Minh giáo hiện nay thường không còn ai biết đến nữa nhưng lại không phải là một cái tên xa lạ một chút nào. Tất cả là nhờ tác phẩm Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung, hình ảnh Minh giáo mặc dù được xây dựng theo hình tướng một bang phái giang hồ hơn là một tôn giáo nhưng được ưu ái rất nhiều với hàng loạt các nhân sĩ anh hùng và cuộc nổi dậy nhân dân chống triều đình nhà Nguyên giành thắng lợi cuối cùng đưa Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế.
trương vô kỵ

Minh giáo không phải là sản phẩm tưởng tượng của Kim Dung mà là một tôn giáo có thật trên thế giới với nhiều đặc điểm thần bí thú vị và cũng gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Tuy nhiên, Minh giáo của Kim Dung lại không đơn thuần chỉ là Minh giáo mà còn là sự kết hợp với Bái Hỏa giáo, Bạch Liên giáo, Di Lặc giáo và các sự kiện, nhân vật lịch sử Trung Hoa. Để hiểu được Minh giáo trong thế giới của Kim Dung, phải đi tìm hiểu thực hư từng thứ một riêng rẽ nhưng trong mối quan hệ tương quan với nhau.
  1. Bái Hỏa giáo (Zoroastrianism)
Minh giáo của Kim Dung được miêu tả là một tôn giáo thờ lửa, vật chứng chưởng môn là thánh hỏa lệnh. Tuy nhiên, đây không phải là đặc điểm của Minh giáo mà là Bái Hỏa giáo. Cả Bái Hỏa giáo và Minh giáo đều xuất phát từ Ba Tư, có những điểm tương đồng nhưng cơ bản là khác biệt. Tuy nhiên vì một lý do nào đó mà Kim Dung quyết định gộp hai tôn giáo này lại.
zoroastrianism.jpg

Bái Hỏa giáo Zoroastrianism là một trong những tôn giáo cổ xưa nhất trên thế giới còn tồn tại đến ngày nay do Tiên tri Zoroaster (Zarathushtra) sáng lập (theo nhiều tài liệu) từ trước năm 1000 TCN tại đế quố Ba Tư cổ đại. Tín đồ Bái Hỏa giáo tôn vinh vị thần trí tuệ theo tiếng Ba Tư là Ahura Mazda. Mặc dù thời kì cực thịnh của Bái Hỏa giáo chỉ còn trong quá khứ, hiện tại quê nhà Iran đã có Hồi giáo thống trị, ở Trung Quốc đã bị dần xóa bỏ từ lâu, một số nơi khác chỉ là một cồng đồng thiểu số ít ỏi nên không được nhiều người quan tâm, tuy nhiên, những giá trị và tác động của Bái Hỏa giáo đối với nền văn minh nhân loại hiện đại vẫn cực kì lớn.
Bái Hỏa giáo hiện được coi là tôn giáo độc thần cổ xưa nhất và có tác động mạnh mẽ lên các tôn giáo toàn cầu độc thần sau này như Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo. Các khái niệm về một Thiên Chúa duy nhất, thiên đường, địa ngục, thiên thần (Micheal, Gabriel, Raphael), ngày tận thế được cho đều được sáng tạo trước tiên trong lòng Bái Hỏa giáo. Tôn giáo này được cho là ảnh hướng tới lịch sử Do Thái giáo trong giai đoạn đế quốc Ba Tư thống trị toàn bộ Trung Đông suốt hơn 10 thế kỉ từ thế kỉ VI TCN.
Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều câu chuyện tương đồng với Kinh Thánh Cựu Ước trong niềm tin của Bái Hỏa giáo như Thiên Chúa tạo dựng trời đất, cặp vợ chồng thủy tổ đầu tiên của loài người, ngày tận thế người chết sẽ sống lại nghe phán xử từ Thiên Chúa, ngay cả câu chuyện về Tiên tri Moses nhận mặc khải từ Thiên Chúa trong hình hài ngọn lửa cũng đã có những phiên bản tương tự trong tôn giáo Ba Tư này. Đặc biệt, Bái Hỏa giáo cũng không thờ ảnh tượng vì cho rằng Thiên Chúa là đấng thiêng liêng vô hình, tất cả các hình thức miêu tả Thiên Chúa đều bị coi là báng bổ, khá đồng nhất với các tôn giáo độc thần dòng Abraham sau này (trừ Công giáo, Anh giáo và Chính Thống giáo có thờ tượng Chúa Jesus).
Tín đồ Bái Hỏa giáo tin theo bộ kinh Ba Tư cổ đại có tên là Avesta Gatha (A Duy Tư Đà), theo trường phái nhị nguyên, chủ trương phân ra làm hai bên thiện-ác và tự do ý chí. Thiện nguyên là hóa thân của Ahura Mazda hoặc Oocmuzd) còn bên ác nguyên là hóa thân của Angra Mainyu) và con người được sinh ra là chiến trường của cuộc chiến tranh thiện ác này trong đó con người có quyền tự do chọn lựa nhưng đến ngày tận thế sẽ chịu sự phán xử cuối cùng từ Thiên Chúa Ahura Mazda. Tôn chỉ của Bái Hỏa giáo có phần hơi giống với nhân vật Tam Hảo của Xa Thi Mạn trong Cung Tâm Kế (TVB): nói lời hay, làm việc tốt, có lòng thiện. Thánh hỏa chính là biểu tượng của Ahura Mazda và được lưu giữ vĩnh cửu trong các đền thờ.
Bái Hỏa giáo được truyền vào Trung Hoa vào thời Đường, tuy không có ảnh hưởng quá mạnh nhưng vẫn được phép hoạt động trong cộng đồng nhỏ do thu hẹp trong phạm vi chủng tộc và không có chủ trương bành trướng. Cho đến khi nhà Tống có lệnh tiêu diệt tất cả các tôn giáo ngoại bang, đặc biệt là Phật giáo, Bái Hỏa giáo cũng không tránh khỏi kiếp nạn.
  1. Minh giáo (Mani giáo – Manichaeism)
Minh giáo là một tôn giáo cận đông do một Tiên tri có tên Mani khởi xướng tại đế quốc Ba Tư thế kỷ III. Cũng do có cùng một cố hương, Mani giáo cũng tin vào thuyết nhị nguyên (nhưng ở đây là giữa Ánh Sáng và Bóng Tối) nên nhiều người cho rằng đây chính là Bái Hỏa giáo hoặc là một nhánh thuộc Bái Hỏa giáo Ba Tư. Tuy nhiên, thần học Minh giáo lại có những điểm đặc biệt hết sức thú vị và khác biệt, đặc biệt Minh giáo không thờ lửa.
Phát triển vào thời kì Bái Hỏa giáo đang thịnh trị, Cơ Đốc giáo cũng đang dần phát triển, Minh giáo Ba Tư đã kết hợp tất cả các tôn giáo xuất hiện trước đó làm tín điều của mình như Phật giáo, Ấn giáo cổ, Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Bái Hỏa giáo, các tôn giáo cổ Babylon và Ba Tư. Bản thân Tiên tri Mani cho rằng, ông đã được thiên thần Eltaum mặc khải lời Thiên Chúa giống như việc Đức Phật Thích Ca là tiên tri ở Ấn Độ, Zoroaster ở Ba Tư hay Jesus ở phía Tây, tuy nhiên, chỉ có ông và kinh điển của mình được Thiên Chúa mặc khải mới là tôn giáo hoàn cầu.
Nhiều nguồn ghi nhận việc Mani đã từng tuyên bố mình chính là môn đồ hậu thế của Jesus và chính Jesus cũng là một nhân vật quan trọng trong Minh giáo. Jesus trong Minh giáo được tin là có 3 danh tính, thứ nhất là Jesus Quang Minh (Luminous) – là người được Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ truyền đi lời mặc khải tối thượng của mình, thứ hai là Jesus Cứu Thế (Messiah) trong vai trò đối với dân tộc Do Thái và Jesus Cứu Nạn (Suffering) đối với việc phải chịu đóng đinh trên cây thập tự. Tuy nhiên, Jesus trong Minh giáo là một nhân vật thần thánh hoàn toàn nên cũng không có chuyện do trinh nữ Mary sinh ra.
Một số nhân vật của Phật giáo và Ấn giáo cổ cũng xuất hiện trong Minh giáo. Mani từng tuyên bố chính là hiện thân của Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di Lặc, Thần Krishna hay Thần Ganesha. Trong đó ảnh hưởng của Phật giáo lên Minh giáo có thể thấy là rõ nét nhất.
Minh giáo được truyền vào Trung Hoa cũng vào thời Đường và thường được xem là một nhánh của Phật giáo. Dần dần, Minh giáo trở thành quốc giáo của vùng Tân Cương của người Hồi và Duy Ngô Nhĩ. Tại trung nguyên, Minh giáo chính thức được Võ Tắc Thiên công nhận vào cuối thế kỉ VII và được thành lập nhiều đền chùa tại kinh đô Trường An có tên Đại Vân Quang Minh tự. Kể từ đó, Minh giáo có điều kiện lan truyền khắp miền Nam Trung Hoa và có ảnh hưởng vô cùng lớn đặc biệt với thuyết “Phật Di Lặc giáng sinh tịnh thổ”.
Tuy nhiên sau đó với chính sách bài giáo “không làm ô tạp văn hóa trung nguyên”, triều đình đã cấm các tôn giáo ngoại bang, tán sát các tôn giáo này hết sức nặng nề, đặc biệt là Phật giáo. Minh giáo vì bị xem là một nhánh của Phật giáo nên cũng bị đàn áp đến mức phải lui về hoạt động bí mật. Bị triều đình truy sát và gieo điều tiếng xấu coi là tà đạo, dần dần chữ Ma trong Mani bị dân gian đổi thành ma trong tà ma.
Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Kim Dung lý giải  về điều này trong cuộc nói chuyện giữa Dương Tiêu và Trương Vô Kỵ. Theo đó, khác với Phật giáo và Đạo giáo ở ẩn tránh xa sự đời, giáo đồ Minh giáo luôn phải nêu cao chính nghĩa, giúp đỡ dân lành nên có hiềm khích lớn với quan phủ, đặc biệt là thời Tống và Nguyên. Đến thời kì này, Mani giáo tại chính quốc Ba Tư cũng gặp rất nhiều khó khăn do đối đầu trực tiếp với Bái Hỏa giáo và Cơ Đốc giáo nên suy yếu nặng nề và đứng trước bờ vực tàn lụi. Có thể chính vì lý do này mà Kim Dung đã sáng tạo ra tình tiết Tổng giáo Ba Tư có giáo chủ bị chết nên phải đến trung thổ đón thánh nữ. Sau thời kì này thì Minh giáo Trung Hoa dường như là chi phái duy nhất tồn tại.
  1. Kết hợp với Bạch Liên giáo và khởi nghĩa lật đổ Nguyên triều
Do có hiềm khích với triều đình nhà Tống, nhận thấy dân chúng bị quan quân bóc lột nặng nề, một giáo đồ Minh giáo đầu thế kỉ XII vùng Chiết Giang có tên là Phương Lạp rất được lòng dân chúng đã nổi dậy khởi nghĩa. Phiến quân tuy thất bại nhưng cũng đã để lại nhiều tiếng vang. Trong khi kể lại chuyện của giáo phái cho Trương Vô Kỵ nghe, Dương Tiêu cũng đề cập đến Phương Lạp với tư cách là giáo chủ đời trước của Minh giáo.
Đến cuối thời Nguyên, các phong trào nghĩa quân nổ ra khắp nơi nhằm lật đổ triều đình. Minh giáo đã hợp nhất với Bạch Liên giáo và Di Dặc giáo thành lập phong trào khởi nghĩa Khăn Đỏ ở miền Bắc Trung Quốc với thủ lĩnh là giáo chủ của Bạch Liên giáo Hàn Sơn Đồng. Sau khi Hàn Sơn Đồng tử chiến, con trai là Hàn Lâm Nhi được đưa lên ngôi, thành lập chính quyền “ngụy Tống” tự dưng là Tiểu Minh Vương, thủ lĩnh của toàn bộ nghĩa quân. Đây là những nhân vật lịch sử có thật. Riêng Tiểu Minh Vương Hàn Lâm Nhi sau đó chỉ có danh mà không có quyền, sống phụ thuộc vào các thế lực tự xưng vương khác như Quách Tử Hưng và sau đó là Trần Hữu Lượng, Chu Nguyên Chương… Chu Nguyên Chương sau này trở thành một thế lực mạnh, kiểm soát được Hàn Lâm Nhi cho đến khi đại cục gần thành được cho là đã thủ tiêu minh chủ của toàn nghĩa quân Tiểu Minh Vương để danh chính ngôn thuận lên ngôi Hoàng Đế. Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Hàn Sơn Đồng và Hàn Lâm Nhi cùng với Chu Nguyên Chương (và Từ Đạt…) đều là tín đồ trung thành và tướng quân chính chiến của nghĩa quân Minh giáo chứ không hề nhắc tới Bạch Liên giáo. Di Lặc giáo được nhắc đến trong đoạn Trương Tam Phong và Trương Vô Kỵ trở xuống từ Tung Sơn Thiếu Lâm gặp gỡ Thường Ngộ Xuân đang liều mình cứu ấu chúa. Ấu chúa ở đây được Kim Dung miêu tả là con của Chu Tử Vượng, lãnh đạo của Di Lặc giáo - một chi lưu của Minh giáo. Kim Dung có nhắc đến việc tuy Di Lặc giáo và Thiên Ưng giáo không cùng một tôn giáo nhưng có nguồn gốc sâu xa và đều là Minh giáo Cho đến khi chiếm được thiên hạ, Chu Nguyên Chương lo ngại Trương Vô Kỵ nên đã tìm cách thủ tiêu, Trương Vô Kỵ bỏ đi tuyệt tích cùng Triệu Mẫn.
Việc Chu Nguyên Chương đặt quốc hiệu là Đại Minh có liên quan gì đến Minh giáo hay không vẫn là một câu hỏi không có lời giải đáp. Tuy nhiên, Minh giáo là một bộ phận lớn trong các nghĩa quân là sự thật và không thể truy nguyên được ở bất cứ đâu chữ “Minh” này.
chu nguyên chương.jpg

Tuy nhiên, sau khi lên ngôi, cũng chính là Chu Nguyên Chương hạ chiếu cấm giáo đối với các tín đồ Minh giáo và cả Bạch Liên giáo, có thể là lo sợ tầm ảnh hưởng của các tôn giáo này vì thực tế chính ông cũng nhờ đó mà đi lên. Công cuộc đàn áp sau đó diễn ra hết sức khốc liệt, Minh giáo một lần nữa bị coi là tà giáo và phải sống lay lắt cho tới khi tàn lụi hoàn toàn. Riêng Bạch Liên giáo có thay đổi chút ít, một số nhánh phải vẫn có thể tồn tại được.
Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Nhật Nguyệt thần giáo dù không được nói rõ nhưng có thể được xem là đời sau của Minh giáo do chữ Nhật và Nguyệt chính là chiết tự của chữ Minh, cùng bị xem là tà giáo và các chức vị trong giáo phái cũng có phần tương đồng.
Số phận của Minh giáo đến đầu thời nhà Thanh hoàn toàn kết thúc.