Ô nhiễm kim loại nặng là gì?
Ảnh chụp vệ tinh mặt hồ nước ngọt Ohio, bang Ohio trong vụ nhiễm độc năm 2014 Kim loại nặng là nguyên tố có khối lượng nguyên...
Ảnh chụp vệ tinh mặt hồ nước ngọt Ohio, bang Ohio trong vụ nhiễm độc năm 2014
Kim loại nặng là nguyên tố có khối lượng nguyên tử lớn, một số nguyên tố kim loại nặng có lợi cho cơ thể, nhưng một số nguyên tố kim loại nặng như: Chì, thủy ngân, cadimi, crom, mangan…lại là mối đe dọa lớn cho con người, những nguyên tố này không tham gia hoặc ít tham gia vào quá trình sinh hóa, chúng tích lũy trong cơ thể và gây độc cho cơ thể.
Chì (Pb): Nguyên tố chì có độc tính cao đối với sức khỏe của con người, chì gây độc cho hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh ngoại biên, tác động lên hệ enzim có nhóm hoạt động chứa hyđro. Người bị nhiễm chì sẽ bị rối loạn bộ phận tạo huyết (tủy xương). Tuỳ theo mức độ nhiễm chì, người nhiễm có thể bị đau bụng, đau khớp, viêm thận, cao huyết áp, tai biến não, nhiễm chì nặng có thể gây tử vong. Đặc tính nổi bật của chì là sau khi xâm nhập vào cơ thể, nguyên tố này ít bị đào thải ra ngoài mà tích tụ theo thời gian trong cơ thể rồi mới gây độc. WHO quy định tiêu chuẩn tối đa cho phép của nồng độ chì trong nước uống: £ 0,05 mg/ml. Thủy Ngân (Hg): Tính độc của thủy ngân phụ thuộc vào cấu tạo hoá học của nó. Thuỷ ngân là nguyên tố hóa học tương đối trơ. Nguyên tố này dễ bay hơi ở nhiệt độ thường nên nếu hít phải sẽ rất độc.
Thuỷ ngân có khả năng phản ứng với axit amin có chứa lưu huỳnh, các hemoglobin, abumin; chúng có khả năng liên kết màng tế bào, làm thay đổi hàm lượng kali, thay đổi sự cân bằng của axit bazơ trong các mô, làm thiếu hụt năng lượng cung cấp cho tế bào thần kinh. Trẻ em nếu nhiễm độc thuỷ ngân sẽ bị phân liệt, co giật không chủ động. Trong nước sinh hoạt, metyl thủy ngân là dạng độc nhất, nó làm phân liệt nhiễm sắc thể, ngăn cản quá trình phân chia của tế bào. WHO quy định nồng độ tối đa cho phép thủy ngân trong nước uống là 1mg/l; nước nuôi thuỷ sản là 0,5mg/l.
Cađimi (Cd): Nguyên tố kim loại Cađimi được sử dụng trong công nghiệp luyện kim, chế tạo đồ nhựa; hợp chất của cađimi được sử dụng để sản xuất pin. Cađimi xâm nhập vào cơ thể người thông qua đường hô hấp, qua thực phẩm. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy những người hút thuốc lá có nguy cơ cao bị nhiễm cađimi. Cađimi khi xâm nhập vào cơ thể được tích tụ ở thận và xương; gây nhiễu loạn hoạt động của một số enzim, gây ra bệnh tăng huyết áp, ung thư phổi, thủng vách ngăn mũi, làm rối loạn chức năng thận, phá huỷ tuỷ xương, gây ảnh hưởng đến nội tiết, máu và tim mạch. WHO quy định tiêu chuẩn nồng độ Cađimi cho nước uống là £ 0,003 mg/l.
Crom (Cr): Crom tồn tại trong nước với 2 dạng Cr (III), Cr (VI). Cr (III) không độc nhưng ngược lại Cr (VI) gây độc đối với động thực vật. Với người Cr (VI) có thể gây loét dạ dày, ruột non, viêm gan, viêm thận và gây ung thư phổi. Crom xâm nhập vào nước sinh hoạt từ các nguồn nước thải của các nhà máy mạ điện, nhuộm, thuộc da, chất nổ, mực in, in tráng ảnh… WHO quy định tiêu chuẩn hàm lượng crom trong nước uống là £ 0,005 mg/l.
Mangan (Mn): Mangan là nguyên tố vi lượng, nhu cầu về mangan của con người mỗi ngày khoảng 30 – 50 mg/kg trọng lượng cơ thể. Nếu dùng với hàm lượng lớn mangan dư thừa sẽ gây độc cho cơ thể; gây độc với nguyên sinh chất của tế bào, đặc biệt là tác động lên hệ thần kinh trung ương, gây tổn thương thận, bộ máy tuần hoàn, phổi, ngộ độc nặng mangan có thể gây tử vong. WHO quy định tiêu chuẩn qui định mangan trong nước uống là £ 0,1 mg/l.
Nguồn: fb/dennis.music.for.life
/khoa-hoc-cong-nghe
- Hot nhất
- Mới nhất