Cuộc Cách mạng Văn hóa đã được phát động tại Trung Quốc vào năm 1966 bởi nhà lãnh đạo Cộng sản Mao Trạch Đông nhằm khẳng định lại quyền lực của mình đối với Chính phủ Trung Quốc. Tin rằng các nhà lãnh đạo Cộng sản hiện tại đã tham gia Đảng, và chính Trung Quốc, đã đi sai hướng, Mao kêu gọi giới trẻ của Quốc Gia thanh trừng các yếu tố không thuần túy của xã hội Trung Quốc và làm sống lại tinh thần Cách mạng đã dẫn đến chiến thắng trong cuộc nội chiến 20 năm trước và sự hình thành Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cuộc Cách mạng Văn hóa tiếp tục diễn ra theo nhiều giai đoạn khác nhau cho đến khi Mao qua đời năm 1976

Đại nhảy vọt thất bại làm suy giảm ảnh hưởng của lãnh tụ Mao

Năm 1958, sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao kêu gọi phát triển một “Chủ nghĩa xã hội triệt để”, nhằm đưa Trung Quốc bước sang một tầm cao mới, xây dựng một xã hội Cộng sản theo mô hình tự cung tự cấp. Để thực hiện, Mao khởi xướng kế hoạch có tên gọi là Đại nhảy vọt, thiết lập các “Xã Nhân dân đặc biệt” (thường gọi là Công xã nhân dân) ở nông thôn Trung Quốc – thông qua việc sử dụng lao động tập thể và vận động quần chúng. Rất nhiều “Công xã nhân dân đặc biệt” được huy động chỉ để sản xuất một mặt hàng duy nhất là thép.
Với Đại nhảy vọt, Mao tuyên bố sẽ tăng sản lượng nông nghiệp tại Trung Quốc lên mức lên gấp đôi so với mức năm 1957. Nhưng trên thực tế, sản lượng nông nghiệp của Trung Quốc thời kì này thậm chí còn không bằng so với thời vua Càn Long và thời nhà Tống. Điều đó cho thấy Đại nhảy vọt đã thất bại.
Từ tác động của Đại nhảy vọt, các ngành công nghiệp Trung Quốc rơi vào tình trạng bất ổn. Nông dân sản xuất quá nhiều thép nhưng chất lượng thấp, trong khi các ngành khác bị bỏ rơi. Phần lớn lượng thép sản xuất ra chỉ nhằm mục đích đạt chỉ tiêu do các quan chức địa phương đặt ra – từ áp lực của Đại nhảy vọt. Tồi tệ hơn nữa, để tránh bị phạt, chính quyền các địa phương đã thường xuyên phóng đại các con số và che giấu sự thật khiến cho vấn đề càng thêm trầm trọng.
Nền kinh tế Trung Quốc hầu như chưa phục hồi sau Chiến tranh thế giới thứ 2 và nội chiến trước lại thêm một lần nữa rơi vào khủng hoảng.
Đến năm 1958, Đảng Cộng sản Trung Quốc buộc phải thừa nhận rằng những số liệu thống kê về sản xuất đã bị phóng đại. Phần lớn lượng thép sản xuất ra là kém chất lượng và vô ích. Trong khi đó, do thời tiết xấu và việc xuất khẩu lương thực, đã dẫn đến một trận đói kém cực lớn tại Trung Quốc. Thực phẩm trong tình trạng hết sức khan hiếm và sản xuất giảm đáng kể.
Theo nhiều nguồn khác nhau, số người chết do nạn đói này gây ra ước tính khoảng 20-30 triệu người.
Sự thất bại của Đại nhảy vọt đã tác động lớn vào uy tín của Mao trong Đảng. Năm 1959, Mao phải từ chức Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ( những vẫn nắm ghế Chủ tịch đảng cộng sản Trung Quốc), Lưu Thiếu Kỳ là người lên thay.
Tháng 7/1959, Bộ chính trị Trung Quốc họp tại núi Lu để thảo luận về các quyết sách của Đảng, đánh giá các tác động của cuộc Đại nhảy vọt. Tại hội nghị, nguyên soái Bành Đức Hoài, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng, đã chỉ trích chính sách của Mao trong Đại nhảy vọt là quản lý kém và đi ngược lại các quy luật kinh tế.
Hội nghị này đã dẫn đến việc chuyển giao quyền lực vào tay những người thuộc phái ôn hòa, đứng đầu là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình – lúc này đang nắm quyền kiểm soát chính phủ.
Sau Hội nghị, Mao tìm cách tước bỏ các chức vụ chính thức của Bành Đức Hoài và buộc tội ông ta là kẻ “cơ hội cánh hữu”. Bành Đức Hoài bị thay bởi Lâm Bưu – một vị tướng khác trong lực lượng quân cách mạng. Lâm Bưu chính là người sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các chính sách của Chủ nghĩa Mao Trạch Đông về sau.

Cách mạng văn hóa là gì?

Cách mạng văn hóa được Mao Trạch Đông khởi xướng từ ngày 16/5/1966, với mục tiêu chính thức là loại bỏ những phần tử “tư sản tự do”, để tiếp tục sự nghiệp đấu tranh của tầng lớp cách mạng, cộng sản. Tuy nhiên, ngày nay người Trung Quốc thừa nhận rằng đây chính là phương cách để Mao giành lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung quốc, giành lại quyền điều hành đất nước – sau thất bại của cuộc “Đại nhảy vọt” trước đó – vốn dẫn đến sự tổn thất quyền lực đáng kể của Mao so với đối thủ chính trị là Lưu Thiếu Kỳ. Cách mạng văn hóa cũng được Mao dùng để loại bỏ những người bất đồng ý kiến với ông ta, trong đó có những tên tuổi lớn như: Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài,…
Cách mạng văn hóa mở đầu với việc nổ tận gốc "Tứ Cựu" nghĩa là Tư duy cũ, Văn hóa cũ, Tập quán cũ, Thói quen cũ. Thể hiện qua việc đập phá các công trình nghệ thuật lâu đời, phá hủy bảo tàng, đặt tên mới cho các ngành nghề bằng tên Cách mạng, treo ảnh và khẩu hiệu ca ngợi Mao Trạch Đông khắp nơi. Mao Trạch Đông muốn phá hủy tôn giáo bằng được và trước tiên vì nếu không có hệ thống tín ngưỡng thì người Trung Quốc sẽ dễ dàng tin theo bất kì điều gì ông nói với họ. Rất nhiều đền chùa nổi tiếng, rất cổ kính và các di tích lịch sử bị phá hủy. Ngày nay nếu đến Trung Quốc thì hầu hết đền chùa ở những di tích lịch sử đều là được tái tạo lại vì hầu hết chúng đều đã bị phá hủy trong Cách mạng Văn Hóa hoặc trước đó.
Nhân tố thứ hai Mao muốn trừ khử là giáo dục, bởi ông ta cho rằng người có học có khả năng tư duy, điều đó là không được phép. Thế nên giới tri thức là những người hứng chịu nặng nề nhất. Giáo viên bị đánh đến chết bằng thắt lưng,bị tra tấn khi bị ép đeo mũ hề, bị ép cuối đầu và nhận lỗi, bị bỏ tù mà thực chất nhà tù đó là "chuồng bò". Những người tiến hành những vụ đánh đập, đó là Hồng vệ binh, đa số là sinh viên. Nhiều người trong số đó vẫn còn học tiểu học hoặc phổ thông. Nên có nhiều trường hợp học sinh đi tra tấn còn giết cả giáo viên của họ. Trong suốt cách mạng văn hóa, Mao chỉ ra 9 loại kẻ thù mà ông ta muốn người dân nhắm đến. Thứ nhất là địa chủ, thứ hai là nông dân giàu có, thứ ba là chống đối cách mạng,thứ tư là phần tử xấu, thứ năm là cánh hữu khuynh, thứ sáu là kẻ phản bội, thứ bảy cựu đặc vụ, thứ tám người ủng hộ tư bản, thứ chín ông ta đặc biệt muốn nhắm vào nhất là giới tri thức

Hồng Vệ Binh - những tiểu tướng của Mao Trạch Đông

Đội Hồng Vệ Binh đầu tiên được bí mật thành lập ngày 29/05/1966 tại một trường Phổ Thông cơ sở trực thuộc Đại học Thanh Hoa (một trong những trường đại học danh tiếng nhất Trung Quốc). Chỉ những người sinh ra trong những gia đình không có tì vết gì, tức là những người có bố mẹ là Đảng Viên trước năm 1949 mới được gia nhập Hồng Vệ Binh.
Ngày 18/08/1966, trên quảng trường Thiên An Môn đông nghịt người, Mao Trạch Đông tiến đến trong tiếng reo hò, niềm vui vỡ òa của các Hồng Vệ Binh. Và Mao Trạch Đông đã trao quyền cho các Hồng Vệ Binh. Đứng bên cạnh Mao Trạch Đông, Lâm Bưu khích lệ các Hồng Vệ Binh phá hủy tất cả các tư tưởng, văn hóa, tập quán, thói quen cũ của các tầng lớp bóc lột. Đó là dấu hiệu của chiến dịch bạo lực và phá hủy của Hồng Vệ Binh - những tiểu tướng của Mao
Sau cuộc gặp gỡ của Hồng Vệ Binh và Mao Trạch Đông trên quảng trường Thiên An Môn, rất nhiều vụ bạo lực đã xảy ra, và máu đã nhuộm đỏ dưới danh nghĩa cuộc cách mạng vĩnh cửu. Họ rất ngạo nghễ. Họ làm thế vì họ có phù hiệu của Hồng Vệ Binh. Tất cả các xe hơi phải dừng lại đón họ và đưa tới bất cứ nơi nào họ muốn tới.
Các Hồng Vệ Binh cảm thấy họ được làm những nhiệm vụ rất thiêng liêng. Họ đi xẻ những ống quần bó sát vào người mặc, cắt những mũi giầy họ thấy quá nhọn. Khi họ vào một cửa hàng và chỉ cần hét lên là chủ cửa hàng là nhà tư bản thì ngay lập tức của hàng bị đóng cửa.
Đấy mới chỉ là điểm khởi đầu. Sau đó mọi chuyện nhanh chóng trở nên tồi tệ. 27 giáo viên đã bị đánh chết trong các trường học. Các con số chính thức cho biết trong những ngày cuối tháng 08/1966, mỗi ngày có 100-200 vụ giết người ở Bắc Kinh. Tổng số trong tháng Tám và tháng Chín năm 1966 có 1772 người bị giết hại. Vài ngàn người bị đưa vào trại tập trung vì có xuất thân giai cấp xấu. Vài trăm người khác đã tự sát. Người ta cáo buộc họ đã làm mất sự tín nhiệm của dân chúng.

Diễn biến của cuộc Cách Mạng Văn Hóa

Thời Kỳ Đầu (1966-1968)

Những lo ngại của Mao về các phần tử tư sản đã xâm nhập vào trong Đảng và Chính phủ của ông, những người không chia sẻ tầm nhìn của ông về Chủ nghĩa Cộng sản đã được nêu trong một tài liệu của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành ngày 16 tháng 5 năm 1966; điều này được nhiều nhà sử học coi là sự khởi đầu của Cách mạng Văn hóa, mặc dù Mao không chính thức phát động Cách mạng Văn hóa cho đến tháng 8 năm 1966, tại Hội nghị Trung ương lần thứ mười tám.
Ngày 8 tháng 8 năm 1966, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thông qua "quyết định liên quan đến Cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản" (còn gọi là "Thông cáo 16 điểm"). Quyết định này quy định rằng Cuộc Cách mạng văn hóa Vô sản là "một cuộc cách mạng lớn đụng chạm đến tất cả mọi người và thiết lập một giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong nước, một giai đoạn sâu rộng hơn".
“Mặc dù giai cấp tư sản đã bị lật đổ, chúng vẫn cố gắng sử dụng những tư tưởng và lề thói cũ của giai cấp bóc lột để đầu độc quần chúng nhân dân, nắm bắt tâm chí họ và cố gắng khôi phục giai đoạn tư sản. Giai cấp vô sản phải làm điều ngược lại: Đó là tranh đấu với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội. Hiện tại, mục tiêu của chúng ta là đấu tranh và đè bẹp những kẻ hữu khuynh muốn phá bỏ cấu trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội...
                                                                           ___Thông cáo 16 điểm___

Vì vậy, quyết định đó lấy phong trào sinh viên sẵn có và phát triển nó lên một cấp độ chiến dịch đại chúng toàn quốc, kêu gọi sự tham gia của không những sinh viên mà còn cả công nhân, nông dân, quân nhân, trí thức cách mạng và các cán bộ cách mạng để tiến hành nhiệm vụ chuyển đổi cấu trúc thượng tầng bằng cách treo các áp phích ký tự lớn và tổ chức các cuộc tranh luận sôi nổi. Theo ý Mao thì Trung Quốc cần "một cuộc cách mạng văn hóa" để đưa Chủ nghĩa xã hội trở lại. Các quyền tự do quy định theo Thông cáo 16 điểm sau đó được đưa vào Hiến pháp Trung Quốc như là "Bốn quyền tuyệt vời nhất của nền dân chủ vĩ đại": Quyền tự do ngôn luận, phát biểu ý kiến, quyền được viết các áp phích ký tự lớn và quyền được tổ chức các tranh luận lớn. Thực ra, trong bốn quyền đó, một số quyền đã bao hàm lẫn nhau.
Những người mà không có mối liên quan với Đảng Cộng sản sẽ được thử thách và thông thường bị buộc tội tham nhũng và bị bỏ tù. Những quyền tự do này được bổ sung bởi quyền được bãi công, mặc dù quyền này đã bị suy yếu bởi sự dính dáng của quân đội vào nền chính trị dân sự vào tháng 2 năm 1967. Tất cả những quyền này đã bị xóa bỏ khỏi Hiến pháp sau khi Chính phủ của Đặng Tiểu Bình dập tắt Phong trào Bức tường Dân chủ năm 1979.
Áp phích cách mạng văn hóa Trung Quốc cho thấy Chủ tịch Mao Trạch Đông bên trên một đám đông vệ binh, binh lính và công nhân.
Phong trào nhanh chóng leo thang; nhiều người già và trí thức không chỉ bị tấn công bằng lời nói mà còn bị ngược đãi. Nhiều người đã chết. Hồng vệ binh đã chia rẽ thành các phe phái đối địch sốt sắng, mỗi phe có ý định trở thành đại diện đích thực của tư tưởng Maoist. Sùng bái cá tính của Mao, được khuyến khích để cung cấp động lực cho phong trào. Kết quả là tình trạng hỗn loạn , khủng bố và tê liệt đã phá vỡ hoàn toàn nền kinh tế đô thị. Sản xuất công nghiệp năm 1968 giảm 12% so với năm 1966.
Trong giai đoạn đầu của giai đoạn Hồng vệ binh, các nhà lãnh đạo chủ chốt của Bộ Chính trị đã bị loại khỏi quyền lực, đáng chú ý nhất là Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, người kế nhiệm được chỉ định của Mao cho đến thời điểm đó, và Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình. Vào tháng 1 năm 1967, phong trào bắt đầu tạo ra sự lật đổ thực sự của các Đảng ủy Tỉnh và những nỗ lực đầu tiên để xây dựng các cơ quan Chính trị mới để thay thế chúng. Vào tháng 2 năm 1967, nhiều nhà lãnh đạo Đảng hàng đầu còn lại đã kêu gọi tạm dừng Cách mạng Văn hóa, nhưng Mao và các Đảng phái cấp tiến hơn của ông đã thắng thế, và phong trào lại leo thang. Thật vậy, đến mùa hè năm 1967, rối loạn đã lan rộng; các cuộc đụng độ vũ trang lớn giữa các phe của Hồng vệ binh đã xảy ra trên khắp đô thị Trung Quốc.
Trong năm 1967, Mao kêu gọi quân đội dưới quyền Lâm Bưu thay mặt Hồng vệ binh. Thay vì tạo ra sự ủng hộ thống nhất cho những thanh niên cấp tiến, hành động chính trị - quân sự này đã dẫn đến nhiều sự chia rẽ trong quân đội. Căng thẳng vốn có trong tình huống nổi lên khi Chen Zaidao, một chỉ huy quân sự ở thành phố Vũ Hán trong mùa hè năm 1967, bắt giữ hai nhà lãnh đạo Đảng cực đoan.
Năm 1968, sau khi đất nước phải chịu nhiều chu kỳ của chủ nghĩa cấp tiến xen kẽ với sự kiểm duyệt tương đối, Mao quyết định xây dựng lại Đảng Cộng sản để giành quyền kiểm soát lớn hơn. Quân đội đã cử các sĩ quan và binh sĩ để tiếp quản các trường học, nhà máy và các cơ quan Chính phủ. Quân đội đồng thời buộc hàng triệu Hồng vệ binh thành thị phải di chuyển đến vùng nội địa nông thôn để sinh sống, do đó làm phân tán lực lượng của họ và mang lại một số trật tự cho các thành phố. Hành động đặc biệt này phản ánh sự vỡ mộng của Mao với Hồng vệ binh vì họ không thể vượt qua sự khác biệt phe phái. Những nỗ lực của Mao để chấm dứt sự hỗn loạn đã được tiếp thêm động lực bởi cuộc xâm lược Tiệp Khắc của Liên Xô vào tháng 8 năm 1968, điều này làm tăng đáng kể cảm giác bất an của Trung Quốc.
Hai tháng sau, Hội nghị Trung ương khóa lần thứ mười hai đã họp để kêu gọi triệu tập đại hội Đảng và xây dựng lại bộ máy Đảng. Từ thời điểm đó, vấn đề ai sẽ kế thừa quyền lực chính trị khi Cách mạng Văn hóa bị phá vỡ trở thành câu hỏi trung tâm của chính trị Trung Quốc.

1969-1971

Khi Đại hội Đảng lần thứ IX triệu tập vào tháng 4 năm 1969, Bộ trưởng Quốc phòng Lâm Bưu chính thức được chỉ định là người kế vị của Mao, và quân đội đã siết chặt hơn toàn bộ xã hội. Cả Đảng ủy Trung ương và Đảng Cộng sản đều bị quân đội thống trị. Lâm đã lợi dụng các cuộc đụng độ biên giới Trung-Xô vào mùa xuân năm 1969 để tuyên bố thiết quân luật và tiếp tục sử dụng vị trí của mình để loại bỏ một số đối thủ tiềm năng để kế vị. Một số nhà lãnh đạo đã bị thanh trừng trong năm 1966 đã chết theo chế độ thiết quân luật năm 1969, và nhiều người khác đã bị tổn thương nặng nề trong thời kỳ này.
Lâm nhanh chóng gặp phải sự phản đối. Bản thân Mao đã cảnh giác với một người kế vị dường như muốn nắm quyền lực quá nhanh, và ông ta bắt đầu chống lại Lâm. Thủ tướng Chu Ân Lai đã gia nhập lực lượng với Mao trong nỗ lực này, cũng như vợ của Mao là Giang Thanh .Tuy nhiên, trợ lý của Mao, Chen Boda, đã quyết định ủng hộ Lâm. Do đó, mặc dù có nhiều biện pháp được thực hiện vào năm 1970-1971 để trả lại trật tự và bình thường cho xã hội Trung Quốc, các khuynh hướng ngày càng nghiêm trọng đang chia rẽ hàng ngũ lãnh đạo hàng đầu.
Những khuynh hướng này xuất hiện lần đầu tiên tại một hội nghị toàn thể vào mùa hè năm 1970. Ngay sau đó Mao bắt đầu một chiến dịch chỉ trích Chen Boda như một lời cảnh báo cho Lâm. Chen biến mất khỏi tầm nhìn của công chúng vào tháng 8 năm 1970. Các vấn đề nảy sinh vào đầu tháng 9 năm 1971 khi chính Lâm bị giết trong những gì người Trung Quốc khẳng định là một nỗ lực chạy trốn sang Liên Xô sau một âm mưu ám sát chống phá Mao. Hầu như toàn bộ chỉ huy quân sự cấp cao của Trung Quốc đã bị thanh trừng trong những tuần sau cái chết của Lâm
Sự sụp đổ của Lâm làm vỡ mộng sâu sắc đối với nhiều người đã ủng hộ Mao trong Cách mạng Văn hóa. Hàng triệu người đã trải qua những cuộc đấu tranh quanh co để nâng cao người kế vị được chọn này lên nắm quyền và loại bỏ những người thách thức của ông. Họ trong nhiệm vụ này đã tấn công và tra tấn các giáo viên đáng kính, lạm dụng người già, làm nhục các nhà cách mạng cũ, và trong nhiều trường hợp, đã chiến đấu với những người bạn cũ trong các cuộc đối đầu đẫm máu. Các chi tiết bẩn thỉu của âm mưu ám sát có mục đích của Lâm đã thể hiện tất cả những điều này dưới ánh sáng của các cuộc đấu tranh quyền lực truyền thống và một số lượng lớn người dân Trung Quốc bắt đầu cảm thấy rằng họ chỉ đơn giản là bị thao túng vì mục đích chính trị cá nhân.

Năm Cuối Cùng (Năm 1972-1976)

Ban đầu, Thủ tướng Chu Ân Lai được hưởng lợi nhiều nhất từ cái chết của Lâm, và từ cuối năm 1971 đến giữa năm 1973, Chu đã cố gắng đưa Trung Quốc trở lại ổn định. Ông khuyến khích sự hồi sinh của hệ thống giáo dục và đưa trở lại văn phòng một số người đã bị loại. Trung Quốc lại bắt đầu gia tăng thương mại và các liên kết khác với thế giới bên ngoài, và nền kinh tế tiếp tục đà phát triển đã bắt đầu xây dựng vào năm 1969. Cá nhân Mao đã phê duyệt những động thái chung này nhưng vẫn cảnh giác rằng họ đặt câu hỏi về giá trị cơ bản của việc đưa ra cuộc Cách mạng Văn hóa ngay từ đầu.
Tuy nhiên, trong năm 1972, Mao bị đột quỵ nghiêm trọng và Chu biết rằng mình mắc bệnh ác tính. Đầu năm 1973, Chu và Mao đã mang lại quyền lực cho Đặng Tiểu Bình. Chu hy vọng sẽ chải chuốt ông ta để trở thành người kế vị của Mao. 
Từ giữa năm 1973 cho đến khi Mao qua đời vào tháng 9 năm 1976, chính trị Trung Quốc đã thay đổi qua lại giữa Giang Thanh và những người ủng hộ cô (đáng chú ý là Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên, cùng với Giang Thanh, được mệnh danh là Gang of Four), và nhóm Chu-Đặng. Tư tưởng ủng hộ trước đây, vận động chính trị, đấu tranh giai cấp, chống chủ nghĩa trí thức, chủ nghĩa bình quân và bài ngoại, trong khi sau đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định, tiến bộ giáo dục và một chính sách đối ngoại thực dụng. Mao đã cố gắng không thành công để duy trì sự cân bằng giữa hai lực lượng này trong khi ông ta đấu tranh để tìm một người kế vị của ông ta.
Từ giữa năm 1973 đến giữa năm 1974, những người cấp tiến đã lên ngôi; họ đã thực hiện một chiến dịch sử dụng những lời chỉ trích Lâm Bưu và Khổng Tử như một phương tiện che giấu mỏng manh để tấn công Chu và các chính sách của ông. Tuy nhiên, đến tháng 7 năm 1974, sự suy giảm kinh tế và sự hỗn loạn gia tăng đã khiến Mao quay trở lại với Chu và Đặng. Khi Chu nhập viện, quyền lực của Đặng ngày càng tăng từ mùa hè năm 1974 đến cuối mùa thu năm 1975, khi những người cực đoan cuối cùng đã thuyết phục Mao rằng chính sách của họ Đặng cuối cùng sẽ dẫn đến sự từ chối Cách mạng Văn hóa và của chính Mao. Mao sau đó đã xử phạt những chỉ trích về các chính sách này bằng các áp phích treo tường, đã trở thành một phương pháp tuyên truyền được ưa chuộng. Chu chết vào tháng 1 năm 1976 và Đặng chính thức bị thanh trừng (với sự ủng hộ của Mao) vào tháng Tư. Chỉ có cái chết của Mao vào tháng 9 và cuộc thanh trừng Gang of Four bởi một liên minh gồm các nhà lãnh đạo chính trị, cảnh sát và quân đội vào tháng 10 năm 1976 đã mở đường cho sự tái xuất sau đó của Đặng vào năm 1977
Đặng Tiểu Bình đã nhận định như sau: “Cách Mạng Văn Hóa là một sai lầm. Chúng ta phải mạnh dạn chối bỏ sai lầm này của Mao trong những năm tháng cuối đời của ông. Nhưng cũng cần nhìn vào sự thật. Sự thật là không phải mọi sai lầm và quá đáng trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa đều do Mao”.

Có bao nhiêu nạn nhân ở đó?

Các nhà sử học tin rằng khoảng 500.000 đến hai triệu người đã mất mạng vì cuộc Cách mạng Văn hóa.
Có lẽ khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là tỉnh phía nam Quảng Tây, nơi có nhiều báo cáo về vụ giết người hàng loạt và thậm chí là ăn thịt người.
Những hành động man rợ cũng xảy ra ở Nội Mông, nơi chính quyền đã mở ra một chiến dịch tra tấn tàn khốc chống lại những người được cho là kẻ ly khai
Ngay cả dân số mèo của Trung Quốc cũng phải chịu đựng khi Hồng vệ binh cố gắng loại bỏ những gì họ tuyên bố là một biểu tượng của sự suy đồi tư sản của Hồi giáo. Đi bộ qua các đường phố của thủ đô vào cuối tháng 8/1966, mọi người nhìn thấy những con mèo chết nằm bên lề đường với hai chân trước bị trói chặt vào nhau,Dikötter viết
Tuy nhiên, trái với niềm tin phổ biến, chính phủ chịu trách nhiệm cho hầu hết các cuộc đổ máu, chứ không phải Hồng vệ binh.
Chúng tôi đã đọc rất nhiều câu chuyện kinh dị về việc học sinh đánh giáo viên của họ đến chết ở cầu thang, ông Andrew Walder, tác giả của China Under Mao nói
Cuộc sống của một số nhân vật quyền lực nhất của Đảng Cộng sản đã bị xáo trộn bởi sự hỗn loạn, bao gồm nhà lãnh đạo tương lai Đặng Tiểu Bình, người bị thanh trừng năm 1967, và Xi Zhongxun, cha của chủ tịch đương nhiệm của Trung Quốc, ông Tập Cận Bình, người bị sỉ nhục, đánh đập và gửi đi lưu vong.
Chị gái cùng cha khác mẹ của Chủ tịch Tập Cận Bình, Xi Heping, được cho là đã tự kết liễu đời mình sau khi bị bức hại.

Người nước ngoài bị ảnh hưởng như thế nào?

Khi sự hỗn loạn bao trùm Bắc Kinh vào mùa hè năm 1966, các nhà ngoại giao nước ngoài thấy mình đứng trước cơn bão. Một cựu đại sứ Anh Percy Cradock viết trong hồi ký của mình nhớ lại cách mà một bài hát ca ngợi Chủ tịch Mao đã trở thành nhạc nền của cuộc sống ở thủ đô.
Đến năm sau, mọi thứ trở nên xấu hơn. Hồng vệ binh đã bao vây các đại sứ quán Liên Xô, Pháp và Indonesia, hành hạ xe của đại sứ Mông Cổ và treo một tấm biển bên ngoài sứ mệnh của Anh có dòng chữ: Đập nát chủ nghĩa đế quốc Anh! Một đêm, vào cuối tháng 8, các nhà ngoại giao đã buộc phải chạy trốn khỏi đại sứ quán Anh khi nó bị lục soát và đốt cháy. Người biểu tình bên ngoài hô vang: Giết chết! Giết chết!".
Anthony Gray, một nhà báo của Reuters ở Bắc Kinh, đã bị giam cầm hơn hai năm sau khi bị chính quyền Trung Quốc giam giữ vào tháng 7 năm 1967.

Cuốn sách nhỏ màu đỏ là gì?

Cẩm nang chính thức của Cách mạng Văn hóa là Sách nhỏ màu đỏ, một bộ sưu tập các trích dẫn bỏ túi từ Mao đã đưa ra một thiết kế cho cuộc sống của Hồng vệ binh.
“Hãy kiên quyết, không sợ hy sinh và vượt qua mọi khó khăn để giành chiến thắng!” - Đọc một lời khuyên nổi tiếng.
Ở đỉnh cao của Cách mạng Văn hóa, các buổi đọc Sách đỏ nhỏ được tổ chức trên xe buýt công cộng và thậm chí trên bầu trời Trung Quốc, khi các nữ tiếp viên hàng không giảng những lời của Mao cho hành khách của họ. Trong những năm 1960, Sách đỏ nhỏ được cho là cuốn sách được in nhiều nhất trên Trái đất, với hơn một tỷ bản được in.
Nông dân nghiên cứu các trích dẫn của Chủ tịch Mao trong Sách đỏ nhỏ - 'kinh thánh' của Cách mạng Văn hóa trong thời gian nghỉ trồng lúa, 1970, Quảng Tây, Trung Quốc. Ảnh: Sinopix / REX / Shutterstock

Cách mạng văn hóa đã ảnh hưởng đến Trung Quốc như thế nào?

Mao đã hy vọng phong trào cách mạng của mình sẽ biến Trung Quốc thành một ngọn hải đăng của chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng nhiều năm sau, nhiều người tin rằng nó có tác dụng ngược lại, mở đường cho việc Trung Quốc nắm lấy Chủ nghĩa Tư bản vào những năm 1980 và sự bùng nổ kinh tế sau đó.
Một phán quyết phổ biến là: không có Cách mạng Văn hóa, không cải cách kinh tế, không phải là cuộc cách mạng kinh tế, Rod Roderick MacFarquhar và Michael Schoenhals viết trong cuốn sách về thời kỳ Cách mạng cuối cùng của Mao. Cách mạng văn hóa là một thảm họa lớn đến nỗi nó đã kích động một cuộc cách mạng văn hóa sâu sắc hơn nữa
Một di sản lâu dài khác, các chuyên gia nói, là nỗi ám ảnh của những người cầm quyền ngày nay với sự ổn định và kiểm soát chính trị.
Họ đã nhìn thấy một Trung Quốc hoàn toàn hỗn loạn trong khoảng hai năm và đôi khi họ thấy sự tàn bạo, ông nói Walder, một chuyên gia của Đại học Stanford về thời kỳ này. Họ coi sự mất kiểm soát của Đảng là điều gì đó sẽ dẫn đến sự hỗn loạn.

Cách mạng văn hóa được nhớ đến ngày hôm nay như thế nào?

Sau cái chết của Mao, Đảng Cộng sản đã thực hiện một số nỗ lực để đối đầu với sự khủng khiếp của thập kỷ trước. Một số người đã bị trừng phạt vì bạo lực trong khi những người bị thanh trừng hoặc bắt bớ bất công đã được phục hồi.
Nhưng những nỗ lực đó đã bùng phát vào đầu những năm 1980 khi Bắc Kinh trở nên cảnh giác khi liên quan đến vụ giết người vào thời điểm sự phản đối ngày càng tăng của giới trẻ Trung Quốc. Giới học thuật không được khuyến khích đào sâu vào sự thật bất tiện của Đảng.
Các chuyên gia nói rằng Bắc Kinh sẽ tìm cách đánh dấu kỷ niệm 50 năm của năm nay bằng sự im lặng
Họ sẽ không đến đó - điều đó quá gây tổn hại cho bữa tiệc, ông MacFarquhar nói. Một Đảng có tội với ba đòn nặng nề đối với người dân Trung Quốc: Nạn đói lớn, Cách mạng văn hóa và hủy hoại môi trường đang diễn ra và thực tế có thể nguy hiểm hơn Nạn đói lớn và Cách mạng Văn hóa về lâu dài.

Hậu quả của Cách mạng Văn hóa sau 50 năm

Ngày 16 tháng 5 năm 2016 đánh dấu kỉ niệm 50 năm ngày Cách mạng Văn hóa chính thức bắt đầu khi Chủ tịch Mao Trạch Đông khởi xướng cuộc cách mạng nhằm mục đích thanh trừng các thành phần phá hoại và phản động, “tìm ra các đại diện của giai cấp tư sản đang ẩn nấp trong nội bộ Đảng, Chính phủ, quân đội, và các lãnh địa văn hóa khác”, rồi phơi bày chúng dưới “kính viễn vọng và kính hiển vi của Tư tưởng Mao Trạch Đông”. Đến khi Cách mạng Văn hóa chấm dứt, nó đã để lại rất nhiều hậu quả: khoảng 200 triệu người sống tại các vùng nông thôn bị suy dinh dưỡng kinh niên do nền kinh tế kiệt quệ; có tới hai mươi triệu người bị điều chuyển về các vùng nông thôn; và khoảng 1,5 triệu người đã bị hành quyết hoặc bức tử. Những lời buộc tội thường dựa trên lí lẽ rằng đương sự đã bị vẩn đục bởi các tư tưởng của ngoại bang, bất kể có căn cứ hay không; những thư viện lưu trữ các cuốn sách ngoại văn đã bị phá hủy, và Đại sứ quán Anh thì bị thiêu cháy. Tập Trọng Huân – cha đẻ của Chủ tịch đương nhiệm của Trung Quốc Tập Cận Bình – cũng đã bị lôi ra luận tội trước đám đông mà một trong các tội của ông là đã dám dùng ống nhòm nhìn sang Tây Đức trong một chuyến công du đến Đông Đức.
Trong quá trình điều tra các hậu quả gây ra bởi Cách mạng Văn hóa, điều khó ước lượng nhất không thể được lượng hóa một cách chính xác đến vậy: Cuộc Cách mạng Văn hóa đã ảnh hưởng đến tinh thần của người Trung Quốc như thế nào? Đây vẫn là một vấn đề chưa thể hoặc ít nhất là không dễ để nêu ra tranh luận công khai. Đảng Cộng sản vẫn rất nghiêm khắc hạn chế bất kì cuộc thảo luận nào liên quan đến giai đoạn này với nỗi lo rằng những điều đó sẽ châm ngòi cho một cuộc xét lại toàn diện di sản của Mao cũng như vai trò của Đảng Cộng sản trong lịch sử Trung Quốc. Trong tháng Ba vừa qua, nhằm đón đầu các động thái có thể diễn ra trong ngày lễ kỉ niệm, Hoàn cầu Thời báo, một tờ báo của Đảng Cộng sản đã đăng một bài xã luận nhằm cảnh cáo các “nhóm nhỏ lẻ” nhân cơ hội này tạo ra “một sự hiểu lầm hoàn toàn rối loạn về cuộc cách mạng văn hóa”. Bài xã luận nhắc nhở người dân rằng: “mọi cuộc thảo luận đều tuyệt đối không nên xa rời khỏi các quyết sách chính trị và chủ trương của Đảng”.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số người đã và đang cố gắng lật lại lịch sử và xét lại vai trò của họ trong thời kì ấy. Vào tháng Một năm 2014, các học sinh của một trường Trung học Thực nghiệm thuộc Đại học Sư phạm Bắc Kinh đã chính thức ngỏ lời xin lỗi tới các giáo viên của mình vì những gì họ đã gây ra trong làn sóng bạo lực vào tháng 8 năm 1966 khi chính Hiệu phó của trường là cô Biện Trọng Vân (Bian Zhongyun) bị các học sinh của mình đánh đập đến chết. Nhưng những cử chỉ như vậy quả là hiếm. Thường những người ngoài cuộc khó hiểu được vì sao những người còn sống sót sau Cách mạng Văn hóa lại thường cảm thấy không muốn nhắc lại những trải nghiệm vốn đã thay đổi sâu sắc cuộc đời họ đến vậy. Có một lời giải thích là các sự kiện diễn ra trong thời kỳ ấy hỗn mang đến mức nhiều người cảm thấy mang trong mình gánh nặng kép khi vừa là kẻ tội đồ, vừa là nạn nhân. Trước đó, Bao Pu, một tác giả trưởng thành tại Bắc Kinh nhưng hiện sống tại Hong Kong, nói “Mọi người đều cảm thấy mình là nạn nhân. Nếu nhìn vào họ, bạn sẽ thắc mắc rằng “Mày đã làm cái quái gì vậy? Tất cả là lỗi của người khác? Mày không thể đổ hết mọi tội lỗi cho Mao Trạch Đông được. Đúng, ông ta có trách nhiệm, ông ta là kẻ chủ mưu, nhưng để tàn phá toàn bộ đất nước đến mức như vậy – thì cả một thế hệ phải nhìn nhận lại.”
Đất nước Trung Quốc ngày nay đang ở giữa một cơn sốt chính trị được biểu hiện dưới hình thái của những động thái quyết liệt chống tham nhũng và việc bóp nghẹt những luồng tư tưởng trái chiều. Nhưng không vì thế mà có thể kết luận một cuộc Cách mạng Văn hóa thứ hai đang chuẩn bị được tái diễn. Mặc dù có hàng ngàn người đã bị bắt giữ, nhưng phạm vi của những gì đang diễn ra lại bé hơn nhiều, và những so sánh quá hời hợt tiềm ẩn nguy cơ khiến mức độ tàn khốc của Cách mạng Văn hóa không được nhận thức một cách trọn vẹn. Ngoài ra, còn có những khác biệt về mặt chiến thuật như: thay vì sử dụng quần chúng nhân dân để tấn công các đối thủ trong nội bộ Đảng như Mao Trạch Đông đã từng kêu gọi “pháo đả tư lệnh bộ” (oanh tạc các tổng hành dinh – NBT), Tập Cận Bình sử dụng chiến lược thắt chặt sự kiểm soát nhằm củng cố nội bộ Đảng và quyền lực của ông ta. Ông ta đã tái cơ cấu lại bộ máy lãnh đạo để đảm bảo quyền lực cao nhất nằm trong tay mình, bóp chết tự do tư tưởng và truyền thông, rồi, lần đầu tiên, đã truy lùng những kẻ phê phán chính phủ kể cả khi họ đang sống ngoài Trung Hoa đại lục. Vài tháng gần đây, các cơ quan an ninh đã bắt giữ các đối tượng này tại Thái Lan, Myanmar và Hong Kong.
Dù vậy vẫn có những điểm tương đồng sâu sắc hơn giữa giai đoạn hiện nay với giai đoạn Tập mới trưởng thành thành một thanh niên thời Cách mạng Văn hóa. Những tương đồng này cho thấy một số đặc điểm của hệ thống Lê-nin-nít dười thời Mao Trạch Đông đã tồn tại dai dẳng đến mức nào. Tập, với những động thái liên tiếp nhằm truy lùng và tiêu trừ các kẻ thù của mình, đã gợi lại câu hỏi mà Lênin coi là quan trọng nhất: “Kto, Kovo?” -“Ai, Ai?” Nói cách khác, trong mọi sự tương tác, vấn đề mấu chốt là phe nào thắng còn phe nào bại. Mao Trạch Đông và thế hệ dưới thời của ông – những người lớn lên trong thời kì kham khổ, không thể nào chấp nhận việc chia sẻ quyền lực hay chủ nghĩa đa nguyên; ông ta kêu gọi “vạch ra chiến tuyến rõ ràng giữa chúng ta và kẻ thù”. “Ai là bạn? Ai là thù?”. Điều này, theo lời Mao Trạch Đông là “câu hỏi quan trọng đầu tiên cần đặt ra với bất kì cuộc cách mạng nào.” Trên nhiều phương diện, Trung Hoa ngày này khác rất nhiều so với thời Mao Trạch Đông, nhưng riêng đối với câu hỏi trên, Tập Cận Bình đã có rất nhiều điều giống với người tiền nhiệm của mình.
Quan niệm một mất một còn đó đang ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia khác, bao gồm Mỹ. Ta dễ dàng bật cười khi đọc tin rằng tháng trước để kỉ niệm “Ngày Giáo dục An ninh Quốc phòng”, chính phủ Trung Quốc đã cho phát hành các tấm áp phích cảnh báo các nữ nhân viên làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước về rủi ro khi hẹn hò với người nước ngoài với lí do là những người nước ngoài đó có thể là gián điệp. Tấm áp phích hoạt hình có tên gọi “Tình yêu nguy hiểm” vẽ lên câu chuyện về một tình yêu không có hậu giữa cô Tiểu Lí – một công chức đem lòng yêu anh David – một học giả nước ngoài có mái tóc đỏ để rồi kết cục là đưa cho anh ta các tài liệu mật nội bộ.
Ngoài ra còn các tin đáng quan ngại khác như: hồi tháng Tư, sau nhiều năm các lãnh đạo cấp cao đưa ra lời cảnh báo rằng các tổ chức phi chính phủ có khả năng đang tìm cách đầu độc xã hội Trung Hoa bằng các luận điểm phản động của Tây phương, Trung Quốc đã thông qua một đạo luật cho phép siết chặt quản lý các hoạt động của họ. Đạo luật này trao thêm nhiều quyền hạn cho cảnh sát nước này nhằm giám sát các quỹ, hội từ thiện, các tổ chức vận động chính sách dù nhiều trong số đó đã hoạt động tại quốc gia này nhiều thập niên qua. Nhiều tổ chức phi chính phủ đã cảnh báo rằng nếu đạo luật này được thông qua sẽ khiến họ không thể hoạt động và họ hiện đang xem xét liệu có nên duy trì sự hiện diện dưới các quy định mới này hay không.
Năm mươi năm sau Cách mạng Văn hóa, khi Trung Quốc một lần nữa bị thôi thúc phải tự cách ly khỏi các ảnh hưởng ngoại bang, ta hoàn toàn có thể cho rằng các hậu quả có thể nghiêm trọng hơn thực tế. Vào mùa thu năm nay, Nhà xuất bản Đại học Harvard sẽ xuất bản một cuốn sách lịch sử mới có nhan đề Unlikely Partners: Chinese Reformers, Western Economists, and the Making of Global China [Các đối tác bất thường: Các nhà Cải cách Trung Quốc, các nhà Kinh tế phương Tây và việc tạo dựng một Trung Quốc toàn cầu hóa] viết bởi Julian Gewirtz, một nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Oxford. Cuốn sách ghi lại câu chuyện ít người biết đến về việc các trí thức và lãnh đạo Trung Quốc, khi nhận thấy nguy cơ suy sụp của nền kinh tế nước nhà vào cuối thời kì Cách mạng Văn hóa, đã tìm đến sự trợ giúp từ các nhà kinh tế học nước ngoài nhằm tái thiết đất nước.
Giai đoạn từ 1976 đến 1993 diễn ra một loạt các cuộc trao đổi, hội nghị và hợp tác, khi mà các trí thức phương Tây không phải tìm cách thay đổi Trung Quốc mà thay vào đó là giúp đỡ họ để quốc gia này tự thay đổi. Và họ có những đóng góp không thể thiếu để giúp Trung Quốc vươn lên thành một cường quốc kinh tế toàn cầu như ngày hôm nay. Gewirtz nói với tôi rằng:“Các nhà cầm quyền Trung Quốc đã phụ trách quá trình này – họ đã tìm kiếm nguồn ý tưởng phương Tây nhưng không áp dụng chúng một cách bừa bãi. Tuy vậy họ đã cởi mở đón nhận luồng ảnh hưởng từ phương Tây để rồi thực sự đã bị ảnh hưởng sâu sắc”.“Câu chuyện lịch sử này không nên bị quên lãng. Và vào thời điểm mà cả nền kinh tế lẫn xã hội Trung Quốc có khả năng rơi vào trạng thái bấp bênh, thay vì cô lập tri thức và nghi ngờ thế giới như những gì có vẻ đang diễn ra, việc quay lại thái độ cởi mở và xây dựng quan hệ đối tác với phương Tây là cách tốt nhất để tránh bị rơi vào một thảm họa tồi tệ khác.”

NOTE:

-Bài viết dù hơi dài, nhưng khi đọc về lịch sử thì nên đọc đầy đủ mới đã
-Bài viết hơi nhạy cảm về Chính Trị, nhưng nó để các bạn hiểu thêm về Cuộc Cách Mạng Văn Hóa ở Trung Quốc thôi và nhiều điều khác ở Trung Quốc
-Bài viết có thể có lỗi chính tả và mình hầu như đi dịch từ tài liệu nước ngoài nên có thể có lỗi dịch mặc dù đã rất cố gắng soát lỗi
-Bình luận về bài viết này bằng những ngôn từ văn minh, lịch sự

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

-THE GUARDIAN: The Cultural Revolution: all you need to know about China’s political convulsion
-THE NEW YORK TIMES: China’s Cultural Revolution, Explained
-BRITANNICA: Cultural Revolution, WRITTEN BY: Kenneth G. Lieberthal
-HISTORY: Cultural Revolution
-CNN: How the Cultural Revolution changed China forever
-RFI: Cách Mạng Văn Hóa Trung Quốc : tháng 08/1966, mùa hè đỏ máu đầu tiên
- Evan Osnos, “The Cost of the Cultural Revolution, Fifty Years Later”, The New Yorker, 06/05/2016.Biên dịch: Nguyễn Thùy Linh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

MAI LÀ NGÀY 30/4 RỒI, CHÚC MỌI NGƯỜI MỘT NGÀY LỄ TỐT LÀNH

Đọc thêm: