Người Hoa đã từng ở đâu và thế nào với Hà Nội...
Một cái tết về, tôi vòng lại Thủ đô trực. Ráng làm dân kinh kỳ 36 phố phường ngàn lẻ mười năm văn vở. Tôi khám phá nó......
Một cái tết về, tôi vòng lại Thủ đô trực. Ráng làm dân kinh kỳ 36 phố phường ngàn lẻ mười năm văn vở. Tôi khám phá nó...
V/về Hanoi!
Ở đâu trên thế giới này có thành phố lớn rồi cũng sẽ có phố người Hoa. Thành phố Aman của người Jordan bên bờ biển Chết; những thành phố ở Mỹ: DC, Houston, Boston, Philadenphia, Honolulu; Metro Mannila của người Philipin; hay Sài Gòn, Quận 5 đều có dấu ấn đậm nét của người Hoa.
Cả ngàn năm là láng giềng bền vững, vài thời điểm ngắn ngủi là một. Nhiều người Hoa (Hán) đã gắn bó, xây dựng mảnh đất này. Và rồi cuộc cách mạng, những cơn cuồng loạn, họ hầu như biến mất. Sao lạ vậy, hẳn là Hà Nội còn lại gì của người Hoa!
Người Hoa đã đến Hà Nội như thế nào!?
(Nguồn: 100% Wikipedia, mình đã đọc, check chéo với các nguồn và thành thật nó khá là ổn)
Có ý kiến cho rằng những người Trung Quốc đầu tiên bắt đầu đi vào Việt Nam là từ thời nhà Tần vào Tượng Quận nhưng lần di dân đầu tiên được ghi nhận rõ ràng là từ năm 43 vào thời nhà Hán tức thời Bắc thuộc lần 2; người Trung Hoa di dân đến Việt Nam đến thời Trung Hoa Dân Quốc, gồm: binh lính, quan chức, thường dân, nhà buôn..., thậm chí là tội phạm (lý do thì đa dạng); người Trung Quốc di cư đến Việt Nam rất đông nhưng phần lớn họ kết hôn và "nhập gia tùy tục" với người bản xứ rồi con cháu họ cũng dần dần hòa tan vào xã hội Việt Nam xưa để thành người Kinh, hiện Việt Nam chính thức chỉ sót lại số ít người Hoa là còn giữ được bản sắc mà ta đang đề cập.
Họ sang Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng nhiều nhất là bằng thuyền buồm nên họ được người bản địa gọi là người Tàu hay Tàu Ô vì đặc ưng thuyền của người Hoa vượt biên sang Việt Nam là phần buồm của chúng có màu đen đặc như than tro.
Phố Hàng Ngang hay Phố Việt Đông (Phố của người Quảng Đông)
Phố Hàng Ngang xưa thuộc phường Diên Hưng, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương thành Thăng Long, nay thuộc phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm. Thế kỷ 18 đoạn đầu phố giáp phố Hàng Đào gọi là phố Hàng Lam, phố bán đồ tơ lụa màu xanh lam; đến thế kỷ 19 có tên là phố Việt Đông, thời Pháp thuộc tên phố là Rue des Cantonnais (phố người Quảng Đông), có đường tàu điện bánh sắt chạy qua giữa phố.
Khu phố Hoa Kiều buôn bán sầm uất, giàu có, hai đầu phố làm hai cánh cổng để buổi tối đóng lại, đó có thể là một nguồn gốc của tên gọi Hàng Ngang. Trong sách “Người và cảnh Hà Nội” tác giả Hoàng Đạo Thúy viết: “…những người khách trú gốc Quảng Đông đến rất đông ở phố này, bán tạp hóa, chè và thuốc. Họ làm giàu to nên trước đây hai đầu phố làm cổng ngăn rất chắc. Sau nhà có tường cao như thành, chỉ có một số cửa sau kín đáo để thì thọt với Tây, với quan…”.
Từ thời Lê, tên phố là Việt Đông do có nhiều Hoa kiều gốc Mân Việt, Quảng Đông đến lập hội làm ăn. Khi quân Thanh chiếm Trung Hoa vào thế kỷ 17 thì người Minh Hương chạy loạn sang đây đã đem việc cúng lễ của Tàu pha vào phong tục của người Việt, thí dụ như dựng đền Tam Thánh, thờ cả Quan Công cùng với Trần Hưng Đạo trong đó.
Thời Hậu Lê và thời Nguyễn, triều đình Việt Nam định ra luật cư trú cho người ngoại quốc rất nghiêm. Theo lệ cũ, người Hoa được tổ chức thành “bang”, tập trung vào mấy nơi ở Hà Nội là Việt Đông (Hàng Ngang) và Hà Khẩu (Hàng Buồm), hết thời hạn phải về Trung Quốc, nếu tình nguyện ở lại phải thay đổi y phục, phong tục theo người Việt Nam. Sách “Đại Nam nhất thống chí” thời Nguyễn vẫn ghi tên “phố Việt Đông”.
Trong sách Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ có chép: “Phường Diên Hưng và phường Đồng Lạc là phố Hàng Áo, bán các thứ tơ lụa, vóc nhiễu”. Như vậy có lẽ trước khi người Hoa kiều tới đây mua nhà kinh doanh thì Hàng Ngang (tức phường Diên Hưng) và đoạn đầu phố Hàng Đào (tức phường Đồng Lạc) dân ta bán quần áo và cả yếm nữa (vì đình phường Đồng Lạc còn có tên là đình Hàng Yếm). Trước đây ở phố Hàng Ngang quá nửa số dân là người Hoa. Nhiều người đã thay đổi y phục theo phong tục Việt Nam nên dân ta gọi là người Minh Hương (tức người Việt gốc quê nhà Minh). Phố Hàng Ngang cho tới đầu thế kỷ XX có nhiều hiệu tơ lụa lớn của người Minh Hương đều có họ hàng với nhau: Phan Đức Thành (số 2), Phan Thái Thành (số 4), Phan Hưng Thành (số 26), Phan Vạn Thành (số 40), Phan Dụ Thành (số 56), Phan Hòa Thành (số 60)… Người Việt buôn tơ lụa lớn thì có Trịnh Phúc Lợi (số 7), Lợi Quyền (số 27). Sau người con cụ Phúc Lợi là ông Trịnh Văn Bô chuyển sang số nhà 48 cùng phố.
Người Hoa ở Hàng Ngang còn mở nhiều hiệu bán chè “Tàu”. Sinh Thái, Chính Thái, Ninh Thái… Chè đựng trong lọ sứ, lọ thiếc, hoặc gói giấy… nhãn hiệu chữ Trung Quốc song đa số lại là chè Phú Thọ được sao chế tại Hàng Ngang và đóng nhãn hiệu Vũ Di Sơn, Phúc Kiến (:Đ).
Ngày nay, ở phố này có một ngôi nhà đã gắn liền với lịch sử cách mạng vẻ vang của dân tộc. Đó là ngôi nhà số 48, trước cửa hiệu có gắn một tấm bảng đá nổi bật dòng chữ vàng: “Trong ngôi nhà này, tại một phòng gác nhỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa”. Nguyên là ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi rực rỡ.
Phố Hàng Buồm - Hội quán Quảng Đông- Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật 22 Hàng Buồm (22 Hang Buom Culture and Arts Center)
Hàng Buồm xưa thuộc phường Hà Khẩu (còn gọi là Giang Khẩu), tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, nơi cửa sông Tô Lịch đổ vào sông Hồng. Đến thế kỷ 19, người Hoa Quảng Đông từ khu vực phố Hàng Ngang mở rộng đến tận đây, và dần dần thao túng cả phố. Khi người Pháp đặt chân lên Bắc Kỳ (1872), phố có tên tiếng Pháp là Rue des Voiles. Hội quán Quảng Đông lập tại phố này.
Hội quán Quảng Đông, còn được gọi là Hội quán Việt Đông (tiếng Trung: 粵東會館), là một công trình kiến trúc cổ do người Hoa gốc Quảng Đông xây dựng tại Hà Nội.
Dễ dàng nhận thấy nét tương đồng giữa kiến trúc của của Hội quán Quảng Đông tại Hà Nội và Chùa bà Thiên Hậu tại Sài Gòn. Trên mái và tường của hội quán là hệ thống phù điêu cầu kỳ bằng gốm sứ minh họa lại những câu chuyện của cố hương (các tích truyện trong Tam Quốc)....
Do người Hoa chuyên làm dịch vụ và đã từng cộng tác với người Pháp từ thời Jean Dupuis ( một nhà thám hiểm và thương nhân người Pháp) mới đặt chân lên Bắc Kỳ, hơn nữa do lo ngại vướng ngoại giao với nhà Thanh nên trải qua những biến cố chiến trang (từ cuối thế kỷ XIX cũng như hồi thời kì 1946-1947) khu phố người Hoa ít bị tổn hại vì bom đạn.
Năm 1978, không gian Hội quán Việt Đông bị trưng dụng để làm trường mẫu giáo, sau đó đã dần bị lãng quên trong một khoảng thời gian dài.
Năm 2021, Hội quán đã được trả về với đúng kiến trúc ban đầu. Việc tôn tạo và phục dựng Hội quán Việt Đông được xem là một "dấu ấn thành công" trong nỗ lực bảo tồn di tích văn hóa và gìn giữ những dấu tích lịch sử có giá trị quan trọng tại Hà Nội.
Phố Lãn Ông hay Phố Phúc Kiến, Hội quán Phúc Kiến
Con phố dài 180m, đi từ ngã tư phố Hàng Đường nối tiếp phố Hàng Buồm, cắt ngã tư Chả Cá – Hàng Cân đến phố Thuốc Bắc, thuộc quận Hoàn Kiếm. Thời Pháp thuộc phố mang tên là phố Phúc Kiến (Rue des Phúc Kiến hay rue de Fou-Kien), bởi ở đây tập trung nhiều người Hoa, đến từ bang Phúc Kiến, từ sau 1947 đến nay, phố này được gọi là phố Lãn Ông.
Sách Đại Nam thống nhất chí ( thế kỷ 19) có chép phố Phúc Kiến bán đồng; sách Chuyến đi chơi Bắc Kỳ của Trương Vĩnh Ký năm 1870 cũng nói đến phố đó bàn đồ đồng, đồ sắt. Đồng bán ở đây là đồng thỏi ngày xưa người Tàu từ mỏ Tụ Long ở biên giới về, đồng còn thấy bán cả ở phố Hàng Ngang; phố Phúc Kiến ở gần chợ Đông Thành có khu thợ thủ công đồng sắt ở phía bên trái Cửa Đông.
Phố Phúc Kiến cũng bán thuốc Bắc, cái đó dễ hiểu vì thuốc Bắc và người Hoa thường gắn liền với nhau.
Buổi chiều tết, lang thang trên con phố, giật mình thấy một ngôi chùa màu vàng với kiểu cách khác lạ đóng cửa cài then vào thời khắc dân ta nô nức chùa chiền. Hội quán Phúc Kiến, tòa nhà màu vàng, nằm im lìm, khóa cửa. Hóa ra, nó đang ở cái tuổi hồi xuân, ráng trở lại ngày xưa như nó đã từng.
Hội quán là nơi cộng đồng gặp gỡ, đại hội bang, tổ chức các lễ truyền thống và đặc biệt là nơi để giáo dục văn hóa lịch sự cho thế hệ trẻ. Ở Việt Nam, bên trong hội quán thường bao gồm cả các trường học giành cho con em người Hoa. Mọi thứ được điều hành bài bản, quy cụ, có hệ thống đã giúp người Hoa khó có thể đánh mất bản sắc dù ở bất kỳ đâu.
Thông thả bước trên con phố dài, hoài niệm về những điều xưa cũ. Ngàn năm văn vở chỉ còn lại lác đác, bị bỏ rơi bởi những điều mới mẻ. Hóa ra Hà Nội, không chỉ có những mùa Hoa, có sông Hồng, có Hồ, có cái cổng bị bắn, có cốc cafe thơm lừng mùi trứng và có bà cô bán bóng bay đi ngang qua cây cầu cũ....
Hẳn là nhiều người còn ở đó và nhiều người khác ở những nơi xa xôi nhớ về nó. Chả có quá khứ nào hoàn hảo. Biết để hiểu và thông cảm lẫn nhau trong tiến trình xây dựng một tương lai chung có nhau!
Lt Phan.
Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất