TÀU SÂN BAY MỸ vs TÀU SÂN BAY NHẬT BẢN: Mặt trận Thái Bình Dương (1941-1945) (Phần 4: Trận Midway tháng 6-1942)
Trận thứ hai, và cũng là trận nổi tiếng giữa các tàu sân bay tại Midway.
CHƯƠNG 4. PHỤC KÍCH TẠI MIDWAY
NHỮNG NGỘ NHẬN VỀ MIDWAY VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TRẬN BIỂN SAN HÔ
Cuộc đụng độ giữa các tàu sân bay tại đảo san hô Midway vào tháng 6 năm 1942 đã trở thành một huyền thoại. Trận chiến này được xem rộng rãi như là trận đánh mang tính quyết định nhất của Chiến tranh Thái Bình Dương. Yamamoto đã tập hợp một lực lượng tưởng như vô địch để giáng một đòn chí tử vào Hạm đội Thái Bình Dương. Người Mỹ bị áp đảo về lực lượng và dường như không có hy vọng thành công. Trong số những ngộ nhận về Midway, điều sau đây là sai lầm nhất như sẽ được phân tích sau. Mặc dù lực lượng tàu sân bay của Hải quân Nhật đã bị đánh bại tại Midway, trận chiến này không hề mang tính quyết định như ta nghĩ, vì Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi sau đó và tiếp tục giao tranh thêm hai trận đánh tàu sân bay nữa trong năm 1942 (sẽ được nói trong Phần 5). Một trong số đó đã dẫn đến thất bại nặng nề nhất của lực lượng tàu sân bay Mỹ trong suốt cuộc chiến. Như sẽ thấy sau này, chiến dịch Guadalcanal — bao gồm hai trận đánh tàu sân bay — mới là sự kiện chủ chốt đã tiêu diệt không lực của tàu sân bay Nhật như một lực lượng có khả năng quyết định kết quả trận đánh.
Kết quả của trận Biển San Hô đóng vai trò quan trọng trong việc định hình kết cục tại Midway. Trận Biển San Hô thường được coi là một chiến thắng chiến lược của Mỹ, vì cuộc xâm lược Port Moresby đã bị chặn lại, nhưng đồng thời cũng là một thất bại chiến thuật cho người Mỹ do họ mất Lexington để đổi lấy chỉ một tàu sân bay hạng nhẹ của Nhật. Đây là một cách nhìn đơn giản hóa, bởi trận Biển San Hô không thể được nhìn nhận tách biệt được. Trận đánh đúng ra nên được xem là thất bại cả về chiến lược lẫn chiến thuật đối với Nhật Bản, và là lời mở đầu cho thảm họa tại Midway.
Thất bại của Chiến dịch MO có những hệ quả sâu rộng. Mục tiêu chính của Chiến dịch MI (mật danh cho cuộc tấn công Midway) của Yamamoto là tiêu diệt Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Để thực hiện thành công Chiến dịch MI, kế hoạch chiến thắng quyết định của Yamamoto phụ thuộc vào việc duy trì ưu thế về tàu sân bay hạm đội. Vi phạm nguyên tắc tập trung lực lượng, Yamamoto chỉ điều động một phần ba số tàu sân bay thuộc Kido Butai tham gia Chiến dịch MO. Dù không chiếc nào bị đánh chìm trong chiến dịch, cả hai tàu sân bay đó đều bị loại khỏi đội hình tham chiến trong Chiến dịch MI. Do đó, kết quả của trận đánh mang ý nghĩa chiến lược vượt xa việc Nhật không chiếm được Port Moresby. Khi chỉ còn lại bốn tàu sân bay hạm đội, Yamamoto đã đánh mất lợi thế quyết định về số lượng tàu sân bay — yếu tố cần thiết để bảo đảm thành công trong một trận đánh quyết định với Hạm đội Thái Bình Dương. Việc loại bỏ Hải đội Tàu sân bay số 5 khỏi Kido Butai đã khiến trận Biển San Hô trở thành một thảm họa cả về chiến lược lẫn chiến thuật đối với Nhật Bản.
Trận Biển San Hô đem lại nhiều bài học quan trọng mà cả hai bên đều không có thời gian để thấu hiểu đầy đủ trước khi Midway diễn ra chỉ một tháng sau đó. Cả hai phía đều cho rằng các cuộc tấn công của đối phương sẽ gây thiệt hại chí mạng cho tàu sân bay của mình, nhưng thực tế lại không như vậy. Sức mạnh tấn công của các tàu sân bay Mỹ bị hạn chế bởi học thuyết tổ chức các đòn đánh theo từng nhóm không quân đơn lẻ. Vấn đề phối hợp đã xuất hiện tại Biển San Hô còn trở nên trầm trọng hơn tại Midway. Hiệu quả của các máy bay Devastator trong trận Biển San Hô — nơi chúng đóng góp phần lớn vào việc đánh chìm Shoho — đã che giấu điểm yếu thực sự và sự kém hiệu quả của chúng khi đối đầu với đối phương mạnh hơn. Sức mạnh tấn công chính của các nhóm không quân tàu sân bay Mỹ nằm ở các máy bay ném bom bổ nhào, điều đã được chứng minh đầy đủ tại Midway. Các nhóm không quân tàu sân bay Nhật đã thể hiện tiềm năng tấn công vượt trội tại Biển San Hô. Điều này chủ yếu là nhờ sự kết hợp giữa máy bay cường kích Type 97 và ngư lôi trên không Type 91 đáng tin cậy. Tổ hợp chết người này đã khởi đầu chuỗi sự kiện dẫn đến việc đánh chìm cả ba tàu sân bay Mỹ bị mất trong các trận đánh tàu sân bay năm 1942. Tại Biển San Hô, các máy bay ném ngư lôi Nhật là lực lượng đã đánh chìm Lexington; nếu chúng chỉ cần đánh trúng một quả ngư lôi vào Yorktown, thiệt hại chắc chắn sẽ không thể được sửa chữa kịp trước trận Midway. Việc thiếu vắng Yorktown có thể đã dẫn đến những hậu quả không thể lường trước đối với kết cục trận chiến. Điều này khiến cuộc tấn công ban đêm bị hủy của Nhật Bản tại Biển San Hô ngày 7 tháng 5 trở nên vô cùng quan trọng, bởi nó dẫn đến việc Yorktown ngày hôm sau chỉ phải đối đầu với 4 chiếc Type 97. Trái ngược với khả năng tiêu diệt tàu chiến của Type 97, các máy bay ném bom bổ nhào Nhật lại mang bom khá nhỏ và không đủ khả năng gây hư hại nghiêm trọng cho các tàu lớn được điều khiển bởi các đội kiểm soát thiệt hại được huấn luyện bài bản.
Trận Biển San Hô cũng cho thấy rằng năng lực phòng thủ của cả hai lực lượng tàu sân bay đều không đạt yêu cầu. Cả hai bên đều thiếu tiêm kích để vừa duy trì tuần tra không chiến (CAP) hiệu quả, vừa hộ tống tấn công hiệu quả. Lực lượng CAP của Nhật đặc biệt yếu, nhất là khi đối phó với máy bay ném bom bổ nhào. Hỏa lực phòng không tỏ ra không đủ khả năng bảo vệ các tàu sân bay Mỹ và Nhật, nhưng hỏa lực phòng không Mỹ mang tính sát thương hơn nhiều và đã gây tổn thất lớn cho các đợt tấn công của Nhật. Dù nỗ lực phòng thủ của Mỹ tại Biển San Hô còn thiếu đồng đều, chúng đã được cải thiện trong từng trận đánh tàu sân bay tiếp theo của năm 1942. Tiềm năng của radar trong chỉ huy tiêm kích chưa được phát huy tại Biển San Hô, nhưng đã trở thành yếu tố quan trọng trong các trận đánh tàu sân bay sau này.
YAMAMOTO LÊN KẾ HOẠCH CHO TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH
Tháng 4 năm 1942 chứng kiến căng thẳng giữa Bộ Tổng tham mưu Hải quân và Hạm đội Liên hợp liên quan đến định hướng chiến lược của hải quân Nhật Bản trong tương lai. Trong khi Bộ Tổng tham mưu Hải quân chủ trương mở rộng về phía Nam Thái Bình Dương nhằm cắt đứt các tuyến đường biển liên lạc giữa Hoa Kỳ và Úc, thì Yamamoto lại có một tầm nhìn khác. Ông muốn tiến quân vào khu vực Trung tâm Thái Bình Dương với mục tiêu cuối cùng là chiếm quần đảo Hawaii. Điều này còn có lợi thế là buộc tàn dư của Hạm đội Thái Bình Dương phải giao chiến, qua đó mang lại cho Yamamoto trận chiến quyết định mà ông hằng mong muốn.

Đô đốc Nagano Osami - Tổng tham mưu trưởng Hải quân, bất đồng chiến lược với Tư lệnh Liên Hợp Hạm đội - Đô đốc Yamamoto. Nagano buộc phải chấp thuận kế hoạch Midway của Yamamoto, và hậu quả thật thảm khốc. (NHHC)
Cuộc tranh luận chiến lược giữa Bộ Tổng tham mưu Hải quân và Hạm đội Liên hợp cuối cùng đã dẫn đến một sự thoả hiệp chí tử. Mặc dù Lục quân và Hải quân Đế quốc đã đạt được thỏa thuận về việc tiếp tục mở rộng tại Nam Thái Bình Dương, Yamamoto cùng bộ tham mưu của Hạm đội Liên hợp vẫn giữ vững quan điểm rằng Nhật Bản phải hoàn toàn tiêu diệt sức mạnh hải quân Hoa Kỳ thì mới có thể giành chiến thắng. Để đạt được điều đó, Yamamoto cần một mục tiêu mà Hạm đội Thái Bình Dương buộc phải bảo vệ. Lựa chọn hiển nhiên là Hawaii, nhưng lực lượng đồn trú đông đảo cùng không quân trên bộ hùng mạnh ở đó khiến hòn đảo hầu như miễn nhiễm với các cuộc tấn công và xâm lược. Yamamoto cho rằng rạn san hô Midway có thể đạt được mục đích tương tự: nó nằm đủ gần Hawaii để buộc Hạm đội Thái Bình Dương phải chiến đấu bảo vệ, nhưng cũng đủ xa để không quân trên bộ từ Hawaii không thể tham chiến trực tiếp trong trận đánh.
Cuộc tranh luận giữa Bộ Tổng tham mưu Hải quân và Hạm đội Liên hợp lên đến đỉnh điểm trong một loạt các cuộc họp tại Tokyo từ ngày 2 đến ngày 5 tháng 4 năm 1942. Bộ Tổng tham mưu Hải quân chỉ ra rằng Midway chỉ có giá trị hạn chế như một căn cứ đe dọa Hawaii, đồng thời việc tiếp tế cho một căn cứ nằm gần Trân Châu Cảng như vậy sẽ vô cùng khó khăn. Yamamoto không chịu nhượng bộ và, vào ngày 5 tháng 4, ông đã giành chiến thắng bằng cách lặp lại đòn đe dọa từ chức ngầm, như ông từng làm trước Trân Châu Cảng. Đổi lại cho chiến dịch Midway, Yamamoto chấp thuận hai yêu cầu của Bộ Tổng tham mưu Hải quân. Cả hai điều này đều trực tiếp làm suy yếu khả năng thành công của chiến dịch Midway, cho thấy sự khủng hoảng trong công tác hoạch định hải quân của Nhật Bản. Để khôi phục tiến trình mở rộng tại Nam Thái Bình Dương, Yamamoto đồng ý điều một phần Kido Butai để bảo vệ cuộc đổ bộ lên Port Moresby vào đầu tháng 5. Ông cũng đồng ý thực hiện các chiến dịch chiếm đóng một số điểm chiến lược ở quần đảo Aleutian cùng lúc với chiến dịch Midway, qua đó giảm bớt lực lượng dành cho trận quyết chiến. Sự phân tán này khó giải thích, nhưng có lẽ bắt nguồn từ niềm tin của Yamamoto rằng Hạm đội Liên hợp đủ mạnh để có thể tiến hành hai chiến dịch cùng lúc.
Chiến dịch Midway là chiến dịch lớn nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong toàn bộ cuộc chiến. Tất cả tám tàu sân bay đang hoạt động đều được huy động, cùng toàn bộ 11 thiết giáp hạm. Trong số 18 tàu tuần dương hạng nặng, có 14 chiếc được giao nhiệm vụ, cũng như phần lớn các tàu tuần dương hạng nhẹ và tàu khu trục của Hải quân Đế quốc. Lực lượng này nằm dưới quyền chỉ huy của 28 đô đốc. Chiến dịch MI tiêu thụ lượng nhiên liệu nhiều hơn tổng mức sử dụng trong cả một năm thời bình.

Đội hình của Kido Butai trước ngày 4 tháng 6 năm 1942.

Soái hạm của Lực lượng Tấn công số Một (Kido Butai số 1) và là nơi Nagumo chỉ huy trong trận Midway là tàu sân bay Akagi. Akagi vốn là một thiết giáp tuần dương hạm được cải tạo, do đó Akagi có thể đạt tốc độ tối đa trên 31 hải lý/giờ, được bảo vệ tốt, và sau đợt tái cấu trúc lớn trong năm 1935–1938 có thể mang tối đa 91 máy bay. Đến khi chiến tranh bùng nổ, Akagi thường mang theo 63 máy bay chiến đấu. Ngoài số máy bay hoạt động chính thức, các tàu sân bay Nhật còn mang theo máy bay dự bị; Akagi chứa máy bay dự bị ở boong chứa máy bay ở bên dưới, nhưng trong chiến dịch Midway thì không có máy bay dự bị nào được mang theo. Vũ khí trang bị của Akagi cũng rất mạnh: 6 pháo 203 mm (8 inch) đặt trong tháp pháo ở hốc pháo thấp sát mạn tàu, 12 pháo phòng không 120 mm (4.7 inch) bố trí kiểu hai nòng, 14 bệ pháo phòng không 25 mm Type 96 hai nòng (28 nòng). (Tranh của Stefan Draminski)
Chiến dịch MI dự kiến mở màn vào sáng ngày 3 tháng 6 bằng một cuộc tấn công bất ngờ đặc trưng của Kido Butai nhắm vào Midway. Lực lượng của Nagumo bao gồm bốn tàu sân bay hạm đội (Akagi, Kaga, Soryu, và Hiryu), được hộ tống bởi hai thiết giáp hạm, hai tàu tuần dương hạng nặng, một tàu tuần dương hạng nhẹ và 11 tàu khu trục. Yếu tố bất ngờ về chiến lược và chiến thuật được giả định là sẽ đạt được trong đòn tấn công mở màn vào Midway. Các cuộc không kích bổ sung được lên kế hoạch thực hiện vào ngày 4 tháng 6 nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ. Ngày 5 tháng 6, Nhóm tàu Tiếp tế thủy phi cơ sẽ đổ bộ lên đảo Kure cách Midway 60 dặm về phía tây để thiết lập một căn cứ thủy phi cơ.
Một lực lượng gồm 12 tàu vận tải và ba tàu tuần tra (được cải hoán từ tàu khu trục để chở lính đổ bộ), được hộ tống bởi một tàu tuần dương hạng nhẹ và mười tàu khu trục, đã chở theo 5.000 binh lính cho cuộc tấn công. Lực lượng Đổ bộ Đặc biệt Hỗn hợp số 2 của Hải quân, gồm khoảng 1.500 người, được phân công tấn công đảo Sand, trong khi đơn vị Ichiki của Lục quân Đế quốc (một tiểu đoàn tăng cường gồm 1.000 người) được giao nhiệm vụ tấn công đảo Eastern. Cả hai đơn vị đều đổ bộ từ phía nam của mục tiêu, nơi các rạn san hô ít gây cản trở hơn. Bên cạnh nhóm Chủ lực của Lực lượng Xâm lược, gồm hai thiết giáp hạm, cùng bốn tàu tuần dương hạng nặng, tám tàu khu trục và tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho, còn có nhiều nhóm khác hỗ trợ cuộc xâm lược. Trong số đó có Lực lượng Yểm trợ Cận chiến, gồm bốn tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu khu trục, và một nhóm tàu quét thủy lôi.
Sau khi chiếm đảo trong thời gian dự kiến nhanh chóng, hai tiểu đoàn công binh sẽ làm cho sân bay hoạt động được. Để hoàn thành việc này trước cuộc đối đầu dự kiến với hạm đội Mỹ, người ta cho rằng một ngày là đủ. Người Nhật dự định bảo vệ căn cứ mới bằng 36 chiếc Zero, 6 tàu ngầm bỏ túi, 5 tàu phóng ngư lôi, 94 khẩu pháo và 40 súng máy.
Việc chiếm đóng Midway là màn dạo đầu cho phần quan trọng nhất trong kế hoạch của Yamamoto. Một trong những giả định chính của phía Nhật là cuộc tấn công sẽ đạt được yếu tố bất ngờ chiến lược, và Hạm đội Thái Bình Dương sẽ cần ba ngày để xuất kích từ Trân Châu Cảng tới Midway. Yamamoto lo ngại rằng một phô trương lực lượng rầm rộ có thể khiến người Mỹ do dự trước khi giao chiến. Việc phân tán lực lượng của Yamamoto có lẽ là một mưu kế đánh lừa nhằm ngăn người Mỹ đoán được sức mạnh thực sự của ông ta và để thuyết phục Nimitz rằng điều kiện đã phù hợp cho một cuộc giao tranh lớn. Khi Hạm đội Thái Bình Dương xuất hiện, Hạm đội Liên hợp đang phân tán sẽ hội tụ lại để nghiền nát nó.
Để dụ Nimitz xuất quân, sau khi chiếm được Midway, Nagumo sẽ đưa các tàu sân bay của mình đến vị trí cách phía đông bắc đảo khoảng 500 hải lý. Trong khi đó, Lực lượng Xâm lược sẽ ở lại gần Midway như một miếng mồi nhử rõ ràng. Các lực lượng chủ lực khác của Nhật sẽ ẩn náu ở phía bắc, ngoài tầm trinh sát của Mỹ. Bộ phận Chủ lực của hạm đội sẽ bố trí cách lực lượng của Nagumo khoảng 300 hải lý về phía tây, còn Lực lượng Bảo vệ– gồm các thiết giáp hạm khác – sẽ di chuyển đến vị trí cách Bộ phận Chủ lực khoảng 500 hải lý về phía bắc. Hai tàu sân bay tham gia chiến dịch Aleutian sẽ bố trí cách Lực lượng Bảo vệ khoảng 300 hải lý về phía đông.

Theo Chiến dịch MI, Yamamoto đã chọn rạn san hô Midway— có diện tích chưa đến hai dặm vuông, nằm ở tận cùng của chuỗi đảo Hawaii, cách Trân Châu Cảng khoảng 1.100 hải lý. Mục tiêu ban đầu của chiến dịch này là tấn công Midway bằng Kido Butai số 1 của Phó Đô đốc Chuichi Nagumo, tiêu diệt lực lượng không quân Mỹ tại đây, sau đó sẽ xâm chiếm vùng này và biến nó thành một căn cứ tiền phương. Những gì được cho là sẽ diễn ra tiếp theo phức tạp hơn nhiều. Kế hoạch của Yamamoto cuối cùng bao gồm hàng chục đội hình tàu chiến khác nhau hoạt động hỗ trợ Nagumo nhưng trải rộng trên khoảng 2,5 triệu dặm vuông đại dương. Lý do cho sự phân tán này chính là nghi binh. Yamamoto tin rằng sau những thất bại ban đầu của Hải quân Mỹ, tinh thần của họ sẽ xuống thấp đến mức các tàu sân bay của họ sẽ phải bị dụ đến chỗ diệt vong. Một trong những đội hình của Nhật Bản - Lực lượng Hỗ trợ với hai thiết giáp hạm tốc độ cao- sẽ đóng vai trò làm mồi nhử. Các đơn vị chủ lực khác sẽ ẩn mình - Yamamoto không muốn lộ diện quá sớm và làm con mồi hoảng sợ. Sau khi các tàu chiến Mỹ tiến ra tấn công Lực lượng Hỗ trợ, Lực lượng Chủ lực được trang bị hỏa lực hạng nặng của Yamamoto, cùng với các lực lượng thiết giáp hạm và tàu sân bay khác được rút về từ các chiến dịch ở quần đảo Aleutian, sẽ tập trung về phía họ. 2 tàu sân bay của Nagumo sẽ tiêu diệt lực lượng đối phương, sau đó đội hình thiết giáp hạm của Yamamoto sẽ tiêu diệt các thiết giáp hạm Mỹ mà người Nhật (theo một cách sai lầm) đã cho là sẽ bám theo. Kết quả sẽ giống như chiến thắng mang tính bước ngoặt của Nhật Bản trước hải quân Nga tại Tsushima năm 1905—một chiến thắng quyết định, hủy diệt, về cơ bản đã giành chiến thắng trong một đòn đánh. Sau đó, Hawaii sẽ bị xâm lược và chiếm đóng. Chắc chắn những thất bại này sẽ khiến Hoa Kỳ phải tỉnh ngộ và ngồi vào bàn đàm phán.
Khi Hạm đội Liên hợp vào vị trí, Nhật Bản cho rằng Hạm đội Thái Bình Dương sẽ tấn công Lực lượng Xâm lược đang tuần tra gần Midway. Trong một chuỗi những giả định vô căn cứ khác, người Nhật dường như tin rằng sự đáp trả của người Mỹ sẽ bao gồm không chỉ các tàu sân bay còn lại mà cả những thiết giáp hạm còn lại. Điều này cho phép Hạm đội Liên hợp khôi phục kế hoạch "trận đánh quyết định" được chuẩn bị từ thời bình. Sau khi tàu ngầm và máy bay Nhật đã gây tổn thất lớn cho đối phương, đòn kết liễu sẽ được các thiết giáp hạm Nhật của Hạm đội Liên hợp tung ra trong đội hình tập trung.
Các phần khác trong kế hoạch của Nhật Bản cũng đáng được xem xét kỹ lưỡng. Hai tuyến tàu ngầm tiền tiêu được bố trí trên tuyến đường mà người Nhật cho là Hạm đội Thái Bình Dương sẽ đi từ Trân Châu Cảng đến Midway. Mỗi tuyến gồm bảy tàu ngầm, mỗi tàu có một khu vực tuần tra riêng. Bằng một cách khó tin, giữa các khu vực này lại có khoảng trống đủ để người Mỹ lọt qua mà không bị phát hiện. Thêm vào đó, các tàu ngầm này đều là tàu cũ gặp nhiều trục trặc kỹ thuật. Do chậm trễ khi rời căn cứ, một số tàu thậm chí còn chưa tới được vị trí tuần tra trước khi các tàu sân bay Mỹ đã vượt qua. Một chiến dịch tàu ngầm khác nhằm thu thập thông tin tình báo về vị trí của các đơn vị Mỹ tại Trân Châu Cảng cũng bị hủy bỏ khi Nhật phát hiện người Mỹ đã bố trí tàu tại French Frigate Shoals nằm giữa Hawaii và Midway. Điều này ngăn không cho các tàu ngầm tiếp nhiên liệu cho thủy phi cơ, khiến Yamamoto không nhận được cảnh báo sớm nào từ các máy bay trinh sát của mình.

Một trong những ngộ nhận dai dẳng nhất về trận Midway là chiến dịch AL của Nhật Bản nhằm chiếm các điểm đảo ở quần đảo Aleutians chỉ là một đòn đánh lừa nhằm kéo lực lượng Mỹ ra khỏi hướng tấn công chính tại Midway. Mục tiêu chính của Yamamoto là lôi kéo càng nhiều tàu chiến Mỹ càng tốt đến Midway để tiêu diệt chúng tại đó. Vậy tại sao trong đại kế hoạch tháng 6 năm 1942 lại có bất kỳ phần nào cố tình kéo lực lượng Mỹ đi khỏi chính nơi mà Nhật muốn chúng xuất hiện để bị tiêu diệt? Ngoài Fuchida – người có tường thuật về trận đánh chứa đầy những sai sót nghiêm trọng – thì không một người Nhật nào tham gia trận đánh ở vị trí đủ để biết từng mô tả chiến dịch Aleutians là một đòn nghĩ binh. Dù một số tàu không thuộc loại mạnh nhất của Hạm đội Liên hợp, thì Lực lượng Phương Bắc vẫn có tới 43 tàu. Hai tàu sân bay tham gia Chiến dịch AL (Junyo và Ruyjo thuộc Kido Butai số 2) mang tổng cộng 63 máy bay – con số lớn hơn bất kỳ tàu sân bay chủ lực nào trong Kido Butai số 1 tại Midway. 3 tàu tuần dương hạng nặng, 11 tàu khu trục và 6 tàu ngầm đều là những đơn vị chiến đấu hữu dụng. Những tàu này nếu được bổ sung cho lực lượng Midway sẽ tạo ra sự khác biệt rất lớn, nhưng trong toàn bộ kế hoạch của người Nhật không hề có ý định điều chuyển lực lượng Aleutians về Midway. Thậm chí còn ngược lại: đã có hai giai đoạn tăng viện được lên kế hoạch cho Lực lượng Phương Bắc bằng cách rút tàu từ Chiến dịch MI đến ngày 20 tháng 6.
Một trong những khía cạnh bị hiểu lầm nhiều nhất trong Chiến dịch Midway là Chiến dịch AL – kế hoạch của Nhật nhằm chiếm hai hòn đảo trong quần đảo Aleutian. Người ta thường tin rằng chiến dịch tại Aleutian là một cuộc nghi binh nhằm kéo lực lượng Mỹ khỏi Midway, nhưng các tài liệu phía Nhật lại không hề cho thấy có yếu tố nghi binh nào trong cuộc đổ bộ này. Ý tưởng rằng Aleutian là một mồi nhử đã không đứng vững khi xét trong bối cảnh mà Yamamoto muốn tiêu diệt Hạm đội Thái Bình Dương tại Midway chứ không phải dụ nó rời xa Midway. Chiến dịch AL bao gồm một đợt không kích bằng tàu sân bay vào căn cứ Mỹ tại Dutch Harbor vào ngày 3 tháng 6 — trùng với ngày dự kiến tấn công Midway. Sau đó là các cuộc đổ bộ lên Kiska và Adak vào ngày 6 tháng 6. Cuộc đổ bộ Adak thực chất là một cuộc tập kích nhằm phá hủy cơ sở mà người Nhật tin là có ở đó. Một cuộc đổ bộ tùy chọn lên đảo Attu được lên kế hoạch cho ngày 12 tháng 6.
Vấn đề của Chiến dịch AL là nó làm phân tán đáng kể lực lượng khỏi trận đánh quyết định ở Midway. Trong số đó có các tàu sân bay Junyo và Ryujo. Dù không phải là tàu sân bay hạm đội, chúng vẫn mang theo 63 máy bay — tương đương với một tàu sân bay của Nagumo. Chiến dịch AL là minh chứng cho sự thất bại trong việc ưu tiên mục tiêu và phân bổ lực lượng của Yamamoto. Quần đảo Aleutian rõ ràng là một mục tiêu phụ không xứng đáng với lực lượng được điều đến. Nếu Chiến dịch MI là trận đánh quyết định, thì bất kỳ sự phân tán lực lượng nào đều sẽ vi phạm nguyên tắc tập trung và là điều thiếu khôn ngoan. Nếu chiến dịch Midway diễn ra suôn sẻ, Yamamoto có thể chiếm Aleutian khi rảnh tay. Nếu chiến dịch Midway thất bại, bất kỳ lợi ích nào giành được tại Aleutian cũng không thể giữ được — điều đã được chứng minh qua các sự kiện trong năm 1943. Các lực lượng được phân bổ cho Chiến dịch AL hoàn toàn không thể hỗ trợ cho Chiến dịch MI và do đó mà trở nên vô giá trị trong bất kỳ cuộc đụng độ nào với Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ.

Rạn san hô Midway gồm hai đảo. Đảo Eastern ở tiền cảnh có sân bay, còn Đảo Sand là nơi đặt một căn cứ thuỷ phi cơ. Yamamoto dự định dùng Midway làm mồi nhử để kéo Hạm đội Thái Bình Dương vào trận đánh với toàn bộ sức mạnh của Hạm đội Liên hợp.
Kế hoạch của Yamamoto dành cho Chiến dịch MI chứa đầy những giả định sai lầm và hoàn toàn phớt lờ năng lực của đối phương. Điều này xuất phát từ sự tự mãn, kiêu ngạo và quá tự tin – hệ quả của “căn bệnh chiến thắng” vốn đang hoành hành trong Hạm đội Liên hợp sau nhiều tháng chiến thắng liên tiếp. Chiến dịch này cũng quá mức phức tạp. Mặc dù tính phức tạp vốn là đặc điểm điển hình của các kế hoạch hải quân Nhật Bản, Yamamoto đã đẩy nó lên một tầm cao mới, với 12 lực lượng khác nhau được phân tán trên một vùng rộng lớn của Thái Bình Dương. Kế hoạch này vi phạm nguyên tắc tập trung lực lượng và khiến cho việc phối hợp giữa các nhóm rải rác trở nên khó khăn. Chiến dịch AL lôi kéo 50 tàu vào một ngõ cụt chiến lược. Các thiết giáp hạm của Yamamoto được triển khai quá xa phía sau, đến mức trở nên vô nghĩa đối với kết cục của trận đánh. Một phần then chốt trong kế hoạch của Yamamoto là ngụy trang nhằm nhử Hạm đội Thái Bình Dương vào chỗ diệt vong. Tuy nhiên, không thể nào một chiến dịch quy mô lớn như vậy vừa có thể giữ được tính nghi binh vừa có thể đảm bảo hỗ trợ lẫn nhau, và Yamamoto lẽ ra phải ưu tiên cho khả năng hỗ trợ lẫn nhau. Kết quả của kế hoạch sai lầm này là người Nhật thực tế lại bị áp đảo ngay tại điểm giao chiến. Lực lượng của Nimitz gồm 26 tàu đối đầu với Kido Butai gồm 20 tàu. Quan trọng hơn, người Mỹ huy động được 348 máy bay (tính cả máy bay từ Midway) so với 248 chiếc của Nagumo.
KẾ HOẠCH PHỤC KÍCH CỦA NIMITZ

Đô đốc Chester Nimitz được chụp tại Midway sau trận chiến. Nimitz chính là người chiến thắng thực sự tại Midway vì ông đã quyết định chiến đấu bảo vệ đảo và sau đó duy trì quyền chỉ huy tổng thể các lực lượng trong suốt trận chiến.
Trái với ngộ nhận phổ biến, quyết định của Nimitz tham chiến với người Nhật tại Midway không phải là một canh bạc tuyệt vọng trước những bất lợi không thể vượt qua, mà là một kế hoạch được tính toán cẩn thận, có tiềm năng lớn để gây thiệt hại nghiêm trọng cho đối phương. Yamamoto đã đúng khi cho rằng Nimitz sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Midway, nhưng không phải trong những điều kiện mà Yamamoto giả định. Nimitz không cần phải bị khiêu khích để chủ động tấn công người Nhật ngay khi các điều kiện thuận lợi xuất hiện. Những điều kiện đó bao gồm việc tung ra số tàu sân bay ít ỏi còn lại của ông để đối đầu với một lực lượng Nhật lớn hơn, nếu ông có thể giành được yếu tố bất ngờ. Nimitz đã thể hiện tinh thần chủ động này tại trận Biển San Hô, khi ông điều hai tàu sân bay tham chiến với một lực lượng Nhật vượt trội hơn. Ông sẵn sàng làm điều tương tự tại Midway. Sau trận Biển San Hô, ông chỉ còn hai tàu sân bay hoạt động đầy đủ ở Thái Bình Dương – Enterprise và Hornet. Saratoga vẫn đang được sửa chữa và không được kỳ vọng sẽ quay lại phục vụ trước cuối tháng Năm. Tàu sân bay cuối cùng của Nimitz là Yorktown, vốn đã bị hư hại nặng. Ngay cả khi không có Yorktown, Nimitz vẫn quyết tâm điều động Enterprise và Hornet đến Midway để đối đầu với bốn tàu sân bay hạm đội Nhật Bản – một tỷ lệ bất lợi 1:2 đầy thách thức. Tuy nhiên, nếu Yorktown có thể được sửa chữa kịp thời, thì cán cân lực lượng sẽ thuận lợi hơn nhiều cho phía Mỹ. Nimitz đã giao cho xưởng tàu tại Trân Châu Cảng ba ngày để khôi phục khả năng hoạt động của Yorktown. So sánh điều này với sự thờ ơ hoàn toàn của phía Nhật Bản, khi họ không hề nỗ lực trang bị cho Zuikaku (vốn không hề bị hư hại) một không đoàn tạm thời để tham gia chiến dịch, ta có thể thấy rõ sự khác biệt về tinh thần chủ động và khả năng ứng biến giữa hai bên.

Edwin Thomas Layton (1903 - 1984) là một trong số những người thuộc nhóm đã giải mã kế hoạch của Nhật Bản về Chiến dịch MI.
Nền tảng cho sự quyết đoán của Nimitz chính là lợi thế vô giá mà ông có được nhờ nguồn tin tình báo vượt trội về sức mạnh và ý đồ của đối phương. Dù không đảm bảo tính chính xác tuyệt đối, nhưng nguồn tin này vẫn đảm bảo rằng lực lượng hải quân Mỹ sẽ được bố trí vào vị trí thuận lợi nhất để gây thiệt hại tối đa cho Nhật Bản. Kể từ khi chiến tranh nổ ra, người Mỹ đã đạt được những bước tiến ổn định trong việc giải mã hệ thống liên lạc chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN). Đến tháng 4 năm 1942, họ đã đạt được những bước đột phá thực sự, cho phép đọc được tới 85% nội dung của một số bức điện. Từ đó, nhóm mật mã học của Hạm đội Thái Bình Dương đã dựng nên một bức tranh khá rõ ràng về kế hoạch sắp tới của Yamamoto. Mục tiêu chính được xác định chính xác là Midway, nơi dự kiến sẽ có bốn đến năm tàu sân bay cỡ lớn, hai đến bốn thiết giáp hạm cao tốc, bảy đến chín tàu tuần dương hạng nặng (được hộ tống bởi số lượng tương ứng tàu khu trục), tới 24 tàu ngầm, cùng một lực lượng đổ bộ. Ngoài ra, còn có một cánh quân khác (bao gồm cả tàu sân bay) sẽ tấn công quần đảo Aleutian. Chiến dịch dự kiến diễn ra trong tuần đầu tiên của tháng 6, tuy thời điểm chính xác vẫn chưa rõ. Nimitz tin rằng ngày 5 tháng 6 là thời điểm đổ bộ đồng loạt lên Midway và Aleutian. Cuộc đổ bộ này sẽ được mở đầu bằng đợt không kích từ tàu sân bay Nhật vào ngày 3 hoặc 4 tháng 6, tiếp theo là pháo kích dữ dội ban đêm từ hạm đội mặt nước. Đồng thời, tàu ngầm Nhật được kỳ vọng sẽ theo dõi và tấn công các tàu Mỹ di chuyển từ Trân Châu Cảng ra Midway, trong khi thủy phi cơ – được tiếp nhiên liệu bởi tàu ngầm – sẽ lặp lại vụ ném bom đêm tháng 3 vào Trân Châu Cảng. Đây là một bản mô phỏng khá sát với kế hoạch thật của Nhật, dù vẫn thiếu một số chi tiết. Nimitz không hề biết về quyết định của Yamamoto đưa thiết giáp hạm tham chiến, nhưng vì chúng nằm ngoài tầm hỗ trợ của Kido Butai, nên sự thiếu sót này không ảnh hưởng đáng kể. Chất lượng cao của nguồn tin tình báo đã đem lại cho Nimitz niềm tin mạnh mẽ để hành động. Cần lưu ý rằng tình báo cung cấp cho Fletcher tại trận Biển San Hô trước đó đã sai lệch về vị trí triển khai của tàu sân bay Nhật. Tuy nhiên, tình báo liên quan đến kế hoạch của Nhật ở Midway lại cực kỳ chính xác, và chính nó đã tạo nên cuộc phục kích duy nhất trong toàn bộ các trận đánh tàu sân bay của Chiến tranh Thái Bình Dương.

Trái ngược đối phương, kế hoạch của người Mỹ lại khá đơn giản. Nimitz lập luận rằng nếu ông có thể tăng cường sức mạnh không quân của Midway và đưa đủ tàu ngầm vào khu vực, ông có thể tiêu diệt lực lượng tàu sân bay Nhật Bản (mà ông nghĩ có thể lên đến năm chiếc) trước khi các tàu sân bay của mình tấn công. Ông sẽ bố trí chúng ở phía đông bắc Midway, sao cho máy bay của họ có thể phục kích quân Nhật. Nếu các máy bay ném bom tuần tra tầm xa PBY-5 và PBY- 5A Catalina của Midway phát hiện ra lực lượng Nhật Bản trước, các tàu sân bay Mỹ có thể tấn công trước khi kẻ thù kịp nhận ra sự hiện diện của họ. Tuy nhiên, tuyệt chiêu của ông nằm ở những mệnh lệnh mà ông ban hành cho hai chỉ huy lực lượng đặc nhiệm, Chuẩn Đô đốc Frank Jack Fletcher (tổng chỉ huy của Lực lượng Đặc nhiệm 17), và cấp dưới của ông, Chuẩn Đô đốc Raymond Spruance (Lực lượng Đặc nhiệm 16). Nimitz ra lệnh cho họ sử dụng "chiến thuật tiêu hao mạnh mẽ" để làm suy yếu kẻ thù rồi tấn công. Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc chiến đến cùng - hoàn toàn không phải vậy. Nimitz chỉ đạo rằng hành động của họ phải "được điều chỉnh theo nguyên tắc tính toán rủi ro mà các bạn sẽ hiểu là tránh để lực lượng của mình bị tấn công bởi lực lượng địch mạnh hơn mà không có triển vọng tốt về việc gây ra thiệt hại lớn hơn cho kẻ thù do sự phơi bày đó". Nói cách khác, Fletcher và Spruance phải "chiến đấu thông minh". Nếu họ thấy mình rơi vào tình thế khó khăn, và Midway buộc phải tự vệ, thì cứ để vậy. Nimitz muốn một cuộc chiến sáng suốt, chứ không phải những màn kịch lố bịch.

Trong thời gian Halsey vắng mặt, Chuẩn đô đốc Raymond Spruance được giao quyền chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm 16 (bức ảnh này chụp ông khi mang quân hàm đô đốc vào tháng 4 năm 1944). Dù Fletcher thực tế là người chỉ huy lực lượng tàu sân bay Mỹ tại Midway, Spruance nhận phần lớn công lao cho chiến thắng sau khi ông tiếp quản quyền chỉ huy tổng thể khi Fletcher buộc phải rời soái hạm. (NHHC)
Nimitz đã vận dụng những hiểu biết của mình về kế hoạch của Yamamoto để bố trí lực lượng một cách thận trọng và chính xác. Bất chấp việc Đô đốc King liên tục gợi ý nên sử dụng bảy thiết giáp hạm của Hạm đội Thái Bình Dương một cách táo bạo, Nimitz quyết định để chúng ở lại San Francisco để tránh xa nguy hiểm. Ông thiếu các phương tiện cần thiết để cung cấp đủ yểm trợ trên không và lực lượng hộ tống cho đội hình thiết giáp hạm, và quan trọng hơn, ông không muốn các tàu sân bay bị cản trở bởi tốc độ chậm chạp của thiết giáp hạm. Hai tàu sân bay đang hoạt động của Nimitz, Enterprise và Hornet, được giao cho Chuẩn đô đốc Raymond Spruance (người thay thế Đô đốc Halsey đang bị ốm) chỉ huy dưới danh hiệu Lực lượng Đặc nhiệm 16 (TF 16), với mệnh lệnh đến vị trí ở phía đông bắc Midway trước ngày 1 tháng 6. Yorktown, vẫn mang danh hiệu Lực lượng Đặc nhiệm 17 (TF 17), đã được sửa chữa chỉ trong ba ngày và được lệnh hội quân với TF 16 ở ngoài khơi Midway vào ngày 2 tháng 6. Chuẩn đô đốc Frank Jack Fletcher, trên soái hạm Yorktown, sẽ nắm quyền chỉ huy tổng thể đối với cả hai nhóm tàu sân bay.

Ba tàu sân bay lớp Yorktown (Yorktown, Enterprise - trong bức tranh, và Hornet) chính là trung tâm của lực lượng Mỹ trong trận Midway. Được thiết kế dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của hạm đội, lớp Yorktown là một trong những thiết kế tàu sân bay xuất sắc nhất của Mỹ từ trước đến nay, thành công đến mức đã trở thành nền tảng cho lớp Essex sau này thậm chí còn ưu việt hơn. Trọng tâm thiết kế của lớp là vận hành phi đoàn lớn một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nhờ nguyên tắc đỗ máy bay trên sàn bay – tức bảo dưỡng máy bay ngay trên sàn bay thay vì trong boong chứa máy bay như tàu sân bay Nhật – nên các tàu này mang được nhiều máy bay hơn đối thủ Nhật cùng kích cỡ. Lớp Yorktown được thiết kế để vận hành 90 máy bay, nhưng trong giai đoạn này của chiến tranh thực tế mang khoảng 80 chiếc. Với lượng giãn nước tiêu chuẩn gần 20.000 tấn, lớp tàu đủ lớn để bố trí hệ thống bảo vệ đáng kể chống ngư lôi. Nhìn chung, hệ thống bảo vệ này hoạt động rất tốt – bằng chứng là tại Midway sắp tới, Yorktown chịu đựng mức hư hại vượt xa dự kiến của các nhà thiết kế trước khi cuối cùng bị đánh chìm. Vũ khí phòng không của lớp Yorktown rất mạnh và tiên tiến: Là những tàu Mỹ đầu tiên được trang bị pháo đa năng 127 mm/38 – loại pháo phòng không tầm xa tốt nhất chiến tranh. 4 bệ pháo 1.1 inch (28 mm) bốn nòng bố trí trước và sau đảo thượng tầng. Ban đầu có 24 súng máy 12,7 mm (.50-cal) cho phòng thủ tầm gần, nhưng trước Midway đã được thay bằng pháo tự động 20 mm Oerlikon (Hornet và Yorktown mỗi tàu nhận 24 khẩu 20 mm, Enterprise nhận 32 khẩu). Quan trọng nhất, cả ba tàu đều có radar: Yorktown nhận một trong sáu bộ CXAM đầu tiên vào tháng 10-1940, Enterprise được lắp CXAM-1 cải tiến, Hornet được lắp radar SC kém hiệu quả hơn. (Tranh của Stefan Draminski)
Tình báo cho thấy Nhật sẽ không kích Midway từ hướng tây bắc. Nimitz bố trí các tàu sân bay của mình ở vị trí cách đảo 325 hải lý về phía đông bắc, nằm bên sườn của Kido Butai, nhằm giảm rủi ro mà vẫn đủ gần để tung đòn phục kích khi Nhật tấn công đảo. Yếu tố then chốt để tạo nên một cuộc phục kích là khả năng trinh sát của Midway, nơi đang tiến hành các phi vụ tìm kiếm tới bán kính 700 hải lý nhằm giảm khả năng bị tập kích bất ngờ. Báo cáo cuối cùng của Nimitz gửi cho Fletcher và Spruance mô tả gần như chính xác đội hình của Nagumo – gồm bốn tàu sân bay, hai thiết giáp hạm, hai tàu tuần dương hạng nặng và 12 tàu khu trục. Nimitz tin rằng các tàu sân bay Nhật sẽ chia làm hai nhóm, mỗi nhóm hai tàu, một nhóm sẽ tấn công Midway còn nhóm kia làm nhiệm vụ yểm trợ. Ông hy vọng có thể phục kích nhóm tấn công Midway trước, sau đó chuyển sang giai đoạn hai khi ba tàu sân bay Mỹ đấu với hai tàu Nhật còn lại.
Nimitz cũng sở hữu lợi thế lớn khi giao chiến trong phạm vi hỗ trợ của không quân căn cứ trên đất liền. Midway được bố trí 115 máy bay, bao gồm nhiều máy bay trinh sát tầm xa, máy bay tiêm kích bảo vệ căn cứ và một lực lượng tấn công hỗn hợp của cả Không lực Thủy quân Lục chiến, Hải quân và Lục quân.
Nimitz chưa bao giờ xem trận này là cuộc tử chiến để giữ Midway. Mệnh lệnh của ông gửi Fletcher và Spruance nêu rõ rằng họ phải "tuân theo nguyên tắc rủi ro được tính toán, có thể hiểu là không được để lực lượng của mình rơi vào thế bị tấn công bởi lực lượng địch vượt trội trừ khi có triển vọng rõ ràng gây thiệt hại lớn hơn cho kẻ địch." Ngoài mệnh lệnh này, Nimitz còn đích thân dặn Spruance rằng không được để mất tàu sân bay bằng bất cứ giá nào — và có thể ông cũng đã đưa chỉ thị tương tự cho Fletcher. Nếu cần thiết, Nimitz sẵn sàng để cho Nhật đổ bộ lên Midway, vì ông tin rằng nếu Midway có mất thì nơi này cũng có thể tái chiếm lại về sau.
Về chiến thuật, Nimitz dự tính TF 16 sẽ là lực lượng tấn công chủ lực. Khi phát hiện tàu sân bay Nhật, TF 16 sẽ tung ra đòn tấn công tổng lực. Còn TF 17 sẽ đóng vai trò trinh sát và lực lượng dự bị theo quyết định của Fletcher.
Mỗi nhóm không quân trên các tàu sân bay Mỹ có cách tiếp cận khác nhau cho trận sắp tới và mỗi cách đều có ảnh hưởng thực sự tới trận đánh. Nhóm không quân của Hornet là ít kinh nghiệm nhất. Sĩ quan chỉ huy của tàu, Đại tá Marc Mitscher, quyết định phân chỉ chỉ mười chiếc Wildcat để hộ tống lực lượng tấn công. Vì số lượng này không đủ để che chắn cả máy bay ném bom bổ nhào và các phi đội ném ngư lôi vốn bay ở các độ cao rất khác nhau, ông ra lệnh cho các tiêm kích ở lại cùng máy bay ném bom bổ nhào để duy trì ưu thế về độ cao. Người chỉ huy phi đội ném ngư lôi của Hornet hoàn toàn có lý khi lo ngại về việc thiếu bảo vệ tiêm kích trực tiếp. Nhóm không quân Hornet sẽ cất cánh thành hai đợt đầy sàn bay và tiến tới mục tiêu theo hai nhóm riêng biệt. Các máy bay ném bom bổ nhào sẽ bay ở 20.000 feet và được lệnh giữ cho các máy bay ném ngư lôi, bay ở 1.500 feet, luôn trong tầm nhìn để có thể thực hiện một cuộc tấn công có phối hợp.
Sự thiếu kinh nghiệm của không đoàn Hornet thể hiện rõ khi họ quyết định cho máy bay hộ tống cất cánh ngay từ đợt đầu. Điều này khiến chúng phải chờ toàn bộ đội hình cất cánh xong mới có thể xuất phát, làm tiêu tốn đáng kể lượng nhiên liệu hạn chế. Điều này về sau sẽ trở thành thảm họa.
Không đoàn của Enterprise vốn dày dạn kinh nghiệm hơn, quyết định chọn phương án xuất kích hai đợt, trong đó tiêm kích hộ tống nằm ở đợt hai. Tất cả các phi đội được lệnh bay trong tầm nhìn của nhau để đảm bảo phối hợp. Chỉ huy phi đội tiêm kích quyết định hỗ trợ trực tiếp cho đội bổ nhào nhưng hứa sẽ rút về hỗ trợ phi đội ném ngư lôi Devastator nếu cần. Không đoàn của Yorktown lại chọn phương án dồn cả tám máy bay tiêm kích hộ tống theo phi đội ném ngư lôi dễ bị tổn thương hơn. Trước trận chiến, số lượng tiêm kích được tăng lên 27 chiếc nhờ mẫu máy bay F4F-4 có cánh gập được. Phần lớn trong số này được phân bổ cho nhiệm vụ phòng không hạm đội.
NHỮNG ĐỘNG THÁI MỞ MÀN
Kido Butai rời neo đậu tại vịnh Hashirajima vào ngày 27 tháng 5, muộn hơn một ngày so với kế hoạch. Do ngày đổ bộ lên đảo Midway được ấn định theo điều kiện thủy triều, Yamamoto đã không điều chỉnh lại lịch trình Chiến dịch MI. Điều này đồng nghĩa với việc lực lượng Nhật Bản có ít hơn một ngày để vô hiệu hóa hệ thống phòng thủ Mỹ trên đảo Midway trước cuộc đổ bộ – một dấu hiệu nữa cho thấy sự tự mãn của phía Nhật.
Các phần khác trong Chiến dịch MI cũng bị chậm trễ. Lực lượng tàu ngầm không kịp đến tuyến tuần tra giữa Hawaii và Midway theo đúng kế hoạch vào ngày 1 tháng 6. Một số tàu ngầm chỉ đến vị trí trực chiến vào ngày 3 tháng 6 – tức sau khi TF 16 và TF 17 của Mỹ đã đi qua khu vực này. Một điều khó tin là chỉ huy phụ trách không coi việc tàu ngầm đến trễ là điều nghiêm trọng nên đã không báo cáo cho Yamamoto. Trong khi đó, nhiệm vụ trinh sát Trân Châu Cảng bằng thủy phi cơ (Chiến dịch K) bị hủy bỏ vào ngày 31 tháng 5 khi tàu ngầm I-121 tiến vào khu vực French Frigate Shoals và phát hiện các tàu chiến Mỹ đang hiện diện.
Bất chấp thất bại của lực lượng tàu ngầm trong việc cung cấp cảnh báo sớm về di chuyển của Hạm đội Thái Bình Dương, vẫn có nhiều dấu hiệu cho thấy người Mỹ đã tăng cường sẵn sàng chiến đấu. Tàu ngầm I-168 đã tiến hành trinh sát đảo Midway vào ngày 2 tháng 6 và báo cáo có hoạt động hàng không dày đặc ban ngày, kèm theo các hoạt động xây dựng tiếp diễn suốt đêm. Phân tích tín hiệu vô tuyến của Hải quân Mỹ cũng ghi nhận sự gia tăng lưu lượng điện báo, với nhiều điện tín được đánh dấu là “khẩn cấp.” Tuy nhiên, đánh giá tình báo mới của Nhật về việc Hạm đội Thái Bình Dương không ngồi yên ở Trân Châu Cảng đã bị phớt lờ, vì nó không phù hợp với giả định rằng Chiến dịch MI chắc chắn sẽ đạt được yếu tố bất ngờ cả về chiến lược lẫn chiến thuật.
Trên thực tế, Hạm đội Thái Bình Dương không hề “ngồi yên.” TF 16 đã quay trở lại Trân Châu Cảng vào ngày 26 tháng 5 sau một đợt triển khai ngắn ở Nam Thái Bình Dương. Yorktown - con tàu bị hư hại trong trận Biển San Hô – tới cảng ngày hôm sau và được đưa vào ụ khô để sửa chữa khẩn cấp vào sáng hôm sau nữa. Spruance dẫn TF 16 rời cảng vào ngày 28 tháng 5 để tiến về vị trí ở phía đông bắc Midway. Yorktown hoàn tất sửa chữa gấp rút vào ngày 29 tháng 5 và khởi hành sáng hôm sau để gia nhập TF 16 ngoài khơi Midway. Hai lực lượng gặp nhau vào ngày 2 tháng 6 và Fletcher tiếp nhận quyền chỉ huy lực lượng phối hợp.
Do không biết Kido Butai bị trễ một ngày so với kế hoạch, phía Mỹ dự đoán các đợt không kích đầu tiên của Nhật vào Midway sẽ bắt đầu vào ngày 3 tháng 6. Fletcher ra lệnh cho Yorktown phóng 20 chiếc Dauntless để thực hiện nhiệm vụ trinh sát, đồng thời điều các tàu sân bay đến vị trí mới cách về phía tây khoảng 175 hải lý để sẵn sàng đón đánh cuộc tấn công của Nhật. Tuy nhiên, không có cuộc chạm trán nào xảy ra vì Kido Butai vừa bị chậm tiến độ, vừa được che chắn bởi thời tiết cực xấu ở phía bắc Midway.
TRẬN ĐÁNH MỞ ĐẦU

Đội hình của Kidō Butai số 1 lúc 04 giờ 30 phút. Các tàu sân bay của hạm đội hoạt động theo cách khá phân tán, cho phép triển khai hoạt động tự do và cơ động dễ dàng, trong khi vẫn duy trì khả năng tập trung nhanh chóng lực lượng không quân tấn công của hạm đội.

Lúc 04 giờ 26 phút vào ngày 4 tháng 6, đợt tấn công lớn vào Midway của Kido Butai số 1 chính thức bắt đầu cất cánh. Tổng cộng 108 máy bay được huy động, chia đều thành ba thành phần: 36 tiêm kích Zero, 36 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A “Val”, 36 máy bay ném bom-ngư lôi Nakajima B5N “Kate” (lần này dùng làm máy bay ném bom ngang). Mỗi tàu sân bay đóng góp chín tiêm kích, trong đó Akagi và Kaga (như trong bức tranh đang mô tả một chiếc máy bay Type 99 mang mã hiệu ở đuôi AII đang chuẩn bị cất cánh trên sàn bay) mỗi tàu góp 18 máy bay ném bom bổ nhào. Máy bay ném bom bổ nhào của Akagi được phân công đánh các mục tiêu trên Đảo Eastern với mục tiêu chính là sân bay, còn máy bay ném bom bổ nhào của Kaga được phân bổ đánh các mục tiêu trên Đảo Sand. Mỗi chiếc Val mang một quả bom phá đất Type 98 No. 25 nặng 532 pound. Các chiếc Kate đến từ Sư đoàn Hàng không 2. Phi đội của Hiryū được lệnh đánh Đảo Sand, còn phần lớn phi đội của Sōryū đánh Đảo Eastern. Trong vai trò ném bom ngang, các chiếc Kate mang bom phá mặt đất Type 80 nặng 1.760 pound. Dẫn trước các máy bay ném bom là 36 tiêm kích. Nhiệm vụ chính của chúng là giành quyền kiểm soát không phận trên quần đảo. Khi đã hoàn thành việc này, chúng sẽ hạ thấp độ cao để thực hiện các cuộc tấn công xả súng. Các máy bay ném bom sẽ vòng qua để tiếp cận Midway từ phía đông, do đó đặt mặt trời vào mắt lực lượng phòng thủ. Lần đầu tiên trong chiến tranh, Kido Butai được kỳ vọng sẽ vô hiệu hóa một mục tiêu được phòng thủ mạnh để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ. Đối với một mục tiêu như Midway, 72 quả bom mà các máy bay ném bom bổ nhào và ném bom ngang mang theo rõ ràng là không đủ để gây ra một đòn dứt điểm. Với chỉ bốn tàu sân bay, thật đáng nghi ngờ liệu lực lượng của Nagumo có thể tiến hành một chiến dịch kéo dài để vô hiệu hóa Midway được phòng thủ mạnh và sau đó vẫn ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu một trận hải chiến lớn hay không. (Tranh của Stefan Draminski)
Việc Đô đốc Yamamoto từ chối thay đổi kế hoạch sau khi các tàu sân bay của Nagumo khởi hành muộn đã khiến trận chiến không thể mở màn bằng cuộc không kích bất ngờ vào Midway như dự tính. Các lực lượng Nhật khác vẫn tiếp tục tiến về Midway theo đúng kế hoạch, và đến ngày 3 tháng 6 năm 1942, họ đã nằm trong tầm trinh sát đường không của Midway. Vào 08 giờ 43 phút sáng ngày 3 tháng 6, một máy bay trinh sát PBY Catalina phát hiện nhóm tàu quét mìn của Nhật. Chưa đầy một giờ sau, một chiếc PBY khác lại phát hiện nhóm tàu vận tải, cách Midway khoảng 700 hải lý (khoảng 1.300 km) về phía tây. Tuy nhiên, những thông tin này bị báo cáo sai rằng đây là “Lực lượng chủ lực” của phía Nhật. Nhận định sai lầm này đã kích hoạt cuộc tấn công đầu tiên của trận Midway: 9 máy bay ném bom B-17 thuộc Phi đoàn Ném bom 431. Họ được lệnh cất cánh từ Midway ngay sau buổi trưa; tấn công ở độ cao tiêu chuẩn, các máy bay B-17 không đánh trúng mục tiêu nào. Dù thất bại, nhưng cuộc tấn công đã phá vỡ ảo tưởng của phía Nhật rằng họ đang nắm giữ yếu tố bất ngờ chiến lược. Quân Mỹ tiếp tục thực hiện một cuộc tấn công ban đêm nhằm vào nhóm tàu vận tải Nhật, sử dụng bốn chiếc PBY Catalina được trang bị radar và mang ngư lôi. Một chiếc phải quay về vì thời tiết xấu, nhưng ba chiếc còn lại đến được mục tiêu vào khoảng 01 giờ 30 phút sáng ngày 4 tháng 6. Hai chiếc PBY đầu phóng ngư lôi nhưng không trúng, trong khi chiếc thứ ba đánh trúng tàu chở dầu Akebono Maru, khiến 23 thủy thủ thiệt mạng. Mặc dù Akebono Maru vẫn có thể tiếp tục hành trình trong đội hình, người Mỹ đã giành được “chiến công đầu tiên” của trận Midway.

Midway đã phái đi 22 thủy phi cơ Catalina để trinh sát trong phạm vi 700 hải lý từ đảo san hô, bao phủ một cung từ 200 đến 020 độ. Sau đó, những chiếc Catalina đã phát hiện Đội Vận tải của Chuẩn đô đốc Tanaka, gồm 12 tàu vận tải, ba tàu tuần tra (tàu khu trục cải biến thành tàu vận tải), và một tàu chở dầu, được hộ tống bởi một tàu tuần dương hạng nhẹ và mười tàu khu trục. Với thông tin có được, Thiếu tướng Simard điều lực lượng tấn công tầm xa của mình, các máy bay ném bom B-17, ra tấn công người Nhật. Nhóm tấn công – 9 chiếc B-17E dưới quyền Trung tá Walter Sweeney thuộc Phi đoàn Ném bom 431 – cất cánh lúc 12 giờ 30 phút. Mỗi máy bay mang bốn quả bom 600 pound. Lúc 16 giờ 40 phút, các máy bay ném bom bắt đầu tấn công. Kết quả là không có tàu Nhật nào bị trúng bom, và thiệt hại duy nhất là từ một phát suýt trúng vào một tàu vận tải. Ngược lại, các B-17 hoàn toàn không bị hư hại bởi hỏa lực phòng không, được mô tả là rất dữ dội. Tuy nhiên, Simard còn có một bất ngờ khác dành cho người Nhật. Ông ra lệnh trang bị bốn chiếc Catalina của mình cho một cuộc tấn công bằng ngư lôi vào ban đêm. Bốn máy bay được chọn đều được trang bị radar, thiết yếu để tìm người Nhật vào ban đêm, và được dẫn đầu bởi Trung úy William Richards. (NHHC)
Kido Butai bắt đầu thể hiện sức mạnh của mình vào sáng ngày 4 tháng 6. Bắt đầu từ 04 giờ 30 phút, khi đang ở vị trí cách Midway 210 hải lý về phía tây bắc, Đô đốc Nagumo cho xuất kích một đợt không kích lớn gồm 108 máy bay, nhằm làm tê liệt hệ thống phòng thủ của Mỹ trên đảo. Cuộc tấn công bao gồm 18 máy bay ném bom bổ nhào từ tàu sân bay Akagi và Kaga, cùng 18 máy bay ném bom Type 97 mang bom xuất phát từ Soryu và Hiryu. Một chiếc từ Hiryu buộc phải quay lại vì gặp trục trặc động cơ. Đội hình tấn công được hộ tống chặt chẽ bởi 9 tiêm kích Zero từ mỗi tàu sân bay. Thông thường, Fuchida Mitsuo sẽ chỉ huy một cuộc tấn công quan trọng như vậy, nhưng ông đang dưỡng bệnh sau ca mổ ruột thừa, nên trách nhiệm chỉ huy được giao cho Trung úy Tomonaga Jōichi của Hiryu. Phía Nhật dự đoán rằng họ sẽ bắt gặp máy bay Mỹ còn nằm trên đường băng, nơi chúng có thể bị phá hủy dễ dàng. Tuy nhiên, chỉ huy Mỹ tại Midway đã chuẩn bị trước để tránh bị đánh úp. Ông ra lệnh triển khai đội CAP lúc 03 giờ 50 phút sáng, tiếp đó là 22 máy bay trinh sát PBY Catalina xuất phát làm nhiệm vụ tìm kiếm vào 04 giờ 15 phút. Ngay sau đó, toàn bộ 15 máy bay ném bom B-17 cũng được cho cất cánh để tấn công nhóm tàu vận tải Nhật, nhưng họ được lệnh chuyển hướng về phía bắc nếu phát hiện ra các tàu sân bay Nhật. Phần còn lại của phi đội tấn công Midway được chuẩn bị sẵn sàng để xuất kích ngay lập tức một khi định vị được vị trí của tàu sân bay đối phương.

Lộ trình của lực lượng tấn công Midway từ Kido Butai từ 06 giờ 15 phút đến 07 giờ 25 phút.
Đội không kích của Nhật hướng về phía nam lúc 04 giờ 45 phút, và đến 06 giờ 15 phút, mục tiêu đã xuất hiện trong tầm mắt. Toàn bộ lực lượng tiêm kích sẵn có thuộc Phi đoàn Tiêm kích Thủy quân Lục chiến VMF-211 được lệnh khẩn trương cất cánh, thực hiện đánh chặn theo chỉ dẫn từ radar vào lúc 06 giờ 20 phút, cách đảo khoảng 30 dặm (gần 50 km). Đối đầu với 36 tiêm kích Zero của Nhật, phía Mỹ chỉ có 6 chiếc F4F Wildcat và 18 chiếc F2A Buffalo. Ban đầu, các tiêm kích Nhật chưa kịp vào đúng vị trí bảo vệ đội ném bom, nên phía Thủy quân Lục chiến đã kịp mở đợt tấn công đầu tiên vào đội hình ném bom Nhật. Kết quả là hai chiếc Type 97 từ tàu Hiryu bị bắn rơi, và vài chiếc khác bị hư hại, trong đó có máy bay của Trung úy Tomonaga. Tuy nhiên, các tiêm kích Zero nhanh chóng giành lại ưu thế trên không, và gần như tiêu diệt toàn bộ lực lượng Mỹ. Kết thúc trận không chiến, hai chiếc Wildcat và mười ba chiếc Buffalo bị bắn rơi, trong khi phía Nhật chỉ có hai chiếc Zero bị hư hại nhẹ. Trong số 9 máy bay Thủy quân Lục chiến còn lại, chỉ có hai chiếc trở về được Midway mà không bị hư hại.

Bức tranh này mô tả cuộc tấn công của 108 máy bay từ Kido Butai lúc 06 giờ sáng ngày 4 tháng 6, nhằm vào hệ thống phòng thủ và các cơ sở khác tại Midway, (Tranh của John Hamilton)
Khi các tiêm kích Thủy quân Lục chiến Mỹ bị đánh tan, các máy bay ném bom Type 97 của Nhật bắt đầu mở đợt tấn công, thả bom nặng 1.760 pound xuống các cơ sở trên đảo Eastern và Sand. Hỏa lực phòng không của Mỹ cực kỳ dữ dội, bắn rơi thêm một chiếc ném bom Type 97 của tàu Hiryu. Tiếp theo, vào lúc 06 giờ 40 phút, các máy bay ném bom bổ nhào tiến hành công kích. Phi đội của tàu Akagi đánh trúng các mục tiêu trên đảo Eastern, trong khi phi đội của Kaga tấn công các cơ sở trên đảo Sand. Một chiếc Type 99 của Kaga bị bắn rơi bởi pháo phòng không, và bốn chiếc khác bị hư hại. Sau đó, các tiêm kích Zero tiếp tục lao xuống bắn phá mặt đất, nhưng hai chiếc bị bắn hạ. Cuộc tấn công của Nhật vấp phải sức kháng cự mạnh mẽ, và một đợt không kích duy nhất rõ ràng là không đủ để vô hiệu hóa hệ thống phòng thủ của đảo, nên Trung úy Tomonaga đã gửi tín hiệu cho Đô đốc Nagumo, báo cáo rằng “cần có một đợt tấn công thứ hai.” Không những không thể làm tê liệt Midway, mà lực lượng tấn công Nhật còn chịu thiệt hại nặng nề. Các tiêm kích Mỹ và hỏa lực phòng không đã bắn rơi hoặc khiến rơi xuống biển tổng cộng 11 máy bay Nhật, gồm 8 chiếc Type 97, 2 chiếc Zero, và 1 chiếc ném bom bổ nhào. Ngoài ra, có tới 43 máy bay bị hư hại, trong đó 14 chiếc hư hại nặng đến mức không thể hoạt động được nữa. Điều đáng chú ý, và cũng có ảnh hưởng lớn đến diễn biến sau này trong ngày, là phi đội tấn công bằng máy bay ném bom của tàu Hiryu chỉ còn lại 8 chiếc còn hoạt động tốt.
TRẬN KHÔNG CHIẾN GIỮA CÁC TÀU SÂN BAY BẮT ĐẦU
Giống như trong trận Biển San Hô, thời tiết cũng đóng vai trò quan trọng trong trận Midway. Có những đám mây dày đặc bao phủ phía bắc, đông bắc và phía đông của Midway, tạo lợi thế cho phía Mỹ. Trong suốt ngày 4 tháng 6, gió nhẹ thổi từ hướng đông nam, buộc các tàu sân bay của cả hai bên phải chạy ngược chiều gió ở tốc độ cao để tạo đủ luồng gió trên boong phục vụ việc cất cánh máy bay. Điều này có nghĩa là các tàu sân bay Mỹ phải di chuyển về hướng đông nam trong quá trình điều hành các phi vụ, tức là hướng ra xa vị trí của hạm đội Nhật. Yếu tố này vô cùng quan trọng, vì nó làm tăng đáng kể khoảng cách mà các máy bay tấn công tầm ngắn của Mỹ phải bay thêm để tiếp cận mục tiêu. Trong khi đó, các tàu sân bay Nhật lại có lợi thế, do thường di chuyển theo hướng tiến gần mục tiêu khi triển khai máy bay, giúp rút ngắn quãng đường tấn công và tối ưu thời gian tác chiến.
Như thường lệ, trinh sát đóng vai trò then chốt, và trong trường hợp này, phía Mỹ nắm giữ lợi thế lớn, vì họ có thể dựa vào các máy bay trinh sát PBY Catalina xuất phát từ Midway để tìm ra vị trí các tàu sân bay Nhật. Vào 04 giờ 30 phút sáng, các tàu sân bay của Đô đốc Fletcher đang ở cách Midway khoảng 200 hải lý về phía bắc - đông bắc. Để bảo vệ sườn phía bắc, Fletcher cho cất cánh mười chiếc SBD Dauntless của tàu sân bay Yorktown, thực hiện nhiệm vụ trinh sát hướng bắc với tầm bay đến 100 hải lý. Sau khi các máy bay trinh sát đã rời tàu, Fletcher cho đội hình tàu sân bay quay ngược trở lại hướng đông bắc, chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo của trận chiến.
Một trong những yếu tố then chốt của trận chiến là việc Kido Butai không đặt trọng tâm đúng mức vào công tác trinh sát. Sáng ngày 4 tháng 6, các tàu sân bay của Fletcher ở vị trí cách Kido Butai khoảng 215 hải lý về phía đông, nằm hoàn toàn trong tầm hoạt động của máy bay trinh sát Nhật. Nếu Nagumo kiên quyết thực hiện một kế hoạch trinh sát kỹ lưỡng hơn, lợi thế tình báo khổng lồ của Mỹ có thể đã trở nên vô nghĩa. Một công tác trinh sát tốt hơn có thể đã giúp Nhật đảo ngược tình thế, phát hiện sớm hạm đội Mỹ, và giáng đòn quyết định vào lực lượng của Fletcher. Sau sự kiện ngoài khơi Ceylon hai tháng trước đó, Đô đốc Yamamoto đã ra lệnh rằng một nửa lực lượng không quân của Kido Butai phải được giữ lại trong trạng thái dự bị, đề phòng trường hợp Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ xuất hiện bất ngờ. Lực lượng dự bị mạnh mẽ này bao gồm 43 máy bay ném ngư lôi Type 97 trên tàu Akagi và Kaga, cùng 34 máy bay ném bom bổ nhào Type 99 trên Hiryu và Soryu; ngoài ra còn có 24 chiếc Zero được bố trí hộ tống. Tuy nhiên, mối lo ngại của Yamamoto về khả năng người Mỹ xuất hiện sớm không được Nagumo và bộ tham mưu của ông chia sẻ.

Vào sáng ngày 4 tháng 6, có tổng cộng 7 máy bay được phân công cho nhiệm vụ trinh sát. Genda - người lập kế hoạch trinh sát - tập trung vào các khu vực mà ông cho là đáng lo ngại nhất – phía nam và phía đông của Kido Butai. Chỉ có 2 máy bay trên tàu sân bay được dành cho nhiệm vụ trinh sát – mỗi chiếc là một máy bay Kate, lần lượt từ Akagi và Kaga. Chiếc Kate của Akagi bay theo tuyến trinh sát số 1, hướng 181 độ tính từ Kido Butai, còn chiếc của Kaga đảm nhiệm tuyến số 2 ở hướng 158 độ. Các tuyến trinh sát số 3 và 4 mỗi tuyến được giao cho một thủy phi cơ trinh sát Jake xuất phát từ tàu tuần dương hạng nặng Tone. Những máy bay này bay theo các hướng 123 và 100 độ. Hai chiếc Jake khác từ tàu tuần dương hạng nặng Chikuma đảm nhiệm các tuyến số 5 và 6, lần lượt theo các hướng 77 và 54 độ. Các tuyến trinh sát này được bay ra đến cự ly 300 hải lý; khi đạt đến khoảng cách này, máy bay sẽ rẽ trái và bay thêm 60 hải lý nữa. Sau đó, chúng lại rẽ trái một lần nữa để quay về Kido Butai. Chiếc máy bay trinh sát cuối cùng là một thủy phi cơ Dave duy nhất từ thiết giáp hạm Haruna. Do Dave không có tầm bay xa như Kate hay Jake, nó được giao tuyến trinh sát số 7 về phía bắc, theo hướng 31 độ, nhưng chỉ bay ra đến cự ly 150 hải lý và thực hiện một đoạn “gấp khúc” 40 hải lý trước khi quay về. Genda đánh giá rằng khu vực phía bắc là hướng tiếp cận ít khả năng nhất của một lực lượng đối phương.
Bộ tham mưu của Nagumo lập ra kế hoạch trinh sát hết sức sơ sài, chỉ bao gồm 7 máy bay: năm thủy phi cơ từ các thiết giáp hạm và tàu tuần dương, cộng thêm hai máy bay Type 97. Sáu chiếc được lệnh bay trinh sát đến 300 hải lý, chiếc cuối cùng chỉ bay đến 150 hải lý, theo một đội hình giãn cách rộng. Nỗ lực này thiếu quyết tâm và gần như cẩu thả; chính Genda Minoru sau chiến tranh cũng phải thừa nhận rằng “kế hoạch trinh sát đường không được lập ra một cách cẩu thả.” Với chỉ 7 máy bay, phạm vi bao phủ có nhiều khoảng trống lớn, ngay cả trong điều kiện thời tiết tốt — và thời tiết hôm đó lại rất xấu, đặc biệt là ở khu vực nơi các tàu sân bay Mỹ đang mai phục. Tình hình còn tệ hơn khi một số máy bay trinh sát không cất cánh đúng kế hoạch vào lúc 04 giờ 30 phút. Hai máy bay từ tàu uần dương hạng nặng Tone bị trễ từ 12 đến 30 phút, và việc chậm trễ này thậm chí không được báo cáo cho Nagumo.
Trong khi đó, nỗ lực trinh sát của Mỹ mang lại kết quả đầu tiên. Vào lúc 05 giờ 30 phút, Fletcher nhận được báo cáo “Phát hiện tàu sân bay địch” từ một máy bay PBY xuất phát từ Midway. Tiếp đó, vào 05 giờ 52 phút, một chiếc PBY khác báo cáo rằng “nhiều máy bay đang bay về hướng Midway, phương vị 310, cách 150 hải lý.” Chiếc PBY phát đi báo cáo mơ hồ đầu tiên sau đó đã làm rõ chi tiết phát hiện của mình, nhưng bản tin hiệu đính này không được gửi tới lực lượng đặc nhiệm TF 16 hoặc TF 17. Tuy nhiên, Fletcher nhận được bản phát lại từ Midway vào lúc 06 giờ 03 phút, trong đó nói rõ: “Hai tàu sân bay và thiết giáp hạm, phương vị 320 độ, cách 180 hải lý, hướng đi 135 độ, tốc độ 25 hải lý/giờ.” Đây chính là bản báo cáo mà Fletcher chờ đợi, và thông tin về hai tàu sân bay hoàn toàn phù hợp với dữ liệu tình báo do Đô đốc Nimitz cung cấp. Bộ tham mưu của Fletcher tính toán rằng các tàu Nhật đang cách TF 16 khoảng 180 hải lý, nghĩa là nằm trong tầm tấn công của họ. Tuy nhiên, báo cáo này thực tế lại không chính xác — Kido Butai thật ra cách TF 16 khoảng 200 hải lý, tức là vẫn nằm ngoài tầm tấn công hiệu quả.

Với các thủy phi cơ Catalina đang tuần tra trên không và Kido Butai đã ở cách Midway chưa đến 200 hải lý, việc phát hiện ra người Nhật là điều không thể tránh khỏi. Chiếc Catalina phụ trách khu vực có các tàu sân bay Nhật Bản do Trung úy Howard Ady điều khiển. Vào lúc 05 giờ 20 phút, ông trông thấy một máy bay không xác định và phát đi báo cáo tiếp xúc. Đây có lẽ là một máy bay trinh sát của Nhật. Chỉ mười phút sau, Ady đã gửi đi báo cáo mà mọi người đang chờ đợi: "tàu sân bay, hướng 320, khoảng cách 180". Chiếc Catalina PBY của Ady đã bắt gặp Kido Butai số 1 như minh hoạ ở đây và báo cáo lại cho Bộ Tham mưu hải quân. Khi tin tức về phát hiện này được truyền đến Trân Châu Cảng, Đô đốc Nimitz đã nhận xét với Trung tá Layton: "À, anh chỉ sai lệch có năm phút, năm độ và năm dặm thôi". (Tranh của Stefan Draminski)
Fletcher nhanh chóng nắm bắt cơ hội ra tay trước và ra lệnh cho Spruance đưa TF 16 tiến về phía nam phóng một đợt tấn công toàn diện. Tuy nhiên, hành động này tiềm ẩn nhiều rủi ro, bởi theo báo cáo trinh sát, chỉ có hai tàu sân bay Nhật được phát hiện, trong khi tình báo cho rằng hai tàu còn lại có thể đang hoạt động tách biệt ở vị trí chưa xác định. Vì vậy, Fletcher quyết định giữ lại toàn bộ phi đội của Yorktown làm lực lượng dự bị, chờ đến khi các tàu sân bay còn lại của Nhật được định vị chính xác. Vào khoảng 06 giờ 30 phút, Yorktown thu hồi mười máy bay trinh sát Dauntless và hướng về tây nam với tốc độ cao để theo sát đội hình của Spruance.
Spruance cùng bộ tham mưu của ông lập kế hoạch phóng đợt không kích vào lúc 07 giờ, khi ước tính rằng các tàu sân bay Nhật sẽ cách khoảng 155 hải lý — một cự ly phù hợp hơn cho các tiêm kích tầm ngắn Wildcat và máy bay ném ngư lôi Devastator. Trên tàu sân bay Hornet, Đô đốc Mitscher cùng chỉ huy không đoàn của ông quyết định phóng đợt tấn công theo hướng 265 độ, lệch khá xa về phía bắc so với vị trí được báo cáo của tàu sân bay Nhật. Nguyên nhân của sai lệch nghiêm trọng này chưa bao giờ được giải thích rõ, nhưng hậu quả của nó thì vô cùng lớn.
Đúng như kế hoạch, đợt không kích của TF 16 bắt đầu phóng lúc 07 giờ, tuy nhiên quá trình này diễn ra rất lâu vì phải chia làm hai lượt trên sàn bay. Mãi đến 07 giờ 55 phút, phi đội tấn công của Hornet mới rời tàu hướng về phía Nhật Bản. Enterprise còn chậm trễ hơn — đến 07 giờ 45 phút, đợt máy bay thứ hai vẫn chưa cất cánh. Lúc này, Spruance ra lệnh cho Chỉ huy Wade McClusky cùng phi đội ném bom bổ nhào tự tiến hành đến mục tiêu. Các tiêm kích của Enterprise là nhóm cất cánh cuối cùng, và khi đã lên không, họ gặp phi đội ném ngư lôi của Hornet nên quyết định bay theo bảo vệ họ. Kết quả là, thay vì hai không đoàn tấn công phối hợp nhịp nhàng theo kế hoạch, “cú đấm thép” của Spruance lại bị chia thành ba nhóm rời rạc. Nhóm lớn nhất là không đoàn của Hornet, với các tiêm kích của Enterprise bay phía sau. Không đoàn của Enterprise bị tách đôi thành phi đội ném bom bổ nhào và phi đội ném ngư lôi bay theo hai hướng khác nhau. Trong điều kiện đó, gần như không thể tổ chức một cuộc tấn công phối hợp đúng nghĩa, vì mỗi nhóm đang bay trên một lộ trình riêng biệt đến mục tiêu. Dù vậy, người Mỹ vẫn thành công trong việc đưa 116 máy bay lên không trung — gồm 20 máy bay tiêm kích, 67 máy bay ném bom bổ nhào, và 29 máy bay ném ngư lôi — và tất cả đang bay về phía hạm đội Nhật, kẻ vẫn chưa hề hay biết rằng mình sắp hứng chịu một cơn bão đang sắp tới.
MIDWAY TẤN CÔNG CÁC TÀU SÂN BAY NHẬT
Những máy bay Mỹ đầu tiên tấn công các tàu sân bay của Nagumo chính là các phi đội xuất phát từ Midway. Khi các báo cáo liên lạc từ máy bay trinh sát PBY được gửi về, toàn bộ lực lượng tấn công của Midway lập tức được lệnh cất cánh để tránh bị tiêu diệt khi còn trên mặt đất. Tất cả máy bay tiêm kích của Midway được phân bổ cho nhiệm vụ phòng thủ sân bay, nên 51 máy bay tấn công thuộc Không lực Hải quân, Thủy quân Lục chiến và Lục quân Mỹ đều phải bay đến mục tiêu mà không có hộ tống.
Những máy bay đầu tiên phát hiện ra lực lượng của Nagumo ngay sau 07 giờ. Không có nỗ lực nào nhằm tổ chức một đợt tấn công phối hợp, vì vậy trận đánh sau đó diễn ra như một loạt các đợt tấn công nhỏ lẻ, rời rạc và thiếu điều phối. Phía Nhật đã sẵn sàng, với 29 tiêm kích Zero đang làm nhiệm vụ CAP để bảo vệ các tàu sân bay.

Các đợt tấn công của các máy bay B-26 mang ngư lôi và các máy bay TBF từ VT-8 vào Kido Butai vào lúc 07 giờ 10 phút.

Một trong khoản khắc ít người biết đến trong giai đoạn đầu của trận Midway là chiếc máy bay B-26 Marauder của James Perry Muri bay dọc theo sàn bay của tàu sân bay Akagi sau khi thả ngư lôi không thành công vào soái hạm của Kido Butai. Muri và phi hành đoàn của ông điều khiển chiếc Martin B-26 Marauder của Không quân Lục quân Hoa Kỳ (có số hiệu 40-1391, "Susie-Q") thuộc Phi đoàn trinh sát số 18, Liên đoàn Ném bom số 22. Vào sáng ngày 4 tháng 6 năm 1942, trong Trận Midway , một lực lượng tàu sân bay Nhật Bản đã được phát hiện đang tiến đến hòn đảo. Đơn vị của Muri không được huấn luyện cụ thể hay bất kỳ một cuộc họp giao ban trước chuyến bay nào; họ chỉ được biết vị trí của tàu sân bay Akagi . Trên đường đến mục tiêu, đội hình của Muri đã bị các máy bay tiêm kích Zero của Nhật Bản chặn lại và phi đội đã hạ độ cao xuống 200 feet so với mực nước biển để tránh hỏa lực của máy bay chiến đấu và pháo phòng không của tàu sân bay. Muri, sau khi thả ngư lôi và tìm kiếm một tuyến đường thoát hiểm an toàn hơn, đã bay thẳng xuống dọc theo chiều dài của Akagi trong khi bị các máy bay tiêm kích và hỏa lực phòng không tấn công như minh hoạ ở trên. Việc máy bay B-26 bay thẳng về Akagi đã khiến những máy bay Zero phải ngừng bắn để tránh bắn trúng soái hạm của chính mình. Ngư lôi của Muri và đơn vị của ông đã không đánh trúng bất kỳ tàu Nhật Bản nào, mặc dù ông vẫn bắn hạ một chiếc Zero và giết chết hai thủy thủ trên tàu Akagi bằng hỏa lực súng máy. Sau cuộc tấn công, ông và một phi công B-26 khác đã có thể hạ cánh máy bay an toàn xuống Midway. Một cuộc kiểm tra cho thấy có hơn 500 lỗ đạn trên máy bay của Muri, lốp bên trái đã bị bắn văng, và tất cả các cánh quạt và mọi hệ thống chính đều bị hư hại. Muri được phép khắc tên trên thân máy bay để giữ làm kỷ niệm. (Tranh của Stefan Draminski)
Đợt tấn công đầu tiên diễn ra lúc 07 giờ 10 phút, do 6 máy bay ném ngư lôi TBF Avenger cùng 4 máy bay ném bom hạng trung B-26 Marauder của Không lực Lục quân Mỹ thực hiện — tất cả đều được cải hoán để mang ngư lôi. Đây cũng là lần đầu tiên mà máy bay Avenger tham chiến. Các tiêm kích Zero của Nhật nhanh chóng lao vào đội hình máy bay Mỹ không có hộ tống, bắn hạ toàn bộ trừ một chiếc Avenger và hai chiếc B-26. Trong lúc đó, hai chiếc TBF đã phóng ngư lôi nhắm vào tàu sân bay Hiryu, và một chiếc B-26 phóng ngư lôi về phía Akagi, nhưng tất cả đều bị tránh dễ dàng. Phía Nhật mất 2 tiêm kích Zero trong đợt giao chiến này.
Ngay sau đó, lúc 08 giờ, 16 máy bay ném bom bổ nhào Dauntless của Thủy quân Lục chiến Mỹ xuất hiện trên không phận của Kido Butai. Chỉ huy phi đội, Thiếu tá Lofton Henderson (người mà sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal sau này được đặt tên theo) cho rằng các phi công của mình còn thiếu kinh nghiệm để thực hiện ném bom bổ nhào hoàn chỉnh, nên ra lệnh chuyển sang tấn công bằng kỹ thuật ném bom liệng (glide-bombing) vào tàu sân bay gần nhất. Mục tiêu là tàu sân bay Hiryu, được 13 tiêm kích Zero thực hiện CAP bảo vệ, với 6 chiếc khác đang trên đường tiếp viện. Các tiêm kích Nhật nhanh chóng xé nát đội hình Mỹ, bắn rơi tám chiếc Dauntless (trong đó có cả Henderson) và làm hư hại nặng bốn chiếc khác, khiến chúng không thể hoạt động tiếp, nhưng các phi công Thủy quân Lục chiến vẫn kiên cường lao vào tấn công. Không một quả bom nào đánh trúng Hiryu, nhưng nhiều quả suýt trúng mục tiêu. Phía Nhật mất một chiếc tiêm kích Zero của Hiryu trong đợt này.
Các máy bay của Midway tiếp tục tấn công không ngừng nghỉ. Tiếp theo xuất hiện là 14 máy bay ném bom chiến lược B-17, thực hiện một cuộc ném bom ở độ cao lớn nhằm vào các tàu sân bay Soryu, Hiryu và Akagi từ độ cao hơn 20.000 feet. Ở độ cao này, gần như không có khả năng trúng đích đối với những tàu sân bay đang cơ động né tránh, và thực tế, các phi công B-17 đã không ghi được một phát trúng nào trong toàn bộ trận chiến. Phi đội B-17 rời khu vực chiến đấu vào lúc 08 giờ 20 phút mà không đạt được kết quả nào. 9 tiêm kích Zero từ tàu Soryu và ba chiếc từ Kaga đã lao lên đánh chặn các pháo đài bay B-17, nhưng không có tổn thất nào ở cả hai phía. Đợt tấn công cuối cùng của Midway được tiến hành bởi 11 máy bay ném bom bổ nhào SB2U-3 Vindicator của Thủy quân Lục chiến Mỹ. Đây là lần duy nhất loại máy bay lỗi thời này được sử dụng trong chiến đấu trong suốt cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Chỉ huy phi đội đã sáng suốt khi không cố gắng tấn công các tàu sân bay, vì vùng trời phía trên đã bị các tiêm kích Zero với số lượng dày đặc kiểm soát, nên ông ra lệnh chuyển hướng tấn công sang thiết giáp hạm Haruna bằng phương thức ném bom liệng. Không một quả bom nào đánh trúng mục tiêu, nhưng 7 trong số 11 chiếc Vindicator cũ kỹ đã quay trở về Midway an toàn.
ÁP LỰC CỦA NAGUMO
Trận Midway là một trận chiến phức tạp, với chuỗi sự kiện đan xen chặt chẽ. Mỗi chỉ huy đều phải đánh giá phương án hành động tốt nhất của mình trong điều kiện thời gian gấp gáp, cùng với những thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ. Fletcher đã đưa ra quyết định phóng đòn tấn công quyết định dựa trên nguồn tin tình báo vững chắc, trong khi tình hình của Nagumo nhanh chóng vượt khỏi tầm kiểm soát. Những quyết định này đã định hình kết quả của toàn bộ trận chiến. Theo mệnh lệnh của Yamamoto, Nagumo giữ lại một lực lượng dự bị lớn được trang bị cho nhiệm vụ tấn công các tàu chiến Mỹ. Lực lượng này bao gồm những đơn vị tấn công mạnh nhất của ông – phi đội ném ngư lôi Type 97 trên hai tàu sân bay Akagi và Kaga với tổng cộng 43 chiếc, cùng các phi đội ném bom bổ nhào Type 99 trên Hiryu và Soryu với 34 chiếc.
Mọi việc bắt đầu trở nên rối loạn đối với Nagumo khi Tomonaga gửi đề nghị vào lúc 07 giờ rằng cần phải thực hiện một đợt tấn công thứ hai vào Midway. Vài phút sau đó, các đợt tấn công từ những máy bay xuất phát ở Midway bắt đầu ập đến, trong khi đợt không kích quy mô lớn của Spruance đang trong quá trình cất cánh. Cũng vào thời điểm này, các máy bay trinh sát Nhật bắt đầu hoàn tất hành trình trinh sát ra xa của mình. Vì không nhận được bất kỳ báo cáo nào từ các máy bay trinh sát về sự xuất hiện của hạm đội Mỹ trong khu vực, Nagumo đã quyết định bất tuân mệnh lệnh của Yamamoto vào lúc 07 giờ 15 phút, và ra lệnh trang bị lại vũ khí cho lực lượng dự bị để chuẩn bị cho một đợt tấn công thứ hai vào Midway. Công việc này tốn rất nhiều thời gian. Việc tháo bỏ ngư lôi trên các máy bay Type 97 và thay bằng bom nặng 1.760 pound có thể mất đến hai giờ trong điều kiện bình thường. Ngược lại, việc thay đổi vũ khí trên các máy bay ném bom bổ nhào Type 99 – từ bom xuyên giáp dùng tấn công tàu chiến sang bom nổ mạnh dùng tấn công mặt đất – đơn giản và nhanh hơn nhiều.
Khi quá trình tái trang bị đang bắt đầu, Nagumo nhận được một báo cáo mơ hồ nhưng đáng lo ngại vào lúc 07 giờ 40 phút. Báo cáo đến từ máy bay trinh sát số 4 của tàu tuần dương Tone: “Phát hiện dường như có mười tàu nổi của địch, ở vị trí phương vị 010 độ, cách Midway 250 hải lý. Hướng di chuyển 150 độ, tốc độ trên 20 hải lý/giờ.” Báo cáo này đến từ máy bay của Tone, vốn đã trễ 30 phút so với kế hoạch cất cánh ban đầu. Có lẽ để bù đắp cho sự chậm trễ này, chiếc thủy phi cơ trinh sát Hải quân Aichi E13A Type 0 (về sau gọi tắt là E13A) chỉ bay xa 250 hải lý thay vì 300 hải lý như kế hoạch, rồi chuyển hướng lên phía bắc để hoàn tất hành trình vòng trở về. Trớ trêu thay, sự thay đổi đường bay này lại mang đến may mắn lớn cho phía Nhật, vì nó vô tình đặt máy bay vào gần vị trí của TF 17. Trước đó, máy bay trinh sát số 1 của tàu tuần dương Chikuma đã bỏ lỡ TF 17, dù đường bay dự kiến của nó lẽ ra đi cách các tàu sân bay Mỹ chỉ khoảng 20 hải lý vào lúc 06 giờ 30 phút. Dù do định vị sai hay bị mây che khuất, chiếc máy bay đó đã không phát hiện được gì.
Báo cáo từ máy bay của Tone không chỉ gây lo lắng, mà còn không chính xác khoảng 50 hải lý và rất mơ hồ. Tuy vậy, nó đủ để khiến Nagumo ra lệnh dừng ngay việc tái trang bị vào lúc 07 giờ 45 phút. Ông ra lệnh cho máy bay trinh sát vào lúc 07 giờ 47 phút: “Xác định loại tàu và duy trì liên lạc.” Mãi đến 08 giờ 30 phút, máy bay số 4 của Tone mới gửi điện về: “Địch dường như có tàu sân bay hộ tống.” Ngay lập tức, Nagumo ra lệnh phóng chiếc máy bay trinh sát D4Y1 nguyên mẫu trên tàu Soryu để theo dõi mục tiêu mới này.
Đây là thời khắc then chốt của trận chiến. Nagumo vẫn có đủ khả năng để đối phó với mối đe dọa bất ngờ này. Phần lớn 43 chiếc Type 97 vẫn giữ nguyên ngư lôi, và 34 chiếc ném bom bổ nhào vẫn mang loại bom phù hợp để tấn công tàu chiến. Tuy nhiên, đa số máy bay tiêm kích Zero được phân bổ làm hộ tống cho đợt tấn công đã được tung lên để tăng cường cho lực lượng CAP, nên chỉ còn sáu chiếc sẵn sàng ngay lập tức. Sau khi chứng kiến các máy bay không được hộ tống của Midway bị lực lượng CAP tiêu diệt gần như toàn bộ, Nagumo ngần ngại không muốn phóng đợt tấn công mà thiếu lực lượng hộ tống đầy đủ. Ông phải đưa ra quyết định nhanh chóng, vì đợt không kích từ Midway dự kiến quay về lúc 08 giờ 15 phút, và nhiều máy bay trong số đó đã bị hư hại hoặc sắp hết nhiên liệu. Nagumo có hai lựa chọn- phóng đợt tấn công ngay lập tức với những gì hiện có, hoặc là chờ đợi, để phóng một đợt tấn công quy mô lớn hơn, sau khi các máy bay từ Midway hạ cánh và được tái trang bị, tổ chức hộ tống đầy đủ. Chuẩn Đô đốc Yamaguchi trên tàu Hiryu, người nổi tiếng với tính táo bạo, đã khuyên Nagumo nên tấn công ngay lập tức. Genda, trái lại, khuyên rằng nên tiến hành một đợt tấn công phối hợp đầy đủ. Nagumo bỏ qua lời khuyên của Yamaguchi và chọn phương án chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi xuất kích.
Vấn đề của phương án hành động này là Nagumo cần có thời gian để thực hiện nó. Trong khi phần lớn máy bay xuất phát từ Midway vẫn còn đang trên đường tấn công, và hơn 100 máy bay của Spruance đang bay thẳng về phía Kido Butai, người Nhật hoàn toàn không có sự xa xỉ về thời gian. Nhìn lại sau này, lẽ ra ý nghĩa của báo cáo tiếp xúc ban đầu từ Tone phải là điều hiển nhiên, cho dù nó gây bực bội vì quá mơ hồ. Mười con tàu đang làm gì ở bên sườn đội hình của Nagumo, lại còn đang tiến ngược chiều gió? Nếu Nagumo lập tức tung lực lượng tấn công của mình, gần như toàn bộ các máy bay Type 97 khi đó vẫn còn mang theo ngư lôi, và đòn đánh có thể đã được phóng đi trước khi các máy bay vừa tấn công Midway buộc phải quay về hạ cánh. Từ lực lượng CAP, có thể tập hợp đủ số tiêm kích để cung cấp một lực lượng hộ tống thích hợp. Tuy nhiên, “cửa sổ hành động” này nhanh chóng khép lại vào lúc 07 giờ 53 phút, khi nhiều máy bay Mỹ khác bị phát hiện. Trong vòng 40 phút tiếp theo, Kido Butai liên tục bị ba nhóm máy bay Mỹ tấn công. Điều này buộc các sàn bay của các tàu sân bay phải liên tục bận rộn với việc thu hồi và phóng máy bay CAP, khiến cho không còn bất kỳ cơ hội nào để đưa máy bay từ các boong chứa máy bay lên sàn bay và bố trí chúng cho một đợt cất cánh tấn công.
Nagumo không phải là vị đô đốc duy nhất phải chịu áp lực. Vào 08 giờ 15 phút, radar của tàu Enterprise phát hiện một máy bay lạ cách 30 hải lý về phía nam. Các tiêm kích Wildcat được phái đi đánh chặn, nhưng không tìm thấy mục tiêu. Chiếc máy bay lạ đó chính là máy bay trinh sát số 4 của Tone, và phía Mỹ đã bắt được các điện báo liên lạc của nó. Fletcher giờ biết rằng hạm đội của mình đã bị phát hiện. Do ông tin rằng vẫn còn hai tàu sân bay Nhật chưa lộ diện, tình hình trở nên cực kỳ đáng lo ngại. Không muốn bị tấn công trong lúc trên sàn bay còn nhiều máy bay đang nạp nhiên liệu và vũ khí, Fletcher đã quyết định phóng ngay phần lớn lực lượng không kích của Yorktown mà ông vẫn giữ làm dự bị. Đợt xuất kích bắt đầu lúc 08 giờ 30 phút và hoàn tất sau 30 phút. Lúc này, thêm 17 chiếc Dauntless, 12 chiếc Devastator, và 6 chiếc Wildcat đang hướng về phía Kido Butai. Chỉ còn 17 máy bay ném bom bổ nhào và sáu tiêm kích chưa được triển khai.
GIAI ĐOẠN ĐỊNH ĐOẠT CỦA TRẬN CHIẾN
Nagumo cần đến 10 giờ 30 phút để chuẩn bị cho đợt tấn công quy mô lớn của mình, bao gồm 34 máy bay ném bom bổ nhào, 43 chiếc Type 97 mang ngư lôi, và 12 tiêm kích Zero làm nhiệm vụ hộ tống. Cho đến thời điểm đó, lực lượng CAP vẫn có thể đối phó với những đợt tấn công dũng cảm nhưng không hiệu quả của người Mỹ. Vào 08 giờ 37 phút, Kido Butai chuyển hướng ngược gió để tiếp nhận các máy bay từ đợt tấn công Midway trở về. Đến 09 giờ 18 phút, quá trình thu hồi hoàn tất, Nagumo đổi hướng sang đông bắc và tăng tốc lên 30 hải lý/giờ để rút ngắn khoảng cách với lực lượng tàu sân bay của đối phương.
Khi Nagumo cố gắng câu giờ, thì máy bay từ ba tàu sân bay Mỹ đã tiến đến vị trí của Kido Butai và bắt đầu chuỗi đòn tấn công quyết định trận chiến. Trong khoảng thời gian từ 09 giờ 15 phút đến 10 giờ 40 phút, Kido Butai từ một lực lượng tưởng như bất khả chiến bại đã bị đánh bại. Mặc dù các cuộc tấn công của Mỹ thiếu sự phối hợp với nhau, nhưng may mắn trên chiến trường đã đưa những vũ khí chính xác và uy lực nhất của Hải quân Mỹ đến đúng ba tàu sân bay Nhật trong khoảnh khắc chúng dễ bị tổn thương nhất.

VT-6 tấn công Kido Butai lúc 09 giờ 40 phút –10 giờ.
Những máy bay Mỹ đầu tiên phát hiện ra Kido Butai là phi đội ngư lôi của tàu sân bay Hornet do Trung tá John Waldron chỉ huy. Ông đã tách phi đội của mình ra khỏi đội hình không đoàn của Hornet lúc 08 giờ 25 phút, bay về phía tây nam, nơi ông tin chắc rằng quân địch đang ở đó. Niềm tin của ông được đền đáp khi phát hiện lực lượng tàu sân bay Nhật đang tiến thẳng về phía mình lúc 09 giờ 15 phút. Waldron ra lệnh tấn công ngay lập tức vào tàu sân bay gần nhất, đó là Soryu. Vì các máy bay Devastator không có hộ tống tiêm kích, nên chúng gần như hoàn toàn không có khả năng tự vệ trước 18 chiếc Zero đang tuần tra không chiến. Toàn bộ 15 chiếc Devastator chậm chạp đã bị bắn hạ một cách có hệ thống và tàn nhẫn trong khoảng thời gian từ 09 giờ 20 phút đến 09 giờ 37 phút. Chỉ có một chiếc Devastator duy nhất tiếp cận đủ gần để phóng ngư lôi vào Soryu, nhưng chiếc tàu sân bay nhanh nhẹn này đã dễ dàng né tránh.

Mười lăm máy bay Devastator từ VT-8 xuất kích từ tàu sân bay Hornet lúc 07 giờ 55 phút và di chuyển theo đội hình cùng phần còn lại của Không đoàn 8. Thiếu tá Waldron đã huấn luyện các phi công của mình rất nghiêm khắc trước trận chiến và nghĩ rằng họ đã sẵn sàng cho mọi thứ. Tuy nhiên, ông không hề biết rằng VT-8 cuối cùng sẽ phải tấn công toàn bộ hạm đội Nhật mà không có bất kỳ sự hỗ trợ nào. Khi Chỉ huy Ring dẫn Không đoàn của mình theo hướng 265 độ sau khi xuất kích từ Hornet, sự bất mãn của Waldron ngày càng tăng. Ông tin chắc rằng Ring đang dẫn họ đi sai hướng, và ông đã cho Ring biết điều đó. Trong một cuộc trao đổi nảy lửa, Ring yêu cầu Waldron phải đi cùng ông ta. Đến 08 giờ 25 phút, Waldron đã chịu đựng đủ việc Ring từ chối đổi hướng. Ông rẽ sang trái, và theo lời kể của Thiếu úy George H. Gay, người sống sót duy nhất của phi đội kể lại: "Chúng tôi đi thẳng đến hạm đội Nhật như thể ông ấy có một sợi dây buộc vào họ vậy." Trực giác của Waldron về vị trí kẻ địch tỏ ra chính xác đến kinh ngạc, nhưng nó lại đặt phi đội của ông vào tình thế nguy hiểm. Vì các máy bay tiêm kích của VF-8 vẫn ở lại với Ring, nên phi đội của Waldron sẽ không có sự hộ tống của các tiêm kích. Bay ở trên cao 22.000 feet là 10 chiếc Wildcat của Trung úy Gray thuộc VF-6. Với tầm nhìn tốt, Gray không gặp khó khăn gì trong việc theo dõi những chiếc Devastator chậm chạp ở phía dưới xa. Dù vậy, Waldron lại không hề biết rằng Gray đang cung cấp sự bảo vệ từ trên cao. Bay ở độ cao 1.500 feet với tốc độ 100 hải lý/giờ, Waldron tiếp cận Kido Butai. Vì tầm nhìn trong khu vực có hạn, Waldron ra lệnh cho 8 chiếc Devastator của Phân đội 1 hình thành một tuyến trinh sát. Khi các máy bay bắt đầu tản ra, Waldron đổi ý và ra lệnh cho phi đội tập hợp lại. Ở trên cao, Gray quan sát những chiếc Devastator biến mất vào một dải mây. Ông mất dấu họ và không bao giờ tìm lại được. Một trong các máy bay tiêm kích của Gray phát hiện vệt sóng của Kido Butai lúc 09 giờ 10 phút. Khi họ tiếp tục lượn vòng ở phía đông Kido Butai trong phần lớn một giờ đồng hồ, không một phi công tiêm kích nào nhìn thấy bất kỳ máy bay Mỹ hay Nhật nào. Khi VT-6 bắt đầu tấn công vào 09 giờ 40 phút, không chiếc Wildcat nào nghe thấy những lời kêu gọi hỗ trợ liên tục của họ. Lúc 09 giờ 56 phút, Gray gửi một báo cáo liên lạc và vài phút sau quyết định quay về Enterprise. Việc một nhóm 10 máy bay địch có thể vây quanh Kido Butai mà không bị quấy rầy là điềm báo về những rắc rối sắp tới đối với người Nhật. Cuối cùng, người Nhật cũng phát hiện ra các máy bay tiêm kích của Gray, xác định chúng là một "đơn vị ném bom theo chiều ngang", và phóng lên ba máy bay tiêm kích từ Soryu lúc 10 giờ để giao chiến với chúng. Quyết định rời khu vực của Gray đã ngăn cản mọi tiếp xúc với các chiếc Zero đánh chặn. Trong khi Gray và các máy bay tiêm kích của ông bay lượn trên cao, bản năng tìm mục tiêu của Waldron đã đơm hoa kết trái. Lúc 09 giờ 15 phút, VT-8 đã trông thấy khói ở đường chân trời, dẫn họ đến vị trí của Nagumo. Waldron phát hiện ba tàu sân bay và gửi báo cáo liên lạc trước khi dẫn phi đội của mình vào tấn công. Hornet không bao giờ nhận được báo cáo đó. Khi VT-8 tiếp cận chính diện Kido Butai, Waldron ra lệnh cho 15 chiếc máy bay ì ạch của mình tiếp cận ở độ cao ngang sóng để không có cơ hội bị Zero tấn công từ bên dưới. Waldron chọn chiếc ở giữa trong số ba tàu sân bay để tấn công và nhận dạng nó là tàu sân bay Soryu. Tuân thủ theo học thuyết, Waldron ra lệnh cho Phân đội 2 của mình tách ra để thực hiện một cuộc tấn công cái"đe". Ngay khi lực lượng của ông bị Zero tấn công, Waldron đổi ý và ra lệnh cho các máy bay của mình dính sát nhau để bảo vệ lẫn nhau. Trong minh hoạ này, các máy bay của Walron bắt đầu tấn công tàu sân bay Soryu ở đằng trước, bay ngang qua hệ thống phòng không của thiết giáp hạm Haruna và đồng thời cũng sắp bị đánh chặn bởi các máy bay Zero đang thực hiện tuần tra không chiến. (Tranh của Stefan Draminski)

Người Nhật tuyên bố rằng CAP của họ bắt đầu giao chiến với mối đe dọa ngư lôi lúc 09 giờ 23 phút. Vào lúc bắt đầu cuộc tấn công, CAP Nhật bao gồm 18 máy bay tiêm kích ở trên không. Lực lượng này nhanh chóng được tăng cường. Lúc 09 giờ 20 phút, Kaga phóng lên 6 chiếc Zero, tiếp theo là 5 máy bay tiêm kích từ Akagi lúc 09 giờ 32 phút, và thêm 4 chiếc nữa lúc 09 giờ 37 phút. Những gì diễn ra sau đó với các máy bay ngư lôi không khác gì một cuộc tàn sát. Trong trường hợp này, hệ thống phòng không của hạm đội Nhật đã hoạt động tốt như mong đợi. Máy bay địch tiếp cận được các tàu hộ tống phát hiện sớm, và có rất nhiều máy bay tiêm kích trên không để đối phó với mối đe dọa. Có tới 21 chiếc Zero hướng về phía 15 máy bay của Waldron. Và đây không phải là những chiếc Zero bình thường – chúng được điều khiển bởi một số phi công ưu tú nhất của Hải quân Đế quốc Nhật. Ngược lại, những chiếc Devastator thì không có máy bay tiêm kích hộ tống và chỉ có thể bay khoảng 100 hải lý/giờ khi mang theo ngư lôi. Để làm cho nhiệm vụ của Waldron thêm khó khăn, Nagumo ra lệnh cho hạm đội quay về hướng tây, để mũi tàu về phía người Mỹ và làm cho đường tiếp cận của họ dài hơn. Theo người Nhật, 18 máy bay Mỹ đã tấn công. Hầu hết bị tiêu diệt bởi máy bay tiêm kích và pháo phòng không trước khi chúng kịp phóng ngư lôi. Bốn máy bay sống sót có thể phóng ngư lôi của chúng vào Soryu lúc 09 giờ 30 phút như trong minh hoạ ở trên, nhưng tất cả đều trượt. Bốn máy bay địch cuối cùng sau đó bị tiêu diệt. Đây là một tường thuật khá chính xác. Trong khoảng 15 phút, các chiếc Zero tiến hành các cuộc tấn công bổ nhào vào đội hình của Waldron từ phía trên và phía sau. Máy bay của Waldron bị trúng thùng nhiên liệu bên trái, bốc cháy và lao xuống biển. Ba chiếc Devastator tiếp cận đủ gần Soryu để buộc cô phải thực hiện động tác tránh né trước khi các chiếc Zero bắn hạ hai chiếc máy bay. Chiếc Devastator cuối cùng, do Thiếu úy George Gay lái, tiếp cận trong vòng 800 yard của Soryu và thả ngư lôi của nó phía mũi trái tàu sân bay. Nó trượt, và máy bay của Gay bị bắn hạ bởi các chiếc Zero vừa được phóng lên vội vã từ Akagi. Tất cả 15 chiếc Devastator của VT-8 bị phá hủy, với Gay là người sống sót duy nhất. Gay rơi xuống biển ngay giữa đội hình của Nagumo nhưng có thể thoát ra khỏi chiếc máy bay đang chìm và trốn dưới một tấm đệm ghế để tránh bị phát hiện. Ông được một thủy phi cơ Catalina giải cứu vào ngày hôm sau. VT-8 đã phải trả một cái giá khủng khiếp cho sự quyết tâm tấn công không có hỗ trợ của Waldron. Việc mất 15 máy bay và toàn bộ phi hành đoàn chỉ trừ một người không được đền bù bằng bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho phía Nhật. (Tranh của Steven Heyen)

Bức tranh ấn tượng này đang cho thấy một máy bay Devastator từ VT-6 đang vượt qua hệ thống phòng không và tiến gần đến tàu sân bay Kaga. Sau các đợt tấn công từ các máy bay ngư lôi của Hornet thì các máy bay từ Enterprise nối tiếp tấn công và cũng gặp phải số phận tương tự. VT-6 của Lindsey mất dấu các máy bay ném bom bổ nhào của McClusky và buộc phải hành động một mình. Thỏa thuận của ông với Trung úy Gray về việc cung cấp hỗ trợ tiêm kích khi được yêu cầu đã trở nên vô hiệu vì Gray đã theo VT-8 đến mục tiêu. Tiếp cận trực tiếp từ phía nam, Lindsey không gặp vấn đề gì trong việc tìm thấy lực lượng của Nagumo. Những chiếc Devastator đang tiếp cận bị tàu tuần dương Tone phát hiện lúc 09 giờ 38 phút ở độ cao thấp. Người Nhật vẫn đang hướng về phía tây, tạo cho các Devastator một cơ hội bắn ngư lôi tiềm năng vào mạn trái. Một trong những phi công sống sót của phi đoàn đã đưa ra đánh giá xuất sắc về bố trí của Kido Butai: "...một đội hình rất lỏng lẻo và dường như có ba tàu sân bay ở trung tâm. Vòng màn ngoài cách trung tâm 15 hải lý và bao gồm các tàu tuần dương hạng nhẹ. Vòng màn chắn trong cách trung tâm 8 hải lý và bao gồm các tàu tuần dương hạng nặng và một vài thiết giáp hạm. Tàu khu trục đi kèm mỗi tàu sân bay và có mặt ở các điểm khác trong màn chắn. Các tàu sân bay và tàu khu trục đi kèm cơ động độc lập với tốc độ cao trong khi các tàu trong màn chắn vẫn giữ vị trí tương đối của họ và không di chuyển với tốc độ cao như vậy." Ngoài việc nhầm lẫn tàu khu trục trong vòng ngoài thành tàu tuần dương hạng nhẹ, đây là mô tả chính xác nhất về Kido Butai cho đến lúc đó và có lẽ được cung cấp cho các sĩ quan thẩm vấn sau khi quay về Enterprise. Theo học thuyết, khi tiếp xúc với Kido Butai, Lindsey chia phi đội của mình thành hai phân đội, mỗi phân đội gồm 7 máy bay. Một phân đội dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lindsey và phân đội kia dưới quyền Trung úy Arthur Ely, sĩ quan điều hành của phi đội. Với hai phân đội, ông có thể thực hiện một cuộc tấn công "cái đe" vào một trong các tàu sân bay. Mục tiêu được chọn là Kaga, tàu sân bay gần Lindsey nhất. Để phản ứng với báo cáo phát hiện từ Tone, Nagumo ra lệnh rẽ sang mạn phải để đặt các máy bay ném ngư lôi ở phía đuôi Kido Butai. Động tác né tránh ưa thích này tạo ra mục tiêu nhỏ nhất có thể cho ngư lôi Mỹ, và nó còn kéo dài đường tiếp cận cho những chiếc Devastator chậm chạp đến đau đớn. Điều này đặc biệt đúng với phân đội của Lindsey, phải bay một quãng đường xa hơn để đến một vị trí phía bắc Kaga cho cuộc tấn công "cái đe". Mặc dù Tone đã phát hiện VT-6 từ khoảng cách xa, người Nhật vẫn bị bắt mất thế cân bằng. Phần lớn các chiếc Zero phòng thủ vẫn ở phía đông bắc đối phó với cuộc tấn công của Waldron. Giờ đây, Lindsey lại đến từ một hướng khác. Trong khi người Nhật vất vả đưa một số chiếc Zero vào vị trí để chặn đòn tấn công của Lindsey, những chiếc Devastator đã có thể vượt qua vòng ngoài trước khi những chiếc Zero đầu tiên xuất hiện. Phân đội của Ely đang hướng thẳng đến Kaga nên là những chiếc đầu tiên chịu hỏa lực. Những đợt tấn công chớp nhoáng của các chiếc Zero đã tiêu diệt 5 máy bay của ông trước khi chúng đến vị trí phóng. Hai chiếc có thể phóng vũ khí đã làm vậy ở một góc tấn công kém. Thuyền trưởng của Kaga làm góc tấn công càng tệ hơn bằng cách rẽ sang mạn trái và đưa hai chiếc Devastator cuối cùng vào vị trí phía đuôi tàu. Cả hai quả ngư lôi đều trượt. Khi người Nhật tập trung vào phân đội của Ely, 7 máy bay dưới quyền Lindsey dường như có cơ hội thành công tốt chống lại Kaga. Không chiếc Devastator nào bị bắn hạ bởi Zero, có lẽ vì những chiếc đang giao chiến với phân đội của Lindsey đã hết đạn cho pháo 20mm của chúng. Không có máy bay tiêm kích hộ tống (những chiếc Wildcat của Gray đang ở phía đối diện của đội hình Nhật cách khoảng 20 hải lý), vận may của Lindsey không thể kéo dài mãi. Tình hình trở nên tồi tệ hơn nhiều đối với người Mỹ khi một đợt Zero mới được phóng lên; Akagi điều thêm ba chiếc Zero nữa lúc 09 giờ 45 phút, và Kaga phóng thêm 6 chiếc lên không lúc 10 giờ, ngay khi các Devastator đang thực hiện đợt chạy tấn công cuối cùng. Với hỏa lực mới này, đội hình của Lindsey bắt đầu tan rã. Bốn máy bay của ông bị bắn rơi xuống biển, bao gồm chiếc Devastator của Lindsey. Ba máy bay còn lại cố gắng tìm một góc ngắm tốt, nhưng Kaga đã rẽ sang hướng đông, một lần nữa đưa đuôi tàu cho những kẻ tấn công. Đối mặt với lựa chọn bị bắn hạ hoặc phóng ngư lôi ở tầm xa, ba phi công còn lại quyết định thả vũ khí. Chiếc Kaga được điều khiển khéo léo không gặp vấn đề gì khi né tránh cả ba quả ngư lôi. Cuộc tấn công dũng cảm nhưng vô ích của VT-6 kết thúc lúc 10 giờ. Trong số 14 máy bay bắt đầu cuộc tấn công, chỉ có năm chiếc sống sót qua hành trình tiếp cận Kaga và sau đó rút lui về phía đông hoặc đông nam xuyên qua đội hình của Kido Butai. Tất cả 5 chiếc máy bay cuối cùng đều bị hư hại ở một mức độ nào đó bởi những chiếc Zero truy đuổi; một chiếc buộc phải hạ cánh khẩn cấp trên đường về tàu, và một chiếc khác bị hư hại nặng đến mức bị đẩy xuống biển sau khi về đến Enterprise. Một yếu tố góp phần vào sự sống sót của năm chiếc máy bay cuối cùng là các chiếc Zero không truy đuổi quyết liệt. Sau khi những chiếc Devastator thả ngư lôi, chúng không còn là mối đe dọa nữa và các phi công tiêm kích Nhật đã chọn cách tiết kiệm đạn dược, đặc biệt là 60 viên đạn 20mm cho mỗi khẩu pháo gắn trên cánh của họ. (Tranh của John Hamilton)
Ngay sau khi chiếc Devastator cuối cùng của Hornet bị bắn rơi, phi đội ngư lôi của Enterprise do Thiếu tá Eugene Lindsey chỉ huy bắt đầu tấn công. Ông đã mất liên lạc với các máy bay ném bom bổ nhào của Enterprise, nhưng vào lúc 09 giờ 30 phút, ông nhìn thấy khói ở cách đó 30 hải lý về phía tây bắc. Lindsey dẫn 14 chiếc Devastator đến điều tra và nhanh chóng phát hiện Kido Butai đang di chuyển về hướng đông bắc với tốc độ cao. Tàu sân bay Nhật gần nhất là Kaga, và Lindsey quyết định tấn công theo thế "cái đe". Lúc này có 27 chiếc Zero đang làm nhiệm vụ tuần tra không chiến, được dẫn hướng đến phi đội Mỹ khi tàu tuần dương Tone khai hỏa bằng pháo chính vào lúc 09 giờ 40 phút. Các Zero lại có một ngày thăng hoa, bắn rơi 9 chiếc Devastator. Năm chiếc còn lại tiến đủ gần để phóng ngư lôi vào Kaga, nhưng do phóng ở cự ly quá xa và với góc tấn công không thuận lợi, nên tất cả đều trượt. Năm chiếc Devastator này bay xuyên qua đội hình Kido Butai và thoát ra phía đông; chỉ có bốn chiếc hạ cánh được xuống Enterprise. Khi phi đội của Waldron bị các Zero tiêu diệt, 10 chiếc tiêm kích Wildcat của Enterprise được phân công hộ tống họ đang bay vòng trên Kido Butai ở độ cao 22.000 feet. Người Nhật không phát hiện ra họ trong khoảng 30 phút, chứng tỏ toàn bộ sự chú ý của họ dồn vào những chiếc Devastator ở tầm thấp. Các máy bay Wildcat không hề can thiệp, vì họ không nghe được tín hiệu cầu cứu của Lindsey. Sau khi gửi báo cáo liên lạc lúc 09 giờ 56 phút, họ quay về Enterprise.

Đội hình Kido Butai lúc 10 giờ, sau khi đổi hướng sang 030 độ. Đây là khoản khắc mà Kido Butai đang ở đỉnh cao quyền lực của mình. Cho đến nay, 94 máy bay Mỹ từ cả Midway và các tàu sân bay đã thực hiện các cuộc tấn công vào lực lượng của Nagumo – phần lớn trong số chúng đều bị bắn hạ và người Nhật không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào. Hai cuộc tấn công cuối cùng rõ ràng được thực hiện bởi máy bay từ tàu sân bay, được cho là những phi công giỏi nhất mà người Mỹ có, nhưng đã kết thúc bằng sự hủy diệt gần như toàn bộ những kẻ tấn công. Không khí trên đảo chỉ huy của Akagi hẳn phải đang rất hưng phấn khi những chiếc Zero lần lượt phá vỡ từng cuộc tấn công của Mỹ. Ngay cả Genda, người nghi ngờ về khả năng phòng thủ chống tấn công trên không của Kido Butai, cũng bị ấn tượng. Tuy nhiên vào thời điểm này, đội hình đã bị xô lệch đến mức không còn giống dạng “hộp” như dự kiến ban đầu nữa, mà trở thành một hàng dọc lộn xộn, với Kaga tụt lại phía sau ở góc mạn trái.
Một phần quan trọng trong đợt tấn công của Spruance là 34 chiếc ném bom bổ nhào Dauntless của Hornet. Không một chiếc nào trong số đó phát hiện được tàu Nhật trong ngày 4 tháng 6, khiến hoạt động của họ trở thành một trong những khía cạnh gây tranh cãi nhất của trận chiến. Như đã đề cập, không đoàn của Hornet dưới quyền chỉ huy Stanhope Ring được lệnh bay theo hướng 265 độ tới mục tiêu. Vì báo cáo trinh sát PBY cho biết các tàu sân bay Nhật ở hướng 240 độ từ TF 16, hướng bay của Ring đã khiến không đoàn đi lệch về phía bắc so với Kido Butai. Waldron nhận thấy Ring đang bay sai hướng, nên ông dẫn phi đội ngư lôi của mình về phía tây nam, nơi ông nhanh chóng tìm thấy quân Nhật – và trả giá bằng mạng sống của mình. Các máy bay Dauntless của Ring, được hộ tống bởi mười chiếc Wildcat, bay vượt qua phía bắc Kido Butai. Khi đội hình cách Hornet khoảng 150–160 hải lý, các Wildcat phải quay về vì sắp hết nhiên liệu. Tuy nhiên, họ không bao giờ tìm thấy tàu mẹ và tất cả mười chiếc đều phải hạ cánh xuống biển; may mắn thay, tất cả trừ hai phi công đều được cứu. Khi cách 225 hải lý, đội hình bắt đầu tan rã. Ring cùng 14 chiếc Dauntless quay trở về Hornet và lại bay lệch về phía bắc Kido Butai. Mười tám chiếc còn lại chuyển hướng về phía nam để tìm tàu Nhật, nhưng cuối cùng buộc phải quay sang hướng đông khi nhiên liệu gần cạn và bay qua phía nam Kido Butai. Bốn chiếc hạ cánh được xuống Hornet, số còn lại buộc phải đáp xuống Midway. Gần cuối chặng bay theo hướng mới, lúc 09 giờ 55 phút, ông phát hiện một tàu khu trục Nhật đang di chuyển nhanh về hướng bắc – đông bắc. Với suy luận xuất sắc, McClusky nhận định con tàu này đang trên đường quay lại hội quân với lực lượng chính, nên ông dẫn phi đội của mình bay theo hướng đó. Chỉ vài phút sau, McClusky được đền đáp khi phát hiện Kido Butai ở cách 35 hải lý về phía đông bắc, lúc 10 giờ 02 phút.

Trrận chiến giờ đã bước sang giai đoạn quyết định. Giờ đây, kết cục trận đánh phụ thuộc vào những con người đang dẫn đầu 11 phi đội bay về phía Lực lượng Tấn công Nhật Bản (hoặc Kido Butai). Hai phi đội của Enterprise, VF-6 và VT-6, cũng không gặp khó khăn trong việc phát hiện lực lượng Nhật. Canh bạc lớn của Mitscher dựa Không đoàn của Hornet nhằm tìm kiếm nhóm tàu sân bay Nhật Bản đã kết thúc trong thảm họa. Điều này khiến kết cục của trận đánh rơi vào tay một nhóm người còn nhỏ hơn nữa. Một trong số đó là McClusky, người đang chỉ huy những gì còn lại của không đoàn Enterprise. Với quá nhiều thứ phụ thuộc vào các quyết định của mình, McClusky chứng tỏ ông là người phù hợp, ở đúng nơi, vào đúng thời điểm. Đi cùng ông là 32 máy bay ném bom bổ nhào Dauntless – gồm máy bay chỉ huy của chính ông, 16 chiếc thuộc VS-6 của Trung úy Gallaher (một chiếc khác đã phải quay về sớm trong nhiệm vụ), và 15 chiếc thuộc VB-6 của Trung úy Best (ba chiếc khác gặp sự cố cơ khí trước khi cất cánh và không rời được Enterprise). McClusky nhận lệnh từ Spruance lúc 07 giờ 52 phút, bay theo hướng 231 độ về phía lực lượng Nhật. Ông tính toán rằng điều này sẽ đưa biên đội tới vị trí mục tiêu ở khoảng cách 142 hải lý, vào khoảng 09 giờ 20. Tuy nhiên, khi đến vị trí dự kiến của đối phương, ông không thấy gì cả. Thay vì tiếp tục hướng về Midway, Nagumo đã đổi hướng sang phía đông, rồi sau đó đông-đông bắc vào lúc 09 giờ 17 phút. McClusky không hề biết rằng Kido Butai lúc này đang ở phía đông bắc của ông. Dù đồng hồ nhiên liệu của một số máy bay đã tụt xuống dưới nửa bình, nhưng McClusky vẫn quyết định tiếp tục tìm kiếm trước khi tình hình nhiên liệu trở nên tuyệt vọng. Ông dẫn các phi đội bay về phía tây nam trong 15 phút, nhưng vẫn không phát hiện được gì. Sau đó, McClusky quyết định đổi hướng sang tây bắc, theo hướng ban đầu của lực lượng Nhật về Midway. Ông dự định giữ hướng này đến 10 giờ, và nếu vẫn không thấy đối phương, sẽ bay sang đông bắc trước khi nhiên liệu buộc ông phải quay về tàu. Nếu Spruance không cho các máy bay ném bom bổ nhào của McClusky xuất phát sớm, thì sẽ không có đủ nhiên liệu cho cuộc tìm kiếm kéo dài này. Một chiếc Dauntless của VB-6, do tiêu hao nhiên liệu nhanh hơn vì mang bom 1.000 pound, đã buộc phải hạ cánh khẩn xuống biển trước khi đội hình quay sang hướng đông bắc. Kế hoạch của McClusky là một phép tính hợp lý, và nó đã được đền đáp vào lúc 09 giờ 55 phút, khi ông nhìn thấy vệt sóng dài của một tàu Nhật Bản, mà ông đánh giá là một tàu tuần dương đang chạy hết tốc lực về phía đông bắc. Đó chính là Arashi, đang chạy với tốc độ 35 hải lý/giờ để quay lại nhập đội với hạm đội của Nagumo. Như vậy, cuộc đụng độ không phân thắng bại giữa Arashi và tàu ngầm Nautilus (vốn là con tàu ngầm Mỹ theo dõi Kaga và bị tàu khu trục truy bắt) cuối cùng lại có ảnh hưởng cực lớn đến toàn bộ trận đánh. Trong khi Kido Butai đang hoàn tất việc thu hồi máy bay, thì Brockman đang ở độ sâu, cố tránh một đợt tấn công bằng bom chìm khác. Arashi chính là tàu tiến hành cuộc truy kích này, với mục tiêu ghìm chặt tàu ngầm của Brockman, để Kido Butai có thể cắt đuôi. Lúc 09 giờ 33 phút, Watanabe tiến hành đợt thả bom chìm cuối cùng, mà theo Brockman là đợt nguy hiểm nhất. Cho rằng mình đã hoàn thành nhiệm vụ – giữ chân tàu ngầm đủ lâu để lực lượng chủ lực chạy thoát – Watanabe cho tàu đổi hướng sang bắc - đông bắc với tốc độ cao, nhằm tái nhập đội hình của Nagumo. Sau khi phát hiện Arashi, McClusky đoán đúng rằng con tàu đang quay lại nhập với lực lượng chủ lực, nên ông đổi hướng sang đông bắc, bay song song với vệt hành trình của con tàu. Lúc 10 giờ 02 phút, McClusky được đền đáp khi phát hiện mục tiêu của mình ở xa về phía đông bắc. Trong có lẽ là khoảnh khắc quan trọng nhất của trận đánh cho đến lúc đó, ông gửi báo cáo về cho Spruance rằng đã phát hiện được đối phương. Dù hoàn toàn không phải do chủ ý, McClusky đã tiếp cận khu vực Kido Butai đúng vào thời điểm hoàn hảo. Không có chiếc Zero nào đang ở độ cao lớn, và cách tiếp cận ở độ cao 19.000 feet của ông không bị phát hiện. Hai phi đội ném bom bổ nhào dày dạn kinh nghiệm giờ đây đã ở ngay trên đầu Kido Butai, với yếu tố bất ngờ hoàn toàn. McClusky không hề biết rằng, chỉ một phút sau đó, không đoàn của Yorktown cũng phát hiện lực lượng Nhật từ phía đông nam. Lực lượng của Nagumo đang lâm vào tình thế cực kỳ nguy hiểm: bị đe dọa từ hai hướng, và ở các độ cao khác nhau. Đây là kịch bản ác mộng đối với phía Nhật, và là tình huống mà Kido Butai chưa từng phải đối mặt trước đây. (Tranh của John Hamilton)
Trái ngược với các không đoàn từ Hornet và Enterprise, không đoàn của Yorktown không gặp bất kỳ khó khăn nào trong việc tìm ra vị trí của quân Nhật và thậm chí còn tiến hành được một cuộc tấn công phối hợp. Tình cờ thay, đợt tấn công của Yorktown diễn ra đúng vào thời điểm các máy bay ném bom bổ nhào của McClusky vừa đến khu vực mục tiêu. Người Mỹ phải đối mặt với 41 chiếc Zero đang tuần tra không chiến, nhưng lực lượng này bị bố trí sai vị trí. Có 14 chiếc Zero ở gần các tàu sân bay, 11 chiếc đang truy đuổi các máy bay ném ngư lôi của Enterprise, và 10 chiếc ở phía đông nam. Ngoài ra, mỗi tàu Hiryu và Soryu đều có 3 chiếc Zero đang chuẩn bị cất cánh. Do các tiêm kích Nhật đều đang ở độ cao thấp, những chiếc Dauntless đang áp sát từ trên cao có thể hành động mà không bị quấy nhiễu.
Chikuma phát hiện các máy bay Devastator của Yorktown lúc 10 giờ 10 phút, khi chúng còn cách tàu sân bay Nhật gần nhất khoảng 14 dặm. Con tàu khai hỏa bằng pháo chính cỡ 8 inch về phía các máy bay đang tới để báo động cho các tiêm kích Zero. Phi đội Devastator của Yorktown được hộ tống bởi 6 chiếc Wildcat – hai chiếc bay gần để hỗ trợ trực tiếp, bốn chiếc khác bay cao hơn để bảo vệ ở tầm trên. Không chỉ thành công trong việc bảo vệ các Devastator, các Wildcat còn thu hút sự chú ý của hầu hết các Zero đang tuần tra. Khoảng 20 chiếc Zero liên tục tấn công các Wildcat bay cao, bắn hạ một chiếc. Ba chiếc còn lại chuyển sang đội hình phòng thủ Thach Weave, nhờ đó bắn rơi ba chiếc Zero. Trong khi đó, hai chiếc Wildcat bay gần giữ được các tiêm kích Nhật tránh xa những chiếc Devastator và còn bắn hạ thêm hai chiếc Zero nữa. Nhờ nỗ lực của các phi công Wildcat, chỉ có một chiếc Devastator bị bắn rơi trước khi bắt đầu đợt lao xuống tấn công. Nagumo ra lệnh cho các tàu của mình quay đuôi về phía các máy bay ném ngư lôi, nhằm giảm diện tích mục tiêu xuống mức nhỏ nhất có thể. Chỉ huy phi đội ngư lôi, Thiếu tá Lance Massey, từ chối tấn công ở góc bất lợi như vậy và dẫn đội hình bay về phía bắc để tấn công Hiryu.

Tiếp cận từ phía tây nam lúc 10 giờ 22 phút, McClusky đối mặt với hai tàu sân bay ngay trước mặt. Theo học thuyết, khi có hai mục tiêu, phi đội dẫn đầu sẽ tấn công mục tiêu xa hơn và phi đội phía sau sẽ tấn công mục tiêu gần hơn. McClusky là một phi công tiêm kích vừa chuyển sang máy bay ném bom bổ nhào. Hoặc là ông không biết về học thuyết này, hoặc quên nó đi trong lúc căng thẳng. Nên ông đã ra lệnh qua radio cho phi đội của Gallaher tấn công tàu sân bay gần nhất (Kaga) và cho Best tấn công tàu sân bay ở xa hơn (Akagi). Vì điều này trái với học thuyết, nên kết quả là gây ra sự nhầm lẫn. Best đã quyết định tuân thủ học thuyết và tấn công Kaga; trong khi đó, McClusky lại quyết định dẫn bộ chỉ huy gồm ba máy bay của mình và cùng tập trung vào Kaga. Nếu không có gì thay đổi, tất cả 31 chiếc Dauntless sẽ cùng nhắm vào một mục tiêu. Thật khó tin, không một quan sát viên Nhật nào phát hiện ra sự tiếp cận của McClusky qua những đám mây rải trong khu vực. Điều này, cùng với sự tập trung hoàn toàn vào cuộc đối đầu đang diễn ra với VT-3, đã tạo ra kịch bản tốt nhất có thể cho McClusky. Phần lớn các chiếc Zero vẫn đang ở khu vực đông nam đối phó với các máy bay Devastator và Wildcat của Yorktown. Không có radar, người Nhật hoàn toàn phụ thuộc vào các lính canh để cảnh báo về các mối đe dọa sắp tới. Chỉ đến khi quá muộn, người Nhật mới cuối cùng phát hiện ra máy bay của McClusky. Lúc 10 giờ 19 phút, một lính canh trên Hiryu phát hiện ra các máy bay ném bom bổ nhào phía trên Kaga. Ngay sau đó, các quan sát viên trên Kaga cũng thoáng thấy mối đe dọa từ trên cao. Các tổ pháo Type 89 trên tàu sân bay ngay lập tức nâng vũ khí và khai hỏa. Thuyền trưởng của Kaga cũng kịp thời cho tàu quay gấp sang mạn phải. Sự thất bại hoàn toàn của hệ thống phòng không Kido Butai sắp dẫn đến hậu quả khủng khiếp. Theo sau McClusky và hai phi đội trưởng của ông, Gallaher và các phi công VS-6 của ông bắt đầu cú bổ nhào từ độ cao khoảng 20.000 feet, lướt qua Best và VB-6 trên đường xuống. Mỗi chiếc Dauntless của VS-6 mang một quả bom 500 pound ở đường trung tâm, và hầu hết đều mang thêm hai quả bom 100 pound ở trên cánh. Ba máy bay đầu tiên ( thuộc bộ chỉ huy của McClusky) đã thả bom trượt do Kaga quay gấp, và bom của chúng phát nổ vô hại xung quanh tàu sân bay. Gallaher ở chiếc máy bay thứ tư thực hiện cú bổ nhào và ông đã ghi phát trúng đầu tiên vào Kaga. Quả bom trúng gần thang nâng phía sau ở mạn phải. Nó phát nổ trong khu vực chỗ ở của thủy thủ bên cạnh boong chứa máy bay phía trên. Hai chiếc Dauntless tiếp theo cũng thả bom trượt, với một chiếc bị trúng hỏa lực phòng không và lao xuống biển. Hai chiếc tiếp theo ghi phát trúng trực tiếp – một quả phía trước và một quả trúng vào đảo chỉ huy. Quả bom trúng đảo đã xóa sổ toàn bộ ban chỉ huy cấp cao của Kaga. Cả thuyền trưởng, sĩ quan điều hành, sĩ quan pháo binh chính, sĩ quan hàng hải và sĩ quan thông tin của tàu đều thiệt mạng. Trong 8 chiếc máy bay tấn công đầu tiên, ba chiếc ghi phát trúng trực tiếp. Phân đội 2 của VS-6 đã ghi thêm ít nhất một phát trúng nữa, lần này là ở giữa tàu. Cuộc tấn công tiếp theo là 10 chiếc Dauntless của VB-6 với bom 1.000 pound. Quan sát thành quả của phi đội của mình từ độ cao 12.000 feet, Best đã nhận xét, "Họ đánh trúng từ mũi đến đuôi." Thach cũng ở gần đó và nói thêm, "Tôi chưa bao giờ thấy kỹ thuật ném bom bổ nhào xuất sắc như vậy. Đối với tôi, có vẻ như gần như mọi quả bom đều trúng đích." Trong khi nhiều quả bom 1.000 pound góp phần vào sự hủy diệt trên Kaga, tổng số phát trúng cuối cùng vẫn không rõ ràng. (Tranh của Stefan Draminski)
Khi các máy bay ném ngư lôi của Yorktown tiếp tục trở thành tâm điểm chú ý của quân Nhật và các Zero bị kéo xuống độ cao thấp để giao chiến với Wildcat, thì các máy bay ném bom bổ nhào của McClusky và Yorktown xuất hiện phía trên Kido Butai mà không bị phát hiện. 32 chiếc Dauntless của McClusky thuộc hai phi đội khác nhau. Ông ra lệnh cho phi đội đi đầu, VS-6, tấn công tàu sân bay gần nhất – Kaga, và cho VB-6 tấn công tàu xa hơn – Akagi. Tuy nhiên, mệnh lệnh này trái với học thuyết tác chiến nên gây ra nhầm lẫn, khiến cả hai phi đội đều chuẩn bị tấn công Kaga. Lúc 10 giờ 22 phút, McClusky cùng hai máy bay yểm trợ, toàn bộ VS-6 và phần lớn VB-6 bắt đầu lao bổ nhào xuống Kaga. Các máy bay ném bom không hề bị tiêm kích hay hỏa lực phòng không cản trở, vì yếu tố bất ngờ là tuyệt đối. Bốn quả bom 1.000 pound trúng trực tiếp con tàu, biến Kaga thành một biển lửa chỉ trong chốc lát. Một phi công Mỹ tham gia đợt tấn công vào tàu Kaga đã kể lại:
"Tôi là người thứ chín trong phi đội ném bom bổ nhào. Đây là cú bổ nhào tốt nhất mà tôi từng thực hiện… Chúng tôi lao xuống từ mọi hướng bên mạn trái tàu sân bay, đội hình giãn cách rất đẹp. Khi đang bổ nhào, tôi nhìn qua mũi máy bay để thấy những quả bom đầu tiên rơi xuống sàn bay màu vàng… Gần đến điểm thả bom, tôi thấy một quả nổ ngay phía sau chỗ mình nhắm… Tôi thấy sàn tàu gợn sóng, cuộn lại và bật tung ra tứ phía, lộ ra một phần lớn nhà chứa máy bay bên dưới… Tôi thả bom trong vài giây sau vụ nổ trước… Tôi đã quyết rằng, vì đang bổ nhào xuống một tàu sân bay Nhật, tôi sẽ phải tận mắt thấy bom của mình trúng… Và tôi thấy quả bom 500 pound rơi trúng ngay sát phần đảo của con tàu."

Trong một trận đánh đầy những khoảnh khắc then chốt, cuộc tấn công của Best và hai phi công hộ tống tấn công vào Akagi - soái hạm của Nagumo có lẽ là quan trọng nhất. Nếu cả hai phi đội máy bay ném bom bổ nhào của Enterprise đều tập trung vào Kaga, điều đó có nghĩa là một trong những tàu sân bay khác của Nagumo có thể sống sót. Best ngay lập tức nhận ra điều gì đang xảy ra. Để ngăn chặn tàu sân bay thứ hai trốn thoát, ông gọi radio cho thuộc cấp: "Phân đội 1, Phân đội 2, hãy đi cùng tôi và tấn công qua đây. Đừng để tàu sân bay này trốn thoát." Lời kêu gọi của ông không được đáp lại. Điều này đã đã dẫn đến việc chỉ còn lại Best và hai phi đội trưởng của ông để tấn công tàu sân bay thứ hai, vốn là Akagi. Ba chiếc máy bay rút khỏi cú bổ nhào và hướng về phía đông để tấn công tàu sân bay Nhật gần đó chưa bị ảnh hưởng. Chúng leo lên độ cao 14.000 feet để thực hiện cuộc tấn công mới. Thay vì tấn công theo trình tự, ba chiếc máy bay bổ nhào theo đội hình chữ “V” mà chúng đang bay. Ngay cả người Nhật cũng nhận thấy rằng cuộc tấn công không được thực hiện theo cú bổ nhào dốc thông thường. Nhóm của Best tấn công từ mạn trái của Akagi, với mỗi phi công đồng hành cách chiếc máy bay trung tâm của Best khoảng 75–100 feet. Tấn công từ mạn tàu như vậy chỉ đưa chiều rộng 100 feet của tàu sân bay làm mục tiêu; trong khi tấn công từ phía đuôi theo cách ưu tiên sẽ đưa chiều dài 850 feet của tàu làm mục tiêu. Điều khó tin là không ai trên Akagi nhận ra máy bay của Best cho đến khi chúng bay ngay trên tàu. Tiếng la hét cảnh báo đầu tiên xuất hiện đúng lúc một chiếc Zero bắt đầu chạy đà trên sàn đáp. Một vài khẩu pháo 25mm khai hỏa trong nỗ lực vô ích bảo vệ tàu. Lúc đó là 10 giờ 26 phút. (Tranh của Robert D. Perry)

Best nổi tiếng vì đã giữ cú bổ nhào đến tận phút cuối cùng. Trong trường hợp này, ông tiếp tục tấn công xuống còn 1.500 feet. Ông quan sát quả bom của mình trúng giữa sàn bay của Akagi. Best nghĩ rằng bom của các phi công hộ tống cũng trúng đích, nhưng thực tế chỉ là gần trúng. Quả bom đầu tiên trượt mạn trái tàu khoảng 5–10 yard; quả thứ hai gần như trúng phần đuôi. Quả bom của Best rơi trực tiếp xuống sàn bay, vào phần đuôi của thang nâng giữa tàu. Nó dễ dàng xuyên thủng sàn đáp và phát nổ trong boong chứa máy bay trên ngay bên dưới. Quả bom duy nhất này đã định đoạt số phận của Akagi. Sự diệt vong của tàu gắn liền với hành động nhanh nhạy của một con người và kỹ năng của ông như một phi công. Ở đằng xa có thể thấy tàu Kaga đang bốc cháy sau đợt tấn công bổ nhào. Nếu các quan sát viên trên Akagi cảnh giác hơn, hỏa lực phòng không chính xác hoặc ít nhất là mạnh mẽ hơn, hoặc nếu con tàu thực hiện được hành động tránh né, có lẽ độ chính xác của Best sẽ bị ảnh hưởng đủ để tạo ra kết quả khác. Kết cục của những trận đánh lớn đôi khi lại phụ thuộc vào những sự kiện nhỏ. (Tranh của Robert D. Perry)
Trong một trong những khoảnh khắc quan trọng nhất của trận chiến, Trung úy Richard Best, chỉ huy phi đội VB-6, nhận ra rằng cả hai phi đội ném bom của Enterprise đều đang tấn công Kaga, và Akagi – soái hạm của Nagumo – vẫn chưa bị tấn công. Để ngăn điều đó, Best cùng hai chiếc khác của VB-6 hủy bỏ cú bổ nhào và bay về phía bắc tấn công Akagi. Một lần nữa, quân Nhật không hề phát hiện đợt tấn công này, và ba chiếc Dauntless không gặp hỏa lực phòng không nào khi lao xuống soái hạm của Nagumo. Một quả bom rơi sát đuôi tàu, nhưng Richard Best đã ném trúng thang nâng giữa thân tàu, quả bom xuyên xuống sàn nhà chứa máy bay phía trên và phát nổ giữa các máy bay đang tiếp nhiên liệu và vũ trang. Cái giá để vô hiệu hóa Kaga và Akagi là hai chiếc Dauntless, bị bắn hạ trong lúc rút lui. Thiếu tá Fuchida Mitsuo đã kể lại khoảnh khắc hứng chịu đòn đánh trên tàu Akagi vào thời điểm đó như sau:
"Tôi ngước lên và nhìn thấy ba chiếc máy bay địch màu đen lao thẳng xuống tàu của chúng tôi. Một vài khẩu súng máy bắn trả điên cuồng, nhưng đã quá muộn. Những thân hình mập mạp của các máy bay Dauntless Mỹ nhanh chóng phóng to, rồi một loạt vật thể đen rời khỏi cánh của chúng, lơ lửng một cách ghê rợn. Bom!… Tiếng gào thét kinh hoàng của máy bay bổ nhào đến trước, rồi tiếng nổ chát chúa của cú đánh trực tiếp… Nhìn xung quanh, tôi kinh hoàng trước sự tàn phá xảy ra chỉ trong vài giây. Một cái lỗ khổng lồ xuất hiện trên sàn bay, ngay sau thang nâng giữa tàu. Bản thân thang nâng, vặn xoắn như thủy tinh nóng chảy, đổ sụp xuống nhà chứa máy bay. Các tấm boong cong vênh méo mó dị thường. Những chiếc máy bay dựng đuôi lên, phun ra ngọn lửa đỏ rực và khói đen đặc."

Trong khi các máy bay Zero đang ở độ cao thấp đối phó với những chiếc Devastator của Massey và các máy bay Wildcat của Thach, Leslie tiếp cận từ phía đông nam mà không bị phát hiện. Ông nhìn thấy hai tàu sân bay ở gần nhau và có thể là một chiếc thứ ba ở xa hơn. Vẫn giữ ấn tượng rằng phi đội VS-5 của Trung úy Wallace Short đang có mặt trong nhiệm vụ và ở trong khu vực, vào lúc 10 giờ 15 phút, ông gọi radio cho Short: "Anh tấn công chiếc bên trái còn tôi tấn công chiếc bên phải nhé? Tôi sẽ bắt đầu tấn công." Sau khi không nghe thấy hồi âm từ Short, ông chuẩn bị tấn công chiếc tàu sân bay ở cực bắc của Nhật, hy vọng phối hợp với VT-3. Mục tiêu của ông là tàu sân bay Soryu. Leslie dẫn phi đội của mình về phía bắc để chiếm một vị trí ngược gió. Ông liên lạc được bằng radio với Massey lúc 10 giờ 20 phút để phối hợp cuộc tấn công. Ngay sau đó, ông nghe thấy Massey đang cố gắng nhận sự hỗ trợ từ Thach khi bị các máy bay Zero tấn công dữ dội. Vào thời điểm này, Leslie quyết định từ bỏ nỗ lực đạt được một cuộc tấn công phối hợp và bắt đầu tấn công Soryu. Ông đã đặt phi đoàn đội mình vào một vị trí đáng thèm muốn nhất. Không có sự xuất hiện của bất kỳ chiếc Zero nào, và mục tiêu dường như hoàn toàn không hay biết về sự tiếp cận của ông. Việc tiếp cận ngược gió hỗ trợ độ chính xác, và khi Soryu đổi hướng sang phía đông, con tàu đã phơi dọc thân tàu ra trước các máy bay, đúng như giấc mơ của một phi công máy bay ném bom bổ nhào. Lúc 10 giờ 24 phút, một lính canh trên Soryu phát hiện ra những chiếc Dauntless. Cũng như trên Kaga, tất cả giờ đây đã quá muộn. Mặc dù các khẩu pháo 25mm có thể đã khai hỏa trước khi máy bay Mỹ bắt đầu bổ nhào, thì không có hy vọng bảo vệ con tàu khỏi những phi công thông thạo kỹ thuật ném bom bổ nhào. Leslie chia phi đội của mình thành 3 phân đội để thách thức hệ thống phòng thủ của tàu sân bay. Chiến thuật này có hiệu quả, vì hai trong số các phân đội thậm chí không bị phát hiện trước khi tấn công. Sau sự cố với công tắc kích nổ điện, chỉ còn 13 trong số 17 chiếc Dauntless của phi đội Leslie vẫn mang vũ khí. Mặc dù máy bay của ông không có bom, Leslie là người đầu tiên bổ nhào lúc 10 giờ 25 phút. Chiếc Dauntless tiếp theo được lái bởi phi đội trưởng của ông, người đã khéo léo thả quả bom 1.000 pound của mình gần thang nâng phía trước của Soryu. Nó phát nổ trên boong chứa máy bay với hiệu quả tàn phá khủng khiếp. Một quả bom khác đánh trúng giữa con tàu và làm tăng thêm sự hủy diệt trên các boong chứa máy bay. Quả bom thứ ba trúng phía đuôi và xuyên xuống boong chứa máy bay dưới; các mảnh bom đi vào các ống khói nồi hơi và tràn hơi nước vào các phòng nồi hơi. Leslie đếm được năm phát trúng và ba phát suýt trúng, nhưng phía Nhật chỉ xác nhận ba phát trúng như mô tả ở trên. Ba phát trúng này được phân bố đều, khiến việc thủy thủ đoàn không thể kiềm chế được các đám cháy đã ngay lập tức biến thành một biển lửa. Tình trạng của Soryu đã trở nên nghiêm trọng đến mức những chiếc máy bay ném bom bổ nhào cuối cùng của Leslie đã bỏ qua con tàu để tấn công các tàu hộ tống. Hai chiếc máy bay tuyên bố đã trúng một thiết giáp hạm, và hai chiếc máy bay khác tấn công thứ mà họ nghĩ là một tàu tuần dương hạng nhẹ (thực ra là tàu khu trục Isokaze) và cũng tuyên bố trúng mục tiêu. VB-3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong số 13 máy bay mang bom, 9 chiếc tấn công Soryu và đạt được 3 phát trúng. Không chiếc nào trong số bốn máy bay tấn công tàu hộ tống ghi được phát trúng trực tiếp. (Tranh của Anthony Saunder)
17 chiếc ném bom bổ nhào của Yorktown chọn Soryu làm mục tiêu. Chỉ có 13 chiếc còn giữ được bom vì sự cố công tắc điện khiến máy bay chỉ huy và ba chiếc khác bị rơi mất bom 1.000 pound. Một lần nữa, các máy bay ném bom Mỹ đạt được yếu tố bất ngờ gần như tuyệt đối; bắt đầu lúc 10 giờ 25 phút, giữa hỏa lực phòng không ít ỏi và không có tiêm kích bảo vệ, ba quả bom trúng Soryu, khiến con tàu bốc cháy dữ dội. Không một chiếc Dauntless nào bị bắn hạ.

Khung cảnh nhìn từ một phi công hải quân Mỹ bị bắn rơi, cho thấy sự tàn phá khủng khiếp của lực lượng tàu sân bay Nhật Bản vào khoảng 10 giờ 35 phút sáng ngày 4 tháng 6 năm 1942. Đây là thời điểm ngay sau khi các máy bay ném bom bổ nhào của Mỹ đã thiêu rụi ba tàu sân bay Nhật, và giữa lúc đợt tấn công bằng ngư lôi đang diễn ra nhằm vào chiếc thứ tư là Hiryū. Vào sáng ngày 4 tháng 6 năm 1942, trong khi không đoàn của Hornet và Enterprise đã tan rã hoàn toàn, không đoàn của Yorktown vẫn giữ được sự phối hợp lỏng lẻo nhưng hiệu quả nhất trong ngày định mệnh ấy. Từ 10 giờ đến 10 giờ 30 phút, 12 chiếc Devastator của VT-3 do Trung tá Lance Massey chỉ huy, được 6 chiếc Wildcat của Jimmy Thach hộ tống trực tiếp và phi đội SBD của Leslie yểm trợ trên cao, đã lao vào Kido Butai từ phía tây nam. Người Nhật chỉ nhìn thấy máy bay ném ngư lôi, và hoàn toàn bỏ sót các máy bay ném bom bổ nhào ở phía trên. Phần lớn các Zero vẫn đang ở độ cao thấp sau khi tiêu diệt VT-8 và VT-6. Massey nhắm vào Soryu trước, sau chuyển hướng sang Hiryū. Ngay lập tức có 15–20 chiếc Zero đổ xuống tấn công. Lần đầu tiên trong trận chiến, Thach áp dụng chiến thuật “Thach Weave” nổi tiếng: 6 chiếc Wildcat dù bị áp đảo số lượng vẫn cầm cự được gần 25 phút, bắn rơi 6 chiếc Zero (riêng Thach hạ được 3 chiếc) và chỉ mất 1 máy bay, giúp VT-3 chỉ mất 1 chiếc Devastator trước khi vào vị trí phóng ngư lôi. Đến 10 giờ 20 phút, các Zero mới từ Hiryū và Soryu tách được những chiếc Wildcat ra ngoài. Massey bị bắn rơi đầu tiên. Chỉ còn 5 chiếc Devastator tiếp cận được Hiryū ở cự ly 600–800 yard, nhưng góc tấn công lại quá xấu; cả 5 quả ngư lôi đều bắn trượt hoặc hỏng. Trong vài phút tiếp theo, 10 trong số 12 chiếc Devastator bị tiêu diệt tại chỗ hoặc trên đường rút lui, 2 chiếc cuối cùng phải hạ cánh khẩn xuống biển. (Tranh của Howard Gerrard)
Các máy bay Devastator của Massey là những chiếc cuối cùng tham gia tấn công. Quyết định của ông bay về phía bắc để tấn công Hiryu đã vô tình tạo điều kiện cho các tiêm kích Zero có thêm cơ hội tấn công dữ dội vào các máy bay ném ngư lôi khi chúng đang cơ động chuẩn bị cho chiến thuật “cái đe”. Đợt tấn công của các Devastator diễn ra trong khoảng từ 10 giờ 35 đến 10 giờ 40 phút. Trong số 12 chiếc Devastator, 10 chiếc bị bắn hạ, nhưng năm chiếc còn lại vẫn kịp phóng ngư lôi ở khoảng cách 600–800 yard về phía mạn phải của Hiryu. Không quả ngư lôi nào trúng mục tiêu.
Trong vài phút ngắn ngủi, các máy bay Dauntless đã thả 8 quả bom trúng ba tàu sân bay Nhật Bản. Trận chiến được định đoạt tại đây, bởi cả ba con tàu đều bị loại khỏi vòng chiến và sau đó sẽ chìm xuống biển. Cái giá phải trả của người Mỹ cũng vô cùng đắt đỏ – 35 trong tổng số 41 chiếc Devastator tham chiến đều bị mất. Chỉ có hai chiếc Dauntless bị bắn hạ tại khu vực mục tiêu, nhưng máy bay của Enterprise và Hornet đã gặp nhiều khó khăn khi tìm lại TF 16 vì các tàu sân bay đã không còn ở vị trí đã được thông báo trước đó. Nguyên nhân là do sự cẩu thả trong công tác chỉ huy của bộ tham mưu Spruance. Không đoàn của Hornet chịu tổn thất nặng nề dù chưa hề nhìn thấy quân Nhật. Toàn bộ 10 chiếc Wildcat bị mất do cạn nhiên liệu. Phần lớn phi đội VB-8 phải bay về Midway; ba chiếc rơi xuống biển trên đường đi, và ba chiếc khác bị hỏa lực phòng không của phe ta bắn nhầm trong lúc tiếp cận rạn san hô. Dù không gây được thiệt hại nào cho đối phương, nhưng không đoàn của Hornet đã mất 15 chiếc Devastator, 10 chiếc Wildcat, và chỉ có 20 trong tổng số 34 chiếc Dauntless quay lại được tàu sân bay. Không đoàn của Enterprise cũng chịu thiệt hại nặng nề, khi chỉ còn 4 trong số 14 chiếc Devastator và 15 trong tổng số 33 chiếc Dauntless trở về được. 15 chiếc Dauntless của Yorktown đều trở về an toàn, nhưng theo lệnh chỉ huy, chúng được chuyển hướng hạ cánh xuống Enterprise vì lý do sẽ được giải thích sau. Khi các nhóm tấn công đang quay về, Fletcher đã phát lệnh cho 10 trong 17 chiếc Dauntless còn lại của Yorktown bay đi trinh sát về phía tây bắc ở cự ly 200 hải lý, nhằm phát hiện bất kỳ tàu sân bay Nhật nào chưa bị lộ diện.
TÌNH HÌNH PHÍA NHẬT
Hệ thống phòng không của Kido Butai đã sụp đổ thảm khốc vào sáng ngày 4 tháng 6. Lực lượng CAP có nhiệm vụ bảo vệ các tàu sân bay không chỉ thất bại trong nhiệm vụ, mà còn mất 11 chiếc Zero, thêm ba chiếc khác bị hư hại và buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống biển. Không hề có cảnh báo nào về sự tiếp cận của các máy bay ném bom bổ nhào của Mỹ, những chiếc đã đánh trúng ba tàu sân bay Nhật đúng vào thời điểm chúng dễ tổn thương nhất. Không một chiếc nào trong ba tàu sân bay có sẵn máy bay tấn công được bố trí trên sàn bay khi bị tấn công, nhưng boong chứa bên trong lại đầy những máy bay đã được nạp nhiên liệu và vũ trang. Ngoài ra, một lượng lớn đạn dược cũng đang nằm trên các boong chứa do quá trình thay đổi vũ khí hỗn loạn. Tình trạng nguy hiểm này khiến lửa lan nhanh trên cả ba tàu sau khi các quả bom 1.000 pound phát nổ.
Thiệt hại do bom và các đám cháy sau đó đã khiến cả ba tàu đều phải chịu đòn chí tử. Trên Soryu, ba quả bom trúng lúc khoảng 10 giờ 25 phút đã gây ra những đám cháy khổng lồ, lan xuống boong chứa thứ hai và sau đó thiêu rụi toàn bộ con tàu. Đến 10 giờ 40 phút, con tàu hoàn toàn tê liệt. Không còn hy vọng dập tắt lửa, lệnh bỏ tàu được ban ra. Soryu chìm lúc 19 giờ 13 phút, mang theo 711 sĩ quan và thủy thủ, trong đó có thuyền trưởng, người từ chối rời tàu. Câu chuyện tương tự diễn ra trên Kaga, nơi ngọn lửa bùng phát trên boong chứa phía trên. Thuyền trưởng và sĩ quan kiểm soát thiệt hại bị giết khi một quả bom đánh trúng đảo chỉ huy, buộc quyền chỉ huy công tác cứu hỏa phải chuyển sang các sĩ quan không quân cấp cao — những người thiếu kinh nghiệm kiểm soát hỏa hoạn. Ngọn lửa vượt khỏi tầm kiểm soát, và tàu mất điện không lâu sau đó. Giữa lúc cuộc chiến với lửa đang diễn ra, tàu ngầm Nautilus — vốn suốt buổi sáng liên tục đụng độ với các tàu hộ tống của Kido Butai — đã chọn Kaga làm mục tiêu và phóng loạt ngư lôi vào con tàu đang bốc cháy. Một quả trúng nhưng không phát nổ. Khi mọi nỗ lực dập lửa đều vô ích, thủy thủ đoàn được lệnh rời tàu. Lúc 19 giờ 25 phút, Kaga bị tàu khu trục đồng đội đánh chìm bằng ngư lôi. Tổn thất nhân mạng rất nặng, với 811 sĩ quan và thủy thủ thiệt mạng. Chỉ một quả bom trúng Akagi, nhưng nó châm ngòi cho các máy bay đang nạp nhiên liệu và vũ trang trên boong chứa. Ngọn lửa lan nhanh, và đến 10 giờ 42 phút, hệ thống lái của tàu bị hỏng, có lẽ do một cú suýt trúng gần đuôi tàu. Khi tàu mất điện lúc 13 giờ 50 phút, thủy thủ đoàn gần như bất lực trước biển lửa. Khoảng 17 giờ, toàn bộ thủy thủ được sơ tán, ngoại trừ 263 người đã thiệt mạng. Đô đốc Yamamoto sau đó đích thân ra lệnh đánh chìm con tàu vào sáng hôm sau.
Trong khi đó, Chuẩn đô đốc Yamaguchi đã chuẩn bị một đòn phản công tức thì nhằm vào các tàu sân bay Mỹ từ tàu sân bay duy nhất còn lại – Hiryu. Lúc này Hiryu chỉ còn 36 máy bay có thể hoạt động: 10 chiếc Zero, 18 máy bay ném bom bổ nhào, và 8 máy bay ném ngư lôi Type 97. Yamaguchi quyết định phái phi đội ném bom bổ nhào còn nguyên vẹn xuất kích trước, rồi theo sau bằng một đợt tấn công ngư lôi. Sáu chiếc Zero được phân cho mỗi đợt để hộ tống. Đợt tấn công đầu tiên do Trung úy Kobayashi Michio chỉ huy. Sau một buổi hiệu lệnh ngắn của thuyền trưởng Hiryu và lời tiễn biệt cá nhân từ Yamaguchi, 24 máy bay được phóng lên lúc 10 giờ 50 phút, hướng thẳng về phía các tàu sân bay Mỹ, khi ấy cách chưa đến 100 hải lý.
Người Nhật đang đối mặt với tình thế vô cùng bất lợi, khi Hiryu phải đơn độc chống lại ba tàu sân bay Mỹ còn nguyên vẹn — dù họ chưa biết điều này. Hai thủy phi cơ E13A đang do thám quanh lực TF 16, và sau 11 giờ, máy bay trinh sát D4Y1 đã xác nhận rằng có tới ba tàu sân bay Mỹ hiện diện. Tuy nhiên, thông tin cực kỳ quan trọng này không đến được tay Yamaguchi cho đến khi D4Y1 quay về lúc khoảng 13 giờ, do sự cố radio. Bằng chứng được củng cố khi chỉ huy Hải đội Khu trục số 4 báo cáo kết quả thẩm vấn một phi công Mỹ bị bắt — phi công của một chiếc Devastator từ Yorktown. Anh ta xác nhận danh tính ba tàu sân bay Mỹ và nói rằng Yorktown hoạt động tách biệt. Phi công Mỹ này sau đó bị thủy thủ tàu khu trục Arashi sát hại.
CÁC CUỘC TẤN CÔNG CỦA HIRYU
Kobayashi không gặp khó khăn trong việc phát hiện ra các tàu sân bay Mỹ. Trên đường tới mục tiêu, lực lượng hộ tống Zero của ông phát hiện một nhóm sáu chiếc Dauntless của Enterprise và bốc đồng rời đội hình để tấn công. Trong trận không chiến ngắn sau đó, một chiếc Zero bị hư hại, và một chiếc khác bắn hết toàn bộ cơ số đạn, buộc cả hai phải quay về tàu. Bốn chiếc còn lại cố gắng đuổi kịp đội hình của Kobayashi, khiến các máy bay ném bom bổ nhào Nhật trở nên dễ bị tổn thương trước lực lượng CAP của Mỹ.
Lúc 11 giờ 51 phút, radar của Yorktown phát hiện một nhóm máy bay ở cự ly 32 hải lý về phía tây nam. Sự xuất hiện của nhóm tấn công Kobayashi đến đúng vào thời điểm bất lợi cho lực lượng CAP của Yorktown: 12 chiếc Wildcat vừa cất cánh lúc 11 giờ 50 phút và chưa kịp đạt đến độ cao lý tưởng. Kobayashi nhìn thấy TF 17 lúc 11 giờ 55 phút, cách khoảng 25 hải lý, và ra lệnh cho phi đội ném bom bổ nhào của mình leo lên 10.000 feet để đạt độ cao tấn công thích hợp. Lực lượng hộ tống Zero vẫn còn tụt lại xa phía sau.
Khi những chiếc Wildcat đạt độ cao 10.000 feet, 18 máy bay Type 99 của Nhật đang bay theo hai nhóm 9 chiếc, trong đó một nhóm bay cao hơn nhóm kia một chút. Năm chiếc Wildcat lập tức thực hiện một đợt tấn công cắt ngang vào một nhóm, rồi tiếp tục tấn công chính diện vào nhóm còn lại. Đội hình Nhật bị tan vỡ; 7 chiếc Type 99 bị bắn rơi, 3 chiếc chỉ bởi một phi công Wildcat duy nhất, và hai hoặc ba chiếc khác buộc phải thả bom để cơ động tránh đạn. Trong số này có cả Kobayashi, người bị buộc phải bỏ bom và chuyển sang vai trò quan sát viên. Mười chiếc ném bom bổ nhào sống sót qua lần đánh chặn đầu tiên, nhưng hai chiếc đã không còn bom. Những chiếc còn lại chia làm hai nhóm: một nhóm 3 chiếc lao thẳng vào Yorktown, trong khi nhóm 5 chiếc vòng xuống tây nam để tấn công từ hướng mặt trời. Nhóm 5 chiếc này gặp thêm hai đợt đánh chặn nữa của Wildcat, mất thêm một máy bay, nhưng vẫn tiếp tục tiến vào mục tiêu. Lúc 12 giờ 09 phút, Yorktown phát hiện máy bay Nhật tiếp cận từ góc phải phía sau tàu. TF 17, gồm hai tàu tuần dương và năm tàu khu trục, được bố trí thành vòng tròn cách tàu sân bay 1.500–2.000 yard, lập tức đổi hướng về hướng đông nam để tránh hỏa lực địch.

Yorktown bắt đầu phóng máy bay lúc 11 giờ 39 phút. Lực lượng được phóng lên bao gồm 10 máy bay trinh sát VS-5 và 12 máy bay Wildcat để tăng cường lực lượng CAP. Sáu máy bay Wildcat đang làm nhiệm vụ CAP được cho hạ cánh. Ngay sau đó, khi Yorktown bắt đầu thu hồi lực lượng tấn công lúc 11 giờ 52 phút, radar của tàu phát hiện một mục tiêu mạnh về phía tây nam cách 32 hải lý. Nó nhanh chóng được đánh giá là một nhóm máy bay địch với số lượng từ 30 đến 40 chiếc. Khi tin tức về mối đe dọa mới đến, tình hình CAP của Yorktown không tốt. 12 chiếc Wildcat vừa được phóng lên được gửi về phía tây, leo cao nhanh nhất có thể. TF 16 cách TF 17 khoảng 30 hải lý về phía đông nam. Dow hiện có 19 máy bay Wildcat trên không và không thể phóng thêm bất kỳ chiếc nào từ boong tàu vì cả Enterprise và Hornet đều đang thu hồi máy bay. Không có mối đe dọa nào với TF 16, Dow đã làm những gì có thể để giúp TF 17. Ông ra lệnh cho 8 máy bay Wildcat từ Hornet ở cách 30 hải lý về phía tây bắc đánh chặn đợt tấn công sắp tới của Nhật, nhưng chỉ có 4 chiếc phản hồi. Đồng thời, ông di chuyển 7 máy bay Wildcat của VF-6 vào giữa TF 16 để đối phó với đợt tấn công sắp đến. Bốn phi công trong số này đã đi xa hơn và lao đến bảo vệ TF 17. Kobayashi không gặp khó khăn gì khi dẫn nhóm của mình đến mục tiêu nhờ sự hỗ trợ của một tin nhắn lúc 11 giờ 32 phút từ máy bay trình sát số 5 của Chikuma. Việc tìm mục tiêu tỏ ra dễ dàng, nhưng vấn đề đã bắt đầu vào khoảng 11 giờ 30 phút khi lực lượng hộ tống Zero phát hiện 4 máy bay Mỹ bên dưới. Trung úy Shigematsu Yasuhiro, chỉ huy lực lượng tiêm kích hộ tống, đã xin phép Kobayashi được tấn công chúng và được chấp thuận. Với điều này, Shigematsu lao xuống để kiếm vài chiến công dễ dàng để chống lại thứ mà ông nghĩ là những máy bay ném ngư lôi chậm chạp. Những gì diễn ra sau đó không khác gì một thảm họa cho toàn bộ đợt tấn công từ Hiryu. Kobayashi tiếp tục hành trình mà không có máy bay tiêm kích hộ tống. Việc thiếu vắng các máy bay Zero trong phần đầu của cuộc giao tranh sắp tới với CAP của Yorktown đồng nghĩa với việc đội hình của Kobayashi sẽ bị xé nát. Việc cho phép Shigematsu theo bản năng võ sĩ đạo của mình để tấn công một đội hình không gây ra mối đe dọa nào cho Hiryu là một quyết định thảm khốc và có thể dễ dàng tránh được. Khi những chiếc Wildcat đầu tiên vượt qua độ cao 10.000 feet, họ có thể nhìn rõ phi đội của Kobayashi được sắp xếp thành hai nhóm, mỗi nhóm 9 chiếc, mỗi nhóm theo đội hình chữ "V", với một nhóm cao hơn nhóm kia một chút. Ngay sau tin tức gửi về cho Hiryū về việc chuẩn bị tấn công lúc 12 giờ của Kobayashi, 5 chiếc Wildcat đã xông vào đội hình của người Nhật. Một cuộc tấn công chớp nhoáng từ bên dưới vào một nhóm, tiếp theo là một cuộc tấn công chính diện vào nhóm thứ hai, đã làm tan nát cả hai đội hình. Mặc dù các máy bay Wildcat buộc phải tấn công theo nhóm nhỏ hoặc trong một số trường hợp đơn lẻ, cuộc tấn công mở màn của họ vào đội hình gọn gàng của Kobayashi thật tàn khốc. Các máy bay Val buộc phải phá vỡ đội hình để tránh va chạm với những chiếc Wildcat hung hãn. Với đội hình tan rã, những chiếc Val dễ dàng bị bắn hạ. Một chiếc Wildcat, do Trung úy Hải quân Arthur Brassfield điều khiển, đã bắn rơi 3 máy bay ném bom bổ nhào. Tổng cộng, 7 máy bay ném bom bổ nhào bị tiêu diệt và thêm 2 chiếc buộc phải vứt bỏ bom của chúng. (Tranh của Stefan Draminski)

Trong giai đoạn thứ hai của cuộc giao tranh, các máy bay Zero của Shigematsu xuất hiện muộn màng. Đến lúc này, cuộc giao tranh đã biến thành một cuộc hỗn chiến không có sự kiểm soát tập trung ở cả hai bên. Sự xuất hiện của các máy bay Zero hộ tống của Shigematsu đã lôi kéo một số máy bay Wildcat vào một trận không chiến hỗn loạn. Trong cuộc giao tranh này, 3 chiếc Zero bị bắn rơi, với Shigematsu là người sống sót duy nhất. Đổi lại, phía Mỹ chỉ có một chiếc Wildcat bị mất. Chỉ còn lại 8 chiếc máy bay ném bom bổ nhào, không tính chiếc của Kobayashi, và 2 chiếc Val không có bom. Một nhóm ba chiếc hướng thẳng về phía đông đến Yorktown, và một nhóm năm chiếc bay vòng về phía tây nam để tiếp cận tàu sân bay từ phía mặt trời. Nhóm lớn hơn lại bị các máy bay Wildcat từ Hornet tấn công trong vòng 5 dặm từ Yorktown, nhưng chỉ có một máy bay ném bom bổ nhào bị bắn rơi. Một nỗ lực đánh chặn bởi các máy bay Wildcat từ Enterprise đã không thành công khi súng của phi công dẫn đầu bị trục trặc. Ông rút lui để xử lý vấn đề trong khi hướng dẫn ba máy bay khác tiếp cận. Họ không nhận được tin nhắn của ông và cũng rút lui. (Tranh của Stefan Draminski)

Chụp từ một tàu hộ tống, bức ảnh nổi bật này cho thấy Yorktown đang bị tấn công bằng bom bổ nhào. Một máy bay ném bom bổ nhào Type 99 của Hiryu – mất phần đuôi – sắp rơi xuống biển phía trước Yorktown. Một chiếc khác hiện ra phía trên Yorktown sau khi hoàn thành cú bổ nhào, nhưng quả bom của nó đã trượt về phía sau. (NHHC)
Trong số 7 chiếc Type 99 bổ nhào vào Yorktown, ba chiếc đánh trúng trực tiếp và hai chiếc khác gây hư hại nặng với các cú suýt trúng — một thành tích ấn tượng, khẳng định đẳng cấp tinh nhuệ của phi đội ném bom bổ nhào Hiryu. Hầu hết các máy bay tấn công đều duy trì độ bổ nhào dưới 1.000 feet để đảm bảo độ chính xác cao nhất. Cuộc tấn công bắt đầu lúc 12 giờ 11 phút. Chiếc ném bom đầu tiên bị bắn hạ bởi pháo 1,1 inch bốn nòng phía sau Yorktown, nhưng quả bom nặng 533 pound của nó đã rơi trúng khu vực gần thang nâng giữa tàu, xuyên xuống boong chứa máy bay và gây cháy. Chiếc máy bay ném bom thứ hai cũng bị pháo phòng không bắn hạ, quả bom của nó suýt trúng đuôi tàu và gây cháy phần boong sau. Chiếc thứ năm gây thiệt hại nặng nhất lúc 12 giờ 14 phút — quả bom xuyên giáp nặng 550 pound của nó rơi ngay bên trong đảo chỉ huy, phát nổ trong hệ thống thông khí của ống khói, làm tắt một số nồi hơi, khiến tàu giảm tốc xuống còn 6 hải lý/giờ. Chiếc tiếp theo thực hiện một đợt tấn công kiểu bổ nhào nông từ mũi tàu, quả bom của nó đánh trúng thang nâng trước và phát nổ sâu trong thân tàu. Chiếc Type 99 cuối cùng thả bom suýt trúng bên mạn phải. Khi những chiếc ném bom còn sống sót quay về Hiryu, Yorktown bị chết máy giữa biển, bốc khói đen dày đặc từ lỗ thủng giữa tàu. Lúc 12 giờ 45 phút, một trong những máy bay ném bom của Hiryu khi quay về đã báo cáo rằng họ đã để lại phía sau một tàu sân bay Mỹ đang bốc cháy. Cái giá để gây thiệt hại cho Yorktown là rất đắt: 13 trong số 18 máy bay ném bom bổ nhào của Hiryu bị tiêu diệt, cùng với 3 chiếc Zero hộ tống.

Mặc dù lực lượng CAP của Mỹ không được triển khai tốt lúc bắt đầu cuộc giao tranh, nhưng họ đã làm tốt việc làm giảm đội hình 18 máy bay ném bom bổ nhào của Kobayashi xuống chỉ còn 7 chiếc, buộc họ phải thực hiện một cuộc tấn công rời rạc. Lúc 12 giờ 09 phút, các quan sát viên trên Yorktown phát hiện người Nhật đang tiếp cận từ phía sau và góc phải mạn phải của con tàu. Một phút sau đó, những máy bay ném bom bổ nhào còn sống sót bắt đầu tấn công. Ba máy bay ném bom bổ nhào đầu tiên tiếp cận từ phía sau và tấn công liên tiếp nhanh chóng vào lúc 12 giờ 11 phút. Chiếc đầu tiên, do phi công không rõ danh tính điều khiển, đã giữ cú bổ nhào xuống dưới 1.000 feet để đảm bảo trúng đích. Mặc dù phải đối mặt hỏa lực phòng không dày đặc, phi công vẫn có thể thả quả bom của mình, quả bom lộn nhào về phía Yorktown. Quả bom nổ mạnh trúng gần thang nâng giữa tàu, xuyên xuống boong chứa máy bay và gây ra hỏa hoạn. Chiếc Val bị trúng đạn từ một trong những bệ pháo bốn nòng 1,1 inch của tàu sân bay nằm phía sau đảo chỉ huy ngay khi nó thả bom, vỡ tan thành ba mảnh, và sau đó đâm xuống vệt nước sau đuôi của Yorktown. Vụ nổ của quả bom nổ mạnh gây thương vong nặng nề cho các tổ pháo thủ của hai bệ pháo bốn nòng 1,1 inch phía đuôi, các pháo 20mm gần đó, và nhân sự gần cuối đảo và trên boong chứa máy bay phía dưới. Hành động của 7 máy bay ném bom bổ nhào sống sót qua các máy bay Wildcat và thực sự thực hiện một cuộc tấn công đã khẳng định danh tiếng của Đơn vị Máy bay Ném bom Tàu sân bay Hiryu như một phi đội ưu tú. Hai máy bay nữa ghi thêm phát trúng trực tiếp, và thêm hai chiếc nữa gây ra những phát suýt trúng gây hư hại. Khi chiếc máy bay ném bom bổ nhào Nhật cuối cùng rời khỏi chiến trường, Yorktown đã chết máy giữa biển với làn khói đen dày đặc bốc lên từ giữa tàu. Mặc dù có vẻ như người Nhật đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho một tàu sân bay Mỹ, nhưng phi đội máy bay ném bom bổ nhào của Hiryu đã tan nát. Trong số 18 máy bay được cử đi ngay trước 11 giờ, chỉ có 5 chiếc trở về ngay sau 13 giờ. Trong số 13 chiếc Val bị phá hủy, các máy bay Wildcat chịu trách nhiệm cho 11 chiếc và hỏa lực phòng không cho 2 chiếc cuối cùng. Chỉ có một trong số 4 chiếc Zero đi cùng đợt tấn công sống sót. Sau khi hạ cánh, chiếc Zero và một trong những máy bay ném bom bổ nhào đã bị loại bỏ do hư hại nghiêm trọng.(Ảnh từ Task Force Admiral)

Việc tấn công từ nhiều hướng khác nhau khiến cho dàn pháo 5 inch của Yorktown khó khăn trong việc khóa bám mục tiêu. Việc phòng thủ con tàu phụ thuộc vào các bệ pháo bốn nòng 1,1 inch tầm ngắn, pháo 20mm và súng máy 0,50 inch mà Buckmaster đã giữ lại cho chính tình huống này. (Tranh của John Hamilton)

Sau khi bị trúng bom, Yorktown giờ đã mất điện hoàn toàn dẫn đến việc không có thông tin liên lạc và radar của con tàu không thể hoạt động. Khói dày đặc làm cho đảo chỉ huy không thể ở được. Lúc 13 giờ 23 phút, Fletcher buộc chuyển cờ hiệu của mình lên tàu tuần dương Astoria. Trên Yorktown, các đội kiểm soát thiệt hại đã nhanh chóng bắt tay vào công việc. Quả bom đầu tiên trúng gần thang nâng giữa tàu tạo ra một lỗ hổng 10 feet vuông trên sàn bay, được sửa chữa trong khoảng 25 phút. Các mảnh từ quả bom xuyên vào boong chứa máy bay và đốt cháy ba máy bay – hai chiếc Dauntless bị hư hại từ Enterprise và một trong những máy bay ném bom bổ nhào được nạp đầy nhiên liệu và vũ khí của Yorktown. Hành động nhanh chóng của sĩ quan tại boong chứa máy bay để kích hoạt hệ thống phun nước và màn nước đã dập tắt ngọn lửa. Nếu nó thiêu rụi hoàn toàn chiếc Dauntless được nạp bom 1.000 pound hoặc lan sang 6 chiếc Dauntless sẵn sàng chiến đấu khác trong boong chứa máy bay, thì rất có thể thảm họa đã xảy ra giống với các tàu sân bay Nhật hồi sáng cùng ngày. Trong vòng 70 phút sau vụ nổ trong các ống khói, ba nồi hơi đã hoạt động trở lại, cho phép Yorktown hoạt động trở lại với vận tốc 19 hải lý/giờ. Đến 13 giờ 50 phút, các đám cháy đã được kiểm soát đủ để cho phép tiếp nhiên liệu cho các máy bay Wildcat trên sàn bay. Việc chuẩn bị kiểm soát thiệt hại trước cuộc tấn công và phản ứng nhanh chóng, hiệu quả của nhân viên kiểm soát thiệt hại sau cuộc tấn công đã tạo ra sự tương phản rõ rệt với những nỗ lực kiểm soát thiệt hại trên ba tàu sân bay Nhật của Nagumo bị trúng bom trước đó trong ngày.
Yamaguchi chỉ còn một quân bài cuối cùng – phi đội máy bay ném ngư lôi của Hiryu. Lúc này, ông đã biết rằng mình đang phải đối đầu với ba tàu sân bay Mỹ. Phi đội ném bom bổ nhào của ông vừa vô hiệu hóa được một chiếc, nhưng vẫn còn hai tàu sân bay Mỹ đang hoạt động, trong khi số máy bay tấn công còn lại của ông rất ít ỏi. Phi đội ném ngư lôi của Hiryu đang ở trong tình trạng tồi tệ. Ban đầu, phi đội có 18 chiếc, nhưng sau cuộc tấn công Midway, chỉ còn tám máy bay có thể hoạt động bình thường. Lúc 11 giờ 30 phút, một chiếc Type 97 của Akagi được phân công làm nhiệm vụ trinh sát buổi sáng đã hạ cánh xuống Hiryu. Đợt tấn công thứ hai của Yamaguchi do Tomonaga chỉ huy. Tổng cộng chỉ tập hợp được 16 máy bay – 9 chiếc Type 97 của Hiryu, một chiếc Type 97 của Akagi, và 6 chiếc Zero hộ tống (bốn chiếc từ Hiryu và hai chiếc từ Kaga). Chiếc máy bay của Tomonaga là một trong số đó, bị hư hại ở cánh trái trong cuộc tấn công Midway. Các lỗ thủng đã được vá lại, nhưng không đủ thời gian để sửa chữa bình chứa nhiên liệu bị rò rỉ. Nhiều phi công khác đề nghị đổi máy bay cho ông, nhưng Tomonaga từ chối, gần như chắc chắn ông sẽ không thể quay lại được.
Tàn dư của đợt tấn công đầu tiên từ Hiryu trở về lúc 13 giờ 15 phút. Một trong những máy bay ném bom sống sót được đánh giá là hư hại nặng, không thể sửa chữa. Phi đội của Tomonaga được triển khai lên sàn bay, theo lệnh của Yamaguchi, với mục tiêu là tấn công một trong hai tàu sân bay Mỹ còn nguyên vẹn. Lúc 13 giờ 31 phút, 16 máy bay cất cánh, hướng về phía đông, nơi TF 17 đang ở cách đó 83 hải lý. Một giờ sau, Tomonaga phát hiện một lực lượng tàu sân bay Mỹ ở khoảng cách 35 hải lý, gồm một tàu sân bay dường như còn nguyên vẹn, năm tàu tuần dương, và mười hai tàu khu trục. Chiếc tàu sân bay đó chính là Yorktown, nơi thủy thủ đoàn đã dập tắt các đám cháy và khôi phục áp suất hơi nước, giúp tàu tăng tốc trở lại 25 hải lý/giờ. Tomonaga lập tức ra lệnh tấn công.
Dấu hiệu đầu tiên cho thấy cuộc tấn công tiếp theo của Nhật Bản sắp diễn ra là khi tàu tuần dương Pensacola phát hiện tín hiệu radar của lực lượng tấn công do Tomonaga chỉ huy ở cách 45 hải lý về phía tây bắc, vào lúc 14 giờ 27 phút. Hai phút sau, lúc 14 giờ 29 phút, bốn trong số sáu chiếc Wildcat đang bay tuần tra được lệnh đánh chặn lực lượng Nhật đang tiến đến; hai chiếc còn lại cũng được điều động theo hướng tây bắc chỉ hai phút sau đó. Sĩ quan chỉ huy điều phối tiêm kích (FDO) của Yorktown yêu cầu tăng viện từ TF 16; 8 trong số 15 tiêm kích đang bay được phái đến hỗ trợ Yorktown.
Tomonaga ra lệnh cho phi đội ném ngư lôi nặng nề của mình hạ nhẹ độ cao để tăng tốc độ. Ông chia lực lượng thành hai nhóm 5 chiếc, nhằm thực hiện chiến thuật “ cái đe" – tấn công từ hai hướng hội tụ.
Trái ngược với cuộc tấn công trước đó của phi đội ném bom bổ nhào, tuần tiễu tiêm kích Mỹ lần này hoạt động kém hiệu quả, trong khi các tiêm kích hộ tống Zero của Nhật thực hiện rất tốt nhiệm vụ bảo vệ. Bốn chiếc Wildcat đầu tiên được phái đi đã không phát hiện được các máy bay ném ngư lôi đang bay thấp trong mây. Hai chiếc Wildcat còn lại phát hiện được nhóm Type 97 đang tiếp cận và bất ngờ tấn công, bắn hạ một chiếc trước khi các tiêm kích Zero hộ tống can thiệp, bắn rơi cả hai máy bay Mỹ. Đến 14 giờ 40 phút, mười chiếc Wildcat đang đỗ trên sàn bay của Yorktown được vội vã phóng lên không trung để tăng cường phòng thủ.

Đợt tấn công thứ hai của Hiryu trong ngày 4 tháng 6 nhằm vào lực lượng tàu sân bay Mỹ được thực hiện bởi Đơn vị Tấn công Tàu sân bay dưới quyền chỉ huy của Trung úy Tomonaga. Khi lực lượng này phát hiện các tàu Mỹ vào lúc 14 giờ 30 phút, họ không nhận ra rằng mình đang quan sát chính con tàu Yorktown — chiếc tàu đã bị hư hại trước đó. Các đội kiểm soát thiệt hại trên Yorktown đã dập tắt được các đám cháy và khôi phục tốc độ lên 19 hải lý/giờ sau những tổn thất do các máy bay ném bom từ Hiryu gây ra trước đó. Tomonaga quyết định tấn công ngay lập tức vào con tàu dường như chưa hề bị hư hại. Ông chia 10 máy bay tấn công của mình thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất, do chính Tomonaga chỉ huy, sẽ tấn công từ phía sau mạn trái của tàu sân bay Mỹ. Nhóm còn lại vòng lên phía bắc để tấn công từ phía trước mạn phải của con tàu. Nhóm của Tomonaga bắt đầu một cú bổ nhẹ để tăng tốc độ. Khi còn cách tàu Mỹ hơn 10 dặm, phi công hộ tống của Tomonaga bị bắn hạ bởi các tiêm kích Wildcat. Bốn chiếc còn lại tiếp tục tiến gần mục tiêu và nhận thấy rằng tàu sân bay Mỹ đã đổi hướng sang đông nam, đưa đuôi tàu hướng về phía các máy bay Nhật. Tomonaga không hề biết rằng con tàu cũng đang quay đầu vào gió để phóng 10 tiêm kích Wildcat đang chờ trên sàn bay. Đáp lại, Tomonaga chia nhỏ đội hình của mình để tạo góc tấn công thuận lợi hơn. Hai máy bay được lệnh vòng sang trái để tấn công từ mạn trái của tàu, trong khi Tomonaga và một chiếc khác tiếp tục tiếp cận từ phía sau mạn phải. Chiếc tiêm kích đầu tiên cất cánh từ sàn bay của Yorktown do Thiếu tá Thach điều khiển. Ông lao ngay về phía máy bay của Tomonaga, nhanh chóng giao chiến và bắn cháy nó. Tuy nhiên, với kỹ năng lái tuyệt vời, Tomonaga vẫn giữ được chiếc máy bay đang bốc cháy ổn định cho đến khi thực hiện một cú thả ngư lôi hoàn hảo. Dù vậy, quả ngư lôi đã trượt mục tiêu, và Tomonaga đâm xuống biển phía sau Yorktown. Sự hy sinh của ông không hề vô ích. Cuộc tấn công của nhóm Tomonaga đã mở đường hoàn hảo cho nhóm tấn công thứ hai gồm 5 máy bay, nhóm này đã đánh trúng hai quả ngư lôi vào Yorktown — những cú đánh chí mạng cuối cùng dẫn đến sự mất mát của con tàu này. (Tranh của Howard Gerrard)

Trong ảnh chụp từ tàu tuần dương hạng nặng Pensacola, nhóm bốn chiếc Type 97 của Tomonaga lao về phía Yorktown. Chú ý hoả lực phòng không dày đặc khi các máy bay tiếp cận tàu sân bay. (NHHC)

Năm chiếc Kate thuộc nhóm thứ hai, dưới quyền của Trung úy Hashimoto Toshio, đã tấn công từ mũi trái của Yorktown sau khi xuyên qua đội hình trong một khoảng trống giữa tàu tuần dương Portland và tàu khu trục Balch. Buckmaster cho tàu của mình rẽ sang mạn phải để hướng đuôi tàu về phía những kẻ tấn công, nhưng với khả năng chỉ đạt 19 hải lý/giờ của Yorktown, khả năng cơ động của Buckmaster bị hạn chế. Một số ít máy bay Wildcat đã thực hiện một nỗ lực tuyệt vọng để chặn đứng năm máy bay ném ngư lôi cuối cùng đang lao về phía Yorktown ở độ cao 150 feet. Chiếc đầu tiên tấn công là chiếc máy bay tiêm kích thứ năm vừa được phóng từ Yorktown. Đòn tấn công của nó bị hai chiếc Zero hỗ trợ tầm gần chặn lại. Khi các máy bay tiêm kích đang khóa nhau trong chiến đấu, Hashimoto đưa nhóm của mình vào một dải mây và tiến gần hơn đến mục tiêu. Ba chiếc Wildcat nữa có cơ hội thực hiện các đợt bắn vào nhóm của Hashimoto, giờ đã ở bên trong màn hình bảo vệ và trên bờ vực phóng ngư lôi. Hỏa lực của họ không hiệu quả vì cả năm chiếc Kate vẫn tiếp tục. Hashimoto đã kiên trì tấn công đến trong khoảng 600 yard và nhắm vào giữa tàu sân bay. Ba chiếc Kate khác đã có thể lặp lại thành tích của Hashimoto. Chiếc Kate cuối cùng, vốn tị nạn từ Akagi, bị trục trặc hệ thống thả ngư lôi và không thể thả vũ khí. Khi bay về phía đông nam, Hashimoto ngoái lại nhìn xem ông hay đồng đội của mình có thành công hay không. Ông có thể thấy hai quả ngư lôi trúng tàu sân bay và đã gửi tin về Hiryu lúc 14 giờ 45 phút về thành công này. Cả hai quả ngư lôi đều trúng Yorktown ở mạn trái của con tàu. Hậu quả xảy ra ngay lập tức và tàn khốc. Quả đầu tiên làm tê liệt ba phòng nồi hơi và tạo ra độ nghiêng sáu độ. Khoảng 30 giây sau, quả ngư lôi thứ hai trúng ngay phía trước quả đầu tiên. Thiệt hại làm ngập phòng máy phát điện phía trước và cắt điện toàn bộ con tàu. Một đoản mạch cũng khiến máy phát điện khẩn cấp của con tàu không thể hoạt động. Yorktown giờ đây đã được định đoạt số phận. (Tranh của Stefan Draminski)

Ảnh này cho thấy nhóm Type 97 thứ hai tấn công Yorktown. Hai chiếc Type 97 hiện rõ, một ở trên và một phía sau Yorktown, cả hai đều đã thả ngư lôi Type 91. Trong năm máy bay của nhóm này, hai chiếc ghi được phát trúng. (NHHC)
Bốn chiếc Type 97, do Tomonaga dẫn đầu, xuyên qua vòng phòng thủ phía sau của tàu tuần dương Pensacola. Thuyền trưởng của Yorktown lập tức rẽ gắt sang mạn phải, tránh khỏi hướng tấn công của máy bay Tomonaga. Đáp lại, Tomonaga ra lệnh cho đội hình tách ra. Chiếc Wildcat đầu tiên cất cánh từ Yorktown, do Trung tá chỉ huy John Thach (người sáng tạo chiến thuật Thach Weave) điều khiển, lao về phía chiếc ném ngư lôi gần nhất, tấn công và bắn cháy nó. Đó chính là máy bay của Tomonaga; dù chiếc máy bay bốc cháy dữ dội, ông vẫn giữ nó ổn định và thả ngư lôi, nhưng quả ngư lôi trượt mục tiêu. Phi công bay yểm trợ của Tomonaga cũng bắn trượt, rồi bị tiêm kích của TF 16 từ phía nam bắn hạ khi rút lui. Hai chiếc còn lại trong nhóm của Tomonaga tấn công từ mạn trái của Yorktown. Một chiếc thả ngư lôi nhưng trượt, còn chiếc kia buộc phải vứt bỏ vũ khí để tránh hỏa lực phòng không. Cả hai đều bị bắn hạ.
Tuy nhiên, cuộc tấn công của bốn chiếc đầu tiên đã mở đường cho nhóm Type 97 thứ hai thực hiện đòn tấn công quyết định. Yorktown bắt đầu quay sang phải để đưa đuôi hứng đòn, nhưng không kịp xoay đủ nhanh. Một chiếc Wildcat vừa cất cánh lao đến chặn nhóm Type 97, nhưng bị hai chiếc Zero tấn công. Hai Wildcat khác can thiệp, bắn hạ cả hai tiêm kích Zero, song sự hỗn chiến này lại thu hút sự chú ý của các Zero từ Kaga, khiến 5 chiếc Type 97 có cơ hội tiếp cận mục tiêu mà không bị cản trở. Bốn chiếc ném ngư lôi thành công, trong khi chiếc Type 97 của Akagi gặp trục trặc ở hệ thống phóng và không thể thả vũ khí. Hai quả ngư lôi đánh trúng mạn trái của Yorktown với sức công phá khủng khiếp. Ba phòng nồi hơi và phòng máy phát điện phía trước bị ngập nước, khiến tàu nghiêng 23 độ. Toàn bộ nồi hơi bị vô hiệu hóa, và Yorktown hoàn toàn dừng lại. Trong khi đó, cả năm chiếc Type 97 của nhóm thứ hai cùng bốn chiếc Zero hộ tống đều sống sót trở về Hiryu lúc 15 giờ 45 phút.
CÁI CHẾT CỦA HIRYU

Cuộc tấn công của các máy bay Mỹ vào Hiryū trong ngày 4 tháng 6 năm 1942, từ 17 giờ 01 phút - 17 giờ 29 phút.
Quyết định của Fletcher vào buổi sáng hôm đó về việc phái mười chiếc Dauntless của Yorktown đi trinh sát đến nay đã phát huy tác dụng. Lúc 14 giờ 45 phút, một trong số các máy bay này đã phát hiện ra Hiryu sau khi phi công mở rộng phạm vi tìm kiếm. Phát hiện này cũng làm nổi bật sai lầm trong quyết định của Nagumo, khi ông chọn tiến gần về phía các tàu sân bay Mỹ thay vì tận dụng lợi thế tầm hoạt động của máy bay để rút xa, vừa duy trì khoảng cách an toàn, vừa vẫn nằm trong tầm tấn công. Báo cáo liên lạc xác định Hiryu nằm cách TF 16 khoảng 160 hải lý về phía tây bắc. Spruance ngay lập tức ra lệnh mở cuộc tấn công bằng 25 chiếc Dauntless trên tàu Enterprise (trong đó 14 chiếc thuộc Yorktown). Đợt tấn công này được phóng đi mà không có tiêm kích hộ tống, lúc 15 giờ 30 phút. Trong một biểu hiện đáng trách khác của sự cẩu thả trong công tác tham mưu, bộ tham mưu của Spruance đã không đưa Hornet vào kế hoạch tiền trạm và chỉ phát tín hiệu cho Hornet khi việc phóng máy bay đã bắt đầu. Ba mươi phút sau khi đợt tấn công của Enterprise rời đi, Hornet phóng thêm 16 chiếc ném bom bổ nhào lên không. 15 chiếc khác bị kẹt lại trên sàn bay, do Đô đốc Mitscher ra lệnh đổi hướng quá sớm, khiến tàu mất hướng gió cần thiết cho việc cất cánh và buộc phải chấm dứt quá trình phóng.
Khi các máy bay ném bom bổ nhào của Mỹ đang trên đường tấn công Hiryu, Yamaguchi đang suy tính cách vô hiệu hóa chiếc tàu sân bay Mỹ thứ ba. Khi các phi công Type 97 trở về được thẩm vấn, họ báo cáo rằng đã đánh trúng ba ngư lôi vào một tàu sân bay lớp Yorktown. Với việc hai tàu sân bay Mỹ đã bị hư hại hoặc đánh chìm, Hiryu giờ đây chỉ còn phải đối đầu với một tàu sân bay Mỹ còn hoạt động. Để tấn công mục tiêu này, Yamaguchi lên kế hoạch một đợt không kích thứ ba vào lúc 18 giờ. Vận mệnh của hải quân Nhật Bản giờ đây phụ thuộc vào số máy bay còn lại trên Hiryu — 4 máy bay ném bom bổ nhào, 5 chiếc Type 97, và 9 tiêm kích hộ tống. Yamaguchi hy vọng rằng lực lượng nhỏ bé này có thể tiếp cận được mục tiêu dưới màn che của hoàng hôn. Một giờ trước khi cuộc tấn công dự kiến bắt đầu, máy bay trinh sát D4Y1 sẽ được phóng đi để dẫn đường cho đội tấn công tới mục tiêu. Tuy nhiên, trước khi ông có thể triển khai đợt tấn công lúc hoàng hôn, Yamaguchi nhận được tin rằng cả Enterprise và Hornet vẫn còn hoạt động, khi một thủy phi cơ của Tone phát hiện ra chúng vào lúc 15 giờ 50 phút — hai tàu sân bay Mỹ chỉ còn cách Hiryu khoảng 120 hải lý về phía tây bắc.

Cả Nagumo và Yamaguchi đều vẫn cam kết với chiến lược của họ là để Hiryu giao chiến với lực lượng tàu sân bay đối phương để các tàu mặt nước của Kido Butai có thể áp sát cho một cuộc giao chiến ban đêm. Yamaguchi thông báo ý định này của mình cho Nagumo trong một bức điện lúc 15 giờ 31 phút. Kế hoạch này được đưa ra sau khi biết kết quả cuộc tấn công của Kobayashi, nhưng trước khi báo cáo về kết quả cuộc tấn công của Tomonaga được trình lên. Trong mọi trường hợp, Yamaguchi rõ ràng thiếu phương tiện để thực hiện chiến lược vô hiệu hóa các tàu sân bay Mỹ nhằm tạo điều kiện cho một cuộc giao chiến mặt nước. Đợt tấn công của Tomonaga quay về, bắt đầu từ 15 giờ 40 phút. Đợt tấn công thứ hai lúc bắt đầu có 16 máy bay xuất kích; khi trở về thì chỉ còn có 9 chiếc. Những người sống sót bao gồm 4 chiếc Zero và 5 chiếc Kate. Con số này thậm chí còn giảm hơn nữa khi người ta phát hiện ra 2 chiếc Kate và 3 chiếc Zero bị hư hại nặng đến mức không thể sửa chữa. Tổn thất nặng nề vẫn không ngăn được Yamaguchi thực hiện ý định phóng đợt tấn công thứ ba. Nếu có gì đó, thì việc nghe báo cáo từ các phi hành đoàn còn sống sót khiến Yamaguchi chắc chắn rằng những nỗ lực của không đoàn tàu Hiryu đã góp phần rất lớn vào việc san bằng thế trận. Lúc 16 giờ, ông báo cáo với Nagumo: "Hai quả ngư lôi chắc chắn trúng đích vào một tàu sân bay lớp Enterprise (không phải cùng một con tàu như đã báo cáo bị ném bom trước đó)." Yamaguchi tiếp nối điều này bằng một bức điện lúc 16 giờ 30 phút thông báo cho Nagumo: "Đợt tấn công thứ ba sẽ cất cánh lúc 18 giờ để giao chiến với địch lúc hoàng hôn. Đề nghị cho một thủy phi cơ trinh sát duy trì nhằm theo dõi với các tàu sân bay đối phương." Máy bay trinh sát Nhật đã làm tốt hơn nhiều sau khởi đầu tồi tệ thảm hại vào buổi sáng. Máy bay trình sát số 5 của Chikuma đã bị bắn hạ nhưng sau đó được thay thế bởi Máy bay trình sát số 4 của Tone, có lẽ vẫn do Amari chỉ huy. Lúc 12 giờ 50 phút, Amari truyền đi một báo cáo liên lạc cho thấy lực lượng Mỹ bao gồm hai tàu sân bay được hộ tống bởi hai tàu khu trục. Nếu điều này chính xác, nó đã vẽ nên một bức tranh rất khác so với việc các đợt tấn công của Hiryu đã loại khỏi vòng chiến hai trong số ba tàu sân bay Mỹ. Có lẽ để nhận thức được mối đe dọa cao đối với Hiryu, lúc 15 giờ 50 phút thì Nagumo ra lệnh lực lượng đổi hướng sang tây bắc với tốc độ cao - rời xa các tàu sân bay Mỹ. Ba mươi phút sau, Nagumo sửa lại hướng đi sang phía tây. Trong khi đó, Yamaguchi đang thực hiện các chuẩn bị cuối cùng cho đợt tấn công tiếp theo vào các tàu sân bay Mỹ. Ông muốn phóng một đợt tấn công sớm vào lúc 16 giờ 30 phút. Tuy nhiên, Yamaguchi và thuyền trưởng tàu Hiryu - Đại úy Kaku Tomeo, nhanh chóng nhận ra rằng các phi công đã hoàn toàn kiệt sức vì cường độ hoạt động trong ngày. Một số người thậm chí còn chưa kịp ăn trưa. Chấp nhận thực tế, Yamaguchi quyết định lùi mọi thứ lại 90 phút. Để đợt tấn công có thể cất cánh lúc 18 giờ, quá trình sắp xếp máy bay trên sàn bay sẽ phải bắt đầu sớm hơn khoảng 30 phút. Một đợt tấn công lúc hoàng hôn mang lại khả năng bắt người Mỹ bất ngờ với số lượng máy bay tiêm kích CAP giảm bớt. Trên Hiryu gần như không còn gì cho đợt tấn công thứ tư trong ngày. Đến lúc này sau hai đợt tấn công, Hiryū giờ chỉ còn lại 4 máy bay ném bom, 5 máy bay ngư lôi và 10 máy bay tiêm kích là có thể hoạt động để chuẩn bị cho đợt tấn công thứ ba nhằm tiêu diệt côn tàu sân bay còn lại của đối phương trong một cuộc giao chiến lúc hoàng hôn. Đợt tấn công nhỏ này được giao phó cho Trung úy Hashimoto, người sẽ thực hiện phi vụ tấn công thứ ba trong ngày của mình. Để xác nhận vị trí của các tàu sân bay Mỹ và dẫn đường cho Hashimoto đến đó, chiếc Judy dự kiến xuất kích khoảng một giờ trước khi phóng lực lượng chính. Tuy nhiên, trước khi điều này xảy ra thì cả các chỉ huy lẫn thủy thủ đoàn đều bất ngờ trước điều xảy ra trước mắt mình: những chiếc Dauntless từ các tàu sân bay Mỹ đang bổ nhào trước mũi tàu. (Tranh của Edouard A. Groult)

Hiryu là tàu sân bay cuối cùng của Lực lượng Kido Butai số 1 bị đánh bom trong ngày 4 tháng 6. Nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong của nó là một lực lượng hỗn hợp gồm các máy bay ném bom bổ nhào từ tàu Enterprise và Yorktown. Một lần nữa, trong ngày 4 tháng 6, các máy bay ném bom bổ nhào của Mỹ lại giành được yếu tố bất ngờ gần như tuyệt đối. Mãi đến 17 giờ 01 phút, người Nhật mới phát hiện ra máy bay Mỹ, chỉ vài phút trước khi chúng bắt đầu lao xuống tấn công Hiryu. Trước khi người Mỹ tiến vào khu vực gần tàu, Hiryu đã thực hiện một cú ngoặt gắt sang mạn trái. Sau khi phát hiện máy bay Mỹ, thuyền trưởng Kaku tiếp tục ngoặt gắt sang trái, nhằm đưa mũi tàu hướng thẳng vào hướng tấn công của đối phương. Pháo phòng không của Hiryu nhanh chóng nâng nòng lên để khai hỏa dữ dội vào mối đe dọa mới. Cùng lúc đó, lực lượng CAP gồm 13 tiêm kích Zero của Hiryu điên cuồng lao vào các máy bay ném bom Mỹ khi chúng bổ nhào xuống mục tiêu. Tất cả những biện pháp này đã khiến Hiryu trở thành mục tiêu khó đánh nhất mà các phi công Dauntless phải đối mặt trong ngày hôm đó. Những quả bom đầu tiên đều trượt mục tiêu, như thể hiện trong cảnh này. Tuy nhiên, kỹ năng của các phi công Mỹ cuối cùng đã mang lại thành công trước Hiryu. Bốn quả bom nặng 1.000 pound đã đánh trúng phần trước của sàn bay, tập trung quanh biểu tượng Mặt Trời đỏ lớn được vẽ trên phần trước của boong, mà các phi công Mỹ đã dùng làm điểm ngắm chính xác. Những cú đánh này đã tạo nên các đám cháy dữ dội trên tàu sân bay cuối cùng của Kido Butai số 1, và dẫn đến việc con tàu bị mất hoàn toàn vào sáng hôm sau. Với sự hủy diệt của Hiryu, trận chiến Midway coi như đã kết thúc. (Tranh của Howard Gerrard)

Cuộc bổ nhào ném bom xuống Hiryu vào buổi chiều ngày 4 tháng 6 trong một số khía cạnh là đợt tấn công thú vị nhất. Enterprise phóng toàn bộ 11 máy bay ném bom bổ nhào còn lại của mình, cùng với 14 chiếc thuộc Phi đội Ném bom 3 (VB-3) của Yorktown, tất cả đặt dưới quyền chỉ huy chung của Trung úy Gallaher. Các máy bay thuộc VS-6, VB-6 và VB-3 được trang bị hỗn hợp bom 500 pound và 1.000 pound, mặc dù có vẻ như sự pha trộn này thậm chí tồn tại ngay trong từng phi đội. Lý do thực sự vẫn chưa rõ, nhưng có thể là do sự xuất hiện của các “máy bay lạc đội” (orphans) từ Yorktown. Dù nguyên nhân là gì, không thể giả định rằng mọi phát trúng đích đều là bom 1.000 pound, và cũng không có tài liệu nào cho biết chính xác ai mang loại bom nào. Điểm thú vị thứ hai của đợt tấn công là Gallaher là người bổ nhào đầu tiên, dẫn VS-6 lao xuống mục tiêu. Ông phân công Shumway cùng VB-3 tấn công thiết giáp hạm đang ở gần đó. Best cùng VB-6 bay ở phía sau đội hình của Enterprise, nhưng chỉ còn ba máy bay, do chiếc thứ tư đã phải quay về vì trục trặc động cơ. Rất có khả năng ý định ban đầu của Gallaher là để Best theo ông trong cuộc tấn công vào Hiryu. Có ý kiến cho rằng Shumway, khi nhận thấy Gallaher và một số máy bay khác trong VS-6 đã đánh trượt Hiryu, đã chuyển mục tiêu từ thiết giáp hạm sang Hiryu. Tuy nhiên, khả năng rất lớn là Shumway chỉ dùng lý do đó như một cái cớ thuận tiện. Khả năng là ông không hề hài lòng khi phải để Enterprise tấn công tàu sân bay trong khi đơn vị của mình lại bị giao nhiệm vụ đánh thiết giáp hạm, nhất là sau những gì Hiryu đã gây ra cho Yorktown. Dù thế nào đi nữa, Shumway đã lao vào đợt tấn công, cắt ngang đội hình và chặn Best cùng hai máy bay hộ tống của ông, khiến họ không thể thực hiện cú bổ nhào. Đây là lần thứ hai trong ngày chuyện này xảy ra với Best. Hệ quả cuối cùng là Weber thiệt mạng, khi ông bị CAP Nhật bắn hạ trong lúc cố gắng tập hợp lại đội hình với Best. Cả Enterprise lẫn Yorktown đều nhận công cho phát trúng đích đầu tiên: Jaccard (VS-6) và Shumway (VB-3). Xét việc vụ nổ đã hất thang nâng máy bay lên va vào khu vực đài chỉ huy tàu của Hiryu, rất có khả năng đó là bom 1.000 pound, điều này nghiêng lợi thế về phía Shumway. Tuy nhiên, Jaccard thuộc VS-6 theo thông lệ sẽ mang bom 500 pound, nhưng không loại trừ khả năng ông cũng mang bom 1.000 pound. Shumway (VB-3) và Best (VB-6) rất có khả năng đều được trang bị bom 1.000 pound. Vì một lý do nào đó, Kleiss lại là một trong những người bổ nhào sau cùng và thực hiện phát trúng đích thứ tư. Lý do chính xác vì sao ông là một trong những người lao xuống muộn nhất có lẽ cũng bắt nguồn từ việc Shumway “nhảy” vào đợt tấn công Hiryu khi thấy phần lớn VS-6 đánh trượt, và Kleiss bị cắt khỏi đội hình theo cách tương tự như Best. (Tranh của Stefan Draminski)
Kế hoạch cuối cùng của Yamaguchi nhằm cứu vãn trận chiến cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản sắp sửa bị phá sản. Đội tấn công của Enterprise, lúc này chỉ còn 24 chiếc Dauntless sau khi một chiếc phải quay về, không gặp khó khăn nào trong việc tìm thấy mục tiêu. Chỉ huy của phi đội VS-6, Trung úy Wilmer Gallaher, phát hiện lực lượng Nhật Bản cách đó 30 hải lý. Ông đưa phi đội vòng xuống phía tây nam để thực hiện cuộc tấn công từ hướng mặt trời buổi chiều. Mãi đến 17 giờ 01 phút, người Nhật mới phát hiện ra các máy bay Mỹ đang ở phía trên. Thật đáng kinh ngạc — lần thứ tư trong ngày 4 tháng 6, các máy bay ném bom bổ nhào Mỹ lại giành được yếu tố bất ngờ tuyệt đối trước một tàu sân bay Nhật Bản. Tổng cộng có 13 chiếc Zero từ Akagi, Kaga và Soryu đang làm nhiệm vụ CAP, nhưng một lần nữa không được triển khai để đối phó với cuộc tấn công bổ nhào. Lúc này, Hiryu đang chuẩn bị phóng chiếc máy bay trinh sát D4Y1 để dẫn đường cho đợt tấn công trước khi khai hỏa. Các máy bay Dauntless bắt đầu cuộc tấn công lúc 17 giờ 05 phút, trong khi những chiếc Zero tuyệt vọng leo lên độ cao để đánh chặn — nhưng một khi các máy bay bổ nhào đã bắt đầu lao xuống, gần như không còn cơ hội nào để ngăn chặn chúng. Thuyền trưởng của Hiryu thực hiện một cú ngoặt gấp sang trái để đưa mũi tàu hướng về phía các máy bay tấn công. Động tác này khiến vài quả bom đầu tiên trượt mục tiêu, nhưng bốn quả bom 1.000 pound đã rơi trúng phần boong trước của Hiryu, tập trung quanh biểu tượng Mặt Trời Đỏ lớn mà các phi công Mỹ dùng làm điểm ngắm. Ba chiếc Dauntless bị bắn hạ, tất cả đều do các phi công của Zero. Bốn cú đánh trúng trực tiếp khiến Hiryu bốc cháy dữ dội. Một phần thang nâng phía trước bị hất văng vào khu vực đảo chỉ huy. Ngọn lửa nhanh chóng lan ra khoang chứa máy bay, nơi đợt tấn công dự kiến lúc 18 giờ đang được chuẩn bị. Lần thứ tư trong ngày hôm đó, các đội kiểm soát thiệt hại của Nhật Bản tỏ ra bất lực trước ngọn lửa đang thiêu rụi tàu sân bay của họ. Đến 21 giờ 23 phút, Hiryu hoàn toàn mất điện và đứng im giữa biển.

Bức tranh vẽ tàu sân bay IJN Hiryū bốc cháy không kiểm soát sau khi bị trúng 4 quả bom 1.000 pound thả từ máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless vào buổi chiều ngày 4 tháng 6. Con tàu bên phải là tàu khu trục lớp Yūgumo, nhiều khả năng là tàu Makigumo đang lại gần để tìm cách dập lửa và giải cứu thủy thủ đoàn của con tàu. (Tranh của Carter Kaplan).
Thủy thủ đoàn được lệnh rời tàu vào lúc 04 giờ 30 sáng hôm sau, nhưng thuyền trưởng của Hiryu cùng Yamaguchi đều chọn ở lại trên boong tàu. Vào 05 giờ 10 phút, một tàu khu trục Nhật Bản phóng một quả ngư lôi Type 93 để đánh đắm con tàu, rồi rời khỏi khu vực. Tuy nhiên, nỗ lực này đã thất bại, bởi một máy bay từ tàu sân bay Hosho đã phát hiện và chụp lại hình ảnh con tàu vẫn đang cháy dữ dội lúc 6 giờ 30 phút. Vì vẫn còn thấy những người sống sót trên boong, một tàu khu trục khác được cử đến để cứu họ. Trước khi tàu khu trục kịp đến nơi, Hiryu đã chìm xuống biển vào lúc 09 giờ sáng. Tổn thất nhân mạng của Hiryu lên tới 383 người. 35 người khác được lực lượng Mỹ cứu sống.
PHẢN ỨNG CỦA YAMAMOTO
Sự diệt vong của Hiryu về cơ bản đã khép lại trận chiến. Tín hiệu đầu tiên báo cho Yamamoto biết rằng Chiến dịch MI đã thất bại đến vào lúc 10 giờ 50 phút, khi ông nhận được tin rằng Akagi, Kaga và Soryu đều đang bốc cháy, và chỉ còn Hiryu là còn khả năng tác chiến. Đáp lại, Yamamoto đã ban hành hàng loạt mệnh lệnh nhằm cố gắng cứu vãn tình hình thảm khốc. Ông ra lệnh cho Lực lượng Chủ lực tiến về phía nam để hỗ trợ Nagumo, Lực lượng Vận tải được chuyển hướng về tây bắc để chờ diễn biến tiếp theo, và Lực lượng Xâm lược của Phó Đô đốc Kondo được lệnh hợp nhất với Nagumo. Các tàu sân bay hoạt động ở quần đảo Aleutian cũng được ra lệnh tiến xuống phía nam, nhưng chúng vẫn phải thu hồi máy bay và tiếp nhiên liệu trước. Lúc 13 giờ 10 phút, Yamamoto ra lệnh cho Kondo “pháo kích và hủy diệt” sân bay trên Midway. Ngay cả sau khi biết tin Hiryu đã bị phá hủy, Yamamoto vẫn không chịu thừa nhận rằng trận đánh quyết định của mình đã trở thành thảm họa. Ông vẫn nuôi hy vọng chiếm được Midway và tiêu diệt nốt hạm đội Mỹ trong một trận hải chiến trực diện. Kondo được giao quyền chỉ huy lực lượng lớn để chuẩn bị cho trận chiến ban đêm sắp tới. Tuy nhiên, đến 23 giờ 30 phút, các lực lượng tiên phong của Kondo không tìm thấy bất kỳ đơn vị Mỹ nào, và rõ ràng là sẽ không có trận hải chiến nào diễn ra. Nếu tiếp tục tiến về phía đông, lực lượng Nhật Bản sẽ rơi vào tầm không kích của Mỹ vào sáng hôm sau. Nhận thấy điều này, Yamamoto ra lệnh cho Kondo quay đầu về phía tây vào sáng sớm ngày 5 tháng 6. Đến 02 giờ 55 phút, Yamamoto buộc phải chấp nhận điều không thể tránh khỏi, đó là chính thức hủy bỏ Chiến dịch MI.
CÁI CHẾT CỦA YORKTOWN
Vấn đề lớn duy nhất còn lại đối với phía Mỹ là số phận của tàu sân bay Yorktown. Thuyền trưởng Buckmaster ra lệnh bỏ tàu vào lúc 14 giờ 55 phút ngày 4 tháng 6, ông lo ngại rằng con tàu có thể bị lật do hai quả ngư lôi trúng đích, và như vậy toàn bộ thủy thủ đoàn có thể sẽ thiệt mạng. Sau khi toàn bộ thủy thủ được di tản, Fletcher ra lệnh cho TF 17 hợp nhất với TF 16, để lại Yorktown tạm thời không có người trông coi. Một tàu khu trục sau đó được cử lại để canh giữ con tàu đang nghiêng. Fletcher dự định quay lại vào sáng sớm ngày 5 tháng 6 để đánh giá xem con tàu có thể được cứu vãn hay không.
Mãi đến 18 giờ ngày 5 tháng 6, Buckmaster mới tập hợp một đội trục vớt gồm 170 người và trở lại Yorktown. Bằng cách bơm nước đối trọng và ném bỏ tất cả những gì có thể trôi nổi trên boong, đội cứu hộ đã đạt được tiến triển rõ rệt vào ngày 6 tháng 6. Tàu kéo hạm đội Vireo đến nơi vào đầu giờ chiều để bắt đầu kéo Yorktown về Trân Châu Cảng. Nhưng Yamamoto không có ý định để con tàu này thoát đi. Người Nhật đã biết rõ vị trí và tình trạng của con tàu, vì hai máy bay trinh sát khác nhau đã báo cáo về nó trong chiều ngày 4 tháng 6. Yamamoto ra lệnh cho tàu ngầm I-168 rời vị trí gần Midway để kết liễu Yorktown. Tiếp cận mà không bị phát hiện, I-168 phóng một loạt ngư lôi vào lúc 13 giờ 36 phút. Hai quả trúng Yorktown, và một quả khác đánh trúng tàu khu trục đang ở bên cạnh, bẻ gãy con tàu làm đôi. Đội cứu hộ rời tàu vào lúc 15 giờ 55 phút. Sau khi chịu đựng những thiệt hại vượt xa khả năng thiết kế, Yorktown chìm xuống biển vào lúc 05 giờ 01 phút sáng ngày 7 tháng 6.
GIAI ĐOẠN KẾT THÚC TRẬN CHIẾN
Fletcher chuyển giao quyền chỉ huy chiến thuật cho Spruance vào buổi tối ngày 4 tháng 6. Từ thời điểm đó, mối quan tâm hàng đầu của Spruance là không để bị dụ vào một trận chiến trên mặt biển với lực lượng vượt trội của Nhật Bản, trong khi vẫn sử dụng sức mạnh không quân còn lại để tấn công các mục tiêu khả dĩ. Spruance là người tính toán cẩn trọng và thường hành động thận trọng, một phẩm chất khiến ông trở thành vị chỉ huy hoàn hảo cho giai đoạn này của trận chiến. Vào 19 giờ 15 phút, ông ra lệnh cho TF 16 di chuyển về hướng đông, động thái này ngay lập tức đưa ông ra ngoài tầm với của lực lượng Kondo, lực lượng đang tìm cách mở một trận hải chiến ban đêm. Sang ngày 5 tháng 6, Spruance quyết định chờ kết quả của các phi vụ trinh sát buổi sáng từ Midway trước khi đưa ra hành động tiếp theo. Đến 11 giờ, ông tin chắc rằng không còn mối đe dọa trực tiếp nào đối với Midway, nên đưa TF 16 tiến về hướng tây bắc để điều tra các báo cáo từ máy bay trinh sát PBY về một tàu sân bay Nhật thứ năm bí ẩn. Điều này khiến ông ra lệnh phóng 26 máy bay ném bom bổ nhào của tàu Hornet vào khoảng 15 giờ, nhằm tấn công một mục tiêu cách đó 240 hải lý. Tuy nhiên, mục tiêu duy nhất mà họ phát hiện được là tàu khu trục Tanikaze, chiếc tàu này đã được phái đi để xác nhận việc Hiryu đã chìm. Mười hai chiếc Dauntless của Hornet không trúng được phát nào, cũng như 32 chiếc Dauntless của Enterprise tấn công sau đó trong ngày, và 18 chiếc B-17 từ Midway cũng không đạt kết quả gì.

Sau khi va chạm với tàu chị em Mogami vào sáng sớm ngày 5 tháng 6, tàu tuần dương hạng nặng Mikuma chỉ bị hư hại nhẹ. Trong khi đó, Mogami bị hư nặng hơn và chỉ có thể duy trì tốc độ 12 hải lý/giờ, nên hai tàu tuần dương, được hai tàu khu trục hộ tống, rút lui về phía tây nhằm rời khỏi khu vực giao chiến. Cảnh trong hình mô tả đợt không kích đầu tiên của Mỹ nhằm vào hai tàu tuần dương này. Lúc 06 giờ 30 phút, một thủy phi cơ PBY từ Midway phát hiện nhóm tàu Nhật nhỏ. Hai tàu tuần dương được báo cáo nhầm là thiết giáp hạm, khiến phần còn lại của phi đội Thủy quân Lục chiến VMSB-241 được lệnh cất cánh từ Midway để tấn công “mục tiêu béo bở” này. Lực lượng tấn công gồm 12 máy bay ném bom bổ nhào – 6 chiếc SBD Dauntless và 6 chiếc SB2U Vindicator đời cũ hơn. Sáu chiếc Dauntless tấn công Mogami, nhưng trước hỏa lực phòng không dày đặc, không quả bom nào trúng mục tiêu. Sáu chiếc Vindicator, do Đại úy Richard Fleming chỉ huy, lao vào Mikuma. Fleming quyết định thực hiện kiểu tấn công ném bom liệng từ độ cao 4.000 feet. Tuy nhiên, hệ thống phòng không đối phương bắn trả dữ dội, và máy bay của Fleming bị trúng đạn. Cảnh ở trong hình mô tả chiếc máy bay rơi xuống biển và không ai sống sót. Trái với tin đồn lâu nay, máy bay của Fleming không hề đâm vào tháp pháo số 4 của Mikuma. Không chiếc Vindicator nào trúng mục tiêu, và một đợt tấn công bằng B-17 sau đó trong ngày cũng thất bại. Tuy nhiên, vận may của hai tàu tuần dương Nhật đã chấm dứt vào ngày hôm sau, khi chúng bị tấn công bởi các máy bay Dauntless của Hải quân Mỹ.
Lực lượng Nhật duy nhất còn nằm trong tầm hoạt động của Mỹ lúc này là Lực lượng Yểm trợ gần, gồm bốn tàu tuần dương hạng nặng và hai tàu khu trục. Yamamoto đã ra lệnh cho họ bắn phá sân bay trên đảo Midway. Họ đã tiến đến cách đảo chỉ còn 50 hải lý thì Yamamoto hủy bỏ Chiến dịch MI, điều này khiến họ rơi vào một vị trí cực kỳ nguy hiểm. Tình thế càng trở nên tồi tệ hơn vào sáng sớm ngày 5 tháng 6, khi tàu tuần dương hạng nặng Mogami va chạm với tàu chị em Mikuma. Mikuma chỉ bị hư hại nhẹ, nhưng mũi của Mogami bị nghiền nát, và con tàu chỉ có thể chạy được tối đa 12 hải lý/giờ. Hai tàu tuần dương còn lại được lệnh rút về hướng tây, để lại Mikuma hộ tống Mogami bị thương nặng. Người Mỹ mất hai ngày để giải quyết hai con tàu tàn tạ này. Vào ngày 5 tháng 6, 12 máy bay ném bom bổ nhào từ Midway và 8 chiếc B-17 tấn công các tàu tuần dương, nhưng không đạt được kết quả nào. Ngày hôm sau, TF 16 tiếp tục truy kích. Hornet phóng một đợt tấn công gồm 26 máy bay ném bom bổ nhào vào buổi sáng. Những cú đánh trúng đích đầu tiên trong toàn bộ trận chiến của Hornet được ghi nhận khi Mogami trúng hai quả bom. Tàu sân bay Enterprise phóng một đợt khác gồm 31 máy bay ném bom bổ nhào và ba máy bay phóng ngư lôi vào cuối buổi sáng. Các Dauntless tập trung tấn công Mikuma, con tàu bị nhận dạng nhầm là một thiết giáp hạm. Mikuma trúng năm quả bom trực tiếp và hai cú sượt gần, khiến tàu bốc cháy và dừng lại hoàn toàn. Ngọn lửa lan đến kho ngư lôi, gây ra một loạt vụ nổ dữ dội khi các ngư lôi Type 93 khổng lồ phát nổ, phá hủy hoàn toàn phần đuôi tàu. Khi thủy thủ đoàn Mikuma đang bỏ tàu, đợt tấn công thứ hai trong ngày của Hornet với 24 máy bay ném bom bổ nhào xuất hiện. Trong đợt tấn công cuối cùng trong ngày, các Dauntless đánh trúng Mogami và một tàu khu trục, mỗi tàu trúng một quả bom, nhưng cả hai đều thoát được. Mikuma chìm vào cuối ngày, cuốn theo 700 thủy thủ của mình. Sau đó, vừa sau 19 giờ, Spruance ra lệnh cho TF 16 tiến về hướng đông bắc để tiếp nhiên liệu.
KẾT QUẢ TRẬN CHIẾN
Lực lượng Kido Butai đã chiến đấu mà không có sự hỗ trợ, chịu đựng nhiều bất hạnh, và cuối cùng bị đánh cho tan tác. Cả bốn tàu sân bay của họ đều bị đánh chìm, và toàn bộ 248 máy bay trên những tàu đó bị mất hoàn toàn. Tổn thất về phi công tuy nặng nề nhưng không thảm khốc như ta tưởng. Tổng cộng có 110 phi công thiệt mạng, trong đó thiệt hại nặng nhất là từ không đoàn của Hiryu, do ba đợt không kích của nó trong ngày 4 tháng 6. Tổng số người Nhật tử trận lên đến 3.057 người, chủ yếu là các thủy thủ trên bốn tàu sân bay. Ngoài ra, 721 kỹ thuật viên hàng không lành nghề cũng thiệt mạng trên bốn tàu này. Tàu tuần dương hạng nặng Mikuma bị đánh chìm, còn Mogami bị hư hại nặng đến mức phải mất đến tháng 4 năm 1943 mới có thể trở lại hoạt động.
Ngược lại, tổn thất của Mỹ là nhỏ hơn rất nhiều. Tàu sân bay Yorktown và một tàu khu trục bị đánh chìm, 144 máy bay bị mất, và 362 thủy thủ, lính thủy quân lục chiến, cùng phi công thiệt mạng. Trận Midway là một thắng lợi mang tính chiến lược, vì nó đã chặn đứng làn sóng bành trướng của Nhật Bản, nhưng lại không phải là một chiến thắng mang tính quyết định tuyệt đối. Trọng tâm của các trận hải chiến giờ đây chuyển xuống khu vực Nam Thái Bình Dương. Người Nhật sẽ nhanh chóng tái xây dựng lực lượng tàu sân bay của mình, và hai trận chiến tàu sân bay nữa vẫn sẽ diễn ra trong năm 1942.
PHẦN 3:
PHẦN 5:

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất























































































