, quả ngư lôi đầu tiên trong hai quả trúng mạn phải. Ngư lôi chạy nông này trúng khung 112, ngay khu vực phòng máy phía trước. Trong 20 giây tiếp theo, quả ngư lôi thứ hai cũng chạy nông trúng khung 160, khu vực kho đạn. Lúc 10 giờ 17 phút, một máy bay ném bom bổ nhào khác, không còn vũ khí và đang cháy dữ dội, từ phía đuôi mạn trái lao vào cố đâm Hornet nhưng bay quá đầu. Máy bay vòng qua mũi tàu rồi đâm vào mạn trái, ngay khu vực sàn mũi phía trước thang máy số 1. (Minh hoạ của người dịch)
Đợt tấn công đầu tiên của Nhật Bản vào Hornet bởi máy bay ngư lôi của Shokaku và máy bay ném bom bổ nhào của Zuikaku đã làm tê liệt tàu sân bay như trong bức ảnh này. Tàu sân bay đã nghiêng sang mạn phải do hai quả ngư lôi đánh trúng, và một đám cháy đang bốc lên phía đuôi tàu do một trong những quả bom đánh trúng. (NHHC)
Đợt tấn công đầu tiên của Nhật Bản vào Hornet bởi máy bay ngư lôi của Shokaku và máy bay ném bom bổ nhào của Zuikaku đã làm tê liệt tàu sân bay như trong bức ảnh này. Tàu sân bay đã nghiêng sang mạn phải do hai quả ngư lôi đánh trúng, và một đám cháy đang bốc lên phía đuôi tàu do một trong những quả bom đánh trúng. (NHHC)
Hornet trong giai đoạn cuối của cuộc tấn công buổi sáng ngay sau khi một máy bay ném bom bổ nhào của địch vòng qua mũi tàu và đâm vào boong hành lang bên mạn trái ngay phía trước thang máy số 1. Chú ý khói dày đặc ở giữa tàu do vụ va chạm của máy bay ném bom bổ nhào đầu tiên của địch. Lưu ý độ nghiêng về mạn phải do trúng hai quả ngư lôi.
Hornet trong giai đoạn cuối của cuộc tấn công buổi sáng ngay sau khi một máy bay ném bom bổ nhào của địch vòng qua mũi tàu và đâm vào boong hành lang bên mạn trái ngay phía trước thang máy số 1. Chú ý khói dày đặc ở giữa tàu do vụ va chạm của máy bay ném bom bổ nhào đầu tiên của địch. Lưu ý độ nghiêng về mạn phải do trúng hai quả ngư lôi.
Khi số ít máy bay Nhật còn sống sót rút lui, Hornet đang chìm trong biển lửa và hoàn toàn bất động. Con tàu đã trúng hai quả ngư lôi, ba quả bom, và bị hai máy bay lao vào. Việc đối trọng nước lũ giúp giảm độ nghiêng còn hai độ, nhưng do không còn nguồn điện, nên khả năng sống sót của con tàu rất thấp. Cái giá mà người Nhật phải trả để đánh gục Hornet là cực kỳ lớn: trong 21 máy bay ném bom bổ nhào, chỉ có 4 chiếc trở về được tàu mẹ; trong 20 máy bay ném ngư lôi Type 97, cũng chỉ có 4 chiếc sống sót. Các tiêm kích hộ tống Zero đã chiến đấu hiệu quả, nhưng chỉ có 7 trong số 12 chiếc quay về được. Phía Mỹ mất 6 chiếc Wildcat thuộc đội tuần tra không chiến, nhưng có hai phi công được cứu sống.
Với việc Hornet bị tê liệt sau đợt tấn công đầu tiên, đợt tấn công thứ hai của người Nhật có cơ hội để đánh gục Enterprise và biến trận đánh này thành một chiến thắng mang tính quyết định. Việc nghe lén các kênh vô tuyến Mỹ – đặc biệt là kênh điều phối tiêm kích (FDO circuit) – xác nhận rằng có ít nhất hai tàu sân bay Mỹ đang hiện diện. Enterprise được phát hiện bởi các máy bay từ đợt tấn công đầu tiên, và chiếc Type 97 do thám của Zuikaku đã gửi tọa độ cập nhật của Enterprise lúc 09 giờ 37 phút. Với Enterprise làm mục tiêu, đợt tấn công thứ hai của Nhật tiến đến theo hai nhóm riêng biệt. Nhóm đi đầu gồm 19 máy bay ném bom bổ nhào từ Shokaku được hộ tống bởi 5 chiếc Zero. Nhóm thứ hai gồm 17 chiếc Type 97 từ Zuikaku, hộ tống bởi 4 chiếc Zero, cách nhóm đầu 45 phút. Sự phát hiện ban đầu về đợt tấn công thứ hai đến từ radar của Northampton vào khoảng 09 giờ 30 phút, ở cự ly 76 hải lý. TF 16 không có liên lạc cho đến 15 phút sau, khi South Dakota báo cáo có một nhóm máy bay cách 55 hải lý. Radar của Enterprise không phát hiện được máy bay Nhật cho đến khi chúng chỉ còn 45 hải lý. Khi máy bay Nhật tiếp cận, Kinkaid cho TF 16 đổi hướng về đông nam và tiến vào vùng mưa rào với tốc độ 27 hải lý/giờ.
CUỘC TẤN CÔNG CỦA MÁY BAY TÀU SÂN BAY NHẬT VÀO TÀU ENTERPRISE CỦA MỸ: Máy bay từ các tàu Zuikaku và Shokaku cố gắng làm tê liệt tàu sân bay chủ lực của Hạm đội Mỹ.
CUỘC TẤN CÔNG CỦA MÁY BAY TÀU SÂN BAY NHẬT VÀO TÀU ENTERPRISE CỦA MỸ: Máy bay từ các tàu Zuikaku và Shokaku cố gắng làm tê liệt tàu sân bay chủ lực của Hạm đội Mỹ.
Chỉ huy đợt tấn công, Thiếu tá Hải quân Seki Mamoru, dẫn đầu đợt thứ hai gồm các máy bay ném bom bổ nhào. Khi tiếp cận khu vực chiến đấu, ông phát hiện Hornet, nhưng nhanh chóng nhận ra con tàu đã bị hư hại nặng. Dẫn đầu các máy bay ném bom bổ nhào của mình bay xa hơn về phía đông, Seki sớm phát hiện ra TF 16. Ông ra lệnh tấn công ngay lập tức lúc 10 giờ 08 phút. Seki chia 19 chiếc Type 99 thành ba nhóm để phân tán hỏa lực phòng không, đồng thời triển khai chúng tấn công từ hướng có ánh mặt trời. Vào thời điểm then chốt này, đội CAP của Enterprise được bố trí rất kém hiệu quả – chỉ có 8 chiếc Wildcat ở độ cao 10.000 feet và 13 chiếc khác ở độ cao thấp hơn. Mệnh lệnh từ sĩ quan điều phối tiêm kích (FDO) của TF 61 giữ phần lớn tiêm kích ở tầng thấp; kết quả là chỉ có hai chiếc Wildcat giao chiến với máy bay ném bom bổ nhào trước khi chúng bắt đầu bổ nhào, và chỉ một chiếc Type 99 bị bắn rơi. Do bố trí CAP yếu kém, gần như toàn bộ đội hình ném bom bổ nhào của Seki đã tới điểm bổ nhào mà không bị Wildcat ngăn cản.
Lực lượng Đặc nhiệm 16 (TF 16) cơ động dưới cuộc không kích của Nhật Bản. Enterprise ở phần trung tâm bên trái của bức ảnh với South Dakota đứng gần bên phải. Con tàu lớn ở bên trái góc nhìn là tàu tuần dương hạng nặng Portland.
Lực lượng Đặc nhiệm 16 (TF 16) cơ động dưới cuộc không kích của Nhật Bản. Enterprise ở phần trung tâm bên trái của bức ảnh với South Dakota đứng gần bên phải. Con tàu lớn ở bên trái góc nhìn là tàu tuần dương hạng nặng Portland.
Ảnh chụp từ máy bay từ Hornet cho thấy Enterprise và các tàu khu trục thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 16 đang cơ động trong cuộc tấn công trên không từ máy bay Nhật. (NHHC)
Ảnh chụp từ máy bay từ Hornet cho thấy Enterprise và các tàu khu trục thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 16 đang cơ động trong cuộc tấn công trên không từ máy bay Nhật. (NHHC)
Cuộc tấn công ném bom bổ nhào của Nhật tiếp tục; Enterprise đang thực hiện một cú rẽ gấp sang mạn trái và nghiêng sang mạn phải. Một chiếc Kiểu 99 bị trúng đạn và đang bốc cháy phía trên Enterprise. Mười trong số 19 oanh tạc cơ bổ nhào của Shokaku bị bắn rơi trên Lực lượng Đặc nhiệm 16. (Samuel  Morison Collection courtesy of Naval History and Heritage Command)
Cuộc tấn công ném bom bổ nhào của Nhật tiếp tục; Enterprise đang thực hiện một cú rẽ gấp sang mạn trái và nghiêng sang mạn phải. Một chiếc Kiểu 99 bị trúng đạn và đang bốc cháy phía trên Enterprise. Mười trong số 19 oanh tạc cơ bổ nhào của Shokaku bị bắn rơi trên Lực lượng Đặc nhiệm 16. (Samuel Morison Collection courtesy of Naval History and Heritage Command)
Ảnh chụp Enterprise dưới làn hỏa lực phòng không cực kỳ dày đặc nhằm chống đợt tấn công từ máy bay Nhật. (NHHC)
Ảnh chụp Enterprise dưới làn hỏa lực phòng không cực kỳ dày đặc nhằm chống đợt tấn công từ máy bay Nhật. (NHHC)
Cảnh nhìn từ boong tàu sân bay USS Enterprise. Đứng sát bên cạnh Enterprise, tàu khu trục của Hải quân Mỹ này bắn phá dữ dội bằng hỏa lực phòng không vào máy bay Nhật Bản. (NHHC)
Cảnh nhìn từ boong tàu sân bay USS Enterprise. Đứng sát bên cạnh Enterprise, tàu khu trục của Hải quân Mỹ này bắn phá dữ dội bằng hỏa lực phòng không vào máy bay Nhật Bản. (NHHC)
Một ảnh chụp khác từ boong tàu sân bay USS Enterprise và tàu khu trục của Hải quân Mỹ đang khai hỏa dữ dội bằng hỏa lực phòng không vào máy bay Nhật Bản. (NHHC)
Một ảnh chụp khác từ boong tàu sân bay USS Enterprise và tàu khu trục của Hải quân Mỹ đang khai hỏa dữ dội bằng hỏa lực phòng không vào máy bay Nhật Bản. (NHHC)
Tàu tuần dương hạng nhẹ USS San Juan (CL-54) của Hải quân Mỹ thực hiện một cú ngoặt gấp trong cuộc tấn công của quân Nhật. Enterprise có thể nhìn thấy ở phía xa bên trái.
Tàu tuần dương hạng nhẹ USS San Juan (CL-54) của Hải quân Mỹ thực hiện một cú ngoặt gấp trong cuộc tấn công của quân Nhật. Enterprise có thể nhìn thấy ở phía xa bên trái.
Bức ảnh cho thấy một quả bom trượt và phát nổ bên mạn trái của Enterprise trong đợt tấn công của các máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản. Trong trận Santa Cruz, con tàu chịu nhiều phát nổ từ bom ném trượt và chịu nhiều hư hại ở lớp giáp ngoài. Chú ý tàu khu trục ở bên trái Enterprise và những vết khỏi từ hoả lực phòng không. (NHHC)
Bức ảnh cho thấy một quả bom trượt và phát nổ bên mạn trái của Enterprise trong đợt tấn công của các máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản. Trong trận Santa Cruz, con tàu chịu nhiều phát nổ từ bom ném trượt và chịu nhiều hư hại ở lớp giáp ngoài. Chú ý tàu khu trục ở bên trái Enterprise và những vết khỏi từ hoả lực phòng không. (NHHC)
Một máy bay ném bom bổ nhào  Type 99 của Nhật Bản bị bắn hạ ở bên trên Enterprise. Chú ý thiết giáp hạm USS South Dakota (BB-57) ở trung tâm bức ảnh đang di chuyển theo hướng ngược lại. (NHHC)
Một máy bay ném bom bổ nhào Type 99 của Nhật Bản bị bắn hạ ở bên trên Enterprise. Chú ý thiết giáp hạm USS South Dakota (BB-57) ở trung tâm bức ảnh đang di chuyển theo hướng ngược lại. (NHHC)
  Bức ảnh này cho thấy bắt đầu cuộc tấn công ném bom bổ nhào của 19 chiếc Type 99 từ Shokaku. Enterprise ở trung tâm khung cảnh và đã phải chịu nhiều phát suýt trúng. Một oanh tạc cơ bổ nhào có thể nhìn thấy phía trước Enterprise sau khi thả vũ khí và một chiếc khác ở phía trên tàu sân bay bên trái. Chú ý khối lượng hỏa lực phòng không khổng lồ; phần lớn được cung cấp bởi South Dakota, vốn nằm ngoài khung cảnh này khoảng 2.500 yard phía sau Enterprise. (Samuel
 Morison Collection courtesy of Naval History and Heritage Command)
Bức ảnh này cho thấy bắt đầu cuộc tấn công ném bom bổ nhào của 19 chiếc Type 99 từ Shokaku. Enterprise ở trung tâm khung cảnh và đã phải chịu nhiều phát suýt trúng. Một oanh tạc cơ bổ nhào có thể nhìn thấy phía trước Enterprise sau khi thả vũ khí và một chiếc khác ở phía trên tàu sân bay bên trái. Chú ý khối lượng hỏa lực phòng không khổng lồ; phần lớn được cung cấp bởi South Dakota, vốn nằm ngoài khung cảnh này khoảng 2.500 yard phía sau Enterprise. (Samuel Morison Collection courtesy of Naval History and Heritage Command)
Bức ảnh biểu tượng này cho thấy giải đoạn đỉnh điểm cuộc tấn công ném bom bổ nhào từ máy bay của Shokaku vào Enterprise. Enterprise ở bên trái và South Dakota ở bên phải. Ít nhất hai chiếc Type 99 có thể nhìn thấy phía trên Enterprise. (NHHC)
Bức ảnh biểu tượng này cho thấy giải đoạn đỉnh điểm cuộc tấn công ném bom bổ nhào từ máy bay của Shokaku vào Enterprise. Enterprise ở bên trái và South Dakota ở bên phải. Ít nhất hai chiếc Type 99 có thể nhìn thấy phía trên Enterprise. (NHHC)
Một trong những chiếc Type 99 cuối cùng của Shokaku đã đặt quả bom của nó chỉ cách 10 feet phía sau mạn phải của Enterprise. Phát suýt trúng đã làm mở các tấm vỏ tàu, và chấn động từ vụ nổ để lại một chiếc Dauntless thăng bằng nguy hiểm trên khu vực pháo 20mm mạn phải. Các nhân viên boong tàu cố gắng đẩy máy bay xuống biển, việc này cuối cùng đã hoàn thành khi thuyền trưởng con tàu cho tàu rẽ gấp sang mạn trái. (NHHC)
Một trong những chiếc Type 99 cuối cùng của Shokaku đã đặt quả bom của nó chỉ cách 10 feet phía sau mạn phải của Enterprise. Phát suýt trúng đã làm mở các tấm vỏ tàu, và chấn động từ vụ nổ để lại một chiếc Dauntless thăng bằng nguy hiểm trên khu vực pháo 20mm mạn phải. Các nhân viên boong tàu cố gắng đẩy máy bay xuống biển, việc này cuối cùng đã hoàn thành khi thuyền trưởng con tàu cho tàu rẽ gấp sang mạn trái. (NHHC)
Một quả bom được thả từ máy bay ném bom bổ nhào Type 99  phát nổ bên mạn phải của tàu sân bay Enterprise. Bức ảnh được chụp từ tàu tuần dương hạng nặng USS Portland (CA-33). Chú ý tàu khu trục lớp Mahan ở bên phải. (NHHC)
Một quả bom được thả từ máy bay ném bom bổ nhào Type 99 phát nổ bên mạn phải của tàu sân bay Enterprise. Bức ảnh được chụp từ tàu tuần dương hạng nặng USS Portland (CA-33). Chú ý tàu khu trục lớp Mahan ở bên phải. (NHHC)
Bức ảnh này chụp thời điểm Enterprise bốc cháy do trúng hai quả bom. Con tàu vẫn tiếp tục thực hiện các thao tác né tránh trong cuộc tấn công của không quân Nhật Bản. (U.S.Navy photo)
Bức ảnh này chụp thời điểm Enterprise bốc cháy do trúng hai quả bom. Con tàu vẫn tiếp tục thực hiện các thao tác né tránh trong cuộc tấn công của không quân Nhật Bản. (U.S.Navy photo)
Khi cuộc tấn công bắt đầu lúc 10 giờ 15 phút, Enterprise đang ở thế dễ tổn thương, vì một nhóm mười chiếc Dauntless đang trong các giai đoạn khác nhau của việc tiếp nhiên liệu và lắp vũ khí trên sàn đáp và trong nhà chứa máy bay. Sự thất bại của CAP đồng nghĩa rằng các khẩu đội phòng không trên EnterpriseSouth Dakota (tàu đi phía sau cách 2.500 yard) phải gánh phần lớn nhiệm vụ bảo vệ tàu sân bay. Bảy chiếc Type 99 đầu tiên tiếp cận Enterprise từ phía mạn phải mũi tàu, và từng chiếc một lần lượt hứng chịu loạt hỏa lực phòng không chính xác. Seki và ba chiếc ném bom bổ nhào khác bị bắn rơi, và không chiếc nào trong số đó đánh trúng Enterprise. Chỉ hai phút sau, nhóm thứ hai gồm 7 chiếc máy bay ném bom bổ nhào tấn công từ phía đuôi tàu. Chiếc dẫn đầu, dù phải chịu hỏa lực dày đặc, vẫn kịp thả quả bom nổ mạnh trúng phần phía trước sàn đáp lúc 10 giờ 17 phút. Cú đánh này quá xa về phía mũi, khiến quả bom xuyên qua sàn đáp và boong tàu trước, rồi phát nổ giữa không trung ở ngoài mạn trái mũi tàu. Một phút sau, cú đánh thứ hai bằng bom xuyên giáp nửa inch nặng 550 lb rơi ngay phía sau thang nâng phía trước. Quả bom xuyên xuống boong chứa máy bay, nơi nó gây ra một đám cháy lớn; sáu chiếc Dauntless phải được đẩy xuống biển để tránh lan lửa. Quả bom tiếp tục xuyên tới boong thứ hai, nơi nó phát nổ, giết chết các thành viên của đội cứu hộ và gây thêm một đám cháy khác trong hố thang nâng phía trước. Một chiếc ném bom bổ nhào khác thả bom trúng sát mạn phải phía đuôi tàu lúc 10 giờ 20 phút. Cú nổ sượt này gây ngập nhẹ và khiến một chiếc Wildcat cùng một chiếc Dauntless bị hất xuống biển. Nhóm thứ ba của Type 99 chỉ đạt được một cú nổ sượt lúc 10 giờ 20 phút, khiến các mối ghép dưới nước bên mạn phải của tàu sân bay bị mở ra.
Thiệt hại của Enterprise trong đợt tấn công của không quân Nhật. Quả bom đầu tiên trúng sàn bay ở khung số 4, mạn trái, xuyên qua thân tàu rồi bay ra ngoài và phát nổ trên không phía trước mũi tàu bên mạn trái. Vụ nổ gây hư hại nặng do mảnh văng và làm bùng lên hai đám cháy nhỏ. Quả bom thứ hai trúng sàn đáp ở vị trí khung 44-1/2 bên mạn trái, vỡ tan dưới sàn. Một phần phát nổ trên boong chứa máy bay, phần còn lại nổ trên boong thứ ba tại khu vực trạm sửa chữa phía trước. Vụ nổ gây hư hại do áp lực ở các khoang sinh hoạt boong thứ hai và thứ ba, làm tê liệt thang nâng  phía trước và gây ra hai đám cháy nhỏ. Một quả bom nổ gần trúng cách mạn phải khoảng 3 mét, phát nổ dưới mặt nước khoảng 2,4 mét tại vị trí khung 129-1/2. Vụ nổ làm biến dạng lớp vỏ tàu dưới lớp giáp, làm ngập ba bồn nhiên liệu và gây hư hại do chấn động cho vỏ turbine cao áp số 2. Một quả bom nổ gần thứ hai, phát nổ cách mạn phải khoảng 2,4 mét, sâu dưới mặt nước 5,2 mét đối diện khung 30-1/2. Lớp vỏ tàu bị biến dạng, một số bồn bị ngập nước, và máy bơm cùng động cơ của thang máy số 1 bị hỏng do chấn động. (Minh hoạ của người dịch)
Thiệt hại của Enterprise trong đợt tấn công của không quân Nhật. Quả bom đầu tiên trúng sàn bay ở khung số 4, mạn trái, xuyên qua thân tàu rồi bay ra ngoài và phát nổ trên không phía trước mũi tàu bên mạn trái. Vụ nổ gây hư hại nặng do mảnh văng và làm bùng lên hai đám cháy nhỏ. Quả bom thứ hai trúng sàn đáp ở vị trí khung 44-1/2 bên mạn trái, vỡ tan dưới sàn. Một phần phát nổ trên boong chứa máy bay, phần còn lại nổ trên boong thứ ba tại khu vực trạm sửa chữa phía trước. Vụ nổ gây hư hại do áp lực ở các khoang sinh hoạt boong thứ hai và thứ ba, làm tê liệt thang nâng phía trước và gây ra hai đám cháy nhỏ. Một quả bom nổ gần trúng cách mạn phải khoảng 3 mét, phát nổ dưới mặt nước khoảng 2,4 mét tại vị trí khung 129-1/2. Vụ nổ làm biến dạng lớp vỏ tàu dưới lớp giáp, làm ngập ba bồn nhiên liệu và gây hư hại do chấn động cho vỏ turbine cao áp số 2. Một quả bom nổ gần thứ hai, phát nổ cách mạn phải khoảng 2,4 mét, sâu dưới mặt nước 5,2 mét đối diện khung 30-1/2. Lớp vỏ tàu bị biến dạng, một số bồn bị ngập nước, và máy bơm cùng động cơ của thang máy số 1 bị hỏng do chấn động. (Minh hoạ của người dịch)
Ảnh chụp đội sửa chữa đến vị trí của quả bom thứ nhất trên sàn bay của Enterprise, có thể nhìn thấy ở chỗ những người thủy thủ đang đứng. (NHHC)
Ảnh chụp đội sửa chữa đến vị trí của quả bom thứ nhất trên sàn bay của Enterprise, có thể nhìn thấy ở chỗ những người thủy thủ đang đứng. (NHHC)
Cái lỗ trên sàn bay của Enterprise được gây ra quả bom thứ nhất xuyên thủng qua. (NHHC)
Cái lỗ trên sàn bay của Enterprise được gây ra quả bom thứ nhất xuyên thủng qua. (NHHC)
Vị trí của quả bom nổ sượt thứ hai bên mạn tàu. Quang cảnh thiệt hại đối với vỏ tàu, với các vết nứt nhỏ trên tấm vỏ được khoanh tròn. (NHHC)
Vị trí của quả bom nổ sượt thứ hai bên mạn tàu. Quang cảnh thiệt hại đối với vỏ tàu, với các vết nứt nhỏ trên tấm vỏ được khoanh tròn. (NHHC)
Cú đánh trúng thứ hai. Boong nhà chứa máy bay tại cửa hầm 1-39, nhìn về phía đuôi. Phần chính của quả bom xuyên qua boong ở phía sau cửa hầm, trên trục dọc giữa tàu. Phần đuôi quả bom va chạm và phát nổ ở mạn phải của cửa hầm. Có thể thấy hai chữ "starboard" (mạn phải) và "port" (mạn trái) được ghi gần chỗ bom rơi. (NHHC)
Cú đánh trúng thứ hai. Boong nhà chứa máy bay tại cửa hầm 1-39, nhìn về phía đuôi. Phần chính của quả bom xuyên qua boong ở phía sau cửa hầm, trên trục dọc giữa tàu. Phần đuôi quả bom va chạm và phát nổ ở mạn phải của cửa hầm. Có thể thấy hai chữ "starboard" (mạn phải) và "port" (mạn trái) được ghi gần chỗ bom rơi. (NHHC)
Một lần nữa, một cuộc tấn công của Nhật nhắm vào một tàu sân bay Mỹ lại chứng minh là vô cùng tốn kém, khi 10 trong số 19 máy bay ném bom bổ nhào của Seki bị bắn hạ. Một trong những phi công sống sót đã vô tuyến báo rằng tàu sân bay đã trúng sáu quả bom và đang bốc cháy, nghiêng sang mạn phải. Thiệt hại thực tế đối với Enterprise thì ít nghiêm trọng hơn nhiều. Con tàu không bị giảm tốc độ và vẫn có khả năng tiến hành các hoạt động bay. Cuộc tấn công đã khiến 44 thủy thủ thiệt mạng và phá hủy một chiếc Wildcat cùng 9 chiếc Dauntless.
Các máy bay ném bom bổ nhào của Nhật đã không hoàn thành tốt nhiệm vụ làm suy yếu hệ thống phòng thủ của Enterprise trước đợt tấn công tiếp theo của các máy bay Type 97. Dấu hiệu đầu tiên mà phía Mỹ nhận được về việc phi đội máy bay phóng ngư lôi của Zuikaku, cùng với bốn chiếc Zero hộ tống, đang tiếp cận là một tín hiệu radar do Enterprise phát hiện lúc 10 giờ 35 phút. Lần này, sĩ quan điều phối bay (FDO) đã làm tốt hơn trong việc bố trí các Wildcat đối phó với đội hình Nhật đang tiếp cận ở độ cao khoảng 13.000 feet. Chỉ huy bay phía Nhật phát hiện Hornet lúc 10 giờ 35 phút, nhưng chỉ vài phút sau đã nhìn thấy trực quan lực lượng TF 16 ở phía tây nam. Ông ta chọn Enterprise, dường như chưa bị hư hại, làm mục tiêu tấn công và chia lực lượng thành hai nhóm, mỗi nhóm tám chiếc, để tấn công tàu sân bay từ hai mũi trước. Nhóm đầu tiên hướng về phía nam, trong khi nhóm thứ hai, cùng với cả bốn chiếc Zero, tiếp tục bay về phía đông nam.
Kết thúc các đợt tấn công bổ nhào vào Enterprise, Griffin chỉ thị cho 11 chiếc Wildcat tăng độ cao để chuẩn bị cho một cuộc tấn công tiếp theo. Có thêm 14 chiếc chiến đấu cơ khác đang bay vòng ở độ cao thấp. Dấu hiệu đầu tiên của một đợt tấn công khác xuất hiện lúc 10 giờ 35 khi radar trên Enterprise phát hiện một nhóm lớn mục tiêu lạ từ hướng tây bắc. Griffin có thể bố trí lại lực lượng CAP tốt hơn trong lượt này. Ông cảnh báo các chiến đấu cơ đang bay trên không lúc 10 giờ 44 phút rằng đối phương đang ở phía tây bắc cách 15 hải lý và bao gồm các máy bay tấn công bằng ngư lôi. Đây là phi đội máy bay tấn công của Zuikaku đang tiếp cận TF 16 ở độ cao khoảng 13.000 feet. Lúc 10 giờ 35 phút, phi đội trưởng, Trung úy Imajuku Shigeichiro, phát hiện TF 17 bằng mắt thường. Vài phút sau, ông nhìn thấy TF 16 đang cơ động về phía tây nam. Ông chọn chiếc tàu sân bay có vẻ còn nguyên vẹn để tấn công. Kế hoạch của ông là chia lực lượng thành hai nhóm tám chiếc để tấn công con tàu từ mỗi phía mũi. Nhóm thứ nhất bay xuống phía nam xuyên qua một dải mây, trong khi nhóm thứ hai cùng bốn tiêm kích hộ tống tiếp tục hướng đông nam qua cùng dải mây đó. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Kết thúc các đợt tấn công bổ nhào vào Enterprise, Griffin chỉ thị cho 11 chiếc Wildcat tăng độ cao để chuẩn bị cho một cuộc tấn công tiếp theo. Có thêm 14 chiếc chiến đấu cơ khác đang bay vòng ở độ cao thấp. Dấu hiệu đầu tiên của một đợt tấn công khác xuất hiện lúc 10 giờ 35 khi radar trên Enterprise phát hiện một nhóm lớn mục tiêu lạ từ hướng tây bắc. Griffin có thể bố trí lại lực lượng CAP tốt hơn trong lượt này. Ông cảnh báo các chiến đấu cơ đang bay trên không lúc 10 giờ 44 phút rằng đối phương đang ở phía tây bắc cách 15 hải lý và bao gồm các máy bay tấn công bằng ngư lôi. Đây là phi đội máy bay tấn công của Zuikaku đang tiếp cận TF 16 ở độ cao khoảng 13.000 feet. Lúc 10 giờ 35 phút, phi đội trưởng, Trung úy Imajuku Shigeichiro, phát hiện TF 17 bằng mắt thường. Vài phút sau, ông nhìn thấy TF 16 đang cơ động về phía tây nam. Ông chọn chiếc tàu sân bay có vẻ còn nguyên vẹn để tấn công. Kế hoạch của ông là chia lực lượng thành hai nhóm tám chiếc để tấn công con tàu từ mỗi phía mũi. Nhóm thứ nhất bay xuống phía nam xuyên qua một dải mây, trong khi nhóm thứ hai cùng bốn tiêm kích hộ tống tiếp tục hướng đông nam qua cùng dải mây đó. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Tám chiếc của Imajuku tấn công trước. Do không có tiêm kích hộ tống, Imajuku đưa phi đội xuống bay là là mặt biển cách TF 16 một đoạn. Chỉ một chiếc duy nhất bị máy bay tiêm kích Mỹ tấn công trước khi tới được TF 16; đó chính là chiếc của Imajuku bị bắn rơi khoảng 10 giờ 46 phút. Nhóm tám chiếc thứ hai bị đối xử thậm tệ khi lao xuống xuyên mây. Hai chiếc Wildcat tóm được các máy bay Nhật khi chúng đang hạ độ cao và bắn rơi một chiếc, bắn hỏng nặng một chiếc khác, khiến một chiếc phải bỏ cuộc và làm hư hại nhiều chiếc khác. Các Zero hộ tống không thể can thiệp. Đợt tấn công bằng ngư lôi nhằm vào Enterprise là điểm quyết định của trận chiến. Nếu chỉ một quả trúng Enterprise, hậu quả có thể đã thảm họa. Trong ba trận tàu sân bay trước đó, mỗi lần ngư lôi Nhật đánh trúng một tàu sân bay Mỹ đều dẫn đến chuỗi sự cố làm con tàu mất đi. Số phận Hornet tại Santa Cruz cũng tương tự. Trong số 16 máy bay tấn công tham gia đợt tấn công, có 9 chiếc phóng ngư lôi được vào Enterprise và tất cả đều trượt mục tiêu. Lần này, lực lượng CAP đã làm rất tốt khi đánh tan một trong hai nhóm máy bay tấn công và phá vỡ sự phối hợp giữa hai mũi tấn công. Một phi công Wildcat thậm chí được ghi nhận bắn rơi năm máy bay cường kích. Enterprise cuối cùng đã thoát hiểm trong gang tấc. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Tám chiếc của Imajuku tấn công trước. Do không có tiêm kích hộ tống, Imajuku đưa phi đội xuống bay là là mặt biển cách TF 16 một đoạn. Chỉ một chiếc duy nhất bị máy bay tiêm kích Mỹ tấn công trước khi tới được TF 16; đó chính là chiếc của Imajuku bị bắn rơi khoảng 10 giờ 46 phút. Nhóm tám chiếc thứ hai bị đối xử thậm tệ khi lao xuống xuyên mây. Hai chiếc Wildcat tóm được các máy bay Nhật khi chúng đang hạ độ cao và bắn rơi một chiếc, bắn hỏng nặng một chiếc khác, khiến một chiếc phải bỏ cuộc và làm hư hại nhiều chiếc khác. Các Zero hộ tống không thể can thiệp. Đợt tấn công bằng ngư lôi nhằm vào Enterprise là điểm quyết định của trận chiến. Nếu chỉ một quả trúng Enterprise, hậu quả có thể đã thảm họa. Trong ba trận tàu sân bay trước đó, mỗi lần ngư lôi Nhật đánh trúng một tàu sân bay Mỹ đều dẫn đến chuỗi sự cố làm con tàu mất đi. Số phận Hornet tại Santa Cruz cũng tương tự. Trong số 16 máy bay tấn công tham gia đợt tấn công, có 9 chiếc phóng ngư lôi được vào Enterprise và tất cả đều trượt mục tiêu. Lần này, lực lượng CAP đã làm rất tốt khi đánh tan một trong hai nhóm máy bay tấn công và phá vỡ sự phối hợp giữa hai mũi tấn công. Một phi công Wildcat thậm chí được ghi nhận bắn rơi năm máy bay cường kích. Enterprise cuối cùng đã thoát hiểm trong gang tấc. (Ảnh từ Task Force Admiral)
Nhóm thứ nhất, do chính chỉ huy phi đội dẫn đầu, mở màn tấn công. Các Wildcat đã bắn hạ một chiếc Type 97 trước khi những chiếc còn lại bắt đầu lao vào. Bốn máy bay tiếp cận Enterprise từ phía mạn phải và thả ngư lôi, nhưng thuyền trưởng con tàu đã ra lệnh cho con tàu rẽ gấp sang phải khiến tất cả ngư lôi đều trượt mục tiêu. Một chiếc Type 97 khác tiếp cận từ chính diện và thả ngư lôi của nó. Quả ngư lôi này chỉ được phát hiện khi còn cách 800 yard, nhưng một cú rẽ gấp nữa khiến nó trượt qua mạn phải ở khoảng cách 100 yard. Tháp pháo phòng không bốn nòng 1,1 inch ở mũi tàu đã bắn hạ chiếc máy bay này. Hai chiếc Type 97 cuối cùng không thể có được góc tấn công thuận lợi vào Enterprise, nên chuyển sang tấn công South Dakota. Cả hai đều thả được ngư lôi nhưng không trúng; cả hai chiếc đều bị hỏa lực phòng không bắn hạ.
Sau khi thực hiện một cuộc tấn công ngư lôi không thành công vào tàu Enterprise, hai chiếc Type 97 từ tàu Zuikaku rời khu vực chiến đấu trong trận chiến quần đảo Santa Cruz bằng cách bay giữa mục tiêu và thiết giáp hạm South Dakota, mũi tàu của nó có thể nhìn thấy ở bên trái trong bức ảnh này được chụp từ đảo chỉ huy của tàu sân bay. (NHHC)
Sau khi thực hiện một cuộc tấn công ngư lôi không thành công vào tàu Enterprise, hai chiếc Type 97 từ tàu Zuikaku rời khu vực chiến đấu trong trận chiến quần đảo Santa Cruz bằng cách bay giữa mục tiêu và thiết giáp hạm South Dakota, mũi tàu của nó có thể nhìn thấy ở bên trái trong bức ảnh này được chụp từ đảo chỉ huy của tàu sân bay. (NHHC)
Trong bức ảnh đáng chú ý này, chụp từ mạn trái của đảo chỉ huy trên Enterprise, một máy bay ném ngư lôi Type 97 từ Zuikaku bay đi sau khi thả ngư lôi. Con tàu trong bức ảnh là South Dakota, đang bắn dàn pháo phòng không của nó như có thể thấy qua làn khói. (NHHC)
Trong bức ảnh đáng chú ý này, chụp từ mạn trái của đảo chỉ huy trên Enterprise, một máy bay ném ngư lôi Type 97 từ Zuikaku bay đi sau khi thả ngư lôi. Con tàu trong bức ảnh là South Dakota, đang bắn dàn pháo phòng không của nó như có thể thấy qua làn khói. (NHHC)
Mặc dù nhóm thứ hai của các máy bay Type 97 có các Zero hộ tống, họ vẫn bị lực lượng CAP của Mỹ tàn sát. Các Zero không giữ được vị trí cùng với đội hình được bảo vệ, và hai chiếc Wildcat đã bắt gặp các Type 97 trong lúc chúng đang hạ độ cao. Một chiếc bị bắn rơi, một chiếc khác bị hư hại nặng, một chiếc buộc phải bỏ cuộc, và vài chiếc khác bị thương tích. Sáu máy bay còn lại xuất hiện từ các đám mây phía sau TF 16. Khi bay qua đội hình hộ tống, phi công của một chiếc Type 97, vốn đã bị cháy, nhận thấy mình không thể tiếp cận Enterprise, nên quyết định lao xuống tàu gần nhất. Đó là tàu khu trục Smith; chiếc máy bay đâm vào phần mũi tàu, phía trước cầu chỉ huy, và ngay sau đó phần mũi con tàu bốc cháy dữ dội, ban đầu do nhiên liệu máy bay và sau đó do vụ nổ của ngư lôi. Năm chiếc Type 97 còn lại tiếp cận Enterprise từ phía đuôi tàu, trong khi thuyền trưởng con tàu cố gắng giữ cho phần đuôi luôn hướng về phía các máy bay Nhật đang tiến đến. Một trong năm chiếc Type 97 đó phóng ngư lôi từ chính phía sau và bị hỏa lực phòng không bắn hạ – quả ngư lôi trượt mục tiêu. Bốn chiếc còn lại phóng ngư lôi từ phía sau bên trái của tàu sân bay, nhưng chỉ một quả tiến gần đến con tàu. Đợt tấn công kết thúc lúc 10 giờ 52 phút mà Enterprise vẫn không hề hấn gì. Đây là một cơ hội quan trọng bị bỏ lỡ đối với người Nhật. Chỉ một cú đánh trúng duy nhất của ngư lôi Type 91 cũng có thể dẫn đến thảm họa. Trong ba trận đánh tàu sân bay trước đó, mỗi khi một quả ngư lôi được phóng từ máy bay Nhật trúng tàu sân bay đối phương, nó đều khởi đầu một chuỗi sự kiện dẫn đến việc mất tàu. Hornet sắp phải chịu chung số phận đó. Mười sáu chiếc Type 97 đã tấn công Enterprise, chín chiếc phóng được ngư lôi, nhưng không quả nào trúng mục tiêu. Enterprise được cứu nhờ khả năng điều khiển khéo léo của thuyền trưởng và nhờ lực lượng CAP, vốn đã tàn phá một trong hai nhóm máy bay ném ngư lôi và làm rối loạn sự phối hợp giữa hai nhóm.
Tàu khu trục Smith bị một chiếc Type 97 từ Shokaku đâm trúng và đang bốc cháy như thấy trong bức ảnh chụp từ South Dakota. (NHHC)
Tàu khu trục Smith bị một chiếc Type 97 từ Shokaku đâm trúng và đang bốc cháy như thấy trong bức ảnh chụp từ South Dakota. (NHHC)
Máy bay Nhật Bản (ở giữa bên phải) chiến đấu trong làn đạn phòng không dày đặc từ các tàu hộ tống. Ảnh chụp bởi tàu USS San Juan. (NHHC)
Máy bay Nhật Bản (ở giữa bên phải) chiến đấu trong làn đạn phòng không dày đặc từ các tàu hộ tống. Ảnh chụp bởi tàu USS San Juan. (NHHC)
Một ảnh chụp khác từ tàu USS San Juan cho thấy chiếc máy bay Nhật Bản bốc cháy và khói trước khi rơi. (NHHC)
Một ảnh chụp khác từ tàu USS San Juan cho thấy chiếc máy bay Nhật Bản bốc cháy và khói trước khi rơi. (NHHC)
Nhóm không quân của tàu sân bay Junyo là đơn vị tiếp theo bước vào trận chiến. Lúc 09 giờ 05 phút, Junyo bắt đầu cho cất cánh đợt tấn công đầu tiên gồm 12 chiếc Zero và 17 máy bay ném bom bổ nhào. Khi đó, TF 61 còn cách khoảng 280 hải lý. Sau khi đợt tấn công rời đi, Kondo tách Junyo cùng hai tàu khu trục để phối hợp cùng Nagumo. Phần còn lại của Lực lượng Tiên Phong di chuyển về phía đông nam với hy vọng giao chiến với người Mỹ trong một trận hải chiến mặt nước.
Các phi công của Hải đội Tàu sân bay số 2 không dày dạn kinh nghiệm như những tổ bay từ ShokakuZuikaku, và sự thiếu kinh nghiệm đó đã sớm thể hiện rõ. Khi đợt tấn công của Junyo tiến đến gần TF 16, radar trên Enterprise, vốn đã gặp trục trặc suốt cả ngày, lại ngừng hoạt động. Radar của South Dakota phát hiện được máy bay Nhật, nhưng thông tin này không được chuyển đến sĩ quan điều phối bay (FDO) của TF 61. Khi radar của Enterprise được khôi phục, máy bay Nhật đã chỉ còn cách 20 hải lý. Điều này không để lại đủ thời gian cho lực lượng CAP phản ứng, và dù sao thì FDO cũng chỉ đưa ra những chỉ thị mơ hồ. Kết quả là đợt tấn công của Junyo không bị các Wildcat đánh chặn. Chỉ huy đợt tấn công Nhật phát hiện TF 16 qua một khoảng trống trong mây lúc 11 giờ 20 phút và lập tức ra lệnh tấn công. Trần mây thấp giúp máy bay Nhật tránh được lực lượng CAP của Mỹ, nhưng đồng thời cũng cản trở các máy bay ném bom bổ nhào trong việc đạt được vị trí tấn công tối ưu. Các máy bay Type 99 buộc phải sử dụng góc bổ nông khoảng 45 độ, điều này làm giảm độ chính xác và tăng tính dễ tổn thương trước hỏa lực phòng không. Một nhóm gồm 8 máy bay ném bom bổ nhào là đơn vị đầu tiên tấn công sau khi chọn Enterprise làm mục tiêu. Chỉ một trong số chúng đạt được chút thành công khi gây ra một vụ nổ gần trúng có sức phá hoại.
Sau cuộc tấn công của Hải đội tàu sân bay 1, đợt không kích của tàu sân bay Junyō gồm 17 máy bay ném bom trên tàu sân bay đã tiếp cận Lực lượng Đặc nhiệm 16 (TF 16). Lúc 11 giờ 20 phút, chỉ huy của đợt tấn công phát hiện Enterprise và ra lệnh tấn công ngay lập tức. Các máy bay ném bom bổ nhào không bị lực lượng CAP của Enterprise đánh chặn, nhưng do gặp phải mây dày phía trên tàu sân bay, khiến đội hình không thể có được góc bổ nhào tốt và ngăn cản tất cả các máy bay tấn công theo dõi chính xác Enterprise. Một nhóm gồm 8 máy bay ném bom bổ nhào đã lao xuống Enterprise từ phía đuôi, nhưng các góc bổ nông khoảng 45 độ khiến chúng dễ bị hỏa lực phòng không bắn hạ. Mỗi chiếc máy bay ném bom Type 99 đều bị hỏa lực phòng không của Enterprise bắn trúng tuần tự khi chúng tiến hành tấn công. Bốn chiếc bị bắn rơi, đổi lại chỉ có một quả bom rơi gần trúng tàu sân bay. (Tranh của Howard Gerrard)
Sau cuộc tấn công của Hải đội tàu sân bay 1, đợt không kích của tàu sân bay Junyō gồm 17 máy bay ném bom trên tàu sân bay đã tiếp cận Lực lượng Đặc nhiệm 16 (TF 16). Lúc 11 giờ 20 phút, chỉ huy của đợt tấn công phát hiện Enterprise và ra lệnh tấn công ngay lập tức. Các máy bay ném bom bổ nhào không bị lực lượng CAP của Enterprise đánh chặn, nhưng do gặp phải mây dày phía trên tàu sân bay, khiến đội hình không thể có được góc bổ nhào tốt và ngăn cản tất cả các máy bay tấn công theo dõi chính xác Enterprise. Một nhóm gồm 8 máy bay ném bom bổ nhào đã lao xuống Enterprise từ phía đuôi, nhưng các góc bổ nông khoảng 45 độ khiến chúng dễ bị hỏa lực phòng không bắn hạ. Mỗi chiếc máy bay ném bom Type 99 đều bị hỏa lực phòng không của Enterprise bắn trúng tuần tự khi chúng tiến hành tấn công. Bốn chiếc bị bắn rơi, đổi lại chỉ có một quả bom rơi gần trúng tàu sân bay. (Tranh của Howard Gerrard)
Phi đội máy bay ném bom bổ nhào của Junyo thực hiện một cuộc tấn công không hiệu quả vào Enterprise. Không chiếc nào trong số 8 chiếc Type 99 từ Junyo tấn công Enterprise ghi được phát trúng trực tiếp; một trong những quả bom thả trượt được thể hiện trong bức ảnh này. (NHHC)
Phi đội máy bay ném bom bổ nhào của Junyo thực hiện một cuộc tấn công không hiệu quả vào Enterprise. Không chiếc nào trong số 8 chiếc Type 99 từ Junyo tấn công Enterprise ghi được phát trúng trực tiếp; một trong những quả bom thả trượt được thể hiện trong bức ảnh này. (NHHC)
Một chiếc Grumman F4F-4 Wildcat (số hiệu BuNo 5246) thuộc Phi đội Chiến đấu 72 (VF-72) từ tàu sân bay USS Hornet (CV-8) trượt trên boong sau khi hạ cánh xuống tàu USS Enterprise (CV-6) khi tàu sân bay này thực hiện các thao tác né tránh dữ dội dưới sự tấn công của máy bay Nhật. Các thủy thủ đang dùng dây kéo chiếc máy bay trên đường băng xuống, kéo nó ra khỏi vị trí nguy hiểm gần khu vực đặt súng. Công việc cứu hộ vẫn tiếp tục bất chấp nguy cơ bị không kích lần nữa của quân Nhật. Các pháo thủ không chú ý đến sự hỗn loạn trên đầu, họ dán mắt lên bầu trời để tìm kiếm dấu hiệu của máy bay địch. (NHHC)
Một chiếc Grumman F4F-4 Wildcat (số hiệu BuNo 5246) thuộc Phi đội Chiến đấu 72 (VF-72) từ tàu sân bay USS Hornet (CV-8) trượt trên boong sau khi hạ cánh xuống tàu USS Enterprise (CV-6) khi tàu sân bay này thực hiện các thao tác né tránh dữ dội dưới sự tấn công của máy bay Nhật. Các thủy thủ đang dùng dây kéo chiếc máy bay trên đường băng xuống, kéo nó ra khỏi vị trí nguy hiểm gần khu vực đặt súng. Công việc cứu hộ vẫn tiếp tục bất chấp nguy cơ bị không kích lần nữa của quân Nhật. Các pháo thủ không chú ý đến sự hỗn loạn trên đầu, họ dán mắt lên bầu trời để tìm kiếm dấu hiệu của máy bay địch. (NHHC)
Nhóm thứ hai gồm 9 máy bay ném bom bổ nhào mất dấu Enterprise trong lớp mây thấp và cuối cùng thực hiện những đợt tấn công rời rạc vào các tàu khác trong TF 16. Bốn chiếc phát hiện South Dakota và bổ nhào xuống thiết giáp hạm này. Ba quả bom đầu tiên trượt mục tiêu, nhưng quả cuối cùng đánh trúng lớp giáp dày trên nóc tháp pháo 16 inch phía trước. Cú đánh này không gây hư hại cho tháp pháo, nhưng các mảnh đạn đã làm bị thương một số thủy thủ, bao gồm cả hạm trưởng con tàu. Năm chiếc ném bom bổ nhào còn lại chọn tàu tuần dương hạng nhẹ San Juan làm mục tiêu. Ba chiếc Type 99 đầu tiên ném trượt, nhưng chiếc thứ tư tạo ra một vụ nổ gần trúng bên mạn trái. Chiếc cuối cùng thả quả bom xuyên giáp của nó vào đuôi tàu tuần dương, quả bom xuyên qua lớp giáp mỏng của con tàu trước khi phát nổ dưới đáy thân. Thiệt hại ở mức trung bình, với một số khoang bị ngập và việc điều khiển bánh lái bị mất tạm thời. Trong suốt cuộc tấn công, không chiếc máy bay ném bom bổ nhào nào bị hỏa lực phòng không bắn trúng, nhưng bốn chiếc đã bị Wildcat hoặc Dauntless tiêu diệt khi rời khỏi khu vực chiến đấu. Mười hai chiếc Zero hộ tống không chịu tổn thất nào và có lẽ đã bắn hạ được hai chiếc Wildcat cùng một chiếc Avenger.

SAU CÁC ĐỢT TẤN CÔNG BAN ĐẦU

Trận Quần đảo Santa Cruz giai đoạn 2: từ 12 giờ - 24 giờ
Trận Quần đảo Santa Cruz giai đoạn 2: từ 12 giờ - 24 giờ
Buổi sáng ngày 26 tháng 10 đã chứng kiến một loạt các đợt tấn công qua lại giữa sáu tàu sân bay. Tổn thất nặng nề xảy ra ở cả hai phía. Phía Mỹ chỉ còn lại một tàu sân bay bay còn hoạt động, trong khi phía Nhật còn hai. Tổn thất máy bay cũng rất lớn, đặc biệt là đối với phía Nhật. Thiệt hại máy bay của Nagumo nghiêm trọng đến mức làm suy yếu khả năng khai thác thắng lợi ban đầu của ông. Khi những chiếc máy bay còn sống sót từ đợt tấn công đầu tiên bắt đầu quay về lúc 11 giờ 40 phút, chỉ có 10 chiếc Zero, 8 chiếc Type 97, và một máy bay ném bom bổ nhào hạ cánh xuống Zuikaku, cùng với 2 chiếc Zero, 4 máy bay ném bom bổ nhào, và một chiếc Type 97 hạ cánh xuống Junyo. Mười ba máy bay từ đợt đầu tiên buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống biển trên đường trở về tàu sân bay. Sau khi toàn bộ máy bay đã được thu hồi, Nagumo tách Zuikaku cùng năm tàu khu trục ra hoạt động chung với Junyo. Phần còn lại của hạm đội của Nagumo được lệnh tiến về phía Lực lượng Yểm trợ, lực lượng đang hành tiến đến vị trí được cho là cuối cùng của quân Mỹ với hy vọng mở ra một trận hải chiến trên mặt biển. Thiệt hại của phía Nhật là rất lớn, như lời một sĩ quan tham mưu trên Junyo kể lại:
“Không lâu sau, các máy bay của Junyo bắt đầu quay về. Trinh sát viên phát hiện chúng lẻ tẻ kéo về, chỉ có sáu chiếc Zero bay theo đội hình. Số còn lại bay tản mát từ mọi hướng. Chúng tôi lo lắng tìm kiếm trên bầu trời. Chỉ thấy năm hoặc sáu máy bay ném bom bổ nhào – quá ít so với số lượng cất cánh vài giờ trước. Máy bay nghiêng ngả, khập khiễng đáp xuống sàn bay, từng chiếc một thủng đầy lỗ đạn. Một số chiếc chẳng khác gì cái rây. Khi phi công mệt mỏi bước ra khỏi buồng lái chật chội, họ kể về sự chống trả khủng khiếp, về bầu trời đặc nghẹt đạn phòng không và vệt đạn lửa.”
Ngay cả sau trận chiến buổi sáng, Nagumo và bộ tham mưu của ông vẫn chưa chắc chắn có bao nhiêu tàu sân bay Mỹ hiện diện. Sau khi phân tích các bản tường trình của phi công và thông tin tình báo vô tuyến đã được đề cập trước đó, phía Nhật kết luận rằng họ đang đối đầu với ba tàu sân bay Mỹ. Một chiếc là tàu sân bay đã bị phát hiện nhiều lần trong buổi sáng khi đang nằm bất động trên mặt biển, và hai chiếc còn lại được cho là đang hoạt động ở phía bắc và tây bắc của con tàu bị tàn phế. Đây là một đánh giá sai lầm, không chỉ về số lượng tàu sân bay có mặt mà còn cả vị trí của chúng. Hệ quả của sự phán đoán sai này là các đợt không kích buổi chiều của Nhật bị phái đến những khu vực sai và không bao giờ tìm thấy Enterprise.
Với mong muốn tận dụng thắng lợi, Yamamoto ra lệnh cho Kondo truy kích và tiêu diệt lực lượng Mỹ đang rút lui. Các đội phục vụ sàn bay trên JunyoZuikaku bắt đầu chuẩn bị cho những đợt tấn công tiếp theo. Đợt không kích đầu tiên được phái đi từ Junyo lúc 13 giờ 13 phút, bao gồm 8 chiếc Zero (từ ba tàu sân bay khác nhau) và 7 chiếc Type 97 (sáu chiếc mang ngư lôi). Đợt tấn công thứ ba trong ngày của Zuikaku bao gồm 5 chiếc Zero (từ hai tàu sân bay khác nhau), 2 máy bay ném bom bổ nhào và 7 chiếc Type 97 (sáu chiếc mang bom 1.760 pound và một chiếc còn lại là máy bay trinh sát không vũ trang). Phi vụ này do một trung úy chỉ huy; cấp bậc thấp của phi đội trưởng và quy mô nhỏ của lực lượng phản ánh rõ tổn thất nặng nề trong các đợt tấn công ban đầu.
Tình hình mà Kinkaid phải đối mặt sau loạt không kích đầu tiên trở nên rất khó khăn. Hornet thì vẫn nằm bất động, và nỗ lực của tàu tuần dương hạng nặng Northampton nhằm kéo con tàu đi không thành công. Enterprise không thể cung cấp lực lượng CAP để bảo vệ cho con tàu bị thương. Tuy nhiên, thiệt hại của Enterprise không khiến việc điều hành bay bị ngừng, nên mọi máy bay tấn công và CAP còn sống sót đều hạ cánh lên sàn bay duy nhất còn hoạt động của Kinkaid, dù con tàu đã mất chức năng thang nâng phía trước. Bộ tham mưu của Kinkaid tin chắc rằng vẫn còn một hoặc hai tàu sân bay Nhật còn hoạt động. Tiếp tục trận chiến sẽ chỉ khiến nguy cơ mất Enterprise trở nên hiện hữu — một thảm họa không thể chấp nhận được. Sau khi xem xét tình hình, Kinkaid quyết định rút lui, và thông báo quyết định này cho Halsey lúc 11 giờ 35 phút.
 Bức ảnh này chụp Hornet vào thời điểm con tàu bị bất động sau cuộc tấn công của Nhật Bản vào buổi sáng. Tàu khu trục USS Russell (DD-414) neo đậu bên cạnh tàu sân bay để sẵn sàng đón thủy thủ đoàn. Tàu tuần dương Northampton cũng đến để kéo con tàu về. (NHHC)
Bức ảnh này chụp Hornet vào thời điểm con tàu bị bất động sau cuộc tấn công của Nhật Bản vào buổi sáng. Tàu khu trục USS Russell (DD-414) neo đậu bên cạnh tàu sân bay để sẵn sàng đón thủy thủ đoàn. Tàu tuần dương Northampton cũng đến để kéo con tàu về. (NHHC)
Ảnh chụp từ trên không của Hornet trong thời gian tạm lắng giữa các cuộc tấn công buổi sáng và buổi chiều. Có thể thấy lỗ thủng ở phía sau sàn bay và hư hại ở mép trước của ống khói. Các đội cứu hỏa vẫn đang dập lửa trên sàn bay gần ống khói.
Ảnh chụp từ trên không của Hornet trong thời gian tạm lắng giữa các cuộc tấn công buổi sáng và buổi chiều. Có thể thấy lỗ thủng ở phía sau sàn bay và hư hại ở mép trước của ống khói. Các đội cứu hỏa vẫn đang dập lửa trên sàn bay gần ống khói.
Đây là Hornet nằm bất động và nghiêng sang mạn phải sau cuộc tấn công ban đầu của Nhật. Tàu khu trục Russell ở mạn trái và Northampton đang túc trực. Chú ý trên sàn bay của Hornet có thể thấy hai lỗ thủng do các máy bay ném bom bổ nhào Type 99 của Nhật Bản gây ra vào buổi sáng. (NHHC)
Đây là Hornet nằm bất động và nghiêng sang mạn phải sau cuộc tấn công ban đầu của Nhật. Tàu khu trục Russell ở mạn trái và Northampton đang túc trực. Chú ý trên sàn bay của Hornet có thể thấy hai lỗ thủng do các máy bay ném bom bổ nhào Type 99 của Nhật Bản gây ra vào buổi sáng. (NHHC)
Tàu tuần dương hạng nặng Northampton đã cố gắng kéo Hornet ra khỏi khu vực chiến sự. Tàu sân bay bị tê liệt không có sự che chở trên không; sau một quả ngư lôi thứ ba, hoạt động kéo bị bỏ dở Chú ý những thủy thủ đoàn của Hornet đang tập trung rất đông trên sàn bay của con tàu. (NHHC)
Tàu tuần dương hạng nặng Northampton đã cố gắng kéo Hornet ra khỏi khu vực chiến sự. Tàu sân bay bị tê liệt không có sự che chở trên không; sau một quả ngư lôi thứ ba, hoạt động kéo bị bỏ dở Chú ý những thủy thủ đoàn của Hornet đang tập trung rất đông trên sàn bay của con tàu. (NHHC)
Sau khi quyết định rút lui được đưa ra, Enterprise rời khỏi tầm tấn công của máy bay Nhật. Vấn đề duy nhất còn lại là liệu có thể cứu được Hornet hay không. Northampton kéo dây kéo lúc 13 giờ 30 phút và đạt tốc độ 3 hải lý/giờ. Sau đó tốc độ được nâng lên 6 hải lý/giờ, thắp lên một tia hy vọng mong manh rằng con tàu có thể được cứu. Nhưng phía Nhật không hề có ý định để Hornet trốn thoát. Máy bay Nhật theo dõi nỗ lực cứu tàu của Mỹ suốt cả buổi sáng. Lúc 13 giờ 45 phút, radar của Northampton phát hiện đợt tấn công từ Junyo ở khoảng 100 hải lý về phía tây bắc. Đến 14 giờ, radar của tàu tuần dương phát hiện thêm một đợt khác từ Zuikaku ở khoảng 110 hải lý cũng về hướng tây bắc. Cả hai nhóm máy bay này đều đang tìm kiếm tàu sân bay Mỹ chưa bị thương, theo đánh giá sai lầm của bộ tham mưu Nagumo rằng nó đang hoạt động ở phía bắc của Hornet. Đội tấn công của Junyo bỏ cuộc trong cuộc tìm kiếm vô ích này và lúc 15 giờ 13 phút, phi đội trưởng phát hiện Hornet bị hư hại nặng. Không còn mục tiêu nào khác, ông quyết định tấn công vào Hornet. Northampton buộc phải cắt dây kéo khi 6 chiếc Type 97 áp sát mạn phải của Hornet. Phi đội trưởng khéo léo thả ngư lôi trúng ngay phía sau hai hư hại cũ do ngư lôi gây ra trước đó. Cú đánh này khiến Hornet bị nghiêng đến khoảng 14 độ và làm cho mọi nỗ lực cứu tàu gần như vô vọng. Một cách khó hiểu, năm phi công còn lại lại không thể đánh trúng con tàu to lớn gần như nằm bất động trên mặt nước. Phi đội trưởng và một chiếc Type 97 khác bị pháo phòng không bắn rơi. Lúc 15 giờ 41 phút, những máy bay đầu tiên trong đợt tấn công của Zuikaku xuất hiện trên không. Hai chiếc máy bay ném bom bổ nhào tấn công đầu tiên nhưng chỉ đạt một cú suýt trúng.
Ảnh chụp từ tàu USS Pensacola cho thấy Hornet nằm bất động và tiếp tục chịu sự tấn công của Nhật Bản vào buổi chiều từ Zuikaku và Junyo. (NHHC)
Ảnh chụp từ tàu USS Pensacola cho thấy Hornet nằm bất động và tiếp tục chịu sự tấn công của Nhật Bản vào buổi chiều từ Zuikaku và Junyo. (NHHC)
Ảnh chụp Hornet bị bốc cháy do quả bom xuyên qua boong chứa máy bay của con tàu. Con tàu cũng bị trúng quả ngư lôi đánh trống đợt tấn công thứ hai của người Nhật. Ảnh chụp từ USS Pensacola. (NHHC)
Ảnh chụp Hornet bị bốc cháy do quả bom xuyên qua boong chứa máy bay của con tàu. Con tàu cũng bị trúng quả ngư lôi đánh trống đợt tấn công thứ hai của người Nhật. Ảnh chụp từ USS Pensacola. (NHHC)
Tàu USS Hornet (CV-8) nghiêng sau cuộc tấn công của Nhật Bản, tàu đã bị bỏ lại tại thời điểm này. Lưu ý, đồng hồ đo độ nghiêng hiển thị 26 độ. Ảnh chụp từ tàu USS Pensacola. (NHHC)
Tàu USS Hornet (CV-8) nghiêng sau cuộc tấn công của Nhật Bản, tàu đã bị bỏ lại tại thời điểm này. Lưu ý, đồng hồ đo độ nghiêng hiển thị 26 độ. Ảnh chụp từ tàu USS Pensacola. (NHHC)
Đây ảnh chụp Hornet lúc 17 giờ. Con tàu đã bị bỏ sau khi chịu một trận oanh tạc khủng khiếp từ các cuộc không kích của Nhật. Một số thành viên thủy thủ đoàn có thể nhìn thấy trên bè cứu sinh bên phải. (NHHC)
Đây ảnh chụp Hornet lúc 17 giờ. Con tàu đã bị bỏ sau khi chịu một trận oanh tạc khủng khiếp từ các cuộc không kích của Nhật. Một số thành viên thủy thủ đoàn có thể nhìn thấy trên bè cứu sinh bên phải. (NHHC)
Thiệt hại của Hornet trong đợt tấn công buổi chiều của không quân Nhật. Lúc 16 giờ 23 phút, một quả ngư lôi chạy nông trúng mạn phải của tàu tại khung 115. Vụ nổ làm ngập ngay phòng máy phía sau và triệt tiêu hoàn toàn mọi khả năng khôi phục động lực trên Hornet. Con tàu bắt đầu nghiêng dần, đến 16 giờ 40 phút đã nghiêng 14,5° về mạn phải. Cùng lúc đó, đợt tấn công ném bom bổ nhào mà người ta đã dự đoán xảy ra. May mắn chỉ có các quả bom nổ gần, dù một quả làm con tàu chấn động dữ dội. Lúc 16 giờ 55 phút,  một quả bom trúng góc đuôi mạn phải của sàn bay; các quả còn lại nổ gần với khoảng cách rất sát nhau đến mức trông như chỉ một cột nước khổng lồ. Lúc 18 giờ 02 phút, có thêm một quả bom trúng sàn bay ngay phía trước đảo chỉ huy. Quả bom dường như phát nổ ngay trên sàn đáp, gây ra một đám cháy lớn, nhưng được quan sát thấy tắt dần sau khoảng 15 phút.
Thiệt hại của Hornet trong đợt tấn công buổi chiều của không quân Nhật. Lúc 16 giờ 23 phút, một quả ngư lôi chạy nông trúng mạn phải của tàu tại khung 115. Vụ nổ làm ngập ngay phòng máy phía sau và triệt tiêu hoàn toàn mọi khả năng khôi phục động lực trên Hornet. Con tàu bắt đầu nghiêng dần, đến 16 giờ 40 phút đã nghiêng 14,5° về mạn phải. Cùng lúc đó, đợt tấn công ném bom bổ nhào mà người ta đã dự đoán xảy ra. May mắn chỉ có các quả bom nổ gần, dù một quả làm con tàu chấn động dữ dội. Lúc 16 giờ 55 phút, một quả bom trúng góc đuôi mạn phải của sàn bay; các quả còn lại nổ gần với khoảng cách rất sát nhau đến mức trông như chỉ một cột nước khổng lồ. Lúc 18 giờ 02 phút, có thêm một quả bom trúng sàn bay ngay phía trước đảo chỉ huy. Quả bom dường như phát nổ ngay trên sàn đáp, gây ra một đám cháy lớn, nhưng được quan sát thấy tắt dần sau khoảng 15 phút.
Khi con tàu nghiêng đến 20 độ, thuyền trưởng của Hornet ra lệnh cho thủy thủ đoàn rời tàu. Khi quá trình này đang diễn ra, 6 chiếc Type 97 mang bom của Zuikaku xuất hiện trên cao ở độ cao 8.000 feet vào lúc 15 giờ 55 phút. Chỉ một quả bom trúng đích; nó đánh vào sàn bay phía sau nhưng gây ít thiệt hại. Các đợt không kích của JunyoZuikaku quay về từ 13 giờ 20 phút đến 14 giờ. Nhiều máy bay bị hư hại và các phi công kiệt sức cả thể chất lẫn tinh thần sau khi bay hai phi vụ trong điều kiện kháng cự cực kỳ dữ dội, nơi mà phần lớn đồng đội của họ không bao giờ trở lại. Thuyền trưởng của Zuikaku quyết định rằng ông không thể thực hiện thêm một đợt tấn công thứ tư. Trái lại, Kakuta – chỉ huy táo bạo hơn trên Junyo – vẫn thúc ép cấp dưới và ra lệnh một đợt tấn công cuối cùng trước hoàng hôn bằng mọi máy bay còn có thể sử dụng được. Đợt tấn công cuối này bao gồm 6 chiếc Zero và 4 máy bay ném bom bổ nhào Type 99, được phóng lúc 15 giờ 35 phút và tìm thấy Hornet hơn một giờ sau đó. Chỉ một trong bốn máy bay ném bom trúng tàu sân bay đang nằm bất động; quả bom xuyên qua sàn bay và phát nổ tại boong chứa máy bay, gây ra một đám cháy. Hornet, giờ đây đã bị bỏ lại và bốc cháy dữ dội, đã đến hồi kết định sẵn của mình.
Lực lượng Tiến công quan sát thấy các tia chớp từ loạt pháo của các tàu khu trục USS Mustin và USS Anderson vào lúc 20 giờ 35 phút, khi các tàu Mỹ đang thực hiện mệnh lệnh đánh chìm tàu sân bay Hornet để tránh bị địch bắt giữ. Đô đốc Kondō lập tức ra lệnh cho một số tàu khu trục truy đuổi và tiêu diệt các tàu Mỹ đang rút lui. Đến 22 giờ 14 phút, các đơn vị tiên phong của lực lượng Nhật đã tiếp cận khu vực nơi Hornet bị bỏ lại. Tàu sân bay khi đó nghiêng 45 độ về mạn trái và bốc cháy dữ dội. Sau khi Kondō chấm dứt việc truy kích người Mỹ, hai tàu khu trục Akigumo và Makigumo quay trở lại vị trí của Hornet vào khoảng 22 giờ để kiểm tra xem liệu con tàu có thể được cứu vớt hay không. Sau khi khảo sát, phía Nhật kết luận việc trục vớt là bất khả thi và xác định danh tính con tàu nhờ vào số hiệu “8” nhỏ in trên mạn tàu (tàu Hornet không mang số hiệu trên sàn bay). Cả Akigumo và Makigumo sau đó mỗi tàu phóng hai quả ngư lôi nhằm kết liễu con tàu như hình minh họa trên đây . Cả bốn quả ngư lôi đều trúng đích, và tàu sân bay USS Hornet (CV-8) cuối cùng chìm lúc 01 giờ 35 phút rạng sáng hôm sau. (Tranh của Howard Gerrard)
Lực lượng Tiến công quan sát thấy các tia chớp từ loạt pháo của các tàu khu trục USS Mustin và USS Anderson vào lúc 20 giờ 35 phút, khi các tàu Mỹ đang thực hiện mệnh lệnh đánh chìm tàu sân bay Hornet để tránh bị địch bắt giữ. Đô đốc Kondō lập tức ra lệnh cho một số tàu khu trục truy đuổi và tiêu diệt các tàu Mỹ đang rút lui. Đến 22 giờ 14 phút, các đơn vị tiên phong của lực lượng Nhật đã tiếp cận khu vực nơi Hornet bị bỏ lại. Tàu sân bay khi đó nghiêng 45 độ về mạn trái và bốc cháy dữ dội. Sau khi Kondō chấm dứt việc truy kích người Mỹ, hai tàu khu trục Akigumo và Makigumo quay trở lại vị trí của Hornet vào khoảng 22 giờ để kiểm tra xem liệu con tàu có thể được cứu vớt hay không. Sau khi khảo sát, phía Nhật kết luận việc trục vớt là bất khả thi và xác định danh tính con tàu nhờ vào số hiệu “8” nhỏ in trên mạn tàu (tàu Hornet không mang số hiệu trên sàn bay). Cả Akigumo và Makigumo sau đó mỗi tàu phóng hai quả ngư lôi nhằm kết liễu con tàu như hình minh họa trên đây . Cả bốn quả ngư lôi đều trúng đích, và tàu sân bay USS Hornet (CV-8) cuối cùng chìm lúc 01 giờ 35 phút rạng sáng hôm sau. (Tranh của Howard Gerrard)
Sau cuộc tấn công đường không cuối cùng của Nhật Bản, tàu khu trục Mustin được lệnh đánh chìm Hornet trong khi phần còn lại của TF 17 rút về hướng đông với tốc độ 27 hải lý/giờ. Mustin phóng tám ngư lôi và bốn quả được ghi nhận là đã phát nổ. Tuy nhiên, những quả này không mang lại hiệu quả mong muốn, nên tàu khu trục Anderson tiếp tục phóng thêm ngư lôi vào con tàu bị tàn phế. Sáu trong số tám quả ngư lôi của Anderson phát nổ, nhưng ngay cả sau đòn tấn công cỡ này này, thì Hornet vẫn chưa chịu chìm. Tiếp đó, hai tàu khu trục nã vào con tàu 430 quả đạn pháo 5 inch. Cơn bão lửa này bao trùm toàn bộ chiều dài con tàu, nhưng nó vẫn nổi. Không muốn bị lực lượng Nhật đang áp sát bắt gặp, hai tàu khu trục rời khỏi khu vực lúc 20 giờ 30 phút. Chỉ khoảng 30 phút sau, các tàu khu trục MakigumoAkigumo của Nhật tới nơi và phát hiện Hornet đang nghiêng 45 độ và bị ngọn lửa nuốt trọn. Khi việc cứu vớt rõ ràng là không thể, hai tàu khu trục Nhật phóng hai quả ngư lôi mỗi chiếc vào xác tàu đang bốc cháy. Hornet cuối cùng chìm lúc 01 giờ 35 phút sáng hôm sau, trở thành tàu sân bay hạm đội cuối cùng của Mỹ bị mất trong chiến tranh.

THỐNG KÊ TỔN THẤT

Cảnh các thủy thủ đoàn tàu Enterprise tiến hành lễ an táng trên biển cho 44 thủy thủ thiệt mạng trong trận chiến Santa Cruz vào ngày 27 tháng 10 năm 1942.
Cảnh các thủy thủ đoàn tàu Enterprise tiến hành lễ an táng trên biển cho 44 thủy thủ thiệt mạng trong trận chiến Santa Cruz vào ngày 27 tháng 10 năm 1942.
Người Nhật đã sẵn sàng nối lại trận chiến vào ngày 27 tháng 10, nhưng các cuộc trinh sát đường không của họ không phát hiện được gì, và đến ngày 30 tháng 10, Hạm đội Liên hợp quay trở lại Truk. Lần đầu tiên — và cũng là lần cuối cùng trong chiến tranh — Người Nhật là bên chiến thắng rõ ràng trong một trận đánh tàu sân bay. Họ tin rằng mình đã giành được một chiến thắng quyết định và tuyên bố đã đánh chìm ba tàu sân bay, một thiết giáp hạm, một tàu tuần dương, một tàu khu trục, và một tàu chiến lớn không xác định. Mặc dù những tuyên bố này có phần phóng đại hơn thường lệ, tổn thất thực tế của Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ vẫn là rất lớn. Tàu sân bay Hornet và tàu khu trục Porter bị đánh chìm; tàu sân bay Enterprise bị hư hại, cùng với South Dakota, San Juan, và các tàu khu trục SmithMahan. Tổng cộng 80 máy bay Mỹ bị mất vì mọi nguyên nhân.
Ngược lại, không có tàu Nhật nào bị đánh chìm, nhưng ba chiếc bị hư hại. Zuiho trở lại phục vụ vào tháng 12, Chikuma vào tháng 2 năm 1943, nhưng việc sửa chữa Shokaku lại kéo dài hơn nhiều. Con tàu này bỏ lỡ phần còn lại của chiến dịch Guadalcanal và không quay lại hạm đội cho đến tháng 3 năm 1943. Quan trọng hơn cả là tổn thất máy bay và phi hành đoàn của Nhật là cực kỳ nghiêm trọng. Trong 203 máy bay có sẵn khi bắt đầu trận đánh, chỉ một nửa là còn sống sót. Các máy bay cường kích là chịu thiệt hại nặng nhất; 41 trong số 63 máy bay ném bom bổ nhào và 30 trong số 57 máy bay ném ngư lôi Type 97 bị tiêu diệt. Lần đầu tiên, lực lượng CAP và hệ thống phòng không hạm đội đã gây ra thiệt hại gần như ngang nhau cho phía Nhật. Trận Santa Cruz là một bước quan trọng trong quá trình tiêu diệt đội ngũ phi công được huấn luyện trước chiến tranh của IJN. Chỉ trong một ngày, người Nhật đã mất 145 thành viên phi hành đoàn, bao gồm 68 phi công và 77 quan sát viên. Trong số này, 23 người là chỉ huy biên đội, chỉ huy phi đội, hoặc chỉ huy không đoàn.
Sau trận Santa Cruz, người Nhật đã thực hiện một nỗ lực lớn nhằm vô hiệu hóa Sân bay Henderson và tăng cường quân đồn trú của họ trên Guadalcanal. Nỗ lực này bị đánh bại dứt khoát, một phần là do máy bay từ Enterprise. Trong ảnh là một trong các tàu vận tải – Kinugawa Maru – bị mất trong chiến dịch này. (NHHC)
Sau trận Santa Cruz, người Nhật đã thực hiện một nỗ lực lớn nhằm vô hiệu hóa Sân bay Henderson và tăng cường quân đồn trú của họ trên Guadalcanal. Nỗ lực này bị đánh bại dứt khoát, một phần là do máy bay từ Enterprise. Trong ảnh là một trong các tàu vận tải – Kinugawa Maru – bị mất trong chiến dịch này. (NHHC)
Chiến dịch Guadalcanal vẫn chưa được định đoạt cho đến tháng 11, khi Halsey huy động mọi phương tiện sẵn có để tiêu diệt một đoàn tàu vận tải lớn của Nhật đang hướng đến hòn đảo. Trong trận chiến quyết định này, Enterprise đóng vai trò chủ chốt cùng với không quân của Thủy quân Lục chiến và Hải quân Mỹ xuất phát từ Henderson Field. Yamamoto, vốn tin tưởng rằng ông đã tiêu diệt hoàn toàn lực lượng tàu sân bay Mỹ tại Santa Cruz, đã gửi Zuikaku trở về Nhật Bản cho đến tháng 1 năm 1943. HiyoJunyo vẫn ở lại Truk, nhưng không thể cung cấp bảo vệ đường không cho đoàn vận tải lớn, cũng như không thể vô hiệu hóa Sân bay Henderson. Yamamoto đã không thể tận dụng thắng lợi tại Santa Cruz, và những tổn thất chịu đựng trong chiến dịch quần đảo Solomon gây thiệt hại đến mức lực lượng tàu sân bay Nhật không thể sẵn sàng cho một trận đánh lớn cho đến giữa năm 1944. Khi trận chiến đó cuối cùng diễn ra, nó sẽ được đánh trong những điều kiện hoàn toàn khác so với bốn trận đánh tàu sân bay của năm 1942.
PHẦN 4:
PHẦN 6: