Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay Tốc độ cao (vào thời điểm thuộc Hạm đội 3 thì lực lượng có tên là Task Force 58 - TF 58) neo đậu tại đảo san hô Majuro thuộc quần đảo Marshall, vào tháng 4 năm 1944. Có thể thấy (trong số nhiều tàu khác) ba tàu sân bay hạng nhẹ lớp Independence, bốn tàu sân bay lớp Essex, USS Enterprise (CV-6, phía trước bên phải), một thiết giáp hạm lớp South Dakota và hai thiết giáp hạm lớp Iowa. Vào tháng 6 năm 1944, TF 58 là hạm đội hải quân mạnh mẽ nhất thế giới bấy giờ. (National Archives and Records Administration)
Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay Tốc độ cao (vào thời điểm thuộc Hạm đội 3 thì lực lượng có tên là Task Force 58 - TF 58) neo đậu tại đảo san hô Majuro thuộc quần đảo Marshall, vào tháng 4 năm 1944. Có thể thấy (trong số nhiều tàu khác) ba tàu sân bay hạng nhẹ lớp Independence, bốn tàu sân bay lớp Essex, USS Enterprise (CV-6, phía trước bên phải), một thiết giáp hạm lớp South Dakota và hai thiết giáp hạm lớp Iowa. Vào tháng 6 năm 1944, TF 58 là hạm đội hải quân mạnh mẽ nhất thế giới bấy giờ. (National Archives and Records Administration)

CHƯƠNG 8. TRẬN HẢI CHIẾN BIỂN PHILIPPINE

Midway có lẽ là trận đánh tàu sân bay nổi tiếng nhất trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Trận Biển San Hô giữ vị trí độc đáo của nó với tư cách là trận đánh tàu sân bay đầu tiên. Tuy nhiên, so sánh với đó, trận đánh tàu sân bay lớn nhất trong chiến tranh – trận hải chiến Biển Philippine diễn ra vào tháng 6 năm 1944 – lại phần nào bị lãng quên. Trận đánh tàu sân bay thứ năm trong Chiến tranh Thái Bình Dương rõ ràng là trận lớn nhất với 15 tàu sân bay hạm đội và hạng nhẹ phía Mỹ, và 9 chiếc của phía Nhật Bản. Xét theo sự phát triển của chiến tranh hải quân và hệ thống vũ khí, thật khó hình dung rằng một trận đánh tàu sân bay quy mô như vậy sẽ còn xảy ra một lần nữa. Trận đánh tàu sân bay bắt nguồn từ cuộc đổ bộ của Mỹ vào quần đảo Mariana là yếu tố trung tâm của cuộc đụng độ hải quân lớn thứ hai trong Thế chiến II.
Quy mô của lực lượng đổ bộ là vô cùng to lớn: người Mỹ huy động khoảng 535 tàu để chở và bảo vệ một lực lượng mặt đất hơn 127.500 quân. Hạm đội đổ bộ bao gồm khoảng 165 tàu chiến và gần 900 máy bay từ Lực lượng Đặc nhiệm 58, được hỗ trợ thêm bởi 170 máy bay trên bảy tàu sân bay hộ tống. Phía Nhật mang đến hơn 50 tàu chiến, hơn 400 máy bay trên tàu sân bay, và hơn 300 máy bay bố trí trên đất liền cho trận đánh. Lực lượng có quy mô như vậy chưa từng xuất hiện trước đây trong bất kỳ trận hải chiến nào ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau, cả hai bên sẽ còn tập hợp các hạm đội lớn hơn nữa để tham chiến trong trận vịnh Leyte – một lý do khác khiến trận Biển Philippine bị lu mờ.
Tương quan lực lượng hai bên
Tương quan lực lượng hai bên
Một lý do nữa khiến trận Biển Philippine ít được chú ý là vì kết quả của nó. Như được trình bày trong bảng “Tương quan lực lượng”, Hải quân Mỹ bước vào trận với ưu thế áp đảo trong hầu hết các hạng mục. Tuy nhiên, các con số không thể hiện được ưu thế về chất lượng của phía Mỹ. Do đó, kết quả trận đánh gần như không có gì phải nghi ngờ, và bản thân trận đánh cũng thiếu những chuyển biến kịch tính như trong các trận đánh tàu sân bay trước đó.
Trận đánh này đã mang tính định trước. Spruance tiến hành một trận đánh thận trọng, không để phía Nhật có cơ hội khai thác bất kỳ sai sót nào từ phía Mỹ. Bất chấp nỗ lực mạnh mẽ của phía Nhật nhằm chuẩn bị và lên kế hoạch cho một trận đánh quyết định, năng lực của lực lượng tàu sân bay Nhật giờ đã quá yếu kém đến mức một chiến thắng cho họ gần như là điều không tưởng. Dĩ nhiên, đánh giá này được đưa ra dưới ánh sáng của nhận thức hậu kỳ. Người Nhật chắc chắn tin rằng họ có thể giành chiến thắng và đã cố gắng tạo điều kiện để đạt được điều đó. Vấn đề đối với Hải quân Đế quốc Nhật Bản là chiến thuật và lực lượng từng được sử dụng trong các trận đánh tàu sân bay năm 1942 không còn cơ hội chống lại hạm đội tàu sân bay Mỹ năm 1944. Kết quả là trận đánh có tính quyết định nhất trong số các trận đánh tàu sân bay của chiến tranh – nhưng không phải như cách mà người Nhật hình dung. Trận đánh mang tính quyết định – người Mỹ chiếm được quần đảo Mariana, qua đó mở đường cho các cuộc ném bom tầm xa vào Nhật Bản, và trong quá trình đó đã tiêu diệt lực lượng tàu sân bay Nhật như một đơn vị tác chiến khả dĩ cho phần còn lại của cuộc chiến.
Mặc dù phần lớn các tàu sân bay Nhật sống sót sau trận đánh, nhưng máy bay và phi công của họ thì không. Khi người Mỹ đổ bộ vào Philippines vào tháng 10 năm 1944, phía Nhật đã không thể tái xây dựng lại lực lượng tàu sân bay của mình. Kế hoạch tuyệt vọng và thiếu sáng suốt của Nhật trong trận vịnh Leyte đã dẫn đến việc Hải quân Đế quốc gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, khép lại vòng xoáy diệt vong vốn đã bắt đầu từ trận hải chiến Biển Philippine.

MẶT TRẬN PHỤ Ở BIAK

Vào ngày 27 tháng 5 năm 1944, Sư đoàn Bộ binh 41 Mỹ đổ bộ lên đảo Biak. Cuộc đổ bộ này mở ra các trận giao tranh với Trung đoàn Bộ binh 222 của Nhật Bản, kéo dài trong suốt các tháng 6 và 7. Các hoạt động truy quét, tiêu diệt tàn quân tiếp tục diễn ra cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Vào ngày 27 tháng 5 năm 1944, Sư đoàn Bộ binh 41 Mỹ đổ bộ lên đảo Biak. Cuộc đổ bộ này mở ra các trận giao tranh với Trung đoàn Bộ binh 222 của Nhật Bản, kéo dài trong suốt các tháng 6 và 7. Các hoạt động truy quét, tiêu diệt tàn quân tiếp tục diễn ra cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Một trong những lý do dẫn đến cơ cấu chỉ huy Mỹ bị chia tách tại Thái Bình Dương giữa Nimitz và MacArthur là quan niệm rằng việc tiến công theo hai trục sẽ khiến Nhật Bản bị phân tán và mất thế chủ động. Cuộc đổ bộ lên đảo Biak trong giai đoạn ngay trước khi quân Mỹ đổ bộ lên Saipan là một trong số ít trường hợp mà điều này thực sự xảy ra. Biak là một hòn đảo lớn nằm ngoài khơi mũi phía tây của New Guinea. Năm 1943, người Nhật xác định đây là một vị trí bắt buộc phải giữ. Nếu người Mỹ có thể xây dựng sân bay tại đây, họ sẽ có khả năng không kích Palau và khiến các lực lượng mặt nước của Nhật gặp khó khăn nghiêm trọng trong việc tiến hành Chiến dịch A-Go.
Ngày 27 tháng 5, quân Mỹ đổ bộ một sư đoàn Lục quân lên đảo. Nhật Bản lập tức phản ứng bằng cách tăng cường sức mạnh của Không đoàn 23, đơn vị Không quân Căn cứ chịu trách nhiệm tác chiến trong khu vực, từ 16 lên tới 200 máy bay. Số máy bay này được điều động từ Nhật Bản và Philippine, và chính là các đơn vị đã được dự kiến dành cho A-Go. Người Nhật cũng lên kế hoạch cho một cuộc phản đổ bộ lên Biak với mật danh Chiến dịch KON. Tuy nhiên, Ozawa từ chối giao nhiệm vụ cho Hạm đội Cơ động Thứ Nhất, nên các lực lượng khác được chắp vá lại và điều xuống Davao ở miền nam Philippine. Nỗ lực đầu tiên nhằm đưa quân tiếp viện tới đảo bắt đầu vào ngày 31 tháng 5, và đến ngày 3 tháng 6, đội tàu vận tải Nhật đã bị các máy bay ném bom B-24 của Mỹ phát hiện và theo dõi. Việc mất yếu tố bất ngờ buộc Toyoda phải hủy bỏ chiến dịch ngay trong ngày hôm đó.
Một nỗ lực khác được tiến hành bắt đầu từ ngày 7 tháng 6. Ngày hôm sau, sáu tàu khu trục chở quân bị các máy bay B-25 của Mỹ tấn công; một chiếc bị đánh chìm và ba chiếc khác bị hư hại nhẹ, nhưng người Nhật vẫn tiếp tục hướng về Biak. Một lực lượng tàu tuần dương của phe Đồng Minh đã phát hiện đội hình Nhật trong đêm đó. Người Nhật rút lui, và sau một cuộc truy đuổi từ phía sau kéo dài hai giờ, các tàu khu trục còn lại đã thoát được.
Ozawa quyết định thực hiện thêm một nỗ lực nữa nhằm đưa quân tới Biak, và lần thứ ba này được hoạch định với quy mô lớn hơn nhiều so với hai lần trước. Để hỗ trợ cho nỗ lực tiếp theo, các siêu thiết giáp hạm YamatoMusashi được tách khỏi Hạm đội Cơ động Thứ Nhất và điều đi tham gia KON. Đến tối ngày 11 tháng 6, các lực lượng cho lần xuất phát tiếp theo đã tập kết tại một khu neo đậu ở Halmahera. Đây cũng chính là ngày mà máy bay của TF 58 tấn công Guam và Saipan. Toyoda đình chỉ KON và ra lệnh cho các thiết giáp hạm quay lên phía bắc để tái nhập Hạm đội Cơ động Thứ Nhất. Không đoàn 23 được chuyển sang Palau.
Sự kiện Biak có ý nghĩa quan trọng vì nhiều lý do. Trên nhiều phương diện, đây là một cuộc tổng diễn tập cho A-Go. Sự kiện này cho thấy những khó khăn mà Nhật Bản sẽ gặp phải trong việc cơ động một lực lượng mặt nước kịp thời để can thiệp vào một cuộc đổ bộ của phe Đồng Minh. Trước khả năng tình báo của Đồng Minh, việc làm điều đó mà không bị phát hiện là bất khả thi, đồng nghĩa với việc không thể đạt được yếu tố bất ngờ ở cấp chiến lược, chiến dịch hay thậm chí là chiến thuật. Quan trọng hơn cả, sự kiện này cho thấy sự kém hiệu quả của không quân trên đất liền của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Người Nhật gặp khó khăn trong việc tập trung sức mạnh không quân căn cứ mặt đất tại điểm quyết định, và ngay cả khi làm được điều đó, kết quả vẫn hết sức mờ nhạt. Trong ba cuộc tấn công nhằm vào lực lượng hải quân Đồng Minh không có yểm trợ tiêm kích phòng không gần Biak trong khoảng từ ngày 2 đến 4 tháng 6, 129 máy bay Nhật đã không thể ghi được một cú đánh trúng nào. Đây là một dấu hiệu rõ ràng về tình trạng huấn luyện của các đơn vị không quân căn cứ mặt đất của IJN. Sự kiện Biak cũng khiến Không quân Căn cứ bị bố trí sai vị trí khi TF 58 xuất hiện ngoài khơi quần đảo Mariana vào ngày 11 tháng 6.

NHỮNG ĐỘNG THÁI ĐẦU TIÊN

Những chuyển động phức tạp của cuộc xâm lược quần đảo Mariana bắt đầu vào tuần cuối của tháng 5, khi các bộ phận của hạm đội đổ bộ rời Hawaii và tiến về các khu vực tập kết chính tại quần đảo Marshall. Ngày 7 tháng 6, Spruance đến Eniwetok thuộc quần đảo Marshall và triệu tập toàn bộ các chỉ huy chủ chốt của mình để tham dự một hội nghị hoạch định cuối cùng, tại đó ông xem xét lại các kế hoạch của những chỉ huy lực lượng đặc nhiệm trực thuộc.
Ngay trước khi trận đánh diễn ra, TF 58 đang neo đậu tại căn cứ hạm đội mới ở Majuro. Lực lượng này rời Majuro ngày 6 tháng 6 và tiến hành tiếp dầu vào hai ngày sau đó. Ngày 8 tháng 6, các thiết giáp hạm của TG 58.7 được tái hợp vào bốn nhóm tàu sân bay. Trinh sát đường không của Nhật Bản quả thực đã cung cấp được một khung thông tin cơ bản về hoạt động của Hải quân Mỹ: các chuyến bay trinh sát trên Majuro ghi nhận TF 58 vẫn hiện diện tại đây vào ngày 5 tháng 6, và một chuyến bay ngày 9 tháng 6 quan sát thấy các tàu sân bay trước đó neo đậu tại Majuro đã rời đi. Tuy nhiên, chúng không xác định được vị trí của lực lượng này cho đến hai ngày sau, khi TF 58 bắt đầu các cuộc không kích vào Guam và Saipan.

TIÊU DIỆT SỨC MẠNH KHÔNG QUÂN MẶT ĐẤT CỦA NHẬT BẢN

Tình hình chiến lược vào tháng 6 năm 1944.
Tình hình chiến lược vào tháng 6 năm 1944.
Chiến dịch Forager là một chiến dịch khổng lồ, với lực lượng di chuyển từ ba khu vực chính hướng tới mục tiêu cuối cùng là Saipan. Đây là chiến dịch lớn nhất của Mỹ tại Thái Bình Dương tính đến thời điểm đó. Chiến dịch bắt đầu triển khai vào cuối tháng 5, khi phần lớn hạm đội đổ bộ rời Hawaii tiến đến khu tập kết chính tại quần đảo Marshall. Đô đốc Spruance tổ chức hội nghị hoạch định cuối cùng với các chỉ huy chủ chốt tại Enewetak Atoll vào ngày 7 tháng 6. Khi cuộc họp này diễn ra, Lực lượng Đặc nhiệm 58 (TF 58) đã lên đường. Sau một thời gian nghỉ ngắn tại căn cứ neo đậu mới ở Majuro (Marshall), TF 58 rời đi ngày 6 tháng 6 và tiếp dầu hai ngày sau đó.
Người Nhật không có thông tin cụ thể nào về chiến dịch sắp tới, và nỗ lực trinh sát trên không của họ không thể lấp đầy khoảng trống tình báo. Một chuyến bay trinh sát của Nhật trên bầu trời Majuro ngày 5 tháng 6 xác nhận sự hiện diện của TF 58; đến ngày 9 tháng 6, nhiệm vụ trinh sát tiếp theo phát hiện các tàu sân bay đã rời đi. Đáng kinh ngạc là TF 58 vẫn không bị phát hiện cho đến sáng ngày 11 tháng 6, khi xuất hiện ngoài khơi quần đảo Mariana. Chiến dịch A-Go của Nhật đã có một khởi đầu tồi tệ.
Ngày 11 tháng 6, TF 58 bắt đầu chiến dịch tiêu diệt hoàn toàn lực lượng không quân trên bộ của Nhật Bản tại quần đảo Mariana. Bức ảnh này được chụp từ một máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless vừa cất cánh từ tàu sân bay Lexington vào ngày 13 tháng 6. (Naval History and Heritage Command - NHHC)
Ngày 11 tháng 6, TF 58 bắt đầu chiến dịch tiêu diệt hoàn toàn lực lượng không quân trên bộ của Nhật Bản tại quần đảo Mariana. Bức ảnh này được chụp từ một máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless vừa cất cánh từ tàu sân bay Lexington vào ngày 13 tháng 6. (Naval History and Heritage Command - NHHC)
Cuộc không kích đầu tiên của tàu sân bay Mỹ vào quần đảo Mariana được tiến hành vào ngày 23 tháng 2 năm 1944. Trong bức ảnh này, các máy bay Nhật đang cháy trên một sân bay ở Saipan; có thể nhận diện cả tiêm kích Zero và máy bay ném bom hạng trung G4M. Trước cuộc đổ bộ vào quần đảo Mariana vào tháng 6, TF-58 đã tiến hành một chiến dịch thành công nhằm làm suy yếu sức mạnh không quân Nhật Bản đóng trên đất liền. (NHHC)
Cuộc không kích đầu tiên của tàu sân bay Mỹ vào quần đảo Mariana được tiến hành vào ngày 23 tháng 2 năm 1944. Trong bức ảnh này, các máy bay Nhật đang cháy trên một sân bay ở Saipan; có thể nhận diện cả tiêm kích Zero và máy bay ném bom hạng trung G4M. Trước cuộc đổ bộ vào quần đảo Mariana vào tháng 6, TF-58 đã tiến hành một chiến dịch thành công nhằm làm suy yếu sức mạnh không quân Nhật Bản đóng trên đất liền. (NHHC)
Để tận dụng yếu tố bất ngờ rõ rệt này, phía Mỹ quyết định tiến hành sớm các đợt không kích mở màn nhằm vào các sân bay Nhật ở quần đảo Mariana trước một ngày. Thay vì ngày 12 tháng 6 như kế hoạch, các đợt tấn công bắt đầu từ sáng 11 tháng 6. Buổi sáng hôm đó trời quang đãng, không có gì che khuất TF 58 trên hành trình cuối cùng hướng tới Mariana. Một vài máy bay Nhật bị CAP bắn hạ cũng quanh TF 58, nhưng qua liên lạc vô tuyến, rõ ràng người Mỹ đã bị phát hiện. Đến 13 giờ, TF 58 ở vị trí cách Guam khoảng 200 hải lý về phía đông. Từ trên boong của 15 tàu sân bay, 208 chiếc Hellcat và 8 chiếc Avenger được phóng lên để tấn công Guam, Saipan và Tinian. Trên Saipan và Tinian, lực lượng phòng không đối phương kháng cự dữ dội. Các phi công Hellcat tuyên bố đã tiêu diệt 86 máy bay Nhật trên không và 33 chiếc trên mặt đất, đổi lại mất 11 chiếc Hellcat. Tuy nhiên, hồ sơ của người Nhật cho thấy con số thực tế thấp hơn nhiều – có thể chỉ có 36 chiếc bị mất.
Phản ứng ban đầu của người Nhật trước cuộc tấn công dữ dội này khá yếu ớt. Rạng sáng ngày 12 tháng 6, TF 58 bị tấn công bởi khoảng 10 máy bay ném ngư lôi G4M xuất phát từ Truk. Những chiếc này dùng pháo sáng để nhận diện mục tiêu trong đêm tối, song không chiếc tàu Mỹ nào bị trúng ngư lôi. Sự kiện chính trong ngày là khi TG 58.4 phát hiện và tấn công một đoàn vận tải lớn của Nhật cách Saipan khoảng 160 hải lý về phía tây bắc. Nhiều đợt không kích đã đánh chìm 1 tàu phóng ngư lôi, 3 tàu săn ngầm, và 10 tàu hàng.
Chiếc máy bay Model 22 (G4M2) đời đầu '01-322' thuộc Không đoàn 755 (755th Kokutai) cố gắng thoát khỏi sự truy đuổi của các máy bay tiêm kích Hải quân Mỹ bằng cách bổ nhào xuống biển ở Trung tâm Thái Bình Dương vào tháng 5 hoặc tháng 6 năm 1944. Các Model 22 mới cuối cùng đã bắt đầu đến các đơn vị chiến đấu vào đầu năm 1944, nhưng vào thời điểm này, ưu thế của Mỹ về cả nhân lực và khí tài đã áp đảo đến mức loại máy bay G4M này có ít tác động trong vai trò tấn công truyền thống của nó, vì vậy mà chúng cũng không thể hỗ trợ nhiều, bị tiêu diệt tại các căn cứ bởi máy bay tàu sân bay Mỹ trước khi trận chiến chính diễn ra. (National Archives qua James E. Lansdale).
Chiếc máy bay Model 22 (G4M2) đời đầu '01-322' thuộc Không đoàn 755 (755th Kokutai) cố gắng thoát khỏi sự truy đuổi của các máy bay tiêm kích Hải quân Mỹ bằng cách bổ nhào xuống biển ở Trung tâm Thái Bình Dương vào tháng 5 hoặc tháng 6 năm 1944. Các Model 22 mới cuối cùng đã bắt đầu đến các đơn vị chiến đấu vào đầu năm 1944, nhưng vào thời điểm này, ưu thế của Mỹ về cả nhân lực và khí tài đã áp đảo đến mức loại máy bay G4M này có ít tác động trong vai trò tấn công truyền thống của nó, vì vậy mà chúng cũng không thể hỗ trợ nhiều, bị tiêu diệt tại các căn cứ bởi máy bay tàu sân bay Mỹ trước khi trận chiến chính diễn ra. (National Archives qua James E. Lansdale).
Những nỗ lực của Phó đô đốc Mitscher nhằm vô hiệu hóa không quân Nhật ở Mariana vẫn không ngừng nghỉ. Ba nhóm tàu sân bay thuộc TF 58 tiếp tục oanh kích sân bay và các cơ sở khác trên Saipan và Tinian trong hai ngày 12–13 tháng 6. Trong ngày 12, tổng cộng có 1.472 phi vụ chiến đấu, với 31 máy bay Mỹ bị mất do mọi nguyên nhân và 76 chiếc bị hư hại. Nhóm TG 58.1 tập trung tấn công Guam trong thời gian này. Đến cuối ngày 13 tháng 6, phía Mỹ đánh giá rằng không quân mặt đất Nhật ở Mariana đã bị vô hiệu hóa. Cường độ tấn công giảm xuống trong hai ngày 14 - 15 tháng 6 khi hai nhóm tàu sân bay di chuyển lên phía bắc để oanh kích Chichi Jima và Iwo Jima, trong khi hai nhóm còn lại tranh thủ tiếp dầu.
Một máy bay chiến đấu F6F "Hellcat" sẵn sàng cất cánh trên tàu USS Lexington (CV-16) trong các cuộc không kích Marianas của TF 58 vào ngày 13 tháng 6 năm 1944. Bên cạnh con tàu là thiết giáp hạm USS North Carolina, tàu USS Enterprise, một tàu sân bay lớp Independence và một thiết giáp hạm khác của TG 58.3 ở phía xa.
Một máy bay chiến đấu F6F "Hellcat" sẵn sàng cất cánh trên tàu USS Lexington (CV-16) trong các cuộc không kích Marianas của TF 58 vào ngày 13 tháng 6 năm 1944. Bên cạnh con tàu là thiết giáp hạm USS North Carolina, tàu USS Enterprise, một tàu sân bay lớp Independence và một thiết giáp hạm khác của TG 58.3 ở phía xa.
Tối ngày 15 tháng 6, người Nhật tiến hành một cuộc không kích quy mô nhỏ từ Guam vào TF 58 lúc hoàng hôn. Các phi công Hellcat thuộc TG 58.3 tuyên bố bắn rơi 7 máy bay Nhật, số còn lại rút lui không tiếp tục tấn công. Một nhóm lớn hơn xuất phát từ đảo Yap (thuộc quần đảo Caroline) tấn công TG 58.3 sau khi trời tối. Cuộc tấn công này bị hai tiêm kích ban đêm Hellcat phá vỡ; chỉ khoảng một tá máy bay ném ngư lôi Nhật tiếp tục được phóng ra, nhưng không quả ngư lôi nào đánh trúng mục tiêu.
Một trong những trụ cột của Chiến dịch A-Go là giả định rằng lực lượng không quân trên bộ của Nhật Bản sẽ gây tổn thất nặng cho TF 58. Giả định này hóa ra hoàn toàn sai lầm. Trong bức ảnh này, một chiếc máy bay Nhật đang bốc cháy — có lẽ là G4M từ Truk — đang lao xuống phía sau tàu Lexington vào buổi tối ngày 15 tháng 6. (NHHC)
Một trong những trụ cột của Chiến dịch A-Go là giả định rằng lực lượng không quân trên bộ của Nhật Bản sẽ gây tổn thất nặng cho TF 58. Giả định này hóa ra hoàn toàn sai lầm. Trong bức ảnh này, một chiếc máy bay Nhật đang bốc cháy — có lẽ là G4M từ Truk — đang lao xuống phía sau tàu Lexington vào buổi tối ngày 15 tháng 6. (NHHC)
Ngay cả khi rõ ràng rằng hạm đội Nhật đang hướng về Mariana, Spruance và Mitscher vẫn không thay đổi kế hoạch oanh kích Chichi Jima và Iwo Jima. TG 58.1 và 58.4 tiếp dầu ngày 14 tháng 6 và tiến lên phía bắc, do Chuẩn đô đốc Clark – người chủ động – dẫn đầu, còn Chuẩn đô đốc Harrill thì miễn cưỡng đi theo. Các đợt tấn công vào sân bay Nhật bắt đầu vào chiều 15 tháng 6. Phía Nhật phòng thủ mạnh mẽ với khoảng 100 máy bay trên Iwo Jima; 37 chiếc Zero đã ở trên không khi phi đội Mỹ đến, nhưng 28 chiếc bị Hellcat bắn hạ. Thêm 7 máy bay Nhật bị phá hủy trên mặt đất, trong khi Mỹ chỉ mất 2 chiếc.
Các máy bay F6F-3 của phi đội trên USS Essex đang chuẩn bị bắt đầu nhiệm vụ tấn công đảo Iwo Jima vào tháng 6 năm 1944. Chiếc máy bay phía trước là "The Mins", do David McCampbell điều khiển.
Các máy bay F6F-3 của phi đội trên USS Essex đang chuẩn bị bắt đầu nhiệm vụ tấn công đảo Iwo Jima vào tháng 6 năm 1944. Chiếc máy bay phía trước là "The Mins", do David McCampbell điều khiển.
Thời tiết xấu đã ngăn cản các phi vụ vào sáng ngày 16 tháng 6, nhưng khi bầu trời đủ quang đãng để cất cánh, Clark phóng 54 máy bay trở lại tấn công Iwo Jima vào buổi chiều. Cuộc oanh kích đạt được yếu tố bất ngờ và bắt gặp các máy bay Nhật xếp hàng trên đường băng; phi công Clark tuyên bố đã phá hủy 63 chiếc. Đổi lại, Mỹ chỉ mất 2 máy bay do mọi nguyên nhân. Cuộc hành quân đánh vào các căn cứ trung chuyển Chichi Jima và Iwo Jima được coi là một thành công lớn, khi khoảng 100 máy bay Nhật bị tiêu diệt, khiến chúng không thể tham gia vào trận đánh sắp tới. Sau đợt không kích cuối cùng ở Iwo Jima, hai nhóm tác chiến quay về phía nam, vào vị trí ngoài khơi Saipan vào ngày 18 tháng 6.
Khung cảnh này cho thấy Ngày D (D-Day) tại Saipan, với các xe lội nước đổ bộ chở Thủy quân lục chiến đang hướng vào bãi biển, di chuyển ngang qua các tàu tuần dương đang tiến hành bắn phá yểm trợ. Con tàu ở phía sau là tàu tuần dương hạng nặng Indianapolis. Mặc dù con tàu này được biết đến nhiều hơn vì bị tàu ngầm Nhật Bản đánh chìm vào tháng 7 năm 1945, gây ra một trong những thảm họa tổn thất sinh mạng kinh hoàng nhất của Hải quân Mỹ, nhưng trong phần lớn thời gian của cuộc chiến, Indianapolis phục vụ với vai trò soái hạm của Hạm đội 5, nơi Đô đốc Spruance trực tiếp chỉ huy. (NHHC)
Khung cảnh này cho thấy Ngày D (D-Day) tại Saipan, với các xe lội nước đổ bộ chở Thủy quân lục chiến đang hướng vào bãi biển, di chuyển ngang qua các tàu tuần dương đang tiến hành bắn phá yểm trợ. Con tàu ở phía sau là tàu tuần dương hạng nặng Indianapolis. Mặc dù con tàu này được biết đến nhiều hơn vì bị tàu ngầm Nhật Bản đánh chìm vào tháng 7 năm 1945, gây ra một trong những thảm họa tổn thất sinh mạng kinh hoàng nhất của Hải quân Mỹ, nhưng trong phần lớn thời gian của cuộc chiến, Indianapolis phục vụ với vai trò soái hạm của Hạm đội 5, nơi Đô đốc Spruance trực tiếp chỉ huy. (NHHC)
Khi TF 58 hoàn tất việc tiêu diệt không quân mặt đất của Nhật, cuộc đổ bộ Saipan diễn ra ngày 15 tháng 6, với hai sư đoàn Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ lên bốn dặm bãi biển dưới hỏa lực kháng cự dữ dội. Đến cuối ngày đầu tiên, quân Mỹ đã giành được đầu cầu vững chắc. Nỗ lực của Mitscher chống lại các sân bay Nhật chuyển trọng tâm sang Tinian và đặc biệt là Guam. Dù các sân bay trên hai đảo này vẫn hoạt động, người Nhật không thể tung ra các đòn đánh vào hạm đội Mỹ. Họ chỉ có thể tung các đợt tấn công từ Truk và Yap.
Ngày 17 tháng 6, một nhóm nhỏ gồm 5 máy bay ném ngư lôi và 1 tiêm kích ban đêm J1N1-S cất cánh từ Truk tấn công một nhóm tàu vận tải phía đông Saipan. Đoàn tàu đổ bộ nhỏ bị đánh trúng lúc 17 giờ 50 phút, một quả ngư lôi trúng LCI-468, khiến con tàu này chìm sau đó. Đợt tấn công lớn đầu tiên của Không lực Căn cứ diễn ra ngày 18 tháng 6 từ đảo Yap. Lực lượng này gồm 31 chiếc Zero, 17 máy bay ném bom cơ bổ nhào D4Y, và 2 máy bay ném bom hai động cơ P1Y. TG 58.2 phát hiện nhóm máy bay Nhật trên radar, nhưng chúng ở quá xa để đánh chặn. Người Nhật tiếp tục bay về phía Saipan, tấn công các tàu ngoài khơi. Một tàu đổ bộ xe tăng bị cháy nhưng được cứu vớt sau đó. Một nhóm tàu sân bay hộ tống cũng bị tấn công lúc hoàng hôn – hai chiếc bị trúng suýt, và Fanshaw Bay bị một quả bom đánh trúng boong chứa máy bay, gây cháy nhưng đã được khống chế. Con tàu phải quay về Enewetak để sửa chữa.
Các phi công Nhật tuyên bố đã đánh trúng 3 - 4 tàu sân bay Mỹ trong cuộc tấn công này, khiến họ tin rằng Không lực Căn cứ đã đóng góp quan trọng vào chiến thắng sắp tới. Trên thực tế, một bộ phận quan trọng của Chiến dịch A-Go đã hoàn toàn thất bại. Từ ngày 11 đến 18 tháng 6, không quân mặt đất Nhật trong tầm hoạt động quanh Mariana hầu như đã bị quét sạch, trong khi tổn thất của Mỹ là rất nhỏ. Hạm đội Cơ động Thứ Nhất của Nhật Bản giờ đây sẽ phải giành chiến thắng quyết định mà không có sự yểm trợ trên không.

LẦN XUẤT KÍCH ĐẦU TIÊN CỦA HẠM ĐỘI CƠ ĐỘNG THỨ NHẤT

Các hướng hành quân của lực lượng hải quân Nhật Bản từ ngày 13 - 17 tháng 6 năm 1944.
Các hướng hành quân của lực lượng hải quân Nhật Bản từ ngày 13 - 17 tháng 6 năm 1944.
Sự xuất hiện ban đầu của TF 58 ngoài khơi quần đảo Mariana vào ngày 11 tháng 6 đã khiến người Nhật hoàn toàn bị bất ngờ. Tuy nhiên, đến ngày hôm sau, trinh sát đường không của Nhật đã cung cấp một bản mô tả khá chính xác về quy mô và vị trí của TF 58. Đến ngày 13 tháng 6, với việc người Mỹ được báo cáo là đang pháo kích vào các mục tiêu trên Saipan và Tinian cùng các cuộc không kích liên tiếp khắp khu vực Mariana, ý đồ của người Mỹ đã trở nên hiển nhiên.
Đô đốc Toyoda ra lệnh cho Hạm đội Liên hợp đặt trong tình trạng báo động để chuẩn bị cho Chiến dịch A-Go và hủy bỏ Chiến dịch KON (một chiến dịch phản công đổ bộ tại đảo Biak mà Mỹ đã xâm chiếm vào ngày 27 tháng 5). Ông cũng ra lệnh điều thêm lực lượng không quân căn cứ trên đất liền đến khu vực Mariana, và Hạm đội Cơ động Thứ Nhất rời nơi neo đậu tại đảo Tawi-Tawi ở Philippines lúc 10 giờ sáng. Tính toán thời gian di chuyển đến Saipan, Toyoda tạm thời ấn định ngày 19 tháng 6 là ngày diễn ra trận chiến quyết định. Sau khi rời neo, lực lượng của Đô đốc Ozawa di chuyển đến đảo Guimaras ở Philippines, nơi Hạm đội Cơ động Thứ Nhất tiếp tế từ 17 giờ ngày 14 tháng 6 cho đến sáng hôm sau.
Sau khi nhận được tin về cuộc đổ bộ của Mỹ lên Saipan vào sáng sớm ngày 15 tháng 6, Toyoda ra lệnh bắt đầu Chiến dịch A-Go lúc 07 giờ 17 phút cùng ngày. Hạm đội Cơ động Thứ Nhất rời Guimaras lúc 09 giờ và tối hôm đó tiến vào biển Philippines qua eo biển San Bernardino. Hai siêu thiết giáp hạm YamatoMusashi cùng các đơn vị thuộc Chiến dịch KON không đi cùng lực lượng chủ lực của Ozawa mà sẽ di chuyển độc lập trong biển Philippines. Khi tiến vào vùng biển này, Ozawa hướng về phía đông nam và vào khoảng 17 giờ ngày 16 tháng 6 đã hợp đội cùng YamatoMusashi. Ozawa ra lệnh cho toàn hạm đội tiếp nhiên liệu, hoàn tất vào cuối buổi sáng ngày 17 tháng 6.
Đội hình của Hạm đội Cơ động Thứ Nhất
Đội hình của Hạm đội Cơ động Thứ Nhất
Sức mạnh của không quân của lực lượng tàu sân bay Nhật Bản trong ngày 19 tháng 6 năm 1944.
Sức mạnh của không quân của lực lượng tàu sân bay Nhật Bản trong ngày 19 tháng 6 năm 1944.
Ozawa có được một lợi thế tình báo lớn trước trận đánh. Ông có thể theo dõi TF 58 trên phạm vi khái quát khi lực lượng này cơ động ngoài khơi Mariana và tấn công Iwo Jima. Hạm đội Cơ động Thứ Nhất duy trì im lặng vô tuyến tuyệt đối trong suốt quá trình di chuyển, khiến người Mỹ mất đi phương tiện hiệu quả nhất để theo dõi đội hình Nhật cho đến khi họ vào phạm vi trinh sát đường không. Thông tin duy nhất mà Phó đô đốc Spruance nhận được về lực lượng Nhật đang áp sát là từ các báo cáo không đầy đủ của tàu ngầm Mỹ. Kết quả là Spruance không có bức tranh rõ ràng về hoạt động của Ozawa cho đến ngày 19 tháng 6, khi Hạm đội Cơ động Thứ Nhất mở các cuộc tấn công đầu tiên.
Lúc 13 giờ ngày 13 tháng 6, tàu ngầm Redfin gửi về báo cáo đầu tiên xác nhận Ozawa đã xuất phát. Tàu ngầm này báo cáo phát hiện 4 thiết giáp hạm, 6 tàu sân bay, 8 tàu tuần dương và 6 tàu khu trục đang đi về hướng bắc qua eo Sibutu giữa Borneo và quần đảo Sulu. Giả định giờ đây là phần lớn lực lượng của Hạm đội Cơ động Thứ Nhất, Spruance đoán rằng người Nhật không thể đe dọa quần đảo Mariana trước ngày 17 tháng 6. Vì vậy, ông quyết định tiếp tục cuộc đổ bộ Saipan vào ngày 15 tháng 6 như kế hoạch, đồng thời tiến hành các cuộc oanh kích Chichi Jima và Iwo Jima, miễn là hai nhóm tàu sân bay tham chiến có mặt ngoài khơi Saipan vào sáng ngày 18 tháng 6.
Không có liên lạc thêm nào với hạm đội của Ozawa cho đến 18 giờ 35 phút ngày 15 tháng 6, khi tàu ngầm Flying Fish báo cáo phát hiện một lực lượng gồm các thiết giáp hạm và ít nhất ba tàu sân bay đi qua eo biển San Bernardino. Người Nhật theo dõi được tín hiệu báo cáo này, nên họ biết rằng họ đã bị phát hiện. Khoảng một giờ sau, tàu ngầm Seahorse phát hiện một lực lượng Nhật khác cách 200 hải lý về phía đông nam eo biển Surigao, được cho là có Yamato, Musashi và lực lượng hộ tống, tuy nhiên báo cáo này không được gửi đi cho đến 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6. Bên cạnh các báo cáo tàu ngầm, thông tin tình báo tín hiệu (SIGINT) ngày 15 tháng 6 cũng ngày càng cho thấy một chiến dịch hải quân quy mô lớn của Nhật đang được triển khai.
Trong khi Spruance vẫn chưa có ý niệm chính xác về hướng di chuyển và sức mạnh của đối phương, thì Ozawa lại hiểu khá rõ các hoạt động của TF 58. Bộ tham mưu của Ozawa đã đánh giá chính xác đáng kinh ngạc về lực lượng và ý đồ của Spruance. Người Nhật tin rằng TF 58 có 15 tàu sân bay – gồm 7 tàu sân bay hạm đội và 8 tàu sân bay cải hoán từ tàu tuần dương – con số này chính xác hoàn toàn. Họ cũng ước tính rằng chỉ có khoảng 10 tàu sân bay sẽ rời Saipan và di chuyển về phía tây không quá 300 hải lý. Hơn nữa, họ đánh giá đúng rằng người Mỹ dự định cắt đứt quần đảo Mariana khỏi các nguồn tiếp viện trên không và bằng đường biển.
Ozawa quyết định rằng ông phải đưa trận đánh đến giai đoạn quyết định càng sớm càng tốt. Điều này có nghĩa là ông cần cơ động để phóng các đợt không kích quy mô lớn vào ngày 19 tháng 6, hoặc có thể sớm hơn một ngày, tùy theo di chuyển của Spruance. Ozawa lập kế hoạch trinh sát đường không cường độ cao, đặc biệt là về hướng bắc, nhằm tránh bị bất ngờ. Một khi TF 58 bị phát hiện, Hạm đội Cơ động Thứ Nhất sẽ áp sát trong tầm phóng để tung ra các đợt tấn công liên tiếp, đồng thời giữ khoảng cách an toàn ngoài tầm phản công của Mỹ.

SỰ CHUẨN BỊ CỦA SPRUANCE

Khi Hạm đội Cơ động Thứ Nhất của Nhật đang áp sát và một trận chiến tàu sân bay lớn sắp diễn ra, Đô đốc Spruance bắt đầu chuẩn bị lực lượng cho trận đánh. Ngày 17 tháng 6, năm tàu tuần dương hạng nặng, ba tàu tuần dương hạng nhẹ, và mười ba tàu khu trục rời khu vực đổ bộ để tăng viện cho TF 58. Việc này để lại bảy thiết giáp hạm, ba tàu tuần dương, và khoảng mười ba tàu khu trục làm nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực cho Thủy quân Lục chiến trên bờ và bảo vệ khu vực bãi đổ bộ. Ngày 18 tháng 6, Spruance di chuyển lực lượng đổ bộ ra xa về phía đông của Saipan, ngoại trừ 17 tàu đổ bộ chở xe tăng (LST) và ba tàu vận tải khác. Các tàu sân bay hộ tống đi cùng lực lượng đổ bộ để bảo đảm phòng không.
Đồng thời, Đô đốc Mitscher cũng chuẩn bị TF 58 cho trận đánh. Vào chiều ngày 17 tháng 6, ông ra lệnh thành lập Nhóm Đặc nhiệm 58.7 (TG 58.7). Đây là tuyến tác chiến chủ lực, gồm 7 thiết giáp hạm, 4 tàu tuần dương hạng nặng, và 13 tàu khu trục. Mặc dù việc này giảm bớt hỏa lực phòng không của từng nhóm tác chiến, nhưng nó được chấp nhận vì sẽ dễ dàng hơn khi sắp xếp đội hình chiến đấu trước trận đánh hơn là trong lúc giao chiến. Cả Spruance và Mitscher đều xem TG 58.7 có vai trò quan trọng – hoặc giao chiến trực tiếp với các lực lượng mặt nước của Nhật nếu họ chấp nhận trận đấu, hoặc tiêu diệt các tàu Nhật bị đánh hỏng bởi không kích Mỹ. Mitscher cũng phải tập trung các nhóm tác chiến rải rác của TF 58, vì TG 58.1 và TG 58.4 khi đó vừa trở về sau chiến dịch tấn công Iwo Jima. Ông dự định tập trung đủ bốn nhóm tàu sân bay tại vị trí cách Saipan 150 hải lý về phía tây trước trưa ngày 18 tháng 6. Trong lúc đó, TG 58.2 và TG 58.3 tiến hành các phi vụ trinh sát về phía tây đến 325 hải lý từ ngày 17 tháng 6 nhưng không phát hiện được gì. Thông tin duy nhất được gửi cho Spruance trong ngày là báo cáo của tàu ngầm Cavalla, phát hiện một trong các nhóm tàu chở dầu của Ozawa.
Tàu ngầm Cavalla (SS-244) thuộc lớp Gato đang tuần tra trên biển và trong trận này, nó sẽ thành công trong đánh chìm tàu sân bay Shokaku. Trong trận Biển Philippine, tàu ngầm Mỹ đã hoàn thành nhiệm vụ trinh sát và tiến công ở một tiêu chuẩn rất cao. Lực lượng Đặc nhiệm 17 (TF 17) triển khai 18 tàu ngầm, trong khi Hạm đội 7 bố trí thêm 9 chiếc trong khu vực tác chiến. Có thể vào năm 1944, tàu ngầm Mỹ được chỉ huy bởi một đội ngũ thuyền trưởng táo bạo, những người đã học cách theo đuổi và tấn công không khoan nhượng các đoàn tàu vận tải, thậm chí cả các lực lượng đặc nhiệm, với mức độ an toàn rất cao.
Tàu ngầm Cavalla (SS-244) thuộc lớp Gato đang tuần tra trên biển và trong trận này, nó sẽ thành công trong đánh chìm tàu sân bay Shokaku. Trong trận Biển Philippine, tàu ngầm Mỹ đã hoàn thành nhiệm vụ trinh sát và tiến công ở một tiêu chuẩn rất cao. Lực lượng Đặc nhiệm 17 (TF 17) triển khai 18 tàu ngầm, trong khi Hạm đội 7 bố trí thêm 9 chiếc trong khu vực tác chiến. Có thể vào năm 1944, tàu ngầm Mỹ được chỉ huy bởi một đội ngũ thuyền trưởng táo bạo, những người đã học cách theo đuổi và tấn công không khoan nhượng các đoàn tàu vận tải, thậm chí cả các lực lượng đặc nhiệm, với mức độ an toàn rất cao.
Khoảnh khắc quan trọng đầu tiên của trận đánh đến vào tối ngày 17 tháng 6. Lúc 21 giờ 15 phút, tàu ngầm Cavalla phát hiện một nhóm tàu chiến lớn đang di chuyển zigzag với tốc độ cao, cách Guam khoảng 700 hải lý về phía tây. Do trời tối, không thể xác định rõ thành phần, nhưng nhóm này có khoảng 15 tàu, bao gồm ít nhất một tàu sân bay. Tuy nhiên, Spruance và Mitscher không nhận được báo cáo này cho đến 03 giờ 45 phút sáng ngày 18 tháng 6. Spruance có thể sử dụng thông tin vô giá này theo hai cách - tiến về phía tây trong đêm để chặn đánh quân Nhật vào ngày 18 tháng 6, có thể đạt yếu tố bất ngờ - hoặc ở lại gần Saipan và chờ quân Nhật tấn công. Bộ tham mưu của Spruance tính toán rằng nếu người Nhật tiếp tục đi về phía đông với tốc độ 19 hải lý/giờ, thì đến 05 giờ 30 phút sáng ngày 18 tháng 6, họ vẫn còn cách TF 58 khoảng 500 hải lý – vượt quá tầm trinh sát và tấn công của Mỹ. Tuy nhiên, nếu TF 58 cơ động về phía tây, họ có thể giao chiến với quân Nhật vào chiều cùng ngày. Mitscher ủng hộ phương án tấn công này, thậm chí còn đề xuất tiến hành một trận hải chiến ban đêm.
Tuy nhiên, quyết định cuối cùng thuộc về Spruance, và với bản tính thận trọng, ông gặp nhiều vấn đề khi cân nhắc việc cho TF 58 tiến nhanh về phía tây. Vấn đề lớn nhất là TF 58 vẫn chưa tập trung hoàn toàn; nếu Mitscher xuất phát ngay, ông sẽ chỉ có hai nhóm tác chiến và tuyến thiết giáp hạm, khiến người Nhật có cơ hội tiêu diệt TF 58 từng phần. Đối với một trận đánh ban đêm, cả Spruance và Phó đô đốc Willis Lee – chỉ huy tuyến thiết giáp hạm – đều cho rằng quá rủi ro, vì Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã chứng minh khả năng chiến đấu ban đêm vượt trội. Một yếu tố khác ảnh hưởng đến quyết định của Spruance là “Kế hoạch Z” bị người Mỹ thu giữ, trong đó có nhắc đến các đòn tấn công vu hồi. Điều này dường như rất khả thi, bởi báo cáo của Cavalla chỉ thấy 15 tàu, nghĩa là phần lớn hạm đội Nhật vẫn chưa được xác định. Sau khi cân nhắc các lựa chọn, lúc 20 giờ tối, Spruance ra lệnh cho TF 58 đổi hướng trở lại Saipan thay vì tiến về phía quân Nhật. Lúc 21 giờ 30 phút, ông gửi thông điệp cho biết ưu tiên chiến đấu phòng thủ vào ngày 19 tháng 6. Đến 23 giờ 30 phút, Mitscher cố gắng thuyết phục Spruance thay đổi quyết định, đề xuất đưa TF 58 tiến về phía tây để có thể tung đòn tấn công vào sáng hôm sau. Tuy nhiên, Spruance trả lời khoảng một giờ sau với lời từ chối dứt khoát.

CUỘC HÀNH QUÂN TIẾP XÚC

Hoạt động cơ động và tìm kiếm của các lực lượng hải quân Mỹ và Nhật Bản, ngày 18–19 tháng 6
Hoạt động cơ động và tìm kiếm của các lực lượng hải quân Mỹ và Nhật Bản, ngày 18–19 tháng 6
Khi Spruance đã quyết định chọn thế phòng thủ, quyền chủ động quyết định thời điểm khai chiến thuộc về Ozawa. Khi Hạm đội Cơ động Thứ Nhất áp sát TF 58 vào ngày 18 tháng 6, Ozawa bắt đầu nhận được thông tin trinh sát từ các máy bay tìm kiếm của mình. Trong buổi sáng, thủy phi cơ của Lực lượng C đã phát hiện sáu tàu sân bay thuộc TF 58. Đến buổi chiều, các máy bay trinh sát của Hải đội Tàu sân bay số 1, bay xa đến 420 hải lý, cũng phát hiện TF 58. Báo cáo đầu tiên lúc 15 giờ 14 phút cho biết phát hiện một nhóm tác chiến gồm hai tàu sân bay. Một máy bay trinh sát khác lúc 16 giờ cũng phát hiện một nhóm khác có “số lượng tàu sân bay chưa xác định”. Một giờ sau, chiếc này gửi thêm báo cáo mới, xác định có hai nhóm tác chiến, mỗi nhóm có hai tàu sân bay. Tất cả những mục tiêu này đều nằm trong tầm tấn công của không quân Ozawa, nhưng ông quyết định không tung ra đòn đánh – vì một phi vụ xuất kích muộn như vậy sẽ khiến việc hạ cánh ban đêm trở nên nguy hiểm, nhất là với phi công thiếu kinh nghiệm bay đêm.
Chuẩn Đô đốc Obayashi, chỉ huy Hải đội Tàu sân bay số 3 – một người có tính cách táo bạo – cho rằng một đòn tập kích lúc hoàng hôn có thể gây bất ngờ cho người Mỹ. Với ý định đó, ông ra lệnh xuất kích 67 máy bay từ các tàu sân bay Zuihō, Chitose, và Chiyoda vào lúc 16 giờ 37 phút. Khi việc cất cánh đang diễn ra, với 22 máy bay đã rời tàu, thì mệnh lệnh của Ozawa – hủy bỏ mọi cuộc tấn công trong ngày 18 tháng 6 – được chuyển đến. Obayashi miễn cưỡng hủy bỏ phi vụ hoàng hôn của mình.
Dù không thể mở màn trận đánh trong ngày 18, Ozawa vẫn hài lòng với vị thế tổng thể của mình. Đánh giá của ông về ý định của Spruance đã chính xác – vị chỉ huy Mỹ hành động thận trọng, điều đó đồng nghĩa Ozawa có thể duy trì vị trí tương đối với TF 58 mà không lo bị tấn công trước. Các máy bay trinh sát của ông không phát hiện hoạt động nào của Mỹ ở phía bắc, nên nguy cơ bị tấn công vu hồi đã không còn. Tất cả những gì còn lại là chuẩn bị cho loạt không kích quy mô lớn vào ngày hôm sau. Để duy trì khoảng cách tối thiểu 400 hải lý với TF 58, lúc 15 giờ 40 phút, Ozawa ra lệnh đổi hướng về tây nam. Hạm đội duy trì hướng đi này đến 19 giờ, rồi chuyển hướng đông nam với tốc độ 16 hải lý/giờ. Đến 21 giờ, Ozawa ban hành mệnh lệnh cho giai đoạn tiếp cận cuối cùng trước trận đánh. Lực lượng C đi thẳng về hướng đông để giữ vị trí dẫn đầu, trong khi Lực lượng A và B đi về phía nam. Lúc 03 giờ sáng ngày 19 tháng 6, toàn bộ lực lượng đổi hướng đông bắc và tăng tốc lên 20 hải lý/giờ.
Ozawa cũng thực hiện các bước phối hợp hành động với Lực lượng Không quân Căn cứ - một yếu tố trọng yếu trong Chiến dịch A-Go, vốn dự kiến hợp đồng tác chiến giữa không quân trên tàu sân bay và không quân mặt đất. Với đợt không kích chủ lực được lên kế hoạch cho sáng ngày 19 tháng 6, Ozawa muốn thông báo ý định cho Chuẩn Đô đốc Kakuta, chỉ huy Lực lượng Không quân Căn cứ tại Tinian. Để làm điều đó, Ozawa phá vỡ im lặng vô tuyến lần đầu tiên kể từ khi rời Tawi-Tawi, gửi đi một bức điện lúc 20 giờ 20 phút. Tuy nhiên, tín hiệu này bị người Mỹ chặn và xác định vị trí khá chính xác. Ozawa không hề biết rằng việc phối hợp với Kakuta thực ra giờ đã vô dụng, bởi Lực lượng Không quân Căn cứ đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Hành động của Kakuta trong trận đánh khó mà giải thích được – ông ta liên tục gửi về những báo cáo quá lạc quan về “thành công” của các phi công, và không thông báo trung thực cho Ozawa về tình trạng thực sự của lực lượng này. Kakuta ra lệnh cho 19 máy bay cuối cùng còn ở Truk di chuyển đến Guam vào ngày 19 tháng 6, nâng tổng số máy bay Nhật còn lại tại quần đảo Mariana lên chỉ còn khoảng 50 chiếc. Điều đó có nghĩa là Lực lượng Không quân Căn cứ không còn đủ khả năng để đóng vai trò quan trọng trong trận chiến ngày 19 tháng 6.

TRẬN ĐÁNH BẮT ĐẦU

Hoạt động cơ động và tìm kiếm của các lực lượng Mỹ và Nhật Bản, ngày 19 tháng 6
Hoạt động cơ động và tìm kiếm của các lực lượng Mỹ và Nhật Bản, ngày 19 tháng 6
Trận hải chiến Biển Philippine diễn ra trong điều kiện thời tiết quang đãng. Gió thổi từ hướng đông, buộc TF 58 phải quay mũi tàu ra xa quân Nhật để tiến hành các hoạt động bay, trong khi phía Nhật có thể vừa tiến gần mục tiêu vừa phóng máy bay. Hơn nữa, không có cơ hội nào để tận dụng thời tiết nhằm che giấu lực lượng. Trần mây và tầm nhìn đều không bị hạn chế, nhiệt độ không khí ở mức trung bình khoảng 80°F (khoảng 27°C). Thêm vào điều kiện quang đãng là hiện tượng bất thường – các luồng hơi nước (vapor trails) hình thành do máy bay bay ở độ cao lớn. Trong trận đánh, một số máy bay Nhật đã bị phi công Mỹ phát hiện từ khoảng cách lên đến 35 hải lý.
TF 58 duy trì hướng đi về phía đông cho đến 05 giờ 30 sáng thì chuyển sang hướng đông bắc để phóng các đợt CAP (tuần tra không chiến), tìm kiếm, và tuần tra chống tàu ngầm. Khi đợt cất cánh buổi sáng hoàn tất, TF 58 đổi hướng sang phía tây. Tuy nhiên, yêu cầu phải quay lại hướng đông mỗi khi phóng hoặc thu hồi máy bay khiến đội hình TF 58 dần dịch chuyển về phía đông trong suốt cả ngày. Để chuẩn bị cho trận chiến, Spruance bố trí các nhóm tác chiến TG 58.1, 58.3 và 58.2 theo một hàng từ bắc xuống nam. Trung tâm của mỗi nhóm cách nhóm kế cận khoảng 12–15 hải lý, và tuyến thiết giáp hạm được đặt cách TG 58.3 khoảng 15 hải lý về phía tây. Nhóm nhỏ nhất, TG 58.4, được bố trí ở phía bắc tuyến thiết giáp hạm. Mỗi nhóm tàu sân bay sắp xếp các tàu sân bay của mình ở trung tâm đội hình tròn có đường kính khoảng 4 hải lý.
Bố trí tác chiến của TF 58 vào ngày 19 tháng 6 năm 1944.
Bố trí tác chiến của TF 58 vào ngày 19 tháng 6 năm 1944.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Mỹ trong ngày 19 tháng 6 năm 1944.
Sức mạnh không quân của lực lượng tàu sân bay Mỹ trong ngày 19 tháng 6 năm 1944.
Spruance rất ý thức được tầm quan trọng của không quân căn cứ đất liền đối với người Nhật, nên ông đã triển khai biện pháp trấn áp các sân bay trên đảo Guam suốt cả ngày. Bắt đầu từ 05 giờ 30 phút, các phi công Hellcat làm nhiệm vụ CAP đã chạm trán với các máy bay Nhật xuất phát từ Guam. Máy bay ném bom bổ nhào Nhật từ Guam tấn công các tàu khu trục trong tuyến thiết giáp hạm hai lần nhưng không gây thiệt hại. Đến 06 giờ 30 phút, radar phát hiện hoạt động của không quân Nhật trên bầu trời Guam, và bốn chiếc Hellcat được phái đến để điều tra. Họ phát hiện nhiều máy bay Nhật đang chuẩn bị cất cánh, nên ngày lập tức đã gọi thêm viện binh. Bắt đầu từ 08 giờ 07 phút và kéo dài trong một giờ, có tới 33 chiếc Hellcat đã giao chiến với các máy bay Nhật trên và xung quanh đảo Guam. Người Mỹ tuyên bố đã bắn hạ 30 máy bay tiêm kích và 5 máy bay ném bom. Điều này gần như loại bỏ hoàn toàn Không lực Căn cứ khỏi vai trò đáng kể trong các đợt tấn công quyết định mà Ozawa đã hoạch định. Đến 10 giờ sáng, tất cả phi công Hellcat trên không phận Guam quay trở lại tàu sân bay khi radar phát hiện những đội hình lớn của Nhật đang xuất hiện ở phía tây TF 58.
"THẢM SÁT GÀ TÂY TẠI QUẦN ĐẢO MARIANA" (GIAI ĐOẠN 1): Tiêm kích Mỹ giao chiến với máy bay Nhật trong Đợt I và Đợt II, ngày 19 tháng 6.
"THẢM SÁT GÀ TÂY TẠI QUẦN ĐẢO MARIANA" (GIAI ĐOẠN 1): Tiêm kích Mỹ giao chiến với máy bay Nhật trong Đợt I và Đợt II, ngày 19 tháng 6.
Hoạt động không quân của Hạm đội Cơ động Thứ Nhất bắt đầu lúc 04 giờ 45 phút với việc phóng các máy bay trinh sát. Nhóm đầu tiên gồm 16 thủy phi cơ E13A xuất phát từ các tàu tuần dương hạng nặng và thiết giáp hạm thuộc Lực lượng C. Các máy bay này bay đến cuối khu vực trinh sát và quay về khoảng 07 giờ. Trên đường trở lại, một chiếc trong số đó phát hiện tuyến thiết giáp hạm (TG 58.7) cùng TG 58.4. Phát hiện này được phía Nhật định danh là “7 I”. Đợt trinh sát thứ hai của Nhật được phóng lúc 05 giờ 15 phút, gồm 13 chiếc Type 97 xuất phát từ các tàu sân bay và một thủy phi cơ của Force C. Tuy nhiên, đợt này chỉ trông thấy các tàu khu trục cảnh giới (picket destroyers) được triển khai ở phía trước TG 58.7. Bảy trong số các máy bay trinh sát này bị bắn hạ, một số do những chiếc Hellcat của tàu sân bay Langley thuộc TG 58.4 thực hiện.
Dựa trên kết quả liên lạc “7 I”, Ozawa bắt đầu tung ra đợt tấn công chủ lực. Đợt không kích đầu tiên gồm máy bay từ ba tàu sân bay hạng nhẹ của Lực lượng C. Tổng cộng 69 máy bay đã được điều động – 45 chiếc Zero mang bom, 8 chiếc B6N2 mang ngư lôi, cùng 16 chiếc Zero hộ tống. Khi đợt không kích này được phóng lúc 08 giờ 30 phút, Lực lượng C cách TF 58 khoảng 300 hải lý.
Phía Mỹ đã sẵn sàng chờ đón. Đợt tấn công đầu tiên của Nhật được TG 58.7 phát hiện ở khoảng cách 125 hải lý – đủ thời gian để chuẩn bị “chào đón nồng nhiệt”. Lúc 10 giờ 23 phút, Đô đốc Mitscher ra lệnh cho tất cả máy bay Hellcat hiện có chuẩn bị cất cánh. Toàn bộ máy bay ném bom đang thực hiện nhiệm vụ trinh sát và tuần tra được lệnh rời khu vực cho đến khi trận không chiến kết thúc. Khi sàn bay của tàu sân bay được giải phóng, các phi công Hellcat có thể quay về tiếp nhiên liệu và tái trang bị khi cần. Cách luân phiên này giúp duy trì số lượng lớn nhất máy bay Hellcat trên không, sẵn sàng theo điều phối của sĩ quan chỉ huy tiêm kích (FDOs). Các máy bay từ Lực lượng C được phía Mỹ đặt tên là “Đợt không kích lần I” (Raid I). Những phi công thiếu kinh nghiệm của Hải đội Tàu sân bay số 3 của Nhật bắt đầu do dự khi tiếp cận cách TF 58 khoảng 70 hải lý; tại đây họ bắt đầu bay vòng tròn ở độ cao 20.000 feet, tạo thêm thời gian cho Mitscher hoàn tất việc phóng các máy bay Hellcat và cho FDOs điều chỉnh độ cao chặn kích của máy bay Mỹ lên 17.000–23.000 feet. Lúc 10 giờ 35 phút, các phi công Hellcat của phi đội VF-15 trên tàu sân bay Essex là những người đầu tiên phát hiện ra đội hình của người Nhật. Đợt không kích của Nhật được bố trí thành hai nhóm với máy bay tiêm kích hộ tống Zero ở hai bên sườn. Khoảng 50 chiếc Hellcat tham gia vào pha đánh chặn đầu tiên của Đợt không kích lần I, bao gồm máy bay từ Essex, Hornet, Bunker Hill và 5 tàu sân bay hạng nhẹ. Khi các Hellcat lao vào đội hình của Nhật, những chiếc Zero hộ tống đã không thể bảo vệ máy bay ném bom, khiến đội hình Nhật tan rã và trở thành mục tiêu dễ dàng. Các phi công kỳ cựu của VF-15 tuyên bố đã bắn hạ 20 máy bay Nhật. Tổng cộng 25 trong số 69 máy bay Nhật bị bắn rơi, trong khi Mỹ chỉ mất 3 chiếc Hellcat trong giao chiến và 1 chiếc khác của Bunker Hill phải hạ cánh khẩn cấp xuống biển.
Đợt tấn công đầu tiên của phía Nhật Bản được tung ra vào lúc 08 giờ 30 phút. Chúng bị radar trong tuyến thiết giáp hạm của Lee phát hiện lúc 10 giờ khi khoảng cách hơn 150 dặm. Lúc 10 giờ 10 phút, Đô đốc Mitscher ra lệnh cho TF 58 chuẩn bị phóng mọi máy bay chiến đấu sẵn có. Lúc 10 giờ 19 phút, ông ra lệnh "thực hiện". Lúc 10 giờ 23 phút, khi Đợt I đã đến gần Lexington 110 dặm, toàn bộ đội hình chuyển hướng vào gió cho các hoạt động bay, và mọi con tàu chưa làm như vậy đều đi đến trạng thái báo động chung. "Giữ nguyên hướng đi ngược gió!" Mitscher ra hiệu. Hoạt động phóng máy bay bắt đầu lúc 10 giờ 23 phút, khi Đợt I của Nhật Bản đã áp sát 72 dặm. Máy bay Nhật Bản lúc này bay vòng ở độ cao 20.000 feet và tập hợp lại trước khi thực hiện cuộc tấn công. Khoảng thời gian 10 đến 15 phút này là một lợi thế cho TF 58. Nó cho phép dọn sạch sàn bay khỏi máy bay ném bom để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trang bị vũ khí, bảo dưỡng và phóng máy bay tiêm kích theo lịch trình luân phiên; nó cho các Hellcat thời gian để xếp chồng đúng cách cho một cuộc đánh chặn tốt. Lúc 10 giờ 36 phút, Mitscher ra hiệu cho các tàu của mình sẵn sàng cho các cuộc tấn công lặp lại và ra lệnh: "Giữ máy bay tiêm kích sẵn sàng để đẩy lùi các cuộc tấn công này, hạ cánh máy bay khi cần thiết." Vào thời điểm đó, đợt không kích đầu tiên của Nhật Bản, gồm 64 máy bay, đã áp sát cách tàu Lexington 60 dặm, khi con tàu này vẫn chưa hoàn tất việc phóng máy bay. Các máy bay tuần tra không chiến Hellcat, xếp chồng lên nhau từ độ cao 17.000 đến 23.000 feet, đã báo hiệu ngay khi thông điệp của Mitscher đến. Một cuộc hỗn chiến ác liệt xảy ra sau đó. Hai mươi bốn máy bay địch xếp đội hình chặt chẽ ở độ cao 18.000 feet, với 16 máy bay tiêm kích khác bên trên và phía sau, đã bị 11 chiếc Hellcat từ tàu Essex, do Trung tá C. W. Brewer dẫn đầu, tấn công. Trong minh hoạ là chiếc Hellcat "The Minis" của phi công David McCampbel điều khiển thuộc VF-15 từ tàu sân bay Essex (CV-15) vừa mới cất cánh từ sàn bay của con tàu để tham gia vào lực lượng chiến đấu chống lại đợt tấn công của các máy bay Nhật Bản.
Đợt tấn công đầu tiên của phía Nhật Bản được tung ra vào lúc 08 giờ 30 phút. Chúng bị radar trong tuyến thiết giáp hạm của Lee phát hiện lúc 10 giờ khi khoảng cách hơn 150 dặm. Lúc 10 giờ 10 phút, Đô đốc Mitscher ra lệnh cho TF 58 chuẩn bị phóng mọi máy bay chiến đấu sẵn có. Lúc 10 giờ 19 phút, ông ra lệnh "thực hiện". Lúc 10 giờ 23 phút, khi Đợt I đã đến gần Lexington 110 dặm, toàn bộ đội hình chuyển hướng vào gió cho các hoạt động bay, và mọi con tàu chưa làm như vậy đều đi đến trạng thái báo động chung. "Giữ nguyên hướng đi ngược gió!" Mitscher ra hiệu. Hoạt động phóng máy bay bắt đầu lúc 10 giờ 23 phút, khi Đợt I của Nhật Bản đã áp sát 72 dặm. Máy bay Nhật Bản lúc này bay vòng ở độ cao 20.000 feet và tập hợp lại trước khi thực hiện cuộc tấn công. Khoảng thời gian 10 đến 15 phút này là một lợi thế cho TF 58. Nó cho phép dọn sạch sàn bay khỏi máy bay ném bom để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trang bị vũ khí, bảo dưỡng và phóng máy bay tiêm kích theo lịch trình luân phiên; nó cho các Hellcat thời gian để xếp chồng đúng cách cho một cuộc đánh chặn tốt. Lúc 10 giờ 36 phút, Mitscher ra hiệu cho các tàu của mình sẵn sàng cho các cuộc tấn công lặp lại và ra lệnh: "Giữ máy bay tiêm kích sẵn sàng để đẩy lùi các cuộc tấn công này, hạ cánh máy bay khi cần thiết." Vào thời điểm đó, đợt không kích đầu tiên của Nhật Bản, gồm 64 máy bay, đã áp sát cách tàu Lexington 60 dặm, khi con tàu này vẫn chưa hoàn tất việc phóng máy bay. Các máy bay tuần tra không chiến Hellcat, xếp chồng lên nhau từ độ cao 17.000 đến 23.000 feet, đã báo hiệu ngay khi thông điệp của Mitscher đến. Một cuộc hỗn chiến ác liệt xảy ra sau đó. Hai mươi bốn máy bay địch xếp đội hình chặt chẽ ở độ cao 18.000 feet, với 16 máy bay tiêm kích khác bên trên và phía sau, đã bị 11 chiếc Hellcat từ tàu Essex, do Trung tá C. W. Brewer dẫn đầu, tấn công. Trong minh hoạ là chiếc Hellcat "The Minis" của phi công David McCampbel điều khiển thuộc VF-15 từ tàu sân bay Essex (CV-15) vừa mới cất cánh từ sàn bay của con tàu để tham gia vào lực lượng chiến đấu chống lại đợt tấn công của các máy bay Nhật Bản.
Trận không chiến lớn đầu tiên trong ngày 19 tháng 6 khởi đầu đầy bất lợi cho phía Nhật Bản. Việc sử dụng radar đã cho phép các tiêm kích Mỹ đánh chặn đội hình máy bay địch ở cách TF 58 tới 55 hải lý, một điều mà người Nhật hoàn toàn không ngờ tới — họ không hề biết rằng người Mỹ đã có khả năng đánh chặn ở tầm xa như vậy. Những tiêm kích Mỹ đầu tiên phát hiện đội hình Nhật là các máy bay Hellcat của phi đội VF-15, xuất phát từ tàu sân bay Essex. Chỉ huy phi đội, Trung tá Charles Brewer, dẫn đầu đội hình Hellcat. Ông xác định kẻ tấn công là những máy bay Judy được hộ tống bởi các máy bay Zero, tuy nhiên điều này là không chính xác vì không có bất kỳ chiếc Judy nào trong đợt tấn công đó; các máy bay tấn công thực ra gồm một số ít máy bay ném ngư lôi Jill và nhiều tiêm kích - ném bom Zero hơn. Đội hình Nhật được chia làm hai nhóm chính, không có dấu hiệu tổ chức thành các phân đội hay biên đội rõ ràng. Phía sau các máy bay Nhật bay ở độ cao 18.000 feet là những vệt khói ngưng tụ dày đặc. Đội Hellcat của Brewer lao xuống từ độ cao 24.000 feet, chém ngang qua đội hình Nhật. Brewer và phi công cánh của ông nhanh chóng bắn rơi 4 máy bay mỗi người . Trung úy cấp thấp George Carr còn làm tốt hơn khi hạ năm máy bay Nhật chỉ trong vài phút. Trong trận này, VF-15 tuyên bố bắn hạ 20 máy bay. Các sĩ quan chỉ huy điều hướng tiêm kích đã điều thêm tiêm kích từ các tàu sân bay Bunker Hill và Hornet, cùng các Hellcat từ 5 tàu sân bay hạng nhẹ, để hoàn tất việc tiêu diệt Đợt không kích lần I. Sau khi bị đội hình Hellcat tàn phá nặng nề, số ít máy bay Nhật còn lại quyết định chuyển hướng tấn công sang các thiết giáp hạm của Nhóm tác chiến 58.7 (TG 58.7). Kết quả là một ví dụ gần như hoàn hảo về khả năng phòng không hạm đội. Trong tổng số 69 máy bay Nhật, 42 chiếc bị tiêu diệt, phần lớn là trong các trận không chiến trên không. Không một phi công Nhật nào phát hiện được, chứ đừng nói là tấn công, một tàu sân bay Mỹ. Các phi công Nhật chiến đấu dũng cảm, nhưng hoàn toàn bị áp đảo bởi những phi công Mỹ được huấn luyện tốt hơn, lại còn có lợi thế bay trên những máy bay vượt trội hơn hẳn. (Tranh của Jim Laurier)
Trận không chiến lớn đầu tiên trong ngày 19 tháng 6 khởi đầu đầy bất lợi cho phía Nhật Bản. Việc sử dụng radar đã cho phép các tiêm kích Mỹ đánh chặn đội hình máy bay địch ở cách TF 58 tới 55 hải lý, một điều mà người Nhật hoàn toàn không ngờ tới — họ không hề biết rằng người Mỹ đã có khả năng đánh chặn ở tầm xa như vậy. Những tiêm kích Mỹ đầu tiên phát hiện đội hình Nhật là các máy bay Hellcat của phi đội VF-15, xuất phát từ tàu sân bay Essex. Chỉ huy phi đội, Trung tá Charles Brewer, dẫn đầu đội hình Hellcat. Ông xác định kẻ tấn công là những máy bay Judy được hộ tống bởi các máy bay Zero, tuy nhiên điều này là không chính xác vì không có bất kỳ chiếc Judy nào trong đợt tấn công đó; các máy bay tấn công thực ra gồm một số ít máy bay ném ngư lôi Jill và nhiều tiêm kích - ném bom Zero hơn. Đội hình Nhật được chia làm hai nhóm chính, không có dấu hiệu tổ chức thành các phân đội hay biên đội rõ ràng. Phía sau các máy bay Nhật bay ở độ cao 18.000 feet là những vệt khói ngưng tụ dày đặc. Đội Hellcat của Brewer lao xuống từ độ cao 24.000 feet, chém ngang qua đội hình Nhật. Brewer và phi công cánh của ông nhanh chóng bắn rơi 4 máy bay mỗi người . Trung úy cấp thấp George Carr còn làm tốt hơn khi hạ năm máy bay Nhật chỉ trong vài phút. Trong trận này, VF-15 tuyên bố bắn hạ 20 máy bay. Các sĩ quan chỉ huy điều hướng tiêm kích đã điều thêm tiêm kích từ các tàu sân bay Bunker Hill và Hornet, cùng các Hellcat từ 5 tàu sân bay hạng nhẹ, để hoàn tất việc tiêu diệt Đợt không kích lần I. Sau khi bị đội hình Hellcat tàn phá nặng nề, số ít máy bay Nhật còn lại quyết định chuyển hướng tấn công sang các thiết giáp hạm của Nhóm tác chiến 58.7 (TG 58.7). Kết quả là một ví dụ gần như hoàn hảo về khả năng phòng không hạm đội. Trong tổng số 69 máy bay Nhật, 42 chiếc bị tiêu diệt, phần lớn là trong các trận không chiến trên không. Không một phi công Nhật nào phát hiện được, chứ đừng nói là tấn công, một tàu sân bay Mỹ. Các phi công Nhật chiến đấu dũng cảm, nhưng hoàn toàn bị áp đảo bởi những phi công Mỹ được huấn luyện tốt hơn, lại còn có lợi thế bay trên những máy bay vượt trội hơn hẳn. (Tranh của Jim Laurier)
Trong số 51 máy bay của Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJNAF) bị phi đội VF-2 của tàu sân bay Hornet bắn rơi trong ngày 19 tháng 6, có ba chiếc B6N “Jill” – máy bay ném ngư lôi. Một chiếc trong số đó được Trung úy (chuẩn) Nolan Harrigan ghi nhận là chiến công thứ ba và cũng là cuối cùng của ông, trong khi hai chiếc còn lại được ghi công cho Trung úy (chuẩn) “Danny” Carmichael – người này cũng bắn hạ một chiếc “Zeke” (A6M Zero) trong cùng phi vụ. Bức ảnh mờ này được trích từ phim ghi hình của camera súng gắn trên máy bay của Carmichael, cho thấy một chiếc “Jill” đang kéo theo khói sau khi bị trúng loạt đạn từ sáu khẩu súng máy 0,50 inch của ông.
Trong số 51 máy bay của Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJNAF) bị phi đội VF-2 của tàu sân bay Hornet bắn rơi trong ngày 19 tháng 6, có ba chiếc B6N “Jill” – máy bay ném ngư lôi. Một chiếc trong số đó được Trung úy (chuẩn) Nolan Harrigan ghi nhận là chiến công thứ ba và cũng là cuối cùng của ông, trong khi hai chiếc còn lại được ghi công cho Trung úy (chuẩn) “Danny” Carmichael – người này cũng bắn hạ một chiếc “Zeke” (A6M Zero) trong cùng phi vụ. Bức ảnh mờ này được trích từ phim ghi hình của camera súng gắn trên máy bay của Carmichael, cho thấy một chiếc “Jill” đang kéo theo khói sau khi bị trúng loạt đạn từ sáu khẩu súng máy 0,50 inch của ông.
Khoảng 40 máy bay Nhật còn lại tiếp tục tiến vào và bị những chiếc Hellcat của VF-8 (Bunker Hill) tiêu diệt thêm 16 chiếc nữa. Những máy bay sống sót phát hiện tuyến thiết giáp hạm TF 58.7 và bắt đầu một loạt các cuộc tấn công không phối hợp. Hai chiếc Zero mang bom nhắm vào thiết giáp hạm South Dakota, trong đó một quả bom trúng đích trực tiếp. Mảnh bom giết chết 27 người và làm bị thương 23 người khác, nhưng khả năng cơ động và chiến đấu của chiếc thiết giáp hạm này vẫn không bị ảnh hưởng. Một máy bay Nhật khác ném bom suýt trúng tàu tuần dương hạng nặng Minneapolis, và một quả khác sượt qua tàu tuần dương hạng nặng Wichita. Hai tàu khu trục cảnh giới của TG 58.7 cũng báo cáo bị tấn công nhưng không bị thương vong. Khi những chiếc máy bay Nhật cuối cùng kết thúc đợt tấn công và quay về hướng tây, có thể đánh giá kết quả của Đợt không kích lần I: không có tàu sân bay Mỹ nào bị tấn công hay thậm chí bị phát hiện, và quả bom duy nhất trúng mục tiêu không gây thiệt hại nghiêm trọng. Theo hồ sơ Nhật Bản, họ mất 42 máy bay – gồm 8 chiếc Zero, 32 máy bay tiêm kích - ném bom Zero, và 2 máy bay mang ngư lôi. Phần lớn bị bắn hạ bởi các phi công Hellcat, số còn lại thì bị hỏa lực phòng không từ TG 58.7 tiêu diệt.
Đòn tấn công chủ lực của Ozawa diễn ra ngay sau đợt đầu tiên. Được định danh là Đợt không kích lần II, đây là đợt không kích quy mô lớn xuất phát từ ba tàu sân bay hạm đội của Hải đội Tàu sân bay số 1, với những phi công được huấn luyện tốt nhất của Hạm đội Cơ động Thứ Nhất. Đợt không kích sẽ bao gồm 128 máy bay – 48 tiêm kích Zero, 53 máy bay ném bom bổ nhào Judy, và 27 máy bay phóng ngư lôi Jill. Taiho - soái hạm của Ozawa - là thiết kế tàu sân bay tiên tiến nhất của Nhật Bản trong chiến tranh, với sàn bay bọc giáp, được tính toán để chịu được bom nặng 1.000 pound. Con tàu có khả năng mang một không đoàn lớn gồm 75 máy bay. Sự kết hợp xuất sắc giữa khả năng bảo vệ và sức tấn công này khiến Taihō trở thành một đối thủ tiềm tàng đáng gờm. Được đưa vào biên chế tháng 3 năm 1944, người ta kỳ vọng rất nhiều ở con tàu; trận đánh ngày 19 tháng 6 sẽ là lần đầu tiên mà nó tham chiến. Tuy vậy, con tàu sẽ phải đối mặt với một thách thức khác đến từ dưới mặt nước.
Đòn tấn công chủ lực của Ozawa diễn ra ngay sau đợt đầu tiên. Được định danh là Đợt không kích lần II, đây là đợt không kích quy mô lớn xuất phát từ ba tàu sân bay hạm đội của Hải đội Tàu sân bay số 1, với những phi công được huấn luyện tốt nhất của Hạm đội Cơ động Thứ Nhất. Đợt không kích sẽ bao gồm 128 máy bay – 48 tiêm kích Zero, 53 máy bay ném bom bổ nhào Judy, và 27 máy bay phóng ngư lôi Jill. Taiho - soái hạm của Ozawa - là thiết kế tàu sân bay tiên tiến nhất của Nhật Bản trong chiến tranh, với sàn bay bọc giáp, được tính toán để chịu được bom nặng 1.000 pound. Con tàu có khả năng mang một không đoàn lớn gồm 75 máy bay. Sự kết hợp xuất sắc giữa khả năng bảo vệ và sức tấn công này khiến Taihō trở thành một đối thủ tiềm tàng đáng gờm. Được đưa vào biên chế tháng 3 năm 1944, người ta kỳ vọng rất nhiều ở con tàu; trận đánh ngày 19 tháng 6 sẽ là lần đầu tiên mà nó tham chiến. Tuy vậy, con tàu sẽ phải đối mặt với một thách thức khác đến từ dưới mặt nước.
Khi tàu sân bay Taihō xoay ra hướng gió và tung ra một đợt không kích, bản thân nó bị tấn công bởi một loạt sáu ngư lôi từ chiếc tàu ngầm Mỹ Albacore. Bản thân tàu ngầm Albacore rời vị trí ở phía tây quần đảo Mariana vào sáng ngày 18 tháng 6 và di chuyển xuống phía nam thêm khoảng 100 dặm (160 km). Đô đốc Charles A. Lockwood (Tư lệnh Lực lượng tàu ngầm Thái Bình Dương – ComSubPac) đã ra lệnh điều động này với hy vọng cho phép chiếc tàu ngầm chặn đánh một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản (do Đô đốc Jisaburō Ozawa chỉ huy), được báo cáo là đang hành quân từ Tawi Tawi hướng về Saipan. Vào khoảng 08 giờ sáng hôm sau, Albacore nâng kính tiềm vọng và phát hiện mình đang ở giữa đội hình tàu sân bay chủ lực của Ozawa. Hạm trưởng Blanchard cho phép một tàu sân bay Nhật Bản đi qua và chọn một chiếc thứ hai làm mục tiêu. Khi tiếp cận ở cự ly 5.300 thước Anh (khoảng 4.800 m), máy tính dữ liệu ngư lôi của tàu ngầm bắt đầu cung cấp thông tin sai lệch. Để tối đa hóa khả năng trúng đích, Blanchard cho bắn toàn bộ sáu ống phóng ngư lôi mũi tàu. Một trong những phi công của tàu Taihō, Sakio Komatsu, trông thấy các đợt sóng của các ngư lôi khi ông vừa cất cánh, và đã tự nguyện bổ nhào máy bay của mình xuống đường đi của một trong các ngư lôi; quả ngư lôi phát nổ trước khi đến đích, và bốn trong số năm quả ngư lôi còn lại đã bị trượt. Trong khi đó, tàu Albacore bị tấn công bằng bom chìm từ 3 tàu khu trục Nhật, và may mắn trốn thoát được nhờ kỹ thuật truy đuổi tàu ngầm kém cỏi của các tàu khu trục Nhật Bản. Đầu buổi chiều, con tàu ngầm nổi lên mặt nước để tiếp tục tuần tra. Hạm đội của Ozawa đã đi qua, và tàu Taiho cũng vậy. Không một ai trên Albacore tin rằng Taihō đã bị đánh chìm, và thuyền trưởng của Albacore còn tức giận vì cho rằng mình đã “bỏ lỡ một cơ hội vàng” và đồng thời cũng xấu hổ vì sự cố máy tính khi bắn ngư lôi, nên sau đó ông chỉ đưa ra một báo cáo khiêm tốn đến mức cuộc tấn công của ông được đánh giá tại Trân Châu Cảng chỉ gây ra "thiệt hại có thể xảy ra". Phải nhiều tháng sau thì sự thật đáng mừng mới được tiết lộ.
Khi tàu sân bay Taihō xoay ra hướng gió và tung ra một đợt không kích, bản thân nó bị tấn công bởi một loạt sáu ngư lôi từ chiếc tàu ngầm Mỹ Albacore. Bản thân tàu ngầm Albacore rời vị trí ở phía tây quần đảo Mariana vào sáng ngày 18 tháng 6 và di chuyển xuống phía nam thêm khoảng 100 dặm (160 km). Đô đốc Charles A. Lockwood (Tư lệnh Lực lượng tàu ngầm Thái Bình Dương – ComSubPac) đã ra lệnh điều động này với hy vọng cho phép chiếc tàu ngầm chặn đánh một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản (do Đô đốc Jisaburō Ozawa chỉ huy), được báo cáo là đang hành quân từ Tawi Tawi hướng về Saipan. Vào khoảng 08 giờ sáng hôm sau, Albacore nâng kính tiềm vọng và phát hiện mình đang ở giữa đội hình tàu sân bay chủ lực của Ozawa. Hạm trưởng Blanchard cho phép một tàu sân bay Nhật Bản đi qua và chọn một chiếc thứ hai làm mục tiêu. Khi tiếp cận ở cự ly 5.300 thước Anh (khoảng 4.800 m), máy tính dữ liệu ngư lôi của tàu ngầm bắt đầu cung cấp thông tin sai lệch. Để tối đa hóa khả năng trúng đích, Blanchard cho bắn toàn bộ sáu ống phóng ngư lôi mũi tàu. Một trong những phi công của tàu Taihō, Sakio Komatsu, trông thấy các đợt sóng của các ngư lôi khi ông vừa cất cánh, và đã tự nguyện bổ nhào máy bay của mình xuống đường đi của một trong các ngư lôi; quả ngư lôi phát nổ trước khi đến đích, và bốn trong số năm quả ngư lôi còn lại đã bị trượt. Trong khi đó, tàu Albacore bị tấn công bằng bom chìm từ 3 tàu khu trục Nhật, và may mắn trốn thoát được nhờ kỹ thuật truy đuổi tàu ngầm kém cỏi của các tàu khu trục Nhật Bản. Đầu buổi chiều, con tàu ngầm nổi lên mặt nước để tiếp tục tuần tra. Hạm đội của Ozawa đã đi qua, và tàu Taiho cũng vậy. Không một ai trên Albacore tin rằng Taihō đã bị đánh chìm, và thuyền trưởng của Albacore còn tức giận vì cho rằng mình đã “bỏ lỡ một cơ hội vàng” và đồng thời cũng xấu hổ vì sự cố máy tính khi bắn ngư lôi, nên sau đó ông chỉ đưa ra một báo cáo khiêm tốn đến mức cuộc tấn công của ông được đánh giá tại Trân Châu Cảng chỉ gây ra "thiệt hại có thể xảy ra". Phải nhiều tháng sau thì sự thật đáng mừng mới được tiết lộ.
Khi Taiho vừa hoàn thành việc phóng 42 máy bay trong Đợt không kích lần II thì ngư lôi thứ sáu của tàu Albacore đánh trúng mạn phải của con tàu, gần với các hầm tàu chứa đầy xăng phía trước. Vụ nổ khiến thang nâng máy bay phía trước của con tàu bị kẹt; hố thang nhanh chóng ngập đầy xăng máy bay, nước và nhiên liệu. Tuy nhiên, không có đám cháy nào bùng phát, sàn bay vẫn không bị hư hại, tốc độ chỉ giảm 1 hải lý/giờ, và thuyền trưởng hoàn toàn tin tưởng rằng thủy thủ đoàn sẽ nhanh chóng khắc phục "thiệt hại nhỏ" này. Đô đốc Ozawa không quá coi trọng việc soái hạm của mình bị trúng ngư lôi. Ông vẫn "tỏa ra vẻ tự tin và hài lòng". Taiho được đóng chắc chắn hơn nhiều so với các tàu sân bay bị đánh chìm ở Midway; một quả ngư lôi đánh trúng chắc chắn không thể gây thiệt hại nhiều cho nó. Việc kiểm soát thiệt hại và sửa chữa khẩn cấp chắc chắn sẽ giúp nó trở lại trạng thái tốt trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, công tác kiểm soát hư hại lại được giao cho một sĩ quan thiếu kinh nghiệm. Người này cho rằng cách tốt nhất để xử lý hơi xăng là mở toàn bộ hệ thống thông gió để chúng khuếch tán. Khi làm như vậy, hơi xăng đã lan khắp toàn bộ con tàu. Không ai trên tàu nhận ra rằng Taihō  giờ đã trở thành một quả bom hẹn giờ trôi nổi.
Khi Taiho vừa hoàn thành việc phóng 42 máy bay trong Đợt không kích lần II thì ngư lôi thứ sáu của tàu Albacore đánh trúng mạn phải của con tàu, gần với các hầm tàu chứa đầy xăng phía trước. Vụ nổ khiến thang nâng máy bay phía trước của con tàu bị kẹt; hố thang nhanh chóng ngập đầy xăng máy bay, nước và nhiên liệu. Tuy nhiên, không có đám cháy nào bùng phát, sàn bay vẫn không bị hư hại, tốc độ chỉ giảm 1 hải lý/giờ, và thuyền trưởng hoàn toàn tin tưởng rằng thủy thủ đoàn sẽ nhanh chóng khắc phục "thiệt hại nhỏ" này. Đô đốc Ozawa không quá coi trọng việc soái hạm của mình bị trúng ngư lôi. Ông vẫn "tỏa ra vẻ tự tin và hài lòng". Taiho được đóng chắc chắn hơn nhiều so với các tàu sân bay bị đánh chìm ở Midway; một quả ngư lôi đánh trúng chắc chắn không thể gây thiệt hại nhiều cho nó. Việc kiểm soát thiệt hại và sửa chữa khẩn cấp chắc chắn sẽ giúp nó trở lại trạng thái tốt trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, công tác kiểm soát hư hại lại được giao cho một sĩ quan thiếu kinh nghiệm. Người này cho rằng cách tốt nhất để xử lý hơi xăng là mở toàn bộ hệ thống thông gió để chúng khuếch tán. Khi làm như vậy, hơi xăng đã lan khắp toàn bộ con tàu. Không ai trên tàu nhận ra rằng Taihō giờ đã trở thành một quả bom hẹn giờ trôi nổi.
Kết quả tốt hơn nhiều được kỳ vọng đến từ Hải đội Tàu sân bay 1, lực lượng gồm ba tàu sân bay hạm đội mang theo những phi công được huấn luyện tốt nhất trong toàn bộ Hạm đội Cơ động Thứ Nhất, và là mũi tấn công chủ lực của Đô đốc Ozawa. Các máy bay đầu tiên bắt đầu cất cánh lúc 08 giờ 56 phút, nhưng quá trình phóng bị gián đoạn lúc 09 giờ 09 khi tàu sân bay Taihō bị tàu ngầm Mỹ Albacore tấn công. Chiếc tàu ngầm đã tiếp cận được mục tiêu mà không bị phát hiện và phóng toàn bộ sáu ngư lôi. Một chiếc máy bay ném bom bổ nhào của Taihō phát hiện các ngư lôi đang lao tới con tàu và ngay lập tức lao thẳng vào một quả để kích nổ sớm, một hành động anh dũng, nhưng không thể ngăn một quả ngư lôi khác đánh trúng Taihō ngang vị trí thang nâng phía trước. Tại thời điểm đó, thang nâng đang được nâng lên để phục vụ phóng máy bay, và cú đánh đã khiến nó lệch khỏi vị trí, sụt xuống vài feet. Trong vòng 30 phút, các đội kiểm soát thiệt hại đã lát tạm boong trên phần thang nâng bị hư hại để quá trình phóng có thể tiếp tục. Tuy nhiên, đây mới chỉ là khởi đầu cho những rắc rối của đợt tấn công lớn nhất mà Ozawa tung ra. Theo kế hoạch, đợt này bao gồm 128 máy bay – 48 chiếc Zero, 53 máy bay ném bom bổ nhào, và 27 chiếc B6N2 mang ngư lôi. Ngoài chiếc máy bay của Taihō đã hy sinh, 8 chiếc khác gặp trục trặc động cơ và buộc phải quay về. Khi đội hình bay qua Lực lượng C, cách Lực lượng A khoảng 100 hải lý về phía đông, họ bị hỏa lực phòng không của chính mình bắn nhầm. Sự cố “bắn nhầm bạn” này khiến 2 máy bay bị bắn rơi và 8 chiếc khác bị hư hại, buộc phải quay lại. Trong tổng số 128 chiếc ban đầu, chỉ còn 109 chiếc tiếp tục hướng về TF 58.
Các phi công hải quân thuộc phi đội tiêm kích VF-2 lên những chiếc F6F-3 của họ trên sàn bay của tàu sân bay Hornet vào buổi sáng ngày 19 tháng 6 năm 1944 – một ngày sau này sẽ được biết đến với tên gọi “Cuộc thảm sát gà tây Mariana”. Phi đội tiêm kích 2 tuyên bố bắn hạ 51 máy bay trong ngày hôm đó, xếp thứ hai sau VF-15 “Satan’s Playmates” trên tàu Essex, đơn vị đã lập kỷ lục tuyệt đối của Mỹ với 68 chiến thắng trên không trong một ngày. Tổng cộng, 15 phi đội tiêm kích thuộc TF 58 đã tham chiến với Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJNAF) trong ngày 19 tháng 6, và tuyên bố bắn rơi 330 máy bay đối phương. (NHHC)
Các phi công hải quân thuộc phi đội tiêm kích VF-2 lên những chiếc F6F-3 của họ trên sàn bay của tàu sân bay Hornet vào buổi sáng ngày 19 tháng 6 năm 1944 – một ngày sau này sẽ được biết đến với tên gọi “Cuộc thảm sát gà tây Mariana”. Phi đội tiêm kích 2 tuyên bố bắn hạ 51 máy bay trong ngày hôm đó, xếp thứ hai sau VF-15 “Satan’s Playmates” trên tàu Essex, đơn vị đã lập kỷ lục tuyệt đối của Mỹ với 68 chiến thắng trên không trong một ngày. Tổng cộng, 15 phi đội tiêm kích thuộc TF 58 đã tham chiến với Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJNAF) trong ngày 19 tháng 6, và tuyên bố bắn rơi 330 máy bay đối phương. (NHHC)
Trong bức ảnh này, một chiếc F6F Hellcat thuộc phi đội VF-1 trên tàu Yorktown đang chuẩn bị cất cánh vào ngày 19 tháng 6. VF-1 là một trong những phi đội tiêm kích thành công nhất trong trận đánh, khi tuyên bố đã tiêu diệt 32 máy bay Nhật và 5 chiếc bị bắn rơi có khả năng cao. (NHHC)
Trong bức ảnh này, một chiếc F6F Hellcat thuộc phi đội VF-1 trên tàu Yorktown đang chuẩn bị cất cánh vào ngày 19 tháng 6. VF-1 là một trong những phi đội tiêm kích thành công nhất trong trận đánh, khi tuyên bố đã tiêu diệt 32 máy bay Nhật và 5 chiếc bị bắn rơi có khả năng cao. (NHHC)
Vệt hơi nước do máy bay chiến đấu để lại trong cuộc không kích của Nhật Bản vào TG 58.3 vào ngày 19 tháng 6 năm 1944 được chụp từ USS Lexington. (NHHC)
Vệt hơi nước do máy bay chiến đấu để lại trong cuộc không kích của Nhật Bản vào TG 58.3 vào ngày 19 tháng 6 năm 1944 được chụp từ USS Lexington. (NHHC)
Những vệt khói ngưng tụ đánh dấu đường bay của các trận không chiến trên không phận của TG 58.3, được nhìn thấy từ tàu tuần dương hạng nhẹ Birmingham. Hiện tượng khí quyển bất thường này đã giúp các tiêm kích Mỹ dễ dàng đánh chặn máy bay Nhật Bản hơn. (NHHC)
Những vệt khói ngưng tụ đánh dấu đường bay của các trận không chiến trên không phận của TG 58.3, được nhìn thấy từ tàu tuần dương hạng nhẹ Birmingham. Hiện tượng khí quyển bất thường này đã giúp các tiêm kích Mỹ dễ dàng đánh chặn máy bay Nhật Bản hơn. (NHHC)
Tiêm kích của TG 58.2 tạo ra vệt ngưng tụ khi đang thực hiện tuần tra không chiến ở phía trên một tàu sân bay, trước một đợt không kích của Nhật Bản vào ngày 19 tháng 6. (NHHC)
Tiêm kích của TG 58.2 tạo ra vệt ngưng tụ khi đang thực hiện tuần tra không chiến ở phía trên một tàu sân bay, trước một đợt không kích của Nhật Bản vào ngày 19 tháng 6. (NHHC)
Trong tổng số 403 phi vụ Hellcat được thực hiện ngày 19 tháng 6, 287 phi vụ đã giao chiến với 548 máy bay Nhật. Trong ngày này, 13 chiếc Hellcat bị bắn rơi bởi máy bay địch, 1 chiếc bị pháo phòng không ta bắn nhầm, và 6 chiếc mất do nguyên nhân kỹ thuật. Bức ảnh này cho thấy một chiếc Hellcat đang hạ cánh xuống tàu Lexington. (NHHC)
Trong tổng số 403 phi vụ Hellcat được thực hiện ngày 19 tháng 6, 287 phi vụ đã giao chiến với 548 máy bay Nhật. Trong ngày này, 13 chiếc Hellcat bị bắn rơi bởi máy bay địch, 1 chiếc bị pháo phòng không ta bắn nhầm, và 6 chiếc mất do nguyên nhân kỹ thuật. Bức ảnh này cho thấy một chiếc Hellcat đang hạ cánh xuống tàu Lexington. (NHHC)
Phó Đô đốc Mitscher được chụp ảnh trên đài chỉ huy của soái hạm Lexington vào ngày 19 tháng 6. Ông chủ trương cách tiếp cận quyết liệt hơn nhiều để đối phó với mối đe dọa từ các tàu sân bay của Ozawa, nhưng đã bị Spruance bác bỏ. Dẫu vậy, TF 58 của Mitscher vẫn chịu đựng được đòn tấn công đầu tiên của Nhật Bản mà không bị thiệt hại đáng kể. (NHHC)
Phó Đô đốc Mitscher được chụp ảnh trên đài chỉ huy của soái hạm Lexington vào ngày 19 tháng 6. Ông chủ trương cách tiếp cận quyết liệt hơn nhiều để đối phó với mối đe dọa từ các tàu sân bay của Ozawa, nhưng đã bị Spruance bác bỏ. Dẫu vậy, TF 58 của Mitscher vẫn chịu đựng được đòn tấn công đầu tiên của Nhật Bản mà không bị thiệt hại đáng kể. (NHHC)
Đội hình lớn này được radar Mỹ phát hiện lúc 11 giờ 07 phút, được định danh là “Đợt không kích lần II" (Raid II). Khoảng cách phát hiện ít nhất 115 hải lý đủ để các lực lượng Mỹ tổ chức đánh chặn hiệu quả. Một lần nữa, phi đội VF-15 là những người đầu tiên phát hiện ra địch. 12 chiếc Hellcat, do Đại tá David McCampbell – chỉ huy không đoàn của tàu Essex – dẫn đầu, lao vào đội hình Nhật. McCampbell tuyên bố bắn hạ 3 máy bay ném bom bổ nhào, còn phi công bay cánh của ông bắn hạ thêm hai chiếc nữa. Các sĩ quan điều phối FDO tiếp tục điều thêm nhiều Hellcat tới khu vực, và cuối cùng khoảng 70 máy bay Nhật bị bắn rơi. Ngoài VF-15, VF-16 trên tàu Lexington tuyên bố tiêu diệt 22 máy bay Nhật mà không mất chiếc nào; VF-1 của Yorktown cũng ghi chiến công lớn, và 12 chiếc Hellcat của Bunker Hill tuyên bố bắn hạ 5 chiếc. Các tàu sân bay hạng nhẹ Bataan, MontereyCabot lần lượt tuyên bố bắn hạ 10, 7 và 5 máy bay Nhật.
Đợt không kích lần II - một cuộc không kích thực sự lớn bao gồm 53 máy bay ném bom Judy, 27 máy bay ném ngư lôi Jill và 48 máy bay chiến đấu Zeke, đã được phóng đi từ Hải đội Tàu sân bay 1 của Ozawa bắt đầu lúc 08 giờ 56 phút. Tám máy bay khác gặp sự cố động cơ ngay sau đó và phải quay lại. 119 máy bay còn lại, trên đường đi, đã mắc sai lầm khi bay qua đội hình tiên phong của Đô đốc Kurita, những xạ thủ phòng không "nhạy cò" của ông đã bắn vài loạt đạn và bắn rơi thành công hai chiếc, làm hư hỏng thêm 8 chiếc khác, buộc chúng phải quay lại. Phần còn lại bay thành một nhóm. Chúng bị radar của TF 58 phát hiện lúc 11 giờ 07 phút, cách xa 115 dặm. Nhóm này được ghi nhận có khoảng 50 chiếc theo màn hình radar, nhưng trên thực tế là gấp đôi con số đó - đã bị một "ban tiếp tân" gồm những chiếc Hellcat được điều động khẩn cấp từ tàu Lexington đón lõng cách đó 60 dặm, và chúng đã thực sự gây ra một trận không chiến hỗn loạn. Những chiếc Hellcat từ các tàu sân bay khác cũng làm tốt tương tự; tổng số máy bay Nhật Bản "không trở về tàu sân bay" là 32 máy bay tiêm kích Zeke, 23 máy bay ném ngư lôi Jill và 42 máy bay ném bom bổ nhào Judy. Khoảng 70 chiếc trong số này bị bắn hạ trong đợt đánh chặn này. Các phi công bay về nhà báo cáo một vệt dầu loang rộng 12 dặm rải rác các mảnh vỡ và mảnh vụn đang cháy. Trong số 128 máy bay được phóng lên trong cuộc tấn công thứ hai này, 97 chiếc đã không bao giờ quay trở lại. Trong minh hoạ ở đây, chiếc máy bay Hellcat số hiệu 32, thuộc Phi đội VF-16 từ Lexington đang được điều khiển bởi Alexander Vraciu - một phi công át chủ bài hàng đầu của Hải quân Mỹ, đang tiêu diệt những máy bay ném bom bổ nhào Judy. (Tranh của Roy Grinnell)
Đợt không kích lần II - một cuộc không kích thực sự lớn bao gồm 53 máy bay ném bom Judy, 27 máy bay ném ngư lôi Jill và 48 máy bay chiến đấu Zeke, đã được phóng đi từ Hải đội Tàu sân bay 1 của Ozawa bắt đầu lúc 08 giờ 56 phút. Tám máy bay khác gặp sự cố động cơ ngay sau đó và phải quay lại. 119 máy bay còn lại, trên đường đi, đã mắc sai lầm khi bay qua đội hình tiên phong của Đô đốc Kurita, những xạ thủ phòng không "nhạy cò" của ông đã bắn vài loạt đạn và bắn rơi thành công hai chiếc, làm hư hỏng thêm 8 chiếc khác, buộc chúng phải quay lại. Phần còn lại bay thành một nhóm. Chúng bị radar của TF 58 phát hiện lúc 11 giờ 07 phút, cách xa 115 dặm. Nhóm này được ghi nhận có khoảng 50 chiếc theo màn hình radar, nhưng trên thực tế là gấp đôi con số đó - đã bị một "ban tiếp tân" gồm những chiếc Hellcat được điều động khẩn cấp từ tàu Lexington đón lõng cách đó 60 dặm, và chúng đã thực sự gây ra một trận không chiến hỗn loạn. Những chiếc Hellcat từ các tàu sân bay khác cũng làm tốt tương tự; tổng số máy bay Nhật Bản "không trở về tàu sân bay" là 32 máy bay tiêm kích Zeke, 23 máy bay ném ngư lôi Jill và 42 máy bay ném bom bổ nhào Judy. Khoảng 70 chiếc trong số này bị bắn hạ trong đợt đánh chặn này. Các phi công bay về nhà báo cáo một vệt dầu loang rộng 12 dặm rải rác các mảnh vỡ và mảnh vụn đang cháy. Trong số 128 máy bay được phóng lên trong cuộc tấn công thứ hai này, 97 chiếc đã không bao giờ quay trở lại. Trong minh hoạ ở đây, chiếc máy bay Hellcat số hiệu 32, thuộc Phi đội VF-16 từ Lexington đang được điều khiển bởi Alexander Vraciu - một phi công át chủ bài hàng đầu của Hải quân Mỹ, đang tiêu diệt những máy bay ném bom bổ nhào Judy. (Tranh của Roy Grinnell)
Chuẩn úy Yoshinao Kodaira là một trong số những phi công tiêm kích dày dạn kinh nghiệm nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, người đã ghi nhận những chiến công đầu tiên của mình khi bay trên bầu trời Trung Quốc. Được biên chế vào Không đoàn 601 trên tàu sân bay Shokaku trong Trận chiến biển Philippine, Kodaira nằm trong đội hộ tống gồm 48 tiêm kích Zero-sen bảo vệ đợt tấn công thứ hai gồm 44 máy bay ném bom bổ nhào D4Y1 Suisei (“Judy”) và 29 máy bay ném ngư lôi B6N2 Tenzan (“Jill”) được phái đi tấn công TF 58 vào ngày 19 tháng 6 năm 1944. Mặc dù đội hình Nhật bị các tiêm kích F6F Hellcat của Mỹ đánh tan tác trong lúc đánh chặn, Kodaira vẫn kịp tuyên bố bắn hạ hai chiếc Hellcat trước khi Zero-sen của ông bị trúng đạn, buộc anh phải tách khỏi đội hình. Ông hạ cánh khẩn cấp xuống biển và được một tàu khu trục của Hải quân Nhật cứu vớt. (Tranh của Gareth Hector)
Chuẩn úy Yoshinao Kodaira là một trong số những phi công tiêm kích dày dạn kinh nghiệm nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, người đã ghi nhận những chiến công đầu tiên của mình khi bay trên bầu trời Trung Quốc. Được biên chế vào Không đoàn 601 trên tàu sân bay Shokaku trong Trận chiến biển Philippine, Kodaira nằm trong đội hộ tống gồm 48 tiêm kích Zero-sen bảo vệ đợt tấn công thứ hai gồm 44 máy bay ném bom bổ nhào D4Y1 Suisei (“Judy”) và 29 máy bay ném ngư lôi B6N2 Tenzan (“Jill”) được phái đi tấn công TF 58 vào ngày 19 tháng 6 năm 1944. Mặc dù đội hình Nhật bị các tiêm kích F6F Hellcat của Mỹ đánh tan tác trong lúc đánh chặn, Kodaira vẫn kịp tuyên bố bắn hạ hai chiếc Hellcat trước khi Zero-sen của ông bị trúng đạn, buộc anh phải tách khỏi đội hình. Ông hạ cánh khẩn cấp xuống biển và được một tàu khu trục của Hải quân Nhật cứu vớt. (Tranh của Gareth Hector)
Trong quá trình tổ chức đội hình hạm đội, Đô đốc Spruance đã cho Đô đốc Lee rút các thiết giáp hạm cao tốc, trong đó có hai chiếc thiết giáp hạm South Dakota (BB-57) và Alabama (BB-60) ở trong ảnh, rời khỏi các vị trí hộ tống phòng không (AA) để hình thành đội hình hành tiến vòng tròn của lực lượng thiết giáp hạm cao tốc, nhằm chuẩn bị triển khai thành đội hình chiến đấu hàng dọc. Lực lượng thiết giáp hạm của Lee được bố trí cách 15 dặm phía trước đội hình gồm 15 tàu sân bay, vốn được sắp xếp thành bốn đội hình tàu sân bay vòng tròn riêng biệt. Lee tiến về hướng tây với mục tiêu tìm kiếm và tiêu diệt Hạm đội Cơ động Nhật Bản. Alabama là con tàu đầu tiên phát hiện máy bay đối phương trên radar, ở cự ly 140 dặm, vào lúc 09 giờ 57 phút sáng. Đến 10 giờ 48 phút, trận không chiến quy mô lớn với các máy bay xoắn xuýt nhau đã lan tới đội hình thiết giáp hạm, và các tàu của Lee dựng lên một màn hỏa lực phòng không dày đặc. CAP, kết hợp với khối lượng hỏa lực AA của các thiết giáp hạm, đã ngăn chặn mọi đợt tấn công đường không quy mô lớn nhằm vào lực lượng thiết giáp hạm của Lee, cũng như không cho máy bay đối phương xuyên qua để tấn công các tàu sân bay. Indiana là con tàu đầu tiên bắn hạ được một máy bay, nhưng đến 10 giờ 49 phút, South Dakota trúng trực tiếp một quả bom 500 pound vào mạn trái của cấu trúc thượng tầng, khiến 24 người thiệt mạng và 27 người bị thương.
Trong quá trình tổ chức đội hình hạm đội, Đô đốc Spruance đã cho Đô đốc Lee rút các thiết giáp hạm cao tốc, trong đó có hai chiếc thiết giáp hạm South Dakota (BB-57) và Alabama (BB-60) ở trong ảnh, rời khỏi các vị trí hộ tống phòng không (AA) để hình thành đội hình hành tiến vòng tròn của lực lượng thiết giáp hạm cao tốc, nhằm chuẩn bị triển khai thành đội hình chiến đấu hàng dọc. Lực lượng thiết giáp hạm của Lee được bố trí cách 15 dặm phía trước đội hình gồm 15 tàu sân bay, vốn được sắp xếp thành bốn đội hình tàu sân bay vòng tròn riêng biệt. Lee tiến về hướng tây với mục tiêu tìm kiếm và tiêu diệt Hạm đội Cơ động Nhật Bản. Alabama là con tàu đầu tiên phát hiện máy bay đối phương trên radar, ở cự ly 140 dặm, vào lúc 09 giờ 57 phút sáng. Đến 10 giờ 48 phút, trận không chiến quy mô lớn với các máy bay xoắn xuýt nhau đã lan tới đội hình thiết giáp hạm, và các tàu của Lee dựng lên một màn hỏa lực phòng không dày đặc. CAP, kết hợp với khối lượng hỏa lực AA của các thiết giáp hạm, đã ngăn chặn mọi đợt tấn công đường không quy mô lớn nhằm vào lực lượng thiết giáp hạm của Lee, cũng như không cho máy bay đối phương xuyên qua để tấn công các tàu sân bay. Indiana là con tàu đầu tiên bắn hạ được một máy bay, nhưng đến 10 giờ 49 phút, South Dakota trúng trực tiếp một quả bom 500 pound vào mạn trái của cấu trúc thượng tầng, khiến 24 người thiệt mạng và 27 người bị thương.
Trong khoảng thời gian từ 11 giờ 50 phút đến 12 giờ 15 phút, các máy bay ném bom bổ nhào và ném ngư lôi tấn công lực lượng thiết giáp hạm của Lee, nhưng mật độ hỏa lực phòng không đã ngăn cản mọi máy bay hoàn tất đòn đánh. USS Iowa (BB-61) - chiếc thiết giáp giáp hạm mới và lớn nhất của hạm đội - trong khi đang hoạt động hộ tống các tàu sân bay phe mình, đã bị một máy bay ném ngư lôi Nakajima B5N “Kate” tấn công. Chiếc thiết giáp hạm đã bắn hạ được máy bay này. Sau đó, ba tiêm kích Mitsubishi A6M “Zero” cũng tiến hành tấn công nhưng không ghi được cú đánh trúng nào. Cũng vào lúc 11 giờ 45 phút, khi có báo cáo khoảng 20 máy bay của Đợt II đã xuyên thủng hàng rào phòng không và đang đến gần, tàu khu trục cảnh giới Stockham (Chỉ huy E. P. Holmes), lúc đó cách trung tâm tuyến thiết giáp hạm khoảng 10 dặm về phía khuất gió, đã dành 20 phút "chiến đấu chống lại nhiều cuộc tấn công từ mọi hướng," nhưng không có thiệt hại nào. Một mô tả giai đoạn này như sau: "Các thiết giáp hạm, tàu tuần dương và tàu khu trục phía trước tạo ra một hàng rào pháo dữ dội, cùng với các máy bay bốc cháy khắp chân trời, tạo nên một cảnh tượng kinh hoàng nhất."
Trong khoảng thời gian từ 11 giờ 50 phút đến 12 giờ 15 phút, các máy bay ném bom bổ nhào và ném ngư lôi tấn công lực lượng thiết giáp hạm của Lee, nhưng mật độ hỏa lực phòng không đã ngăn cản mọi máy bay hoàn tất đòn đánh. USS Iowa (BB-61) - chiếc thiết giáp giáp hạm mới và lớn nhất của hạm đội - trong khi đang hoạt động hộ tống các tàu sân bay phe mình, đã bị một máy bay ném ngư lôi Nakajima B5N “Kate” tấn công. Chiếc thiết giáp hạm đã bắn hạ được máy bay này. Sau đó, ba tiêm kích Mitsubishi A6M “Zero” cũng tiến hành tấn công nhưng không ghi được cú đánh trúng nào. Cũng vào lúc 11 giờ 45 phút, khi có báo cáo khoảng 20 máy bay của Đợt II đã xuyên thủng hàng rào phòng không và đang đến gần, tàu khu trục cảnh giới Stockham (Chỉ huy E. P. Holmes), lúc đó cách trung tâm tuyến thiết giáp hạm khoảng 10 dặm về phía khuất gió, đã dành 20 phút "chiến đấu chống lại nhiều cuộc tấn công từ mọi hướng," nhưng không có thiệt hại nào. Một mô tả giai đoạn này như sau: "Các thiết giáp hạm, tàu tuần dương và tàu khu trục phía trước tạo ra một hàng rào pháo dữ dội, cùng với các máy bay bốc cháy khắp chân trời, tạo nên một cảnh tượng kinh hoàng nhất."
Dù Hellcat đạt hiệu suất tiêu diệt khủng khiếp, vẫn còn hơn 30 máy bay Nhật tiến được đến gần TF 58. Khoảng 20 chiếc được báo cáo chia thành ba nhóm lúc 11 giờ 45 phút, và bắt đầu một loạt cuộc tấn công không phối hợp. Một lần nữa, TG 58.7 phải chịu phần lớn các đợt tấn công này. Tàu khu trục cảnh giới Stockham báo cáo bị tấn công nhưng không có thương vong. Gần 12 giờ trưa, các thiết giáp hạm của TG 58.7 trở thành mục tiêu. Hai máy bay mang ngư lôi tấn công South Dakota nhưng không trúng. Hai chiếc khác chọn Indiana, ở trung tâm đội hình TG 58.7, làm mục tiêu; một trong số đó lao xuống sườn tàu ở mực nước, nhưng chỉ gây thiệt hại nhẹ. Một máy bay ném ngư lôi khác nhắm vào Iowa nhưng ném trượt, còn ít nhất hai chiếc ném bom bổ nhào tấn công Alabama, cả hai đều thả bom trượt mục tiêu.
Một chiếc máy bay ném bom bổ nhào D4Y1 từ "Đợt Không kích lần II" của Nhật đã ném trúng rất gần tàu sân bay Bunker Hill. Chiếc máy bay đó, không còn phần đuôi, có thể thấy đang lao xuống biển ở bên trái. Đây là lần gần nhất mà người Nhật suýt đánh trúng một tàu sân bay Mỹ trong trận này. Quả bom rơi sát mạn trái của Bunker Hill khiến 3 người chết, 73 người bị thương, hư hại thang nâng bên trái, gây ra nhiều đám cháy nhỏ, hất văng một chiếc Hellcat xuống biển, và làm hư hệ thống nhiên liệu của boong chứa máy bay. (NHHC)
Một chiếc máy bay ném bom bổ nhào D4Y1 từ "Đợt Không kích lần II" của Nhật đã ném trúng rất gần tàu sân bay Bunker Hill. Chiếc máy bay đó, không còn phần đuôi, có thể thấy đang lao xuống biển ở bên trái. Đây là lần gần nhất mà người Nhật suýt đánh trúng một tàu sân bay Mỹ trong trận này. Quả bom rơi sát mạn trái của Bunker Hill khiến 3 người chết, 73 người bị thương, hư hại thang nâng bên trái, gây ra nhiều đám cháy nhỏ, hất văng một chiếc Hellcat xuống biển, và làm hư hệ thống nhiên liệu của boong chứa máy bay. (NHHC)
Một nhóm máy bay ném bom bổ nhào D4Y1 khác đã tránh được CAP và tấn công các tàu sân bay Wasp và Bunker Hill thuộc TG 58.2. Trong bức ảnh này, một quả bom Nhật nổ ở bên mạn phải của Bunker Hill, nhưng ở quá xa để gây thiệt hại. (NHHC)
Một nhóm máy bay ném bom bổ nhào D4Y1 khác đã tránh được CAP và tấn công các tàu sân bay Wasp và Bunker Hill thuộc TG 58.2. Trong bức ảnh này, một quả bom Nhật nổ ở bên mạn phải của Bunker Hill, nhưng ở quá xa để gây thiệt hại. (NHHC)
Một máy bay Nhật Bản đang bốc cháy trong cuộc tấn công vào buổi trưa nhằm vào TG 58.2, trong bức ảnh được chụp từ tàu sân bay hạng nhẹ Monterey (CVL-26). (NHHC)
Một máy bay Nhật Bản đang bốc cháy trong cuộc tấn công vào buổi trưa nhằm vào TG 58.2, trong bức ảnh được chụp từ tàu sân bay hạng nhẹ Monterey (CVL-26). (NHHC)
Một số ít máy bay Nhật thực hiện những cuộc tấn công đầu tiên vào các tàu sân bay Mỹ trong trận đánh. Một nhóm 6 máy bay ném bom bổ nhào thoát khỏi lưới Hellcat và bay về phía nam, chạm trán TG 58.2. Bốn chiếc chọn tàu sân bay Wasp làm mục tiêu; không quả bom nào trúng, nhưng một quả nổ ngay phía trên, khiến mảnh bom văng xuống sàn bay, giết chết 1 người và làm 12 người bị thương. Lúc 12 giờ 03 phút, hai chiếc còn lại bổ nhào tấn công Bunker Hill, tạo hai vụ nổ sượt mục tiêu, gây thiệt hại nhỏ và cháy cục bộ, đồng thời giết 3 người và làm bị thương 73 thủy thủ. Bốn trong sáu máy bay tấn công bị hỏa lực phòng không bắn hạ. Cả hai tàu sân bay vẫn tiếp tục hoạt động bình thường. Ngoài ra, 6 máy bay mang ngư lôi khác tấn công TG 58.3 ngay trước 12 giờ trưa. Một chiếc nhắm vào Enterprise nhưng trượt; ba chiếc khác tấn công Princeton, tất cả bị hỏa lực phòng không bắn rơi, và không quả ngư lôi nào trúng mục tiêu.
Một số ít máy bay Nhật từ "Đợt Không kích lần II" lọt qua được Hellcat và tiến hành tấn công các tàu sân bay thuộc TG 58.3. Enterprise đang di chuyển tốc độ cao ở bên trái khung hình, còn tàu sân bay ở phía xa là San Jacinto hoặc Princeton. Có thể thấy các đạn nổ 5-inch/38 và pháo 40mm tạo ra những đám khói nổ lớn nhỏ khác nhau. (NHHC)
Một số ít máy bay Nhật từ "Đợt Không kích lần II" lọt qua được Hellcat và tiến hành tấn công các tàu sân bay thuộc TG 58.3. Enterprise đang di chuyển tốc độ cao ở bên trái khung hình, còn tàu sân bay ở phía xa là San Jacinto hoặc Princeton. Có thể thấy các đạn nổ 5-inch/38 và pháo 40mm tạo ra những đám khói nổ lớn nhỏ khác nhau. (NHHC)
Các cuộc tấn công nhằm vào TG 58.3 được tiến hành bởi đợt không kích thứ hai của Ozawa. Mức độ tiếp cận gần nhất của lực lượng tấn công Nhật Bản là vụ ném bom rơi xa phía sau tàu sân bay Enterprise. Góc nhìn này được chụp từ tàu tuần dương hạng nhẹ Birmingham. (NHHC)
Các cuộc tấn công nhằm vào TG 58.3 được tiến hành bởi đợt không kích thứ hai của Ozawa. Mức độ tiếp cận gần nhất của lực lượng tấn công Nhật Bản là vụ ném bom rơi xa phía sau tàu sân bay Enterprise. Góc nhìn này được chụp từ tàu tuần dương hạng nhẹ Birmingham. (NHHC)
Một góc nhìn khác từ tàu San Jacinto về vụ nổ của quả bom nằm xa ở phía sau Enterprise trong đợt không kích lần hai của Nhật Bản. (NHHC)
Một góc nhìn khác từ tàu San Jacinto về vụ nổ của quả bom nằm xa ở phía sau Enterprise trong đợt không kích lần hai của Nhật Bản. (NHHC)
Một góc nhìn khác về cuộc tấn công vào TG 58.3. Các pháo thủ trên tàu sân bay hạng nhẹ San Jacinto tuyên bố đã bắn hạ một máy bay Nhật Bản. Chiếc máy bay này đang thực hiện đòn tấn công nhằm vào tàu sân bay Enterprise. (NHHC)
Một góc nhìn khác về cuộc tấn công vào TG 58.3. Các pháo thủ trên tàu sân bay hạng nhẹ San Jacinto tuyên bố đã bắn hạ một máy bay Nhật Bản. Chiếc máy bay này đang thực hiện đòn tấn công nhằm vào tàu sân bay Enterprise. (NHHC)
Một chiếc máy bay Nhật từ "Đợt Không kích lần II" bị bắn rơi trên không phận TG 58.3 ngay trước buổi trưa. Tàu sân bay hạng nhẹ trong hình có lẽ là Princeton, vốn bị ba máy bay tấn công. (NHHC)
Một chiếc máy bay Nhật từ "Đợt Không kích lần II" bị bắn rơi trên không phận TG 58.3 ngay trước buổi trưa. Tàu sân bay hạng nhẹ trong hình có lẽ là Princeton, vốn bị ba máy bay tấn công. (NHHC)
TG 58.3 cũng bị tấn công bởi một số máy bay ném ngư lôi B6N đã tránh được CAP của Mỹ. Bức ảnh này cho thấy hỏa lực phòng không từ Enterprise đang khai hỏa vào các máy bay Nhật đang lao tới. Một chiếc B6N đã rơi xuống biển ở giữa khung hình. Tàu sân bay ở bên phải là Princeton hoặc San Jacinto. (NHHC)
TG 58.3 cũng bị tấn công bởi một số máy bay ném ngư lôi B6N đã tránh được CAP của Mỹ. Bức ảnh này cho thấy hỏa lực phòng không từ Enterprise đang khai hỏa vào các máy bay Nhật đang lao tới. Một chiếc B6N đã rơi xuống biển ở giữa khung hình. Tàu sân bay ở bên phải là Princeton hoặc San Jacinto. (NHHC)
Một cuộc không kích của Nhật Bản nhằm vào Lực lượng Đặc nhiệm 58 bị máy bay trên tàu sân bay chặn lại ở phía tây đảo Guam thuộc quần đảo Mariana. Hình ảnh cho thấy một cuộc tấn công vào tàu sân bay USS San Jacinto (CVL 30). Ảnh chụp từ tàu USS Healy (DD 672), ngày 19 tháng 6 năm 1944. (NHHC)
Một cuộc không kích của Nhật Bản nhằm vào Lực lượng Đặc nhiệm 58 bị máy bay trên tàu sân bay chặn lại ở phía tây đảo Guam thuộc quần đảo Mariana. Hình ảnh cho thấy một cuộc tấn công vào tàu sân bay USS San Jacinto (CVL 30). Ảnh chụp từ tàu USS Healy (DD 672), ngày 19 tháng 6 năm 1944. (NHHC)
Cú đánh chủ lực của Ozawa đã hoàn toàn vô hiệu. Trong tổng số 128 máy bay được tung ra, 97 chiếc không bao giờ quay trở lại tàu sân bay của mình. Tổn thất bao gồm 32 chiếc Zero, 42 máy bay ném bom bổ nhào, và 23 chiếc B6N2. Điều khiến phía Nhật thất vọng hơn nữa là số lượng cực nhỏ máy bay có thể thực sự tìm được tàu sân bay để tấn công. Các đợt tấn công của Hải đội Tàu sân bay 1 bị phân tán, không phối hợp, và năng lực hạn chế của phi công Nhật khiến họ không giáng được một cú đánh đáng kể nào.
Một nhóm trinh sát Nhật thứ ba được phóng đi lúc 05 giờ 30 phút, gồm 11 máy bay ném bom bổ nhào D4Y từ Shokaku và hai thủy phi cơ E13A từ tàu tuần dương Mogami. Nhiệm vụ của họ là truy tìm mục tiêu trong phạm vi 560 hải lý về phía đông. Dù nhìn chung máy bay trinh sát Nhật thực hiện nhiệm vụ khá tốt trong trận này, cuộc tìm kiếm này lại phát đi hai báo cáo sai lệch nghiêm trọng, gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến hai đợt tấn công cuối cùng của Nhật. Báo cáo đầu tiên phát lúc 09 giờ 45 phút cho biết phát hiện ba tàu sân bay, năm thiết giáp hạm và mười tàu khác — được ký hiệu là “15 Ri”. Thật không may, phi hành đoàn đã quên hiệu chỉnh sai lệch la bàn, khiến vị trí được báo cáo nằm xa về phía nam so với vị trí thật của TF 58. Báo cáo thứ hai, ký hiệu “3 Ri”, được phát lúc 10 giờ, cho biết phát hiện một tàu sân bay, một tàu sân bay hạng nhẹ, một thiết giáp hạm và năm tàu khu trục — vị trí nằm về phía bắc so với TF 58 thực tế, nhưng có thể thực sự là TG 58.4.
"THẢM SÁT GÀ TÂY TẠI QUẦN ĐẢO MARIANA" (GIAI ĐOẠN 2): Tiêm kích Mỹ giao chiến với máy bay Nhật trong Đợt III và Đợt IV, ngày 19 tháng 6.
"THẢM SÁT GÀ TÂY TẠI QUẦN ĐẢO MARIANA" (GIAI ĐOẠN 2): Tiêm kích Mỹ giao chiến với máy bay Nhật trong Đợt III và Đợt IV, ngày 19 tháng 6.
Khi các báo cáo này đến tay Ozawa, đợt tấn công Nhật thứ ba trong ngày đang cất cánh từ Hải đội Tàu sân bay 2. Đợt này — được người Mỹ đặt tên là “Đợt không kích lần III” (Raid III) — gồm 47 máy bay, bao gồm 15 Zero, 25 Zero mang bom, và 7 chiếc B6N2 mang ngư lôi từ Junyo, Hiyo, và Ryuho. Việc cất cánh bắt đầu lúc 10 giờ, với mệnh lệnh tấn công mục tiêu “7 I”. Trên đường đi, nhóm tấn công nhận được lệnh mới phải chuyển hướng sang mục tiêu “3 Ri”, nhưng phần lớn không nhận được thông điệp. 27 máy bay vẫn bay đến khu vực “7 I” theo lệnh cũ, không phát hiện mục tiêu nào và quay lại an toàn. 20 máy bay còn lại hướng về vị trí “3 Ri” chính xác hơn. Khi đến nơi, họ chỉ phát hiện hai thiết giáp hạm và tiếp tục tìm kiếm tàu sân bay — song không có kết quả. Lúc 12 giờ 55 phút, nhóm máy bay Nhật đã quay lại khu vực thiết giáp hạm. Các tiêm kích Hellcat từ HornetYorktown được điều đến đánh chặn nhóm máy bay của Nhật, mà phía Mỹ nhận diện gồm 12–15 chiếc Zero. Phi công Mỹ tuyên bố bắn hạ 14 máy bay, nhưng tổn thất thực tế của Nhật chỉ bằng một nửa. Một vài chiếc Zero tìm thấy TG 58.4 và tấn công; chỉ một chiếc thả được bom, rơi cách Essex 600 yard lúc 13 giờ 20 phút trước khi bị bắn rơi. Đợt tấn công thứ ba của Ozawa kết thúc tại đây, đã không gây thiệt hại gì cho Mỹ, dù chỉ có 40 trong số 47 máy bay trở về được tàu sân bay.
Một máy bay Nhật Bản đang tấn công bốc cháy và rơi xuống giữa hai tàu sân bay Mỹ vào ngày 19 tháng 6. Trong số khoảng 20 máy bay đã xuyên qua được lực lượng CAP để tấn công một tàu sân bay Mỹ, không một chiếc nào có thể ghi được một cú đánh trúng trực tiếp. (NHHC)
Một máy bay Nhật Bản đang tấn công bốc cháy và rơi xuống giữa hai tàu sân bay Mỹ vào ngày 19 tháng 6. Trong số khoảng 20 máy bay đã xuyên qua được lực lượng CAP để tấn công một tàu sân bay Mỹ, không một chiếc nào có thể ghi được một cú đánh trúng trực tiếp. (NHHC)
Một chiếc máy bay ném bom bổ nhào D4Y "Judy" đang bốc cháy do trúng đạn từ pháo phòng không của TF 58 trong ngày 19 tháng 6 năm 1944.
Một chiếc máy bay ném bom bổ nhào D4Y "Judy" đang bốc cháy do trúng đạn từ pháo phòng không của TF 58 trong ngày 19 tháng 6 năm 1944.
Ozawa vẫn còn lực lượng chưa tung ra thuộc Hải đội Tàu sân bay 1 và 2. Đợt tấn công cuối cùng của Nhật, được định danh là "Đợt không kích lần IV" (Raid IV) — gồm 82 máy bay, chủ yếu từ Hải đội Tàu sân bay 2 — bắt đầu cất cánh lúc 11 giờ. Trong số này có 30 tiêm kích Zero, 10 chiếc Zero mang bom, 36 máy bay ném bom bổ nhào (27 chiếc Type 99 và 9 chiếc D4Y), cùng 6 chiếc B6N2 mang ngư lôi. Ngoại trừ bốn chiếc Zero và bốn chiếc B6N2 từ Zuikaku, toàn bộ đều thuộc ba tàu sân bay của Hải đội 2. Đợt này được lệnh tấn công mục tiêu “15 Ri”. Khi đến nơi, họ không thấy gì; nhóm chia làm ba tốp nhỏ. Tốp lớn nhất gồm 20 chiếc Zero, 27 chiếc Type 99, và 2 chiếc B6N bay về phía Guam, bị radar của TF 58 phát hiện lúc 14 giờ 49 phút. Hellcat được điều lên đánh chặn — ban đầu 12 chiếc từ Cowpens, sau đó hơn 40 chiếc từ năm tàu sân bay khác. Người Mỹ bắt gặp đối phương đúng lúc họ đang hạ cánh xuống Guam. Trong trận tàn sát sau đó, 30 trong tổng số 49 máy bay Nhật bị bắn rơi; phần còn lại hạ cánh được nhưng đều bị phá hủy trên đường băng bị bom cày xới. Chỉ có hai chiếc Hellcat bị mất.
Một nhóm khác gồm 6 chiếc Zero và 9 chiếc D4Y hướng tới đảo Rota nhưng bắt gặp TG 58.2. Radar phát hiện họ lúc 13 giờ 30 phút ở cự ly 134 hải lý, lẽ ra có thể đánh chặn dễ dàng, nhưng sự chậm trễ trong việc nhận dạng và chỉ huy yếu kém khiến nhóm máy bay ném bom Nhật có thể tiếp cận tàu sân bay mà không bị ngăn chặn. Sáu máy bay ném bom bổ nhào lao vào Wasp và thả bom; con tàu tránh được nhờ cơ động gấp, quả bom gần nhất rơi cách 250 feet. Hỏa lực phòng không bắn rơi vài chiếc, một chiếc rơi chỉ cách mạn trái của Wasp 200 feet. Ít nhất một chiếc tấn công Bunker Hill, bỏ bom trượt 150 feet trước khi bị bắn hạ. Trong số 9 máy bay tấn công, chỉ có một chiếc sống sót. Nhóm thứ ba gồm 8 máy bay từ Zuikaku và 10 chiếc Zero mang bom quay về vì không gặp được mục tiêu. Trên đường về, họ chạm trán hai tốp máy bay trinh sát Mỹ của Lexington gồm bốn chiếc Avenger hộ tống bởi hai chiếc Hellcat, cách Guam 200 hải lý về phía tây. Các máy bay Zero tấn công, nhưng hai chiếc Hellcat đã phản công lại, bắn hạ sáu máy bay Nhật. Lúc 15 giờ 30 phút, cùng nhóm này gặp hai máy bay của tàu Bunker Hill đang đi trinh sát và bắn hạ cả hai. Kết cục của đợt tấn công cuối cùng trông thật thảm hại: chỉ có 9 trong số 82 máy bay quay về được, mà không gây được thiệt hại nào cho TF 58 và chỉ bắn rơi được vài máy bay Mỹ.
Nhân viên điều phối máy bay trên Lexington nghỉ ngơi trên sàn bay trong một quãng tạm lắng của trận đánh ngày 19 tháng 6. Các máy bay ở hậu cảnh là Hellcat của VF-16. Phi đội này đã thực hiện 38 phi vụ trong ngày và tuyên bố bắn rơi 26 máy bay Nhật Bản. Một chiếc Hellcat bị mất do nguyên nhân kỹ thuật/khai thác. (NHHC)
Nhân viên điều phối máy bay trên Lexington nghỉ ngơi trên sàn bay trong một quãng tạm lắng của trận đánh ngày 19 tháng 6. Các máy bay ở hậu cảnh là Hellcat của VF-16. Phi đội này đã thực hiện 38 phi vụ trong ngày và tuyên bố bắn rơi 26 máy bay Nhật Bản. Một chiếc Hellcat bị mất do nguyên nhân kỹ thuật/khai thác. (NHHC)
Một máy bay Nhật Bản bị rơi phía sau tàu USS Lexington (CV-16) trong một cuộc không kích vào buổi tối trong ngày 19 tháng 6 năm 1944(NHHC)
Một máy bay Nhật Bản bị rơi phía sau tàu USS Lexington (CV-16) trong một cuộc không kích vào buổi tối trong ngày 19 tháng 6 năm 1944(NHHC)
Suốt cả ngày, các cuộc không chiến vẫn diễn ra dữ dội trên không phận của Guam. Spruance lo ngại Ozawa sẽ dùng hòn đảo này làm căn cứ cho các đợt “ném bom luân phiên” nên ra lệnh chế áp liên tục sân bay trên đảo. Gần trưa, 15 chiếc Helldiver từ tàu Yorktown và 17 chiếc từ tàu Hornet đã oanh tạc sân bay Orote; sau đó các máy bay Dauntless từ tàu LexingtonEnterprise, cùng 9 chiếc Avenger của Enterprise hộ tống bởi 10 chiếc Hellcat, đánh tiếp lúc 13 giờ 30 phút. Vào chiều muộn, các máy bay Hellcat từ Bunker Hill bắn phá sân bay, và 11 chiếc Helldiver từ Essex tiếp tục ném bom. Tình trạng hư hại nặng của sân bay khiến 19 máy bay trong đợt tấn công cuối của Ozawa cố hạ cánh đều bị phá hủy. Hành động cuối cùng trong ngày diễn ra lúc 18 giờ 45 phút khi bốn chiếc Hellcat từ Essex bị một nhóm lớn máy bay Zero tấn công; 3 chiếc Hellcat bị bắn rơi. Với cái giá là sáu chiếc Hellcat và một chiếc Helldiver, người Mỹ đã vô hiệu hóa được không lực Nhật từ căn cứ mặt đất. Chỉ có 6 chiếc G4M và 4 chiếc D4Y từ phía nam lọt được đến gần TF 58 lúc 13 giờ 10 phút, nhưng bị bốn chiếc Hellcat đánh chặn và tiêu diệt phần lớn. Không chiếc máy bay Nhật nào tới được đội hình TF 58.
Quay trở lại với Taiho, một quả ngư lôi duy nhất từ tàu ngầm Albacore đã làm vỡ một hoặc nhiều thùng xăng của con tàu. Khi đang chạy ngược gió với tốc độ 26 hải lý/giờ, một sĩ quan kiểm soát thiệt hại thiếu kinh nghiệm ra lệnh cho tất cả các ống thông gió hoạt động hết công suất trong con tàu đang mở toang, tin tưởng rằng luồng gió sẽ thổi bay hơi xăng đi. Điều bày đã gây tác dụng ngược lại khi làm phát tán hơi độc hại khắp tàu; không chỉ là hơi xăng máy bay mà còn là hơi dễ bay hơi từ dầu thô Tarakan mà nó đang sử dụng làm nhiên liệu. Những nỗ lực vụng về để bơm xăng ra ngoài càng làm tăng thêm nguy hiểm, cho đến khi Taiho trở nên giống như một xi lanh siêu nạp khổng lồ chờ được kích nổ. Vào lúc 15 giờ 32 phút, một vụ nổ kinh hoàng đã hất tung sàn bay bọc thép lên thành một thứ giống như một dãy núi thu nhỏ, thổi toác hai bên mạn tàu. Chiếc Taihō bị tách khỏi đội hình và bắt đầu chìm xuống nước. Một phần khoang chứa máy bay bị nổ tung, tạo ra những lỗ thủng lớn ở đáy tàu, và giết chết tất cả mọi người trong khoang máy. Con tàu ngay lập tức bắt đầu chìm. Một tàu tuần dương và một vài tàu khu trục được lệnh tiến đến gần. Một xuồng cứu sinh đã đưa đô đốc, các sĩ quan tham mưu, quốc kỳ và chân dung Nhật Hoàng lên tàu khu trục Wakatsuki, từ đó họ được chuyển lên tàu tuần dương Haguro, đến nơi vào khoảng 17 giờ 06 phút. Lúc đó, Taibo đang chìm trong biển lửa; không có tàu khu trục nào có thể tiếp cận đủ gần để cứu hộ hiệu quả, và chỉ khoảng 500 trong số 2150 thủy thủ đoàn được cứu sống. Các sĩ quan tham mưu của Ozawa vừa mới trở lại làm nhiệm vụ trên soái hạm mới thì họ nghe thấy và cảm nhận một chấn động giống như vụ nổ ngư lôi. Đó chính là hồi kết của Taibo. Con tàu nghiêng hẳn sang mạn trái, lật úp và chìm xuống vực sâu 2500 sải (khoảng 722 m).
Quay trở lại với Taiho, một quả ngư lôi duy nhất từ tàu ngầm Albacore đã làm vỡ một hoặc nhiều thùng xăng của con tàu. Khi đang chạy ngược gió với tốc độ 26 hải lý/giờ, một sĩ quan kiểm soát thiệt hại thiếu kinh nghiệm ra lệnh cho tất cả các ống thông gió hoạt động hết công suất trong con tàu đang mở toang, tin tưởng rằng luồng gió sẽ thổi bay hơi xăng đi. Điều bày đã gây tác dụng ngược lại khi làm phát tán hơi độc hại khắp tàu; không chỉ là hơi xăng máy bay mà còn là hơi dễ bay hơi từ dầu thô Tarakan mà nó đang sử dụng làm nhiên liệu. Những nỗ lực vụng về để bơm xăng ra ngoài càng làm tăng thêm nguy hiểm, cho đến khi Taiho trở nên giống như một xi lanh siêu nạp khổng lồ chờ được kích nổ. Vào lúc 15 giờ 32 phút, một vụ nổ kinh hoàng đã hất tung sàn bay bọc thép lên thành một thứ giống như một dãy núi thu nhỏ, thổi toác hai bên mạn tàu. Chiếc Taihō bị tách khỏi đội hình và bắt đầu chìm xuống nước. Một phần khoang chứa máy bay bị nổ tung, tạo ra những lỗ thủng lớn ở đáy tàu, và giết chết tất cả mọi người trong khoang máy. Con tàu ngay lập tức bắt đầu chìm. Một tàu tuần dương và một vài tàu khu trục được lệnh tiến đến gần. Một xuồng cứu sinh đã đưa đô đốc, các sĩ quan tham mưu, quốc kỳ và chân dung Nhật Hoàng lên tàu khu trục Wakatsuki, từ đó họ được chuyển lên tàu tuần dương Haguro, đến nơi vào khoảng 17 giờ 06 phút. Lúc đó, Taibo đang chìm trong biển lửa; không có tàu khu trục nào có thể tiếp cận đủ gần để cứu hộ hiệu quả, và chỉ khoảng 500 trong số 2150 thủy thủ đoàn được cứu sống. Các sĩ quan tham mưu của Ozawa vừa mới trở lại làm nhiệm vụ trên soái hạm mới thì họ nghe thấy và cảm nhận một chấn động giống như vụ nổ ngư lôi. Đó chính là hồi kết của Taibo. Con tàu nghiêng hẳn sang mạn trái, lật úp và chìm xuống vực sâu 2500 sải (khoảng 722 m).
Những sự kiện lớn khác trong ngày 19 tháng 6 là hoạt động của các tàu ngầm Mỹ. Việc Cavalla phát hiện hạm đội của Ozawa lúc 07 giờ 30 phút vào ngày 18 tháng 6 khiến Bộ chỉ huy ra lệnh cho các tàu ngầm Finback, Bang, StingrayAlbacore di chuyển từ vị trí tây bắc Saipan đến khu vực tuần tra mới cách 250 hải lý về phía nam, được phép “khai hoả trước, báo cáo sau”. Điều này đặt họ đúng trên đường đi của Hạm đội Cơ động Thứ Nhất của Nhật Bản.
Tàu ngầm đầu tiên tấn công là Albacore. Như đã nói ở trên, Albacore đã bắt gặp tàu sân bay Taiho giữa lúc đang phóng máy bay. Đến 09 giờ 09 phút, thuyền trưởng của Albacore vào được vị trí và phóng toàn bộ loạt sáu quả ngư lôi. Một quả đánh trúng mạn phải phía trước thang nâng trước của tàu sân bay. Ngoài việc làm kẹt thang, vụ nổ đã khiến két nhiên liệu hàng không phía trước bị nứt. Đội kiểm soát hư hại đã phạm sai lầm chí tử khi dùng hệ thống thông gió để phát tán hơi nhiên liệu và dầu thô Tarakan cực dễ cháy lan khắp con tàu — biến Taiho thành một quả bom nổi. Thảm họa xảy ra lúc 15 giờ 32 phút khi một vụ nổ khổng lồ xé toang sàn bay và thân tàu. Khi con tàu bắt đầu chìm, Ozawa và tham mưu của ông được một tàu khu trục cứu đi; Taiho sau đó chìm, và mang theo 660 thủy thủ.
Tàu ngầm Cavalla, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân H. J. Kossler, đã cố gắng bám theo Hạm đội Cơ động Thứ Nhất kể từ khi mất dấu vào ngày 17 tháng 6. Sự kiên trì của Kossler cuối cùng đã được đền đáp khi lúc 11 giờ 52 phút ngày 19 tháng 6, ông nâng kính tiềm vọng lên và phát hiện mình đang ở ngay giữa Lực lượng A. Ông nhận ra Shōkaku đang thu hồi máy bay. Kossler bắt đầu tiếp cận, nâng kính tiềm vọng lên thêm ba lần nữa. Tàu khu trục Nhật Urakaze đang hành trình ở mạn phải của tàu sân bay, nhưng không hề phát hiện sự hiện diện của tàu ngầm Mỹ. Khi đã tiến vào cự ly 1.000 yard, Kossler khai hỏa sáu ngư lôi rồi lập tức lặn sâu. Bốn quả ngư lôi trúng đích ở mạn phải – hai quả ở phần mũi và hai quả ở giữa thân tàu. Urakaze đã phản ứng muộn màng, quay lại tấn công Cavalla, nhưng đã quá trễ. Kossler ghi nhận rằng có 106 quả bom chìm được thả xuống, một nửa trong số đó nổ khá gần, song Cavalla vẫn sống sót để kể lại chiến công đánh chìm chiếc tàu lớn nhất từng bị tàu ngầm Mỹ đánh đắm trong chiến tranh cho đến thời điểm đó. Ba quả ngư lôi đã vượt quá khả năng chịu đựng của Shōkaku. Những đám cháy lớn bùng lên trong hầm chứa máy bay và con tàu nghiêng về mạn phải. Việc bơm nước cân bằng sang mạn trái khiến con tàu nghiêng ngược lại. Khi ngọn lửa ở boong chứa máy bay ngày càng dữ dội, tàu sân bay bất lực dừng lại, phần mũi bắt đầu chìm xuống do ngập nước. Các vụ nổ lớn do nhiên liệu cháy lan khiến tình hình không thể cứu vãn. Ngay trước 15 giờ, thuyền trưởng ra lệnh cho thủy thủ đoàn “Bỏ tàu!”. Nhưng trước khi phần lớn thủy thủ có thể rời đi, mũi của Shōkaku đã chìm hẳn, kéo cả con tàu lặn xuống biển theo tư thế chúi mũi. Diễn biến đột ngột này gây thương vong nặng nề với 1.272 người thiệt mạng. (Tranh của Jim Laurier)
Tàu ngầm Cavalla, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân H. J. Kossler, đã cố gắng bám theo Hạm đội Cơ động Thứ Nhất kể từ khi mất dấu vào ngày 17 tháng 6. Sự kiên trì của Kossler cuối cùng đã được đền đáp khi lúc 11 giờ 52 phút ngày 19 tháng 6, ông nâng kính tiềm vọng lên và phát hiện mình đang ở ngay giữa Lực lượng A. Ông nhận ra Shōkaku đang thu hồi máy bay. Kossler bắt đầu tiếp cận, nâng kính tiềm vọng lên thêm ba lần nữa. Tàu khu trục Nhật Urakaze đang hành trình ở mạn phải của tàu sân bay, nhưng không hề phát hiện sự hiện diện của tàu ngầm Mỹ. Khi đã tiến vào cự ly 1.000 yard, Kossler khai hỏa sáu ngư lôi rồi lập tức lặn sâu. Bốn quả ngư lôi trúng đích ở mạn phải – hai quả ở phần mũi và hai quả ở giữa thân tàu. Urakaze đã phản ứng muộn màng, quay lại tấn công Cavalla, nhưng đã quá trễ. Kossler ghi nhận rằng có 106 quả bom chìm được thả xuống, một nửa trong số đó nổ khá gần, song Cavalla vẫn sống sót để kể lại chiến công đánh chìm chiếc tàu lớn nhất từng bị tàu ngầm Mỹ đánh đắm trong chiến tranh cho đến thời điểm đó. Ba quả ngư lôi đã vượt quá khả năng chịu đựng của Shōkaku. Những đám cháy lớn bùng lên trong hầm chứa máy bay và con tàu nghiêng về mạn phải. Việc bơm nước cân bằng sang mạn trái khiến con tàu nghiêng ngược lại. Khi ngọn lửa ở boong chứa máy bay ngày càng dữ dội, tàu sân bay bất lực dừng lại, phần mũi bắt đầu chìm xuống do ngập nước. Các vụ nổ lớn do nhiên liệu cháy lan khiến tình hình không thể cứu vãn. Ngay trước 15 giờ, thuyền trưởng ra lệnh cho thủy thủ đoàn “Bỏ tàu!”. Nhưng trước khi phần lớn thủy thủ có thể rời đi, mũi của Shōkaku đã chìm hẳn, kéo cả con tàu lặn xuống biển theo tư thế chúi mũi. Diễn biến đột ngột này gây thương vong nặng nề với 1.272 người thiệt mạng. (Tranh của Jim Laurier)
Tàu ngầm thứ hai tấn công là Cavalla. Lúc 11 giờ 52 phút, chiếc tàu ngầm đã phát hiện tàu sân bay Shokaku đang thu hồi máy bay. Thuyền trưởng của Cavalla khéo léo tiếp cận trong cự ly 1.000 yard và phóng toàn bộ sáu ngư lôi. Bốn quả trúng mạn phải tàu sân bay, gây ra thiệt hại tức thì và khủng khiếp. Shokaku nghiêng sang phải khi hỏa hoạn bùng lên trên boong chứa máy bay; các vụ nổ dây chuyền làm nứt két nhiên liệu phía trước. Nhiều vụ nổ lớn do hơi xăng thoát ra khiến con tàu — từng tham gia cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng năm 1941 — đã chính thức diệt vong. Shokaku chìm đột ngột lúc 15 giờ 01 phút, mang theo 1.272 thủy thủ.

HẬU QUẢ CỦA NGÀY 19 THÁNG 6

Các phi công Hellcat là nhân tố chủ chốt gây nên thảm họa cho Nhật vào ngày 19 tháng 6. Trong bức ảnh này, Trung úy (cấp dưới) Alexander Vraciu giơ sáu ngón tay biểu thị số máy bay ông bắn hạ trong ngày hôm đó. Ông thuộc phi đội VF-16 trên tàu Lexington và là một trong sáu phi công TF 58 bắn rơi từ 5 chiếc trở lên, trở thành “át chủ bài trong một ngày”. Vraciu sau đó nâng tổng số chiến công lên 19 chiến thắng, trở thành phi công bắn hạ nhiều thứ tư trong Hải quân Mỹ. (NHHC)
Các phi công Hellcat là nhân tố chủ chốt gây nên thảm họa cho Nhật vào ngày 19 tháng 6. Trong bức ảnh này, Trung úy (cấp dưới) Alexander Vraciu giơ sáu ngón tay biểu thị số máy bay ông bắn hạ trong ngày hôm đó. Ông thuộc phi đội VF-16 trên tàu Lexington và là một trong sáu phi công TF 58 bắn rơi từ 5 chiếc trở lên, trở thành “át chủ bài trong một ngày”. Vraciu sau đó nâng tổng số chiến công lên 19 chiến thắng, trở thành phi công bắn hạ nhiều thứ tư trong Hải quân Mỹ. (NHHC)
Một tàu ngầm Mỹ vớt một phi công bị bắn rơi ngoài khơi Saipan vào ngày 19 tháng 6. Đến giữa năm 1944, các tàu ngầm đã rất thành thạo nhiệm vụ “cứu hộ phi công”, mang lại tác động tích cực lớn tới tinh thần của lực lượng không quân. (NHHC)
Một tàu ngầm Mỹ vớt một phi công bị bắn rơi ngoài khơi Saipan vào ngày 19 tháng 6. Đến giữa năm 1944, các tàu ngầm đã rất thành thạo nhiệm vụ “cứu hộ phi công”, mang lại tác động tích cực lớn tới tinh thần của lực lượng không quân. (NHHC)
Những diễn biến trong ngày 19 tháng 6 rõ ràng là một thảm họa đối với người Nhật, nhưng mức độ thực sự của thảm họa đó vẫn chưa rõ ràng đối với Ozawa. Bốn đợt không kích do Hạm đội Cơ động Thứ Nhất thực hiện có tổng cộng 373 máy bay, trong đó con số kinh hoàng là 243 chiếc bị mất. Tổng thiệt hại còn cao hơn, do 9 máy bay bị mất khi Shokaku chìm, 13 chiếc khác mất cùng Taiho, và khoảng 50 chiếc nữa bị mất tại Guam. Tổng cộng, thiệt hại của Nhật lên đến khoảng 315 máy bay. Các phi công của Hellcat đều nhất trí rằng trình độ của đối thủ Nhật Bản là rất tệ; các phi công Zero đã thể hiện sự thiếu hiểu biết về chiến thuật hợp lý, thay vào đó chỉ biểu diễn các động tác nhào lộn, trong khi các phi công ném bom Nhật dễ dàng tách khỏi đội hình, khiến họ trở thành những mục tiêu dễ bắn hạ. Trong ngày hôm đó, 296 chiếc Hellcat đã tham chiến, thì có 14 chiếc mất trong chiến đấu và 6 chiếc khác mất do sự cố kỹ thuật.
Thiệt hại của tàu sân bay Bunker Hill (CV-17) là 2 quả bom nổ sát bên mạn trái của con tàu. Hai quả bom này làm hư hại thang nâng bên trái, gây ra nhiều đám cháy nhỏ, và làm hư hệ thống nhiên liệu của boong chứa máy bay.
Thiệt hại của tàu sân bay Bunker Hill (CV-17) là 2 quả bom nổ sát bên mạn trái của con tàu. Hai quả bom này làm hư hại thang nâng bên trái, gây ra nhiều đám cháy nhỏ, và làm hư hệ thống nhiên liệu của boong chứa máy bay.
Thiệt hại của Taiho bao gồm một quả ngư lôi của Albacore đã đánh trúng tại khu vực ngang với thang nâng máy bay phía trước của tàu sân bay. Một quả ngư lôi thứ hai lẽ ra sẽ đánh trúng phía trước vị trí đó, nhưng Chuẩn úy Kumatsu Sakio, đang điều khiển một máy bay vừa cất cánh từ tàu, đã phát hiện ra các quả ngư lôi và hy sinh thân mình để chặn. Con tàu bị dẫu chỉ bị trúng một quả nhưng do những sai lầm và sự thiếu kinh nghiệm của đội ngũ sửa chữa thiết hại đã dẫn sự mất mát của con tàu
Thiệt hại của Taiho bao gồm một quả ngư lôi của Albacore đã đánh trúng tại khu vực ngang với thang nâng máy bay phía trước của tàu sân bay. Một quả ngư lôi thứ hai lẽ ra sẽ đánh trúng phía trước vị trí đó, nhưng Chuẩn úy Kumatsu Sakio, đang điều khiển một máy bay vừa cất cánh từ tàu, đã phát hiện ra các quả ngư lôi và hy sinh thân mình để chặn. Con tàu bị dẫu chỉ bị trúng một quả nhưng do những sai lầm và sự thiếu kinh nghiệm của đội ngũ sửa chữa thiết hại đã dẫn sự mất mát của con tàu
Thiệt hại của Shōkaku gồm bốn trong tổng số sáu quả ngư lôi do tàu ngầm Cavalla phóng trúng gây ra. Quả ngư lôi đầu tiên đánh trúng khu vực phía trước đảo chỉ huy của tàu sân bay, nơi xăng máy bay được lưu trữ. Quả ngư lôi thứ hai đánh trúng chỉ vài giây sau đó, tại vách ngăn giữa buồng nồi hơi số 3 và số 5. Cú đánh trúng thứ ba nằm ngay bên dưới đảo chỉ huy, làm ngập kho bom và khu vực chứa ngư lôi. Quả ngư lôi thứ tư và cũng là cuối cùng đánh trúng phần mũi tàu, làm phần mũi bị mất lực nổi khiến con tàu bị chìm phần mũi khi bị đánh đắm.
Thiệt hại của Shōkaku gồm bốn trong tổng số sáu quả ngư lôi do tàu ngầm Cavalla phóng trúng gây ra. Quả ngư lôi đầu tiên đánh trúng khu vực phía trước đảo chỉ huy của tàu sân bay, nơi xăng máy bay được lưu trữ. Quả ngư lôi thứ hai đánh trúng chỉ vài giây sau đó, tại vách ngăn giữa buồng nồi hơi số 3 và số 5. Cú đánh trúng thứ ba nằm ngay bên dưới đảo chỉ huy, làm ngập kho bom và khu vực chứa ngư lôi. Quả ngư lôi thứ tư và cũng là cuối cùng đánh trúng phần mũi tàu, làm phần mũi bị mất lực nổi khiến con tàu bị chìm phần mũi khi bị đánh đắm.
Ozawa vẫn không nhận thức được toàn bộ quy mô của thảm họa này. Theo ông, vẫn có lý do để lạc quan, vì phi công Nhật báo cáo rằng đã đánh chìm bốn tàu sân bay Mỹ và làm hư hại sáu chiếc khác. Dù biết rằng chỉ có số ít máy bay trở về được tàu mẹ, Ozawa cho rằng nhiều máy bay mất tích có thể đã hạ cánh tại Guam và Rota. Sự hỗn loạn vốn có trong chiến đấu còn bị khuếch đại do khó khăn trong việc duy trì chỉ huy – kiểm soát, bởi Ozawa phải chuyển sang chỉ huy từ tàu tuần dương Haguro, nơi có khả năng thông tin liên lạc rất hạn chế sau khi tàu Taiho bị tiêu diệt. Trận chiến quyết định tưởng chừng mới chỉ bắt đầu, và vẫn chưa hẳn là đã thua. Với suy nghĩ đó, Ozawa ra lệnh cho Hạm đội Cơ động Thứ Nhất hướng về tây bắc lúc 18 giờ 08 phút vào ngày 19 tháng 6, để tiếp dầu vào ngày hôm sau trước khi tiếp tục chiến đấu.
Sáng hôm sau, Hạm đội Cơ động Thứ nhất bắt đầu tiếp dầu lúc 09 giờ 20 phút. Sau ba giờ hỗn loạn mà không đạt được tiến triển nào, Ozawa hủy bỏ việc tiếp dầu. Lúc 13 giờ, ông và bộ tham mưu chuyển sang tàu Zuikaku, nơi hệ thống thông tin liên lạc tốt hơn giúp Ozawa nhận thức rõ hơn về kết quả ngày 19 tháng 6. Đến lúc này, hạm đội của ông chỉ còn khoảng 100 máy bay – gồm 32 chiếc trên Zuikaku, 46 chiếc trên ba tàu sân bay thuộc Hải đội Tàu sân bay số 2, và 22 chiếc thuộc Hải đội Tàu sân bay số 3.
Kakuta mang lại chút hy vọng khi báo cáo rằng một số máy bay tàu sân bay đã hạ cánh tại Guam và lực lượng Không quân căn cứ mặt đất đang được tăng cường. Vì vậy, Ozawa quyết định kéo dài trận đánh, nhưng đồng ý hoãn đợt không kích tiếp theo sang ngày 21 tháng 6. Kurita khuyên nên rút lui để tránh một đòn phản công của Mỹ, nhưng Ozawa vẫn chưa tin rằng trận quyết chiến đã kết thúc. Chính sự ngoan cố này đã mở toang cơ hội cho phía Mỹ phản công. Lúc 16 giờ 45 phút, đơn vị tình báo tín hiệu của Nhật thông báo cho Ozawa rằng máy bay Mỹ đã phát hiện ra Hạm đội Cơ động Thứ Nhất. Cuối cùng, khi biết rằng TF 58 đã di chuyển về hướng tây và có thể nằm trong tầm tấn công, Ozawa ra lệnh cho hạm đội tăng tốc lên 24 hải lý/giờ theo hướng tây bắc. Ba máy bay trinh sát từ các tàu sân bay được phóng đi vào buổi chiều phát hiện TF 58 lúc 17 giờ 15 phút, xác nhận rằng Spruance đang tiến về phía tây. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, đòn phản công của Mỹ đã được tung ra.

ĐÒN TẤN CÔNG CỦA LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM 58 (TF 58)

Hoạt động cơ động, tìm kiếm và tấn công của các lực lượng Mỹ và Nhật Bản, ngày 20 tháng 6.
Hoạt động cơ động, tìm kiếm và tấn công của các lực lượng Mỹ và Nhật Bản, ngày 20 tháng 6.
Suốt ngày 19 tháng 6, TF 58 buộc phải di chuyển về hướng đông để tiến hành cất và hạ cánh máy bay. Sau khi thu hồi toàn bộ máy bay vào 20 giờ tối, lực lượng này đổi hướng sang hướng tây với tốc độ 23 hải lý/giờ nhằm rút ngắn khoảng cách với Hạm đội Cơ động Thứ Nhất của Nhật. Cả Mitscher và Spruance đều quyết tâm tung đòn tấn công vào ngày 20 tháng 6, sử dụng ba nhóm tàu sân bay do TG 58.7 chỉ huy, trong khi TG 58.4 được tách ra để tiếp dầu và trấn áp hoạt động không quân Nhật tại Guam và Rota.
Tuy nhiên, không thể tung đòn tấn công cho đến khi xác định được vị trí của Hạm đội Cơ động Thứ Nhất. Do người Nhật giữ im lặng vô tuyến, và không có thông tin nào từ tàu ngầm Mỹ hoặc thủy phi cơ PBM xuất phát từ tàu căn cứ tại Saipan, TF 58 buộc phải tự tìm đối phương. Mitscher cần xác định vị trí kẻ thù càng sớm càng tốt, bởi càng về chiều, nguy cơ phải thu hồi máy bay trong đêm tối càng lớn. Lúc 05 giờ 30 phút, Mitscher phái lực lượng trinh sát buổi sáng bay xa 325 hải lý, nhưng không phát hiện được gì – bởi khi ấy Hạm đội Cơ động Thứ Nhất ở cách đó tới 400 hải lý. Đến khoảng trưa, Mitscher cho phép 12 chiếc Hellcat của tàu Lexington, do phi công tình nguyện lái, bay xa 475 hải lý về phía tây bắc – nhưng vẫn không thấy dấu vết nào của Ozawa.
LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM 58 TẤN CÔNG HẠM ĐỘI CƠ ĐỘNG THỨ NHẤT: Vào cuối buổi chiều ngày 20 tháng 6, máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ đã tấn công hạm đội Nhật Bản đang rút lui, đánh chìm một tàu sân bay và gây hư hại cho nhiều tàu khác.
LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM 58 TẤN CÔNG HẠM ĐỘI CƠ ĐỘNG THỨ NHẤT: Vào cuối buổi chiều ngày 20 tháng 6, máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ đã tấn công hạm đội Nhật Bản đang rút lui, đánh chìm một tàu sân bay và gây hư hại cho nhiều tàu khác.
Cuộc trinh sát buổi chiều, xuất phát lúc 13 giờ 30 phút với tầm bay 325 hải lý, đã mang lại bước ngoặt cho người Mỹ. Phi công đầu tiên phát hiện Hạm đội Cơ động Thứ Nhất là một phi công Avenger từ tàu Enterprise. Báo cáo tiếp xúc đầu tiên được gửi lúc 15 giờ 40 phút, và chỉ vài phút sau, Mitscher báo cho Spruance rằng ông sẽ tung toàn bộ lực lượng tấn công. Với mặt trời lặn lúc 19 giờ, rõ ràng phi đội tấn công sẽ phải quay về trong đêm tối. Rủi ro càng tăng khi máy bay trinh sát gửi tọa độ hiệu chỉnh, cho thấy vị trí thật của hạm đội Nhật ở xa hơn 60 hải lý về phía tây, nghĩa là cách TF 58 đến 275 hải lý – vượt quá tầm tấn công tối đa. Dẫu vậy, Spruance vẫn chấp thuận tấn công, vì đây dường như là cơ hội duy nhất để đánh trúng đối phương. Sau đó, Mitscher hủy bỏ đợt cất cánh thứ hai, do khoảng cách đến mục tiêu quá xa.
Mức độ nguy hiểm vốn có của quyết định này, cũng như những lý do khiến nó được đưa ra, không gì có thể trình bày rõ ràng hơn bằng chính lời của Đô đốc Mitscher:
Tận dụng cơ hội này để tiêu diệt hạm đội Nhật Bản chắc chắn sẽ khiến chúng ta phải trả giá rất lớn về máy bay và phi công, bởi vì chúng ta phải phóng máy bay ở tầm hoạt động tối đa, vào thời điểm mà việc thu hồi chúng sẽ buộc phải diễn ra sau khi trời tối. Điều đó đồng nghĩa với việc tất cả các tàu sân bay sẽ phải tiếp nhận các không đoàn được huấn luyện bay ban ngày trong điều kiện ban đêm, kéo theo tổn thất không tránh khỏi đối với một số phi công không quen với việc hạ cánh ban đêm và đã kiệt sức sau một phi vụ cực kỳ nguy hiểm và kéo dài. Việc hạ cánh ban đêm sau một đợt tấn công, trong điều kiện tốt nhất, cũng diễn ra rất chậm. Luôn luôn có những chiếc bị lạc đội hình — những máy bay đã phải chiến đấu để thoát khỏi thế bố trí của đối phương, những chiếc bị hư hại, hoặc những chiếc bị lạc hướng. Người ta ước tính rằng sẽ cần khoảng bốn giờ để thu hồi toàn bộ máy bay; trong khoảng thời gian đó, các Nhóm tác chiến Tàu sân bay sẽ phải chạy tàu ngược gió hoặc theo một hướng đông. Lộ trình này sẽ khiến chúng ta nhanh chóng rời xa vị trí của đối phương. Đồng thời, người ta cũng nhận thức rằng đây là một canh bạc chỉ có một lần, bởi các máy bay được tung ra trong đòn tấn công vào cuối buổi chiều này có lẽ sẽ không phải tất cả đều sẵn sàng cho một đợt tấn công vào buổi sáng hôm sau. Vì vậy, Tư lệnh Hạm đội 5 đã được thông báo rằng các tàu sân bay đang ‘dốc toàn bộ vốn liếng của mình'.
TF 58 cuối cùng đã tiến lên đủ xa để cuộc tìm kiếm kéo dài 325 dặm vào buổi chiều, được khởi động lúc 13 giờ 30 phút, đã tiếp cận được với kẻ thù. Cuộc chạm trán được bắt đầu lúc 15 giờ 40 phút bởi một chiếc Avenger đến từ tàu Enterprise do Trung úy Nelson điều khiển, phi công tàu sân bay đầu tiên trong suốt những ngày tìm kiếm và chiến đấu này phát hiện ra một tàu chiến Nhật Bản. Đô đốc Mitscher nhận được tin báo rằng Trung úy Nelson đã nhìn thấy điều gì đó, ở đâu đó - không ai có thể hiểu rõ đó là gì, vì thông điệp quá khó hiểu vào lúc 15 giờ 42 phút. Cần phải đưa ra quyết định nhanh chóng, vì thời gian đang cạn dần; mặt trời sẽ lặn trước 19 giờ. Ông đã nhanh chóng báo động cho lực lượng đặc nhiệm, và lúc 15 giờ 53 phút thông báo cho Spruance rằng ông dự kiến sẽ thực hiện một cuộc tấn công tổng lực, mặc dù việc phục hồi phải diễn ra sau khi trời tối. Lúc Báo cáo liên lạc chính xác của Nelson gửi về cho biết hạm đội Nhật Bản, dàn trải thành ba nhóm, đang di chuyển về phía tây với tốc độ chậm, dường như đang tiếp nhiên liệu. Tám phút sau, lúc 16 giờ 05 phút, Nelson đã sửa lại báo cáo đầu tiên và cung cấp vị trí của Nhật Bản là vĩ độ 14°30′ Bắc, kinh độ 134°30′ Đông. Điều này cho thấy nhóm địch gần nhất cách TF 58 hơn 275 dặm, lúc này đã đến vĩ độ 14° Bắc, kinh độ 139° Đông, khoảng 370 dặm về phía tây của Rota. Một bài nói chuyện ngắn gọn từ Mitscher kết thúc, "Hãy cho chúng nó biết tay, các chàng trai; ước gì tôi ở cùng các bạn," mệnh lệnh "Chuẩn bị máy bay!" đưa ra lúc 16 giờ 10 phút, và các phi công chạy dọc sàn bay nhanh hơn bao giờ hết; bảng biểu đồ dưới cánh tay, súng lục đeo ở thắt lưng, mặt nạ dưỡng khí lủng lẳng trên mũ bảo hiểm. Lúc 16 giờ 21 phút, TF 58 quay đầu vào hướng gió, hoàn thành việc phóng máy bay trong thời gian kỷ lục là 10 phút, và trở lại lộ trình lúc 16 giờ 36 phút. Toàn bộ số máy bay trên sàn bay đã cất cánh - 85 máy bay tiêm kích, 77 máy bay ném bom bổ nhào, 54 máy bay ném ngư lôi—từ sáu tàu sân bay lớn có mặt (Hornet, Yorktown, Bunker Hill, Wasp, Enterprise, Lexington) và 5 trong số sáu tàu sân bay hạng nhẹ (Belleau Wood, Bataan, Monterey, Cabot, San Jacinto). Tất cả máy bay Hellcat và Helldiver đều mang thùng xăng phụ để có thêm nhiên liệu. Một đợt máy bay thứ hai được thông báo, nhưng Mitscher quyết định để dành cho ngày hôm sau. Trong minh hoạ ở đây, soái hạm của Mitscher - USS Lexington (CV-16) đã đưa những chiếc máy bay của mình lẻn bầu trời vào lúc buổi chiều.
TF 58 cuối cùng đã tiến lên đủ xa để cuộc tìm kiếm kéo dài 325 dặm vào buổi chiều, được khởi động lúc 13 giờ 30 phút, đã tiếp cận được với kẻ thù. Cuộc chạm trán được bắt đầu lúc 15 giờ 40 phút bởi một chiếc Avenger đến từ tàu Enterprise do Trung úy Nelson điều khiển, phi công tàu sân bay đầu tiên trong suốt những ngày tìm kiếm và chiến đấu này phát hiện ra một tàu chiến Nhật Bản. Đô đốc Mitscher nhận được tin báo rằng Trung úy Nelson đã nhìn thấy điều gì đó, ở đâu đó - không ai có thể hiểu rõ đó là gì, vì thông điệp quá khó hiểu vào lúc 15 giờ 42 phút. Cần phải đưa ra quyết định nhanh chóng, vì thời gian đang cạn dần; mặt trời sẽ lặn trước 19 giờ. Ông đã nhanh chóng báo động cho lực lượng đặc nhiệm, và lúc 15 giờ 53 phút thông báo cho Spruance rằng ông dự kiến sẽ thực hiện một cuộc tấn công tổng lực, mặc dù việc phục hồi phải diễn ra sau khi trời tối. Lúc Báo cáo liên lạc chính xác của Nelson gửi về cho biết hạm đội Nhật Bản, dàn trải thành ba nhóm, đang di chuyển về phía tây với tốc độ chậm, dường như đang tiếp nhiên liệu. Tám phút sau, lúc 16 giờ 05 phút, Nelson đã sửa lại báo cáo đầu tiên và cung cấp vị trí của Nhật Bản là vĩ độ 14°30′ Bắc, kinh độ 134°30′ Đông. Điều này cho thấy nhóm địch gần nhất cách TF 58 hơn 275 dặm, lúc này đã đến vĩ độ 14° Bắc, kinh độ 139° Đông, khoảng 370 dặm về phía tây của Rota. Một bài nói chuyện ngắn gọn từ Mitscher kết thúc, "Hãy cho chúng nó biết tay, các chàng trai; ước gì tôi ở cùng các bạn," mệnh lệnh "Chuẩn bị máy bay!" đưa ra lúc 16 giờ 10 phút, và các phi công chạy dọc sàn bay nhanh hơn bao giờ hết; bảng biểu đồ dưới cánh tay, súng lục đeo ở thắt lưng, mặt nạ dưỡng khí lủng lẳng trên mũ bảo hiểm. Lúc 16 giờ 21 phút, TF 58 quay đầu vào hướng gió, hoàn thành việc phóng máy bay trong thời gian kỷ lục là 10 phút, và trở lại lộ trình lúc 16 giờ 36 phút. Toàn bộ số máy bay trên sàn bay đã cất cánh - 85 máy bay tiêm kích, 77 máy bay ném bom bổ nhào, 54 máy bay ném ngư lôi—từ sáu tàu sân bay lớn có mặt (Hornet, Yorktown, Bunker Hill, Wasp, Enterprise, Lexington) và 5 trong số sáu tàu sân bay hạng nhẹ (Belleau Wood, Bataan, Monterey, Cabot, San Jacinto). Tất cả máy bay Hellcat và Helldiver đều mang thùng xăng phụ để có thêm nhiên liệu. Một đợt máy bay thứ hai được thông báo, nhưng Mitscher quyết định để dành cho ngày hôm sau. Trong minh hoạ ở đây, soái hạm của Mitscher - USS Lexington (CV-16) đã đưa những chiếc máy bay của mình lẻn bầu trời vào lúc buổi chiều.
Một đội hình gồm Hellcat, Dauntless và Avenger tập hợp phía trên Lexington vào buổi chiều 20 tháng 6. Đợt xuất kích từ boong tàu của Lexington bao gồm 11 chiếc Hellcat, 16 chiếc Dauntless (một chiếc hủy nhiệm vụ), và 6 chiếc Avenger (mang bom, nhưng một chiếc hủy nhiệm vụ sau khi cất cánh). Chỉ có Lexington và Enterprise thuộc TG 58.3 vẫn còn sử dụng máy bay Dauntless. (NHHC)
Một đội hình gồm Hellcat, Dauntless và Avenger tập hợp phía trên Lexington vào buổi chiều 20 tháng 6. Đợt xuất kích từ boong tàu của Lexington bao gồm 11 chiếc Hellcat, 16 chiếc Dauntless (một chiếc hủy nhiệm vụ), và 6 chiếc Avenger (mang bom, nhưng một chiếc hủy nhiệm vụ sau khi cất cánh). Chỉ có Lexington và Enterprise thuộc TG 58.3 vẫn còn sử dụng máy bay Dauntless. (NHHC)
Máy bay ném bom ngư lôi TBF Avenger của TF 58 (ở giữa phía sau) và máy bay ném bom bổ nhào SB2C Helldiver (phía trước) trên đường tấn công kẻ thù, ngày 20 tháng 6 năm 1944. (NHHC)
Máy bay ném bom ngư lôi TBF Avenger của TF 58 (ở giữa phía sau) và máy bay ném bom bổ nhào SB2C Helldiver (phía trước) trên đường tấn công kẻ thù, ngày 20 tháng 6 năm 1944. (NHHC)
Cuộc cất cánh toàn boong từ 11 tàu sân bay bắt đầu lúc 16 giờ 24 phút và hoàn tất chỉ trong 10 phút – một kỷ lục. Sau khi 14 máy bay buộc phải quay lại vì sự cố, phi đội tấn công còn lại gồm 85 chiếc Hellcat (một số mang bom 500 lb), 77 máy bay ném bom bổ nhào (51 chiếc Helldiver và 26 chiếc Dauntless), 54 chiếc Avenger (chỉ có 21 chiếc mang ngư lôi, số còn lại mang bốn quả bom 500 lb mỗi chiếc). Sau một chuyến bay thẳng, không gặp sự cố, các máy bay tiên phong phát hiện Hạm đội Cơ động Thứ Nhất lúc 18 giờ 40 phút. Không có nỗ lực tổ chức tấn công phối hợp, vì phi công đã bay gần cạn nhiên liệu sau gần 300 hải lý và chỉ còn 20–30 phút ánh sáng ban ngày. Trận đánh diễn ra hỗn loạn và kết thúc trong khoảng nửa giờ.
Hạm đội Cơ động Thứ Nhất hoàn toàn không chuẩn bị cho đòn tấn công này. Ozawa đã ra lệnh cho Lực lượng C – lực lượng có phần lớn tàu hộ tống hạng nặng – chắn trước đội hình tàu sân bay để đánh lạc hướng và hứng chịu đòn tấn công, nhưng lực lượng của Kurita khi đó lại ở sai vị trí. Toàn bộ hạm đội Nhật đang hướng tây bắc, với Lực lượng C ở phía nam, Lực lượng B ở trung tâm, và phần còn lại của Lực lượng A ở phía bắc. Hai nhóm tàu tiếp tế ở xa nhất về phía đông, nên chúng là mục tiêu đầu tiên bị máy bay Mỹ phát hiện. Radar Nhật phát hiện phi đội Mỹ đang tiếp cận lúc 18 giờ 03 phút, đủ thời gian để phóng lên 68 chiếc Zero còn lại.
Tàu Nhật giá trị nhất bị tấn công vào đầu buổi tối 20 tháng 6 là Zuikaku, chiếc tàu sân bay duy nhất còn lại của Lực lượng A. Bức ảnh cho thấy con tàu đang rẽ gấp sang phải, giữa những cột nước từ bom rơi quanh mình. Hai tàu khu trục hộ tống cũng có thể thấy trong hình. Mặc dù bị 50 máy bay Avenger và Helldiver tấn công, Zuikaku chỉ trúng một quả bom duy nhất và sống sót. (NHGC
Tàu Nhật giá trị nhất bị tấn công vào đầu buổi tối 20 tháng 6 là Zuikaku, chiếc tàu sân bay duy nhất còn lại của Lực lượng A. Bức ảnh cho thấy con tàu đang rẽ gấp sang phải, giữa những cột nước từ bom rơi quanh mình. Hai tàu khu trục hộ tống cũng có thể thấy trong hình. Mặc dù bị 50 máy bay Avenger và Helldiver tấn công, Zuikaku chỉ trúng một quả bom duy nhất và sống sót. (NHGC
Thiệt hại của Zuikaku trong ngày 20 tháng 6 là quả bom duy nhất trúng tàu rơi phía sau đảo chỉ huy, xuyên xuống boong chứa máy bay phần trên, và gây cháy trong khu chứa một vài máy bay còn lại. Dù vậy, đám cháy đã được dập tắt và con tàu vẫn sống sót.
Thiệt hại của Zuikaku trong ngày 20 tháng 6 là quả bom duy nhất trúng tàu rơi phía sau đảo chỉ huy, xuyên xuống boong chứa máy bay phần trên, và gây cháy trong khu chứa một vài máy bay còn lại. Dù vậy, đám cháy đã được dập tắt và con tàu vẫn sống sót.
Lực lượng A, có Zuikaku – tàu sân bay lớn nhất còn lại của Nhật – là mục tiêu chính. Con tàu dày dạn kinh nghiệm này rất khó bị đánh trúng nhờ 17 chiếc Zero tuần tra trên không, hỏa lực phòng không dày đặc, và khả năng cơ động khéo léo. Các phi đội từ các tàu Hornet, YorktownBataan đồng loạt chọn soái hạm của Ozawa làm mục tiêu. Đợt tấn công đầu tiên gồm 27 chiếc Helldiver từ HornetYorktown. Mặc dù mưa bom trút xuống tàu, và nhiều phi công Mỹ khẳng định trúng đích, nhưng chỉ một quả bom 1.000 lb thực sự đánh trúng. Trong số 4 chiếc Avenger của Hornet mang ngư lôi, chỉ có hai chiếc phóng được vũ khí, và cả hai đều trượt mục tiêu. 10 chiếc Hellcat mang bom của Bataan cũng không gây được thiệt hại. Các phi công Mỹ báo cáo rằng Zuikaku bốc cháy dữ dội, nhưng thiệt hại thực tế không nghiêm trọng như họ tưởng. Quả bom duy nhất trúng tàu rơi phía sau đảo chỉ huy, xuyên xuống boong chứa máy bay phần trên, và gây cháy trong khu chứa một vài máy bay còn lại. Tuy nhiên, các máy bay này đã được rút nhiên liệu, nên đội kiểm soát hỏa hoạn nhanh chóng khống chế và dập tắt lửa. Trước khi tình hình rõ ràng, mệnh lệnh “bỏ tàu” đã được ban ra rồi nhanh chóng rút lại. Tốc độ của Zuikaku không bị ảnh hưởng, nên con tàu đã rút lui an toàn và sống sót để tiếp tục chiến đấu lần nữa.
Lực lượng B, bao gồm các tàu sân bay Hiyo, JunyoRyuho, là mục tiêu của đợt tấn công dữ dội nhất từ phía Mỹ. Lực lượng tuần tra không chiến (CAP) của Nhật có tới 38 chiếc Zero, nhưng trình độ phi công rất chênh lệch. Tấn công lực lượng này là phi đội không kích của tàu Lexington, cùng với máy bay Avenger từ Enterprise, Yorktown, Belleau Wood, và máy bay Hellcat mang bom 500 lb từ HornetYorktown. Hai tàu sân bay lớn nhất – HiyoJunyo – là mục tiêu chính. Trong số 14 chiếc Dauntless của Lexington, chỉ ba chiếc không tham chiến, còn lại tất cả đều bổ nhào xuống Junyo, sau đó là đợt ném bom liệng của 6 chiếc Avenger mang bom. Lúc 19 giờ 04 phút, một hoặc hai quả bom đánh trúng khu tháp chỉ huy của tàu sân bay, trong khi tới sáu quả nổ gần gây ngập nhẹ. Thiệt hại nhìn chung không nghiêm trọng, nhưng 53 thủy thủ thiệt mạng. Ryuho cũng bị tấn công dữ dội, nhưng thoát nạn hoàn toàn – mọi quả bom và ngư lôi đều trượt mục tiêu. Trong nhóm tấn công có năm chiếc Avenger từ Enterprise mang bom, tám cú đánh trúng được báo cáo, nhưng thực tế chỉ có những cú nổ gần gây hư hại nhẹ. Năm chiếc Avenger của Yorktown tấn công bằng ngư lôi, hai cú trúng được tuyên bố, song tất cả đều trượt. Ryuho cũng chịu thêm các đợt oanh tạc từ 6 chiếc Dauntless của Enterprise và Hellcat của Hornet, nhưng vẫn sống sót.
Cuộc tấn công đường không của Mỹ vào Hạm đội Cơ động Thứ Nhất trong buổi tối sớm ngày 20 tháng 6 là một hành động được thực hiện vội vã. Chỉ một vài quả bom trúng mục tiêu trong đợt tấn công này. Trong số 12 chiếc Avenger mang ngư lôi, chỉ có một chiếc thực hiện được một đòn đánh trúng đích. Thành công đó là nhờ một nhóm bốn chiếc Avenger thuộc tàu sân bay hạng nhẹ Belleau Wood, do Trung úy cấp thấp George Brown  dẫn đầu. Trước khi cất cánh, Brown đã thề rằng anh sẽ đánh trúng một tàu sân bay, dù phải trả bất kỳ giá nào. Giờ đây, anh có cơ hội thực hiện lời hứa ấy. Anh cùng nhóm của mình bay vòng quanh Lực lượng B trước khi chọn Hiyo làm mục tiêu. Đặt mặt trời sau lưng, Brown lao xuống xuyên qua một đám mây và tản ba chiếc máy bay còn lại của mình (chiếc thứ tư bị tách ra trong lúc quay) ra tấn công từ các hướng khác nhau. Chiếc Avenger của Brown trúng đạn pháo phòng không 25mm, bị bắn rụng một phần cánh trái và bốc cháy, buộc điện báo viên và xạ thủ phải nhảy dù thoát ra. Khi Brown tiếp tục tấn công, ngọn lửa trên máy bay anh dần tắt. Ba chiếc Avenger phóng ngư lôi từ các hướng khác nhau, gần như đảm bảo được một cú đánh trúng. Một quả ngư lôi đã đánh trúng Hiyo ở phần đuôi mạn phải, nhưng vẫn chưa rõ quả ngư lôi đó được phóng từ máy bay của Brown hay từ chiếc Avenger khác do Trung úy cấp thiếu Warren Omark điều khiển. Dù các nguồn Nhật và Mỹ có sự khác biệt, dường như khả năng cao hơn là Omark đã tung ra đòn chí mạng. Brown không bao giờ quay trở lại Belleau Wood. Phi công bị thương nặng ấy, được Omark hộ tống, bay vào một đám mây sau khi trời tối — và không bao giờ được nhìn thấy nữa. (Tranh của Jim Laurier)
Cuộc tấn công đường không của Mỹ vào Hạm đội Cơ động Thứ Nhất trong buổi tối sớm ngày 20 tháng 6 là một hành động được thực hiện vội vã. Chỉ một vài quả bom trúng mục tiêu trong đợt tấn công này. Trong số 12 chiếc Avenger mang ngư lôi, chỉ có một chiếc thực hiện được một đòn đánh trúng đích. Thành công đó là nhờ một nhóm bốn chiếc Avenger thuộc tàu sân bay hạng nhẹ Belleau Wood, do Trung úy cấp thấp George Brown dẫn đầu. Trước khi cất cánh, Brown đã thề rằng anh sẽ đánh trúng một tàu sân bay, dù phải trả bất kỳ giá nào. Giờ đây, anh có cơ hội thực hiện lời hứa ấy. Anh cùng nhóm của mình bay vòng quanh Lực lượng B trước khi chọn Hiyo làm mục tiêu. Đặt mặt trời sau lưng, Brown lao xuống xuyên qua một đám mây và tản ba chiếc máy bay còn lại của mình (chiếc thứ tư bị tách ra trong lúc quay) ra tấn công từ các hướng khác nhau. Chiếc Avenger của Brown trúng đạn pháo phòng không 25mm, bị bắn rụng một phần cánh trái và bốc cháy, buộc điện báo viên và xạ thủ phải nhảy dù thoát ra. Khi Brown tiếp tục tấn công, ngọn lửa trên máy bay anh dần tắt. Ba chiếc Avenger phóng ngư lôi từ các hướng khác nhau, gần như đảm bảo được một cú đánh trúng. Một quả ngư lôi đã đánh trúng Hiyo ở phần đuôi mạn phải, nhưng vẫn chưa rõ quả ngư lôi đó được phóng từ máy bay của Brown hay từ chiếc Avenger khác do Trung úy cấp thiếu Warren Omark điều khiển. Dù các nguồn Nhật và Mỹ có sự khác biệt, dường như khả năng cao hơn là Omark đã tung ra đòn chí mạng. Brown không bao giờ quay trở lại Belleau Wood. Phi công bị thương nặng ấy, được Omark hộ tống, bay vào một đám mây sau khi trời tối — và không bao giờ được nhìn thấy nữa. (Tranh của Jim Laurier)
Thiệt hại của Hiyo trong ngày 20 tháng 6 gồm hai quả bom đánh trúng cột buồm và trước đảo chỉ huy, giết chết nhiều sĩ quan ở đó; và một quả ngư lôi đánh trúng bên mạn phải con tàu gây chết máy, dẫn đến việc con tàu bị chìm sau đó.
Thiệt hại của Hiyo trong ngày 20 tháng 6 gồm hai quả bom đánh trúng cột buồm và trước đảo chỉ huy, giết chết nhiều sĩ quan ở đó; và một quả ngư lôi đánh trúng bên mạn phải con tàu gây chết máy, dẫn đến việc con tàu bị chìm sau đó.
JunyoHiyo vốn là tàu chở khách cải hoán, nên có tốc độ chậm, cơ động kém, khả năng chịu đòn yếu – và những nhược điểm này đã khiến Hiyo phải trả giá. Con tàu rời đội hình để phóng hai máy bay B6N2 thả khói ngụy trang, và chưa kịp quay lại thì phi đội Mỹ đã ập đến. Ba chiếc Dauntless của Lexington mở đầu đợt tấn công, một quả bom đánh trúng cột buồm trước và nổ ngay trên đảo chỉ huy, giết chết hầu hết sĩ quan trên đó. Một quả bom khác, có thể từ sáu chiếc Dauntless của Enterprise, đánh trúng sàn bay. Tiếp theo, bốn chiếc Avenger của Belleau Wood mang ngư lôi tiến hành đòn đánh cái đe, một quả đánh trúng gần phòng máy bên mạn phải – cú trúng duy nhất của Avenger trong toàn bộ trận đánh, nhưng đủ để định đoạt số phận con tàu gần như không được bảo vệ này. Nước tràn vào khiến tàu nghiêng ngay lập tức, và sau khi máy bên trái ngừng hoạt động, Hiyo mất điện và đứng yên trên biển. Lúc 19 giờ 17 phút, một vụ nổ lớn ở giữa tàu bùng lên, ngọn lửa do xăng máy bay rò rỉ góp thêm, rồi liên tiếp nhiều vụ nổ khác khiến con tàu bị ra lệnh bỏ. Hiyo chìm đuôi trước lúc 20 giờ 32 phút, mang theo 35 sĩ quan và 212 thủy thủ. Khí xăng rò rỉ được cho là nguyên nhân của vụ nổ lớn đầu tiên, và cũng là lý do khiến cả ba tàu sân bay Nhật bị mất trong trận này. Hai tàu còn lại của Hải đội Tàu sân bay số 2 sống sót, nhưng chỉ còn 16 chiếc Zero và một chiếc B6N2.
Lực lượng C là mục tiêu của 28 máy bay Mỹ. Chỉ có nhóm của Chiyoda bị tấn công, và người Mỹ chỉ ghi được một quả trúng trực tiếp cùng một cú sượt gây hư hại. Trong bức ảnh này, Chiyoda cơ động ở giữa bên trái, trong khi hai tàu hộ tống cỡ lớn ở bên phải. Một tàu khu trục cơ động ở giữa phía dưới khung hình.
Lực lượng C là mục tiêu của 28 máy bay Mỹ. Chỉ có nhóm của Chiyoda bị tấn công, và người Mỹ chỉ ghi được một quả trúng trực tiếp cùng một cú sượt gây hư hại. Trong bức ảnh này, Chiyoda cơ động ở giữa bên trái, trong khi hai tàu hộ tống cỡ lớn ở bên phải. Một tàu khu trục cơ động ở giữa phía dưới khung hình.
Bức ảnh chụp từ một máy bay của Bunker Hill cho thấy Lực lượng C đang bị tấn công. Con tàu ở phía dưới là thiết giáp hạm Haruna hoặc Kongō, cả hai đều hộ tống Chiyoda. Tàu sân bay có thể thấy ở góc trên bên phải.
Bức ảnh chụp từ một máy bay của Bunker Hill cho thấy Lực lượng C đang bị tấn công. Con tàu ở phía dưới là thiết giáp hạm Haruna hoặc Kongō, cả hai đều hộ tống Chiyoda. Tàu sân bay có thể thấy ở góc trên bên phải.
Đây là một góc chụp khác của Lực lượng C dưới hỏa lực, do một máy bay của Bunker Hill ghi lại. Tàu tuần dương hạng nặng Maya hoặc Chōkai là con tàu ở góc dưới bên phải, còn Chiyoda ở trung tâm bên phải, giữa những cột nước do bom rơi xuống. Một số chi tiết đáng chú ý trong ảnh: số lượng đạn nổ phòng không rất ít, trái ngược hẳn với khối lượng hỏa lực phòng không dày đặc của Mỹ trong các bức ảnh khác; các tàu Nhật cơ động riêng lẻ thay vì giữ đội hình bảo vệ tàu sân bay; và có thể thấy rõ chiến thuật né tránh theo vòng tròn đặc trưng của Nhật. (NHHC)
Đây là một góc chụp khác của Lực lượng C dưới hỏa lực, do một máy bay của Bunker Hill ghi lại. Tàu tuần dương hạng nặng Maya hoặc Chōkai là con tàu ở góc dưới bên phải, còn Chiyoda ở trung tâm bên phải, giữa những cột nước do bom rơi xuống. Một số chi tiết đáng chú ý trong ảnh: số lượng đạn nổ phòng không rất ít, trái ngược hẳn với khối lượng hỏa lực phòng không dày đặc của Mỹ trong các bức ảnh khác; các tàu Nhật cơ động riêng lẻ thay vì giữ đội hình bảo vệ tàu sân bay; và có thể thấy rõ chiến thuật né tránh theo vòng tròn đặc trưng của Nhật. (NHHC)
Chiyoda bị một quả bom đánh trúng, gây cháy trên boong chứa máy bay, có thể thấy ở gần đuôi tàu trong bức ảnh này. (NHHC)
Chiyoda bị một quả bom đánh trúng, gây cháy trên boong chứa máy bay, có thể thấy ở gần đuôi tàu trong bức ảnh này. (NHHC)
Trong một góc nhìn khác từ một chiếc Avenger của Monterey, một tàu tuần dương hạng nặng Nhật Bản — nhiều khả năng là Maya do có lẽ chỉ có hai tháp pháo 8 inch phía trước — đang cơ động dưới làn tấn công. Con tàu chỉ chịu một cú nổ sượt mục tiêu trong đợt đánh này. (NHHC)
Trong một góc nhìn khác từ một chiếc Avenger của Monterey, một tàu tuần dương hạng nặng Nhật Bản — nhiều khả năng là Maya do có lẽ chỉ có hai tháp pháo 8 inch phía trước — đang cơ động dưới làn tấn công. Con tàu chỉ chịu một cú nổ sượt mục tiêu trong đợt đánh này. (NHHC)
Thiệt hại của Chiyoda trong ngày 20 tháng 6 chỉ có một quả bom đánh trúng phần phía sau của sàn bay, gây ra đám cháy nhỏ và được dập tắt sau đó.
Thiệt hại của Chiyoda trong ngày 20 tháng 6 chỉ có một quả bom đánh trúng phần phía sau của sàn bay, gây ra đám cháy nhỏ và được dập tắt sau đó.
Lực lượng C bị tấn công bởi 42 máy bay từ Bunker Hill, MontereyCabot. Kurita đã chia lực lượng thành ba nhóm, mỗi nhóm gồm một tàu sân bay hạng nhẹ được thiết giáp hạm hoặc tàu tuần dương hạng nặng hộ tống. Chỉ nhóm phía nam, có Chiyoda cùng Haruna, Kongo và vài tàu khác, bị tấn công; hai nhóm còn lại – ZuihoChitose – là không bị đụng đến. Người Nhật có 13 chiếc Zero làm nhiệm vụ CAP, nhưng chúng chỉ lao vào tấn công sau khi máy bay Mỹ đã ném xong bom, và gây tổn thất không đáng kể. Các máy bay Helldiver của Bunker Hill không đánh trúng Chiyoda, vốn cơ động dữ dội để tránh bom. Các Avenger mang bom từ MontereyCabot tiếp tục tấn công; một quả bom 500 lb từ Monterey trúng sàn bay phía sau, giết 20 người, làm bị thương 30 người, phá hủy hai máy bay, nhưng đám cháy được dập tắt nhanh, chỉ gây thiệt hại nhẹ. Cơ hội tốt nhất để đánh chìm Chiyoda đến từ 8 chiếc Avenger mang ngư lôi của Bunker Hill. Năm chiếc lao vào tấn công, hai cú trúng được báo cáo, nhưng thực tế toàn bộ ngư lôi đều trượt. Một số máy bay Mỹ buộc phải chuyển sang mục tiêu phụ. Hai chiếc Avenger của Cabot đánh trúng Haruna bằng bom 500 lb, bom xuyên vào phần đuôi gây ngập khoang lái, giảm tốc độ, 15 người chết và 19 người bị thương. Tàu tuần dương Maya chịu một cú nổ gần, gây ngập nhẹ.
Bóng tối hoàn toàn bao trùm vào lúc 19 giờ 45 phút. Mặt trận thời tiết đã di chuyển về phía nam trong ngày, bầu trời nhiều mây và đêm rất tối, và các máy bay trở về từ trận chiến còn cách "nhà" rất xa. Các phi công biết rằng việc nhiên liệu của họ có cầm cự được hay không là một canh bạc; một người, Trung úy (jg) Milton F. Browne USNR của tàu Wasp, đã phải hạ cánh khẩn cấp nửa đường về nhà, vì thùng xăng của anh ta đã bị thủng. Mặc dù TF 58 đã áp sát hạm đội của Ozawa một chút trong những giờ tiếp theo sau khi phóng máy bay, các tàu sân bay đã phải quay mũi về hướng gió để thu hồi máy bay. Khoảng cách của họ so với các mục tiêu của Nhật Bản bây giờ thay đổi từ 240 đến 298 dặm, tùy thuộc vào thời điểm máy bay bắt đầu quay về, và khoảng cách họ phải bay vòng trước khi có cơ hội hạ cánh. Điều này, cùng với việc bay ở tốc độ cao với hy vọng đánh bại màn đêm, đã khiến nhiều chiếc máy bay hết xăng. Đô đốc Mitscher mở rộng ba nhóm đặc nhiệm của mình để tạo khoảng cách 15 dặm giữa chúng, nhằm tạo không gian cơ động cho việc thu hồi ban đêm. Vào lúc 20 giờ 45 phút, các máy bay trở về bắt đầu bay vòng trên các tàu sân bay Mỹ. TF 58 quay mũi vào hướng gió đông nhẹ và chạy với tốc độ 22 hải lý/giờ. Đô đốc Mitscher sau đó đã đưa ra một quyết định khiến tất cả các phi công hải quân yêu mến; ông ra lệnh bật sáng các tàu sân bay một cách táo bạo bất chấp mối đe dọa từ tàu ngầm hoặc máy bay địch. Đêm đó, hoạt động thu hồi máy bay, kéo dài hai giờ, là sự kiện ngoạn mục nhất trong hai ngày bận rộn này. Trung tá Evan P. Aurand, người được cử lên không trung trên một chiếc Hellcat chiến đấu ban đêm để giúp dẫn dắt đàn máy bay về nhà, đã có góc nhìn tốt nhất. Cảnh tượng khiến ông liên tưởng đến buổi ra mắt phim Hollywood, lễ Quốc khánh Mỹ gộp lại. Các tàu sân bay bật đèn xe tải, đèn phát sáng để phác thảo sàn bay, và đèn chạy tàu màu đỏ và xanh lá cây, và nháy đèn tín hiệu để nhận dạng; tất cả các tàu hộ tống đều bật đèn xe tải màu đỏ và súng 5 inch của họ bắn một lượng lớn pháo sáng. Mỗi soái hạm của nhóm tác chiến chiếu một đèn pha thẳng đứng làm đèn hiệu dẫn đường. Đêm tối đen như mực không có đường chân trời, và khoảng sáu mươi dặm về phía nam có một cơn bão đang hình thành, những tia chớp của nó bị một số phi công trở về nhầm lẫn với pháo sáng. Aurand đã thực hiện một số chuyến bay đến gần cơn bão, bật đèn chạy tàu của mình và gom các phi công bị lạc. Gần một nửa số máy bay hạ cánh nhầm tàu sân bay, và khi đếm số mũi máy bay, người ta thường thấy máy bay thuộc tám hoặc chín tàu khác nhau trên một boong tàu. Các phi công tuyệt vọng đã cố gắng hạ cánh xuống mọi thứ nổi trên mặt nước. Đến năm 22 giờ 52 phút, khi rõ ràng mọi máy bay đã hạ cánh, rơi xuống biển, hoặc bị bắn hạ, và khi các tàu sân bay được tập hợp lại thành đội hình tuần tra, mặt biển đột nhiên mang dáng vẻ của "một đồng cỏ đầy đom đóm" vào tháng Sáu. Các phi công và thành viên phi hành đoàn, đang bơi hoặc ở trong xuồng cao su, nhấp nháy đèn pin chống nước nhỏ của họ; và tiếng còi của người thủy thủ mà các phi công mang theo để thu hút sự chú ý đã thêm âm nhạc giống như ếch cây vào cảnh tượng giữa mùa hè này. May mắn thay, lúc đó biển lặng tuyệt đối. Các tàu khu trục, sử dụng đèn pha 18 inch để phát hiện xuồng và người bơi, đã thực hiện công tác cứu hộ tuyệt vời, và tất cả trừ một chiếc đều được Đô đốc Mitscher ra lệnh sử dụng như vậy; việc bảo vệ chống tàu ngầm hoàn toàn bị bỏ qua để cứu mạng sống.  Vì công tác thu hồi hỗn loạn vào ban đêm này, tổn thất máy bay vào ngày 20 tháng 6 nặng nề hơn nhiều so với ngày hôm trước, nhưng số thương vong trong số các phi công thì gần như tương đương. Theo báo cáo của Đô đốc Mitscher, 6 chiếc Hellcat, 10 chiếc Helldiver và 4 chiếc Avenger bị mất tích, và có lẽ đã bị bắn hạ trong chiến đấu; 17 chiếc Hellcat, 35 chiếc Helldiver và 28 chiếc Avenger bị phá hủy do tai nạn trên sàn bay hoặc hạ cánh khẩn cấp xuống biển gần lực lượng đặc nhiệm. Tổng số người trong các máy bay bị mất là 100 phi công và 109 thành viên phi hành đoàn, nhưng có 51 và 50 người đã được vớt khỏi mặt nước đêm đó, để lại 49 và 59 người chưa được tìm thấy vào rạng sáng ngày 21 tháng 6. Thêm 33 phi công và 26 thành viên phi hành đoàn đã được cứu trong ngày đó và những ngày tiếp theo. Điều này để lại tổn thất ròng về phi công là 16 phi công và 33 thành viên phi hành đoàn. Tàu Hornet - tàu sân bay may mắn, mất 21 máy bay vào ngày 20 tháng 6 nhưng chỉ mất một phi công và hai thành viên phi hành đoàn, một trong số đó thiệt mạng trong một tai nạn trên boong. (Tranh của John Hamilton)
Bóng tối hoàn toàn bao trùm vào lúc 19 giờ 45 phút. Mặt trận thời tiết đã di chuyển về phía nam trong ngày, bầu trời nhiều mây và đêm rất tối, và các máy bay trở về từ trận chiến còn cách "nhà" rất xa. Các phi công biết rằng việc nhiên liệu của họ có cầm cự được hay không là một canh bạc; một người, Trung úy (jg) Milton F. Browne USNR của tàu Wasp, đã phải hạ cánh khẩn cấp nửa đường về nhà, vì thùng xăng của anh ta đã bị thủng. Mặc dù TF 58 đã áp sát hạm đội của Ozawa một chút trong những giờ tiếp theo sau khi phóng máy bay, các tàu sân bay đã phải quay mũi về hướng gió để thu hồi máy bay. Khoảng cách của họ so với các mục tiêu của Nhật Bản bây giờ thay đổi từ 240 đến 298 dặm, tùy thuộc vào thời điểm máy bay bắt đầu quay về, và khoảng cách họ phải bay vòng trước khi có cơ hội hạ cánh. Điều này, cùng với việc bay ở tốc độ cao với hy vọng đánh bại màn đêm, đã khiến nhiều chiếc máy bay hết xăng. Đô đốc Mitscher mở rộng ba nhóm đặc nhiệm của mình để tạo khoảng cách 15 dặm giữa chúng, nhằm tạo không gian cơ động cho việc thu hồi ban đêm. Vào lúc 20 giờ 45 phút, các máy bay trở về bắt đầu bay vòng trên các tàu sân bay Mỹ. TF 58 quay mũi vào hướng gió đông nhẹ và chạy với tốc độ 22 hải lý/giờ. Đô đốc Mitscher sau đó đã đưa ra một quyết định khiến tất cả các phi công hải quân yêu mến; ông ra lệnh bật sáng các tàu sân bay một cách táo bạo bất chấp mối đe dọa từ tàu ngầm hoặc máy bay địch. Đêm đó, hoạt động thu hồi máy bay, kéo dài hai giờ, là sự kiện ngoạn mục nhất trong hai ngày bận rộn này. Trung tá Evan P. Aurand, người được cử lên không trung trên một chiếc Hellcat chiến đấu ban đêm để giúp dẫn dắt đàn máy bay về nhà, đã có góc nhìn tốt nhất. Cảnh tượng khiến ông liên tưởng đến buổi ra mắt phim Hollywood, lễ Quốc khánh Mỹ gộp lại. Các tàu sân bay bật đèn xe tải, đèn phát sáng để phác thảo sàn bay, và đèn chạy tàu màu đỏ và xanh lá cây, và nháy đèn tín hiệu để nhận dạng; tất cả các tàu hộ tống đều bật đèn xe tải màu đỏ và súng 5 inch của họ bắn một lượng lớn pháo sáng. Mỗi soái hạm của nhóm tác chiến chiếu một đèn pha thẳng đứng làm đèn hiệu dẫn đường. Đêm tối đen như mực không có đường chân trời, và khoảng sáu mươi dặm về phía nam có một cơn bão đang hình thành, những tia chớp của nó bị một số phi công trở về nhầm lẫn với pháo sáng. Aurand đã thực hiện một số chuyến bay đến gần cơn bão, bật đèn chạy tàu của mình và gom các phi công bị lạc. Gần một nửa số máy bay hạ cánh nhầm tàu sân bay, và khi đếm số mũi máy bay, người ta thường thấy máy bay thuộc tám hoặc chín tàu khác nhau trên một boong tàu. Các phi công tuyệt vọng đã cố gắng hạ cánh xuống mọi thứ nổi trên mặt nước. Đến năm 22 giờ 52 phút, khi rõ ràng mọi máy bay đã hạ cánh, rơi xuống biển, hoặc bị bắn hạ, và khi các tàu sân bay được tập hợp lại thành đội hình tuần tra, mặt biển đột nhiên mang dáng vẻ của "một đồng cỏ đầy đom đóm" vào tháng Sáu. Các phi công và thành viên phi hành đoàn, đang bơi hoặc ở trong xuồng cao su, nhấp nháy đèn pin chống nước nhỏ của họ; và tiếng còi của người thủy thủ mà các phi công mang theo để thu hút sự chú ý đã thêm âm nhạc giống như ếch cây vào cảnh tượng giữa mùa hè này. May mắn thay, lúc đó biển lặng tuyệt đối. Các tàu khu trục, sử dụng đèn pha 18 inch để phát hiện xuồng và người bơi, đã thực hiện công tác cứu hộ tuyệt vời, và tất cả trừ một chiếc đều được Đô đốc Mitscher ra lệnh sử dụng như vậy; việc bảo vệ chống tàu ngầm hoàn toàn bị bỏ qua để cứu mạng sống. Vì công tác thu hồi hỗn loạn vào ban đêm này, tổn thất máy bay vào ngày 20 tháng 6 nặng nề hơn nhiều so với ngày hôm trước, nhưng số thương vong trong số các phi công thì gần như tương đương. Theo báo cáo của Đô đốc Mitscher, 6 chiếc Hellcat, 10 chiếc Helldiver và 4 chiếc Avenger bị mất tích, và có lẽ đã bị bắn hạ trong chiến đấu; 17 chiếc Hellcat, 35 chiếc Helldiver và 28 chiếc Avenger bị phá hủy do tai nạn trên sàn bay hoặc hạ cánh khẩn cấp xuống biển gần lực lượng đặc nhiệm. Tổng số người trong các máy bay bị mất là 100 phi công và 109 thành viên phi hành đoàn, nhưng có 51 và 50 người đã được vớt khỏi mặt nước đêm đó, để lại 49 và 59 người chưa được tìm thấy vào rạng sáng ngày 21 tháng 6. Thêm 33 phi công và 26 thành viên phi hành đoàn đã được cứu trong ngày đó và những ngày tiếp theo. Điều này để lại tổn thất ròng về phi công là 16 phi công và 33 thành viên phi hành đoàn. Tàu Hornet - tàu sân bay may mắn, mất 21 máy bay vào ngày 20 tháng 6 nhưng chỉ mất một phi công và hai thành viên phi hành đoàn, một trong số đó thiệt mạng trong một tai nạn trên boong. (Tranh của John Hamilton)
Chỉ huy phi đội của tàu Wasp, với nhiên liệu sắp cạn, đã quyết định tấn công nhóm tiếp tế với hi vọng đánh chìm các tàu chở dầu để cản đường rút của hạm đội Nhật. Chín trong số 12 chiếc Helldiver và bảy chiếc Avenger đã tấn công các tàu chở dầu, Genyo MaruSeiyo Maru bị hư hại nặng và sau đó bị đánh chìm, còn tàu tiếp tế Hayasui trúng một quả bom và chịu hai cú nổ gần, nhưng đám cháy được dập tắt và con tàu vẫn sống sót.
Các đợt tấn công lộn xộn và không phối hợp của TF 58 đã mang lại kết quả đáng thất vọng. Ngoài sự hỗn loạn trong điều phối, thiệt hại ít ỏi còn do phi công Mỹ thiếu kinh nghiệm tấn công mục tiêu hải quân và phòng thủ kiên cường của Nhật. Nếu có nhiều hơn 21 chiếc Avenger mang ngư lôi, thiệt hại hẳn sẽ nghiêm trọng hơn. Thực tế, cú trúng ngư lôi duy nhất – vào Hiyo – lại là đòn chí mạng quan trọng nhất. Sự thoát nạn của Zuikaku là nỗi thất vọng lớn nhất với người Mỹ. Thiệt hại nhẹ của Zuikaku, JunyoChiyoda – dù hứng chịu hàng loạt bom – đã cho thấy rõ sự khó khăn trong việc đánh chìm tàu lớn chỉ bằng bom rơi tự do. Ngoài các thiệt hại về tàu, người Nhật còn mất nặng về không quân trong ngày 20 tháng 6. Bắt đầu ngày với 100 máy bay, kết thúc chỉ còn 35. Phần lớn tổn thất là Zero làm nhiệm vụ CAP, bị Hellcat bắn hạ. Tổn thất phía Mỹ trong tấn công trực tiếp lại khá nhẹ. 17 máy bay mất - 6 chiếc Hellcat, 5 máy bay ném bom bổ nhào, 6 chiếc Avenger. Chỉ 6 chiếc bị phòng không bắn rơi, còn lại do Zero bắn hạ.
Một phi công của VT-28 trên tàu sân bay hạng nhẹ Monterey thư giãn trong phòng trực ban (ready room) sau khi trở về từ đòn không kích ngày 20 tháng 6. VT-28 đã điều bốn chiếc Avenger tham gia nhiệm vụ và mất một chiếc do nguyên nhân khai thác. Lưu ý dòng chỉ thị trên bảng phấn trong phòng trực ban: “Get the Carriers” (Hãy tiêu diệt các tàu sân bay). (NHHC)
Một phi công của VT-28 trên tàu sân bay hạng nhẹ Monterey thư giãn trong phòng trực ban (ready room) sau khi trở về từ đòn không kích ngày 20 tháng 6. VT-28 đã điều bốn chiếc Avenger tham gia nhiệm vụ và mất một chiếc do nguyên nhân khai thác. Lưu ý dòng chỉ thị trên bảng phấn trong phòng trực ban: “Get the Carriers” (Hãy tiêu diệt các tàu sân bay). (NHHC)
Một phi công của VT-28 trên tàu sân bay hạng nhẹ Monterey kể lại với đồng đội cuộc giải cứu của mình bởi một tàu khu trục, ba ngày sau đòn không kích 20 tháng 6 nhằm vào Hạm đội Cơ động Thứ Nhất. Mặc dù 209 phi công Mỹ bị mất tích sau đòn đánh, tất cả trừ 49 người đã được cứu trong những ngày tiếp theo. (NHHC)
Một phi công của VT-28 trên tàu sân bay hạng nhẹ Monterey kể lại với đồng đội cuộc giải cứu của mình bởi một tàu khu trục, ba ngày sau đòn không kích 20 tháng 6 nhằm vào Hạm đội Cơ động Thứ Nhất. Mặc dù 209 phi công Mỹ bị mất tích sau đòn đánh, tất cả trừ 49 người đã được cứu trong những ngày tiếp theo. (NHHC)
Các sĩ quan và thủy thủ trên Lexington chiêm ngưỡng những lá cờ Nhật Bản, tượng trưng cho 143 máy bay Nhật do Không đoàn 16 (Air Group 16) tuyên bố bắn rơi. Ngoài một máy bay bị mất ngày 19 tháng 6, Không đoàn 16 còn mất ba chiếc do máy bay Nhật bắn hạ và năm chiếc khác do nguyên nhân khai thác/kỹ thuật trong ngày 20 tháng 6 — mức tổn thất nhẹ nhất trong số các tàu sân bay hạm đội tham chiến trong cả hai ngày của trận đánh. Bức ảnh chụp vào ngày 21 tháng 6 năm 1944, ngay sau Trận chiến Biển Philippine (NHHC)
Các sĩ quan và thủy thủ trên Lexington chiêm ngưỡng những lá cờ Nhật Bản, tượng trưng cho 143 máy bay Nhật do Không đoàn 16 (Air Group 16) tuyên bố bắn rơi. Ngoài một máy bay bị mất ngày 19 tháng 6, Không đoàn 16 còn mất ba chiếc do máy bay Nhật bắn hạ và năm chiếc khác do nguyên nhân khai thác/kỹ thuật trong ngày 20 tháng 6 — mức tổn thất nhẹ nhất trong số các tàu sân bay hạm đội tham chiến trong cả hai ngày của trận đánh. Bức ảnh chụp vào ngày 21 tháng 6 năm 1944, ngay sau Trận chiến Biển Philippine (NHHC)
Khi mặt trời lặn, phi công Mỹ phải bay về quãng đường 240–300 hải lý trong đêm tối, để quay lại TF 58. Mitscher, bất chấp nguy cơ tấn công từ không quân hoặc tàu ngầm Nhật, ra lệnh bật toàn bộ đèn chiếu sáng trên tàu sân bay để dẫn đường cho phi công trở về. Máy bay đầu tiên hạ cánh lúc 20 giờ 45 phút, và trong gần hai giờ sau đó, hỗn loạn bao trùm khi nhiều phi công tuyệt vọng tìm nơi hạ cánh trước khi cạn nhiên liệu. Kỷ luật hạ cánh bị bỏ qua, và máy bay được lệnh đáp xuống bất cứ tàu nào có thể. Một trong những tường thuật hay nhất về các cuộc hạ cánh ban đêm là của Trung úy (jg) E. J. Lawton, trên tàu Enterprise :
Chúng tôi gần như đã quay trở lại đội hình thì thấy các ánh đèn bật lên. Rõ ràng là lực lượng đặc nhiệm đã làm hết sức mình để giúp chúng tôi có thể về nhà an toàn. Trung úy Eason dẫn chúng tôi tiếp cận phía trên tàu Enterprise, nhưng boong tàu bị tắc trong một khoảng thời gian. Chúng tôi bay vòng vài phút, quan sát những ánh đèn của các máy bay bên dưới tỏa ra theo đội hình của vòng hạ cánh. Nhưng trong năm giờ vừa qua, căng thẳng đã quá lớn để có thể đưa mọi thứ trở lại trật tự đội hình; và điều không tránh khỏi là các vòng hạ cánh trở nên quá đông, các khoảng cách bị phá vỡ và những vụ va chạm trên boong đã xảy ra. Nhiều máy bay — quá nhiều — báo rằng họ đã cạn nhiên liệu và sẽ phải xuống nước. Những chiếc khác thì hụt đà, mắc kẹt trong rãnh hạ cánh. Nhìn từ trên cao xuống, đó là một cảnh tượng như kính vạn hoa kỳ dị của những ánh đèn chuyển động nhanh, tạo thành các vệt phức tạp trong bóng tối, thỉnh thoảng bị chọc thủng bởi những vệt đạn vạch đường xé toạc màn đêm khi ai đó hạ cánh mà vẫn bật công tắc súng, rồi lại bởi những ngọn lửa phụt khí xả bùng sáng đột ngột mỗi khi một máy bay tăng ga, hoặc ánh đèn “mai rùa” của ai đó hạ thấp dần, thấp dần cho đến khi bị những con sóng khép lại che khuất. Một khung cảnh Mardi Gras hoàn toàn lạc lõng ở nơi này, giữa quần đảo Mariana và Philippine.
Gần một nửa số máy bay quay về không tìm được tàu mẹ. Kết thúc, 82 máy bay nữa mất tích (17 chiếc Hellcat, 42 máy bay ném bom bổ nhào, 23 chiếc Avenger). Tính cả 17 chiếc mất trong chiến đấu, gần một nửa lực lượng tấn công bị loại khỏi vòng chiến. Máy bay thì có thể thay thế, nhưng phi công và tổ bay thì không – 170 người mất tích, và chỉ có 16 phi công và 33 thành viên tổ bay được cứu sau nhiều ngày tìm kiếm.
Sau khi hai tàu chở dầu hư hại bị đánh chìm, không còn tàu nào của Ozawa bị bỏ lại phía sau khi Hạm đội Cơ động Thứ Nhất rút lui về hướng tây bắc. Toyoda ra lệnh chấm dứt trận chiến lúc 20 giờ 46 phút. Hạm đội tan tác này tới Okinawa vào chiều ngày 22 tháng 6, với chỉ còn 35 máy bay và 12 thủy phi cơ. Spruance và Mitscher thất vọng vì đòn tấn công lúc hoàng hôn không đạt được kết quả mong đợi, và không chắc liệu còn tàu Nhật bị thương nặng để kết liễu hay không. TF 58 tiếp tục hướng tây, hy vọng tìm thấy và đánh nốt các tàu tàn tật. Sáng ngày 21 tháng 6, Mitscher cho cất cánh toàn bộ phi đội tấn công, bay xa 300 hải lý, nhưng không phát hiện gì, vì Hạm đội Nhật đã ở cách đó 360 hải lý. Không còn cơ hội nào để đuổi kịp Ozawa hay tiêu diệt tàu bị thương, Spruance ra lệnh ngừng truy đuổi lúc 20 giờ 30 phút vào ngày 21 tháng 6. Hai mươi phút sau, TF 58 đổi hướng, chính thức khép lại trận đánh.
PHẦN 6: