Note.62✤Book.136✤6/2021: Đàng Trong - Đàng Ngoài
Famous Old Pagoda’s landscape in North Vietnam - PHAM HAU (1903 - 1995) (2021) Đọc 7 cuốn sách về Đàng Trong - Đàng Ngoài 🕮...

(2021) Đọc 7 cuốn sách về Đàng Trong - Đàng Ngoài 🕮 Tổng số sách đã đọc được: 136 quyển1/ Xứ Đàng Trong Năm 1621 - Cristophoro Borri2/ Xứ Đàng Trong - Li Tana3/ LỊCH SỬ VƯƠNG QUỐC ĐÀNG NGOÀI - Giáo Sĩ ALEXANDRE DE RHODES4/ Mô Tả Vương Quốc Đàng Ngoài : Samuel Baron5/ Việt Sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777 - Phan Khoang6/ Hải Ngoại Kỷ Sự - Thích Đại Sán7/ Thượng Kinh Ký Sự - Hải Thượng Lãn Ông



Dân ở đây không dùng sữa, họ cho là trọng tội nếu vắt sữa bò, họ sợ nếu làm việc đó là mang tội, vì theo thiên nhiên thì sữa dành để nó nuôi con. Như thể bò nuôi con mà không được sử dụng thứ lương thực dành riêng cho con.
Còn về tất cả những gì thuộc đời sống hằng ngày, xứ Đàng Trong cũng rất đầy đủ. Thứ nhất là áo mặc, họ có rất nhiều tơ lụa đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng hàng ngày.
Họ còn ăn mấy thứ chúng ta rất sợ và chúng ta coi như độc,
Còn về tất cả những gì thuộc đời sống hằng ngày, xứ Đàng Trong cũng rất đầy đủ. Thứ nhất là áo mặc, họ có rất nhiều tơ lụa đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng hàng ngày.
Họ còn ăn mấy thứ chúng ta rất sợ và chúng ta coi như độc,

Nhà cửa và đền đài, mặc dầu chỉ bằng gỗ, nhưng không thua kém bất cứ nước nào, bởi vì không nói quá chút nào, gỗ ở xứ này là gỗ quý nhất hoàn cầu, theo nhận xét của những người ở các nơi đó. Trong vô số cây và vô số loại cây ở đây, có hai thứ thường được dùng để làm nhà cửa và là thứ không bao giờ hư mặc dầu bị ngâm trong nước hay vùi trong bùn, và rất chắc, rất nặng đến nỗi không bao giờ nổi trên mặt nước và dùng làm neo tàu. Một thứ là gỗ đen, nhưng không phải đen như mun, loại thứ hai có mầu đỏ hung.
Xứ Đàng Trong có rất nhiều mỏ kim khí quý và nhất là vàng. Và để hiểu biết thêm bằng vài lời những gì đáng được kể dài dòng hơn nữa về sự giàu có của xứ này thì tôi kết thúc chương này bằng lời của các thương gia Châu Au đã có dịp tới đây. Họ quyết rằng xứ Đàng Trong có nhiều của cải hơn Trung Quốc mà chúng tôi biết là rất dồi dào về mọi thứ.
Xứ Đàng Trong có rất nhiều mỏ kim khí quý và nhất là vàng. Và để hiểu biết thêm bằng vài lời những gì đáng được kể dài dòng hơn nữa về sự giàu có của xứ này thì tôi kết thúc chương này bằng lời của các thương gia Châu Au đã có dịp tới đây. Họ quyết rằng xứ Đàng Trong có nhiều của cải hơn Trung Quốc mà chúng tôi biết là rất dồi dào về mọi thứ.
Về sự dễ bảo của voi thì tôi sẽ kể những việc kỳ diệu hơn những chuyện người ta thường kể, để cho biết là người nói câu này rất có lý: Elephanto belluarum nulla prudentior: trong các con vật khổng lồ, không con nào khôn bằng voi vì thấy nó thực hiện được những việc làm cho người ta tưởng nó có trí thông minh và khôn ngoan. Trước hết, mặc dầu quản tượng dùng một dụng cụ bằng sắt dài chừng bốn gang tay ở đầu có móc để đánh và đâm cho voi tỉnh và chú ý tới lệnh truyền, thế nhưng thường thường họ điều khiển và chỉ huy bằng lời nói, đến nỗi tưởng như nó hiểu biết ngôn ngữ và có mấy con biết tới ba hay bốn thứ tiếng rất khó tuỳ theo lãnh thổ và quốc gia trong đó nó đã sống. Thí dụ con voi đã đưa tôi đi thì hiểu tiếng Campuchia vì gốc nó ở đó, rồi tinh thông tiếng Đàng Trong là nơi nó tới. Ai cũng lấy làm lạ khi thấy quản tượng trò chuyện với voi, dặn dò về hành trình và đường đi lối bước, qua nơi nào, dừng lại và nghỉ ở đâu, và sau cùng kể chi tiết tất cả các việc nó phải làm trong ngày.

trở. Có lần trong cuộc hành trình có bảy hay tám con voi đi tiếp theo nhau, tôi nghe thấy các quản tượng mỗi người đều dặn dò voi của mình phải thận trọng khi đặt chân vì trong một quãng đường chừng nửa dặm chúng phải qua một bãi cát trong đó thường có gai. Nghe thế, các con voi đều cúi đầu, mở to mắt như khi người ta vất vả tìm một vật gì nhỏ rơi mất. Chúng bước từng bước, rất chăm chú, trong suốt quãng đường nguy hiểm, cho tới khi nghe báo là không cònphải sợ nữa, lúc đó chúng mới ngẩng đầu và tiếp tục hành trình như trước.

Về nét mặt thì cũng giống, như người Tàu, cũng có mũi tẹt, mắt bé. Còn về kích thước thì trung bình, tôi có ý nói, họ không quá lùn như người Nhật, không quá cao như người Tàu. Nhưng về thân hình vạm vỡ thì họ vượt cả hai, về can đảm thì hơn người Tàu, chỉ có người Nhật là hơn họ về một điểm độc nhất là coi thường mạng sống trong gian nguy và chiến trận. Người Nhật không kể chi, không sợ chết bằng bất cứ giá nào. Người Đàng Trong dịu dàng hơn và lịch thiệp hơn khi đàm đạo, hơn tất cả các dân phương Đông nào khác, tuy một đàng dũng cảm, nhưng đàng khác họ lại rất dễ nổi giận. Tất cả các nước phương Đông đều cho người Châu Au là những kẻ xa lạ và dĩ nhiên họ ghét mặt đến nỗi khi chúng ta vào lãnh thổ họ thì tất cả đều bỏ trốn. Thế nhưng trái lại ở xứ Đàng Trong, họ đua nhau đến gần chúng ta, trao đổi với chúng ta trăm nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại họ rất xã giao, lịch sự và thân mật đối với chúng ta. Điều này đã xảy ra với tôi và các đồng sự của tôi, khi lần đầu tiên chúng tôi vào xứ này, người đã coi chúng tôi như những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen biết chúng tôi từ lâu. Đó là một cánh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo của Chúa Kitô đến rao giảng Phúc âm.


Vì người Đàng Trong tử tế và có tính tình hòa nhã, nên họ rất trọng người ngoại quốc, họ để cho mỗi người tự do sống theo đạo của mình và ăn mặc tuỳ sở thích của mình. Do đó họ khen cách làm của người nước ngoài, phục giáo thuyết của người nước ngoài và dễ dàng chuộng đạo giáo của người nước ngoài hơn đạo giáo của mình: trái hẳn với người Tàu, họ chỉ khen ngợi xứ sở họ cùng cách làm và đạo giáo của họ mà thôi.


Mặc dầu ngôn ngữ của người Đàng Trong cũng giống ngôn ngữ người Trung Hoa, vì cũng như người Trung Hoa, họ chỉ dùng những từ có một vần nhưng đọc và xướng lên với nhiều cung và giọng khác nhau, nhưng có sự khác biệt vì tiếng Đàng Trong phong phú hơn và dồi dào hơn về nguyên âm, vì thế dịu dàng và êm ái hơn. Họ có tài sành âm nhạc và có khả năng phân biệt các cung giọng và các dấu khác nhau

Khi người Việt dọc theo bờ biển tiến xuống tới vùng đất sau này được gọi là Đàng Trong, họ đã khám phá ra một nền văn hóa Chăm, lạ lùng nhưng quyến rũ. Âm nhạc Chăm đã trở thành quen thuộc dưới triều Lý vào thế kỷ 10. Cách ăn mặc của người Chăm cũng đã được các bà các cô người Việt vùng ranh giới Việt-Chăm ưa thích ít ra là vào cuối thế kỷ 15. Những cái tháp lộng lẫy của người Chăm có thể đã làm người Việt thán phục. Việt Nam không có những kiến trúc như thế. Các di dân người Việt đã bỏ lại phía sau nơi chôn nhau cắt rún của họ và giờ đây thường phải sống thành những nhóm nhỏ trong vùng đất của người Chăm cũ, hẳn là đã cảm thấy nền văn hóa Chăm vừa có những nét đẹp riêng vừa xa lạ khiến người ta phải e dè. Trong một trạng thái tâm lý bất ổn, người Việt vừa bị lôi cuốn nhưng đồng thời cũng cố gắng tìm cách thoát khỏi (hay thu phục khi có thể) nền văn hóa xa lạ đã có ở đó trước khi họ đến và thường là vẫn còn bao quanh họ.


Nước Đại Việt, phong thổ khí hậu, đại ước khí âm thịnh, khí dương suy. Nghiệm chứng: muôn vật phát sinh về thu đông, làm việc dùng ban đêm, con trai thông minh không bằng con gái. Hằng năm xuân hạ thường khô hạn, mùa hạ mặt trời đứng bóng nóng như lửa đốt; đất đỏ nghìn dặm, cây cỏ cháy khô. Vì ta có kẻ tùy tùng ăn đông, nên quốc sư thường lấy sự thiếu rau làm lo.


Trở lại với điều kiện của binh sĩ Đàng ngoài, họ ở vào hoàn cảnh vất vả, làm việc cật lực nhưng chẳng mấy ai khá giả, một khi là lính họ mãi là lính. Trong số hàng nghìn người hiếm khi có một người được thăng tiến, trừ khi anh ta có tài đặc biệt trong sử dụng vũ khí hoặc có quan hệ tốt với quan lại để nhờ đó là được tiến cử lên Vua. Tiền có thể được sử dụng phần nào, còn mong tiến thân bằng sự dũng cảm thì thật là một mong đợi hão huyền bởi binh sĩ hiếm khi có điều kiện đối mặt với quân thù ở ngoài chiến trường nên không có điều kiện phát triển và thể hiện kỹ năng. Không phải là không có trường hợp xuất thân thấp kém nhưng nhờ lập chiến công mà trở nên có địa vị trong quân đội. Tuy nhiên những trường hợp như vậy không nhiều.

Dân chúng Đàng ngoài tỏ ra cần cù chịu khó, tính tình sôi động tuy lại hay sợ hơn là có bản chất dịu hiền. Họ khó mà có được sự yên lặng hay hòa thuận nếu như không có một bàn tay thép quản lý bằng sự nghiêm khắc. Họ thường mưu phản và nổi dậy. Quả thật, sự mê tín mà đám dân nghèo luôn mắc phải càng khiến cho vấn nạn này thêm trầm trọng và đẩy họ vào tình thế hiểm nghèo. Những kẻ có địa vị hay những quan lại có vai vế rất ít khi vướng vào những vấn nạn này. Họ không có tham vọng trở thành kẻ cầm đầu một lũ phiến quân bởi lẽ họ không tin vào những lời phán xằng bậy của lũ thầy bói mù - vốn chỉ lừa bịp được đám dân nghèo dốt nát và mê tín. Những người giàu và có địa vị thừa hiểu những hành động điên khùng và phản loạn như vậy chỉ dẫn đến cái chết thôi.


Người dân ở các làng đa phần là những người giản dị, cả tin và mê tín. Tương tự như các dân tộc khác, người Đàng Ngoài cũng có một đặc điểm chung là tốt xấu hết sức rạch ròi.
Người Đàng Ngoài thường tổ chức thăm hỏi vào buổi chiều. Sẽ vô cùng bất lịch sự nếu như đến nhà một người có địa vị vào trước bữa ăn tối, trừ khi có việc khẩn cấp hoặc được hẹn trước, bởi như thế sẽ có ít thời gian để nói chuyện.

ĐỒ ăn thức uống của người Đàng Ngoài khá thú vị, cho dù mùi vị của chúng chẳng dễ chịu với người nước ngoài. Dân nghèo cầm lòng với những món tùng tiệm như cơm rau và cá khô; tầng lớp trên nếu muốn có thể hưởng thụ những sơn hào hải vị đệ nhất mà vương quốc này có

Chọi gà là trò vô cùng hấp dẫn người Đàng Ngoài và đã trở thành trò chơi vương giả, thu hút nhiều quan lại. Quan lại kiểu gì củng thua khi cá cược với Chúa và theo cách đó Chúa sẽ làm cho đám cận thần của mình nghèo đi để họ khỏi làm được trò gì khác.

Người Đàng Ngoài không giỏi về chiêm tinh học, hình học và các ngành toán học. Tuy nhiên, họ khá thạo về số học. Đạo đức của họ rối rắm và không theo phương pháp chuẩn như ngành lôgíc học.
Cũng chẳng có nhiều thông tin chính xác về quan hệ của vương quốc này với Trung Quốc - vốn làm cho người xứ này trở nên anh dũng đến lạ thường, đến nỗi không chỉ cầm chân mà còn đánh bại được cả các đội quân hùng mạnh của đế chế Trung Hoa để duy trì được nền độc lập của họ qua nhiều thế hệ. Có thể là trong lúc mô tả lại lịch sử họ đã tô điểm thêm cho các chiến công của mình để không bị coi là những người kém cỏi, chứ bản thân sự nhút nhát của người Đàng Ngoài chẳng hợp lắm với những chiến công vẻ vang đó.
Phủ Chúa lộng lẫy tựa như cung Vua. Họ nhà Chúa củng thế tập, con trưởng kế vị cha. Tuy nhiên, tham vọng của những người con khác của Chúa thường gây ra nội loạn nhằm tiêu diệt lẫn nhau để lên kế vị. Người Đàng Ngoài vì thế có câu: nghìn vị Vua băng chẳng hề làm đất nước lâm nguy nhưng một ông Chúa chết mọi người đều hoang mang, lòng dân bất an, triều chính loạn đảo.
Người Đàng Trong rất ghét bọn hoạn quan và không bao giờ dùng họ vào việc gì quan trọng. Khi nghe tin viên hoạn quan vào nhận chức, người Đàng Trong bèn gửi tặng ông ta một chiếc yếm lụa làm quà, thứ mà phụ nữ hay mặc, và yêu cầu ông ta nên sử dụng thường xuyên. Hàm ý của việc này là viên hoạn quan đó gần với phái yếu hơn, chứ chẳng ra dáng một vị tướng hay một vị quan cai trị cấp tỉnh.
Người Đàng Ngoài củng phản đối những luật tục xấu đến bỉ ổi và kinh tởm của nước láng giềng mà tôi không tiện nói ra ở đây. Không nghi ngờ gì nữa, những người làm luật Đàng Ngoài khá uyên thâm và có tình người. Nhưng cho dù luật pháp được lập ra có tốt đến đâu thì sự nghèo khó của con người - qua thời gian, qua vô số luật gia và qua sự tăng lên hằng ngày của các quan tòa thuộc cấp - cũng dẫn nền luật pháp đó đến chỗ hủ bại. Có tiền thì tội gì củng có thể được xóa. Chẳng mấy quan tòa không nhận đút lót.
Người Đàng Ngoài đặt nhiều niềm tin vào bộ binh hơn vào kỵ binh và tượng binh bởi lẽ địa hình ở đây ẩm thấp, nhiều sông, suối và đầm hồ nên kỵ binh và tượng binlì không hữu dụng lắm, Quân lính Đàng Ngoài thật sự là những xạ thủ cừ khôi. Tôi tin rằng họ chẳng kém mấy ai và chắc chắn hơn hẳn nhiều dân tộc khác trong kỹ nghệ bắn súng nhanh và chính xác, Súng kíp không phổ biến trong quân sĩ Đàng Ngoài nhưng cung tên thì được họ sử dụng một cách thuần thục đến mức phải ngưỡng mộ.
(Chúa là người thừa hưởng toàn bộ tài sản của bọn hoạn quan qua đời), thêm vào là những khoản thu bất thường như nguồn thu từ những người ngoại quốc, thương nhân (tùy theo số lượng tàu thuyền đến buôn bán), các khoản thuế thân, thuế hàng hóa và thuế buôn bán trong nước... Nói chung nguồn thu đa dạng như thế chắc chắn phải làm cho ngân khố của Chúa khá đáng kể. Tuy nhiên, bởi nguồn thu này thường là lấy chỗ này đập vào chỗ nọ nên lợi ích xã hội chẳng được là bao, thậm chí còn tệ đi bởi các nguồn thu đó đều từ mồ hỏi và máu của người dân lao động hai sương một nắng và bọn người lười biếng thì ung dung ngồi hưởng thụ và bòn rút khiến sưu cao thuế nặng chẳng hề giảm bớt đi. Có thể nói, việc người Đàng Ngoài khinh miệt hoạt động thương mại và thương nhân, bỏ phí tiềm năng lớn để biến xứ sở này trở nên giàu có (vốn là điều học hỏi của mọi quốc gia có nền cai trị tốt trên toàn thế giới). Điều đó đã khiến cho người Đàng Ngoài nghèo nàn và khốn khổ.
Người Đàng Ngoài quan niệm trong năm có những ngày tốt, những ngày tốt nhất, những ngày bình thường và những ngày xấu. Họ là những người mê tín hạng nặng và sẽ không làm việc gì quan trọng một khi chưa xem lịch Tàu cũng như tham khảo ý kiến của mấy ông thầy bói mù.
Người Đàng Ngoài quan niệm trong năm có những ngày tốt, những ngày tốt nhất, những ngày bình thường và những ngày xấu. Họ là những người mê tín hạng nặng và sẽ không làm việc gì quan trọng một khi chưa xem lịch Tàu cũng như tham khảo ý kiến của mấy ông thầy bói mù.
Người Đàng Ngoài coi việc người Âu chúng ta bắn súng để chào mừng khách khứa là một hành động man di mọi rợ bởi theo phong tục của họ thì thứ âm thanh đó chỉ dùng để xua đuổi tà ma mà thôi.
Người Đàng Ngoài rất khiếp sợ về cái chết và sự coi trọng của họ về điều này cũng thật chẳng kém phần mê tín. Họ tin rằng chỉ có hồn ma của trẻ nhỏ là đầu thai trở lại vào bào thai ở trong bụng người mẹ, còn tất cả các linh hồn khác đều trở thành ma quỷ, hoặc chí ít các linh hồn đó đều có thể gây ra cả điều tốt và điều xấu cho con người. Linh hồn lang thang như những kẻ du thủ du thực sẽ chết vì thiếu thốn và bần hàn nếu như không được họ hàng thân thích chu cấp hoặc nếu như chúng không trộm cắp và gây ra bạo lực để kiếm thứ gì đó để tồn tại. Theo người Đàng Ngoài thì những cái chết đó là sự khổ nhục lớn nhất xảy ra với con người.
Tôi cho rằng, xét trên nhiều phương diện, những giáo lý của họ chẳng thua kém gì những giá trị đạo đức mà chúng ta có từ thời Hy Lạp và La Mã. Chớ vội nhìn vào việc họ cúng cơm cho người chết mà kết luận rằng kể cả những người thông thái và có học thức ở xứ Đàng Ngoài cũng thuộc loại đầu óc thiển cận và mê tín. Họ thông thái hơn chúng ta nhiều. Họ giải thích cho tôi rằng mục đích của việc làm đó chẳng phải là gì khác ngoài sự thể hiện tình yêu thương của họ dành cho các đấng sinh thành cho dù cha mẹ không còn nữa, rằng thông qua việc làm đó để giáo dục con em họ về việc tiến hành nghi lễ đó một khi chính bản thân họ cũng phải rời bỏ cõi đời này
Thầy bói ngang nhiên tuyên bố là có thể nhìn thấy những sự kiện sẽ xảy ra cho con người trong tương lai, ví như chuyện cưới xin, dựng nhà... và nói chung bọn họ cho rằng mình có thể nhìn trước được mọi chuyện. Những người tìm đến nhờ thầy bói sẽ bị bòn rút hết tiền mà rồi cũng chỉ nhận được những câu trả lời để làm hài lòng người đi xem bói, nhưng nội dung của những lời phán thì thường mập mờ nước đôi và tối nghĩa, chẳng biết nên hiểu thế nào cho phải. Những ông thầy bói thường bị mù, hoặc là do bẩm sinh, hoặc là mù do bị tai nạn. Trước khi đưa ra lời phán, thầy bói tung ba đồng tiền lên cho rơi xuống nền nhà để xem sấp ngửa thế nào, sau đó đọc lẩm bẩm gì đó trong miệng nghe rất lạ, rồi sau đó sẽ đưa ra lời phán.
Còn với đền và chùa, bởi người Đàng Ngoài chẳng đến mức sùng tín quá nên họ chẳng có nhiều và cũng chẳng có cái nào thực lộng lẫy như những gì tôi đã chứng kiến ở các vương quốc láng giềng
Còn với đền và chùa, bởi người Đàng Ngoài chẳng đến mức sùng tín quá nên họ chẳng có nhiều và cũng chẳng có cái nào thực lộng lẫy như những gì tôi đã chứng kiến ở các vương quốc láng giềng
XỨ ĐÀNG TRONG TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ VÀ TƯƠNG TÁC QUYỀN LỰC KHU VỰC (PGS.TS NGUYỄN VĂN KIM) - KHOA LỊCH SỬ - TRƯỜNG ĐH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Trở lại với lịch sử Việt Nam hơn 400 năm trước ta thấy, sau khi Nguyễn Hoàng (1524-1613) được Trịnh Kiểm (? -1570) chấp thuận cử vào làm Trấn thủ vùng Thuận Hoá, bằng những biện pháp thận trọng, ông đã tích cực chuẩn bị những bước đi lâu dài cho việc xây dựng…khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn
Trở lại với lịch sử Việt Nam hơn 400 năm trước ta thấy, sau khi Nguyễn Hoàng (1524-1613) được Trịnh Kiểm (? -1570) chấp thuận cử vào làm Trấn thủ vùng Thuận Hoá, bằng những biện pháp thận trọng, ông đã tích cực chuẩn bị những bước đi lâu dài cho việc xây dựng…khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn
Ngoại giao Anh–Việt TK 17: Khác biệt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài
Tác giả: Trần Ngọc Dũng Một trong những vấn đề mà xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đặt ra cho mọi quốc gia là làm thế nào để kết nối với thế giới bên ngoài, học tập, giao lưu, tìm kiếm cơ hội phát triển nhưng vẫn giữ vững chủ quyền, bản sắc … Continue reading "Ngoại giao Anh–Việt TK 17: Khác biệt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài"nghiencuuquocte.org
Tác giả: Trần Ngọc Dũng Một trong những vấn đề mà xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đặt ra cho mọi quốc gia là làm thế nào để kết nối với thế giới bên ngoài, học tập, giao lưu, tìm kiếm cơ hội phát triển nhưng vẫn giữ vững chủ quyền, bản sắc … Continue reading "Ngoại giao Anh–Việt TK 17: Khác biệt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài"nghiencuuquocte.org

Sách
/sach
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất