VÕ VĂN KIỆT - CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, đoàn kết dân tộc tạo nên sức mạnh quốc gia là điều vô cùng quan trọng, mang ý nghĩa sống...
Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, đoàn kết dân tộc tạo nên sức mạnh quốc gia là điều vô cùng quan trọng, mang ý nghĩa sống còn để giành chiến thắng trước mọi khó khăn. Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc Việt Nam, các thế lực ngoại xâm luôn có dã tâm xâm chiếm và chia cắt đất nước ta. Không chỉ giặc ngoại xâm, đất nước ta còn phải đối mặt với chính những yếu tố nội tại như sự chia cắt địa lý, khác biệt vùng miền dẫn đến chia cắt lòng người. Sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước đòi hỏi phải có những lãnh đạo có tâm và có tầm để tập hợp, đoàn kết tất cả các lực lượng, thu nhân tâm về một mối. Và Võ cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã là một nhân vật xuất chúng đáp ứng được những điều kiện đó. Cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng, ông chính là người đi đầu trong chủ trương và hành động không ngừng nghỉ cho sự nghiệp đoàn kết, hòa hợp dân tộc. Cùng mình tìm hiểu thêm những thông tin thú vị về cuộc đời và sự nghiệp của nhà lãnh đạo tài ba này của đất nước ta thông qua bài viết dưới đây nhé.
1, Tuổi thơ cực nhọc
Trước hết, để hiểu về một nhân vật, chúng ta cần phải biết và hiểu về hoàn cảnh nào đã sinh ra một người như thế. Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa sinh năm 1922 tại ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam.
Xã Trung Hiệp xưa kia là làng Trung Hiệp được thành lập từ thời vua Minh Mạng, người dân nơi đây đa số là dân tứ phương từ miền Trung vào. Thời Pháp thuộc vùng này đã trải qua nhiều lần tách nhập, lần cuối cùng năm 1930, làng Trung Chánh nhập vào làng Trung Lương gọi là làng Trung Hiệp. Dòng họ Phan của Võ Văn Kiệt là chi họ Phan di cư từ miền Trung vào Nam kỳ định cư, tính đến đời Phan Văn Hòa là đời thứ tư. Đất Cái Bè (Tiền Giang) là nơi định cư đầu tiên của ông Phan Văn Bình, tức ông nội của Võ Văn Kiệt, với nghề đánh bắt thủy hải sản quanh năm “hạ bạc”, cuộc sống nhiều gian khó, hiểm nguy. Năm 1862, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, ông Phan Văn Bình đã đưa cả gia đình lánh về sống ở Vĩnh Trị (Vũng Liêm). Khi quân Pháp đánh chiếm Vĩnh Long, ông Phan Văn Bình tham gia lực lượng của nghĩa quân Lê Cẩn, Nguyễn Giao chống Pháp ở vùng An Điền, Láng Thé, cùng dân binh xây dựng địa đạo, ụ chiến đấu, đào hào chống Pháp dọc bờ sông Cổ Chiên và vàm sông Vĩnh Trị (Vũng Liêm). Sau chiến trận Cầu Vông năm 1872, đốc binh Lê Cẩn hy sinh, Nguyễn Giao tiếp tục dấy binh kế nghiệp, chiến đấu ròng rã suốt 10 năm gian khổ. Trong một trận chiến tại vàm Vũng Liêm, Nguyễn Giao anh dũng hy sinh, từ đó lực lượng nghĩa quân dần tan rã, ông Bình trở về với nghề làm mướn nuôi gia đình.
Ông Phan Văn Bình có bảy người con. Ông Phan Văn Dựa là người con thứ tư, kết hôn với bà Võ Thị Quế sinh, được 8 người con. Cuộc sống làm thuê, làm mướn bao đời lam lũ quanh năm, họ chỉ ao ước vào một tương lai sau này con cái có cuộc sống đỡ vất vả, no đủ hơn, vì vậy khi chọn đặt tên cho các con, ông bà đã chọn các tên như: An, Đầy, Tràng, Huệ, Diệu, Thực, Phẩm, Đủ. Tên Đủ dự kiến đặt tên cho người con út nhưng do trùng tên với một người lớn tuổi trong xóm nên cha mẹ quyết định đổi thành Hòa. Cũng từ đó, cái tên khai sinh Phan Văn Hòa của ông Kiệt ra đời, nếu gọi theo thứ bậc trong các gia đình Nam bộ thời ấy thì là “Chín Hòa”.
Võ Văn Kiệt sinh ra vào cuối năm 1922, đây là thời gian Vĩnh Long bị mất mùa liên tiếp, đời sống nông dân vô cùng khổ cực. Khi đó, cậu bé Hòa là con út trong một gia đình có năm anh trai và hai chị gái, quê ở ấp Bình Phụng, một ấp nghèo thuộc xã Trung Lương, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Gia đình Phan Văn Hòa cũng nghèo như số đông trong làng, từ đất ở, đất ruộng, đến trâu cày đều đi thuê. Ấy thế mà gia đình ông vẫn nhận nuôi thêm một đứa bé nữa bằng tuổi ông Kiệt làm con nuôi. Phải nuôi hai đứa trẻ còn đang tuổi bú mẹ, do đó có bữa thì ông Kiệt được bú mẹ, có bữa phải đi bú nhờ.
Trong xóm, có một ông chú họ tên là Phan Văn Chi, thường gọi là Hai Chi, không con, không vợ, về gia cảnh thì còn nghèo hơn cả gia đình ông Dựa. Ông Hai Chi phần thấy chị dâu mình vất vả, phần cũng lo nghĩ tới tuổi già, bèn sang xin Chín Hòa về nuôi. Ông bà Phan Văn Dựa bấm bụng đồng ý. Mỗi bữa Chín Hòa khát sữa, ông Hai Chi lại cõng lòng vòng khắp xóm, ai cho thì bú, người dân quê gọi là "bú thép". Kể đến đây, ông Võ Văn Kiệt cười: "Có lẽ máu xã hội của tôi có từ đó”.
Cha đẻ của ông Kiệt, ông Phan Văn Dựa tuy là người không biết chữ, cả đời cực nhọc làm thuê, làm mướn để nuôi con, nhưng ông tính tình khẳng khái, trượng nghĩa. Khi còn nhỏ, ông Kiệt là một đứa trẻ rất hiếu động, có niềm đam mê với võ thuật. Có người trong gia đình không đồng tình nói rằng học võ chỉ để đánh nhau, nhưng ông Phan Văn Dựa là người khuyến khích Chín Hòa học võ. Theo cha ông, học võ là để rèn luyện sức khỏe và phòng vệ bản thân, đồng thời cũng là để người mạnh có thêm sức mạnh mà bảo vệ người yếu. Chính quan niệm đó của cha ông Kiệt đã nuôi dưỡng cho ông một tinh thần nghĩa hiệp, dám xả thân khi lớn lên.
Những ngày tháng lớn lên tại của quê hương của ông Kiệt là những ngày tháng vất vả, không được đến trường, ăn không đủ no, phải lao động cực nhọc để kiếm sống, nhưng nhờ đó, ông Kiệt ngay từ khi còn bé đã biết yêu lao động, thương người cùng cảnh ngộ. Khi lên sáu, lên bảy tuổi, vào mùa gặt, ông Kiệt thường được theo cha nuôi lênh đênh đi gặt mướn cho các điền chủ dọc sông Tiền, sông Hậu. Công việc của cậu bé Chín Hòa khi ấy là giữ ghe hoặc mót lúa. Mỗi mùa như thế, ông Kiệt cũng thêm được cho cha nuôi được vài giạ.
Năm 11 tuổi, gia đình thuê được mấy công đất làm ruộng, mướn cả đôi trâu để lo cày trục. Từ đó, ông Kiệt chăn trâu, cắt cỏ, làm bạn với thiên nhiên, ruộng đồng thôn dã. Ông từ ngày đó đã biết cào cỏ, đứng trục, học cày, học phát, học cấy, biết cộ lúa, vác lúa phụ giúp gia đình. Nhưng rồi mùa màng thất bát, không đủ trả công thuê mướn, gia đình phải trả trâu, trả ruộng, ông Kiệt lại phải đi ở đợ, làm thuê.
Mặc dù tuổi thơ cơ cực, nhưng ông Kiệt rất ham học. Lớp học do những gia đình trung nông, địa chủ sau ngày mùa cất trại, rước thầy về dạy, dạy mùa nên tiền học chỉ phải trả “rất nhẹ”. Ông Hai Mẹo – một người cháu gọi ông Kiệt là chú nhưng lớn tuổi hơn và cũng là một trong hai người thầy “dạy mùa” của ông có kể lại: “Chín Hòa thông minh và ăn nói lễ độ lắm. Nhưng dạy được hai năm thì tôi cũng hết chữ”. Ông Kiệt ham học, đi học khá đều đặn và kết bạn với nhóm bạn cùng trang lứa, tranh thủ lúc trưa lại đi cắt cỏ cho trâu ăn để kịp học ngày hai buổi được đến trường.
Học được ba tháng thì mùa làm đồng lại đến, cậu học trò Chín Hòa khi ấy buộc phải nghỉ học để phụ giúp cha mẹ. Mùa vụ sau lại đến, Chín Hòa tiếp tục học với thầy Võ Văn Nhậm tại nhà hàng xóm. Nhưng được một thời gian ngắn ông phải nghỉ học để đi làm mướn ở Hậu Bối (ấp An Lạc, xã Trung Hiếu). Vì việc học dang dở, nên ông chỉ mới biết đọc, biết viết cơ bản. Thầy giáo Nhậm rất thương hoàn cảnh của Chín Hòa, biết cậu học trò của mình rất ham học nhưng do hoàn cảnh khó khăn không thể theo học xuyên suốt chương trình, nên thầy thường xuyên tới lui hỏi thăm, chỉ dạy thêm. Ngoài thời gian dạy chữ ra thầy Nhậm còn thường xuyên kể về những mẩu chuyện ý nghĩa. Ông kể cho Chín Hòa nghe về thầy Bảy, người bạn thân của mình đang giảng dạy ở quận lỵ Vũng Liêm. Thầy Bảy là một thầy giáo dạy giỏi và có tinh thần yêu nước, ông có các tác phẩm nam nữ bình quyền đã bị thực dân Pháp cấm đoán không cho xuất bản, vì sách có nội dung cho rằng một đất nước bị ngoại bang xâm chiếm thì không bao giờ có “bình quyền”, một dân tộc không có quyền thì làm gì có tự do… Những câu chuyện đó, sau này ông Kiệt còn nhớ và mang theo suốt cuộc đời.
2, Bước đầu cách mạng
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất giàu truyền thống văn hiến, yêu nước, đấu tranh chống áp bức cường quyền, nên khi tuổi đời còn rất trẻ ông Võ Văn Kiệt đã sớm hình thành tư tưởng yêu nước, giác ngộ cách mạng. Cuộc sống rày đây mai đó,ông Kiệt đã nhìn thấy và trực tiếp trải nghiệm được cảnh khổ cực, cuộc sống vô vàn khó khăn của đa số người nông dân lao động, cũng như cuộc sống xa hoa, lãng phí của những người giàu có. Từ sự đồng cảm với bà con nghèo và căm ghét thói cường quyền, trịch thượng của tầng lớp giàu có,… trong suy nghĩ của người thiếu niên Phan Văn Hòa khi ấy khao khát nhất là một cuộc sống tự do, không ràng buộc, nhất là không bị khinh khi. Dần dần, từ ý chí tự do đó mà ông hình thành lý tưởng phải làm gì đó để giúp đỡ đất nước.
Năm 1938, mới 16 tuổi và đang làm thuê xa nhà, hay tin mẹ bị bệnh nặng rồi mất, ông Kiệt phải về chịu tang. Tại đây, có một sự kiện mang tính bước ngoặt trong cuộc đời ông. Trong số khách đến chia buồn đám tang mẹ, có ông Hà Văn Út - người thầy từng dạy ông từ thuở nhỏ. Khi trao đổi với thầy, chàng thanh niên Chín Hòa được tuyên truyền và giác ngộ tinh thần cách mạng. Lần đầu tiên trong đời, ông Kiệt cảm thấy phải đấu tranh đến hơi thở cuối cùng để chống áp bức, bóc lột; phải đấu tranh để giành độc lập, tự do.
Năm 16 tuổi, ông chính thức tham gia phong trào cách mạng đầu tiên trong cuộc đời là Thanh niên phản đế. Nhờ sự nhiệt thành cách mạng của mình mà ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 năm 1939. Do sợ rằng gia đình sẽ cấm cản nêu ông quyết định giấu gia đình tham gia hoạt động cách mạng. Ông Hà Văn Út đưa ông Kiệt tới giới thiệu cho Hội Cứu tế, Hội Ái hữu. Kể từ đó, ban ngày chàng thanh niên Chín Hòa vẫn đi làm mướn, phát cỏ, cày trục…, ban đêm đi dự nghe diễn thuyết, tham gia tuyên truyền, lôi kéo các bạn cùng trang lứa tham gia vào tổ chức bí mật và công khai. Sau đó, ông lại được phân công làm giao liên cho xã và huyện. Do bản tính hoạt bát, hòa đồng, thông minh, nhanh nhạy, nên ông Kiệt làm rất được việc, được mọi người tin cậy, quý mến. Nói về tài tuyên truyền, vận động quần chúng của thanh niên Phan Văn Hòa, thầy giáo Mẹo kể: “Mới mười mấy tuổi, thằng chả họp dân, nói, ai cũng há hốc mồm nghe. Thằng chả vận động đi cướp chính quyền, người ta xách rựa đi hết”.
Thông qua hoạt động, thử thách trong cao trào cách mạng dân chủ do Đảng lãnh đạo và được sự dìu dắt của các chiến sĩ cách mạng đàn chị, đàn anh, ông Kiệt ngày càng trưởng thành, được tổ chức tin tưởng. Tháng 11 năm 1939, Chín Hòa được đồng chí Tạ Uyên, lúc này là Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang giới thiệu vào tổ chức Đảng cộng sản Đông Dương.
Trong thời gian Khởi nghĩa Nam Kỳ ông Kiệt giữ vai trò là Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ tại huyện Vũng Liêm. Sau Cách mạng Tháng Tám, khi quân đội Pháp tái chiếm Nam Kỳ, Võ Văn Kiệt là Ủy viên chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Từ năm 1946 đến năm 1954, ông là Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, sau đó là Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu.
3, Sự nghiệp chính trị trước khi trở thành Thủ tướng Việt Nam
Võ Văn Kiệt là thành viên của phong trào độc lập Việt Minh, ông đã chiến đấu chống lại thực dân Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–54) ở miền Nam Việt Nam. Theo Hiệp định Genève, các cán bộ cộng sản buộc phải tập trung tại miền Bắc Việt Nam, nhưng ông nằm trong số những người ở lại miền Nam, di chuyển giữa các căn cứ bí mật ở miền Đông Nam Bộ. Người vợ đầu tiên của ông, Trần Kim Anh, và hai người con của ông đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công bằng tên lửa của lực lượng Hoa Kỳ vào năm 1966.
Sau Hiệp định Genève, năm 1955, Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ và Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Từ năm 1959 đến cuối năm 1970, ông được giao trọng trách là Bí thư Khu ủy T.4, tức khu Sài Gòn - Gia Định. Ông bắt đầu được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương trong Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam từ Đại hội III (năm 1960) và là Ủy viên Trung ương Cục miền Nam năm 1961, chỉ huy các lực lượng cộng sản tại Sài Gòn và các vùng lân cận.
Từ năm 1973 đến năm 1975 ông được điều về làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Sau khi lực lượng Cách mạng kiểm soát Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông đã lãnh đạo việc tiếp quản thành phố và năm 1976 được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân (bí danh là Tỉnh trưởng) đồng thời là Phó Bí thư Thành ủy, cơ quan này đã được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tưởng nhớ vị lãnh tụ đã khuất.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt được Trung ương Cục phân công giữ chức Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn. Từ năm 1976 ông làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ông cũng đắc cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV (năm 1976), ông được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị và được phân công làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 1982.
Từ tháng 4 năm 1982 Võ Văn Kiệt được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Phó chủ tịch và Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng.
Từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 22 tháng 6 năm 1988, ông được giao nhiệm vụ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng qua đời đột ngột.
Ngày 11 tháng 3 năm 1988, thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo ký thông báo về giữ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đối với ông Võ Văn Kiệt. Sau đó khi đưa ra Quốc hội bỏ phiếu bầu chức danh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Đỗ Mười trúng cử, do đó ông vẫn làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Từ năm 1987 đến năm 1991, ông làm Phó Thủ tướng kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo Hướng dân sinh đẻ có kế hoạch, sau người tiền nhiệm là Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp.
4, Nhiệm kì thủ tướng thứ nhất và khởi động dự án đường dây 500 kV Bắc-Nam
Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII, ngày 8 tháng 8 năm 1991, Võ Văn Kiệt được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (thay Đỗ Mười). Từ đây, dưới thời ông đã có nhiều quyết sách quan trọng về kinh tế của đất nước trong thời kỳ Đổi Mới.
Ở vào thời điểm năm 1986, chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thổi những luồng gió mới. Tuy nhiên, khu vực miền Nam và Thành phố Hồ Chí Minh - nơi có sự tiếp cận với công nghiệp sớm vẫn không thể tạo ra đột phá mạnh mẽ do điện thiếu trầm trọng bởi nguồn tại chỗ rất hạn hẹp, cắt điện luân phiên là chuyện thường ngày.
Quyết định xây dựng đường dây siêu cao áp 500kV Bắc - Nam nhằm truyền tải điện từ Bắc vào Nam, giúp miền Nam bớt cơn khát điện đã được Võ Văn Kiệt chính thức đặt ra với các lãnh đạo của Bộ Năng lượng trong một bữa cơm Tết năm 1991. Câu trả lời "Làm được" của Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải một tuần sau đó cũng là khởi đầu cho hàng núi công việc cần triển khai.
Mục tiêu xây dựng công trình là nhằm truyền tải lượng điện năng dư thừa từ Miền Bắc (từ cụm các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Thác Bà; nhiệt điện Phả Lại, Uông Bí, Ninh Bình) để cung cấp cho Miền Nam và Miền Trung lúc đó đang thiếu điện nghiêm trọng, đồng thời liên kết hệ thống điện cục bộ của ba Miền thành một khối thống nhất. Điểm đặc biệt của việc xây dựng đường dây truyền tải điện 500kV Bắc - Nam chính là thời gian thi công trong vòng hai năm - một mốc thời gian như “không tưởng” đặt ra cho cán bộ công nhân viên ngành năng lượng lúc đó. Thủ tướng Võ Văn Kiệt được phân công làm Tổng chỉ huy công trình.
Thoạt đầu, dự án đường dây xuyên Việt 500 kV đã gây rất nhiều tranh luận từ các cấp lãnh đạo Nhà nước, các chuyên gia kỹ thuật trong và ngoài nước đến dư luận xã hội vì những đặc thù có một không hai của nó. Trước tiên về mặt kỹ thuật, đây là một công trình khó dưới góc độ truyền tải điện vì khoảng cách quá lớn, rất gần với chiều dài được các chuyên gia gọi là “một phần tư bước sóng” (1.500 km), một chiều dài, về lý thuyết, có thể gây ra rất nhiều khó khăn kỹ thuật trong thiết kế và vận hành đường dây như giới hạn ổn định và kéo theo nó là khả năng truyền tải thấp, khó giữ điện áp trong giới hạn cho phép, xác suất mất điện khá lớn vì đường dây mạch đơn, đi suốt chiều dài đất nước, nhiều đoạn qua những địa hình cực kỳ hiểm trở, điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt, mưa bão lũ lụt hàng năm. Về mặt xã hội, nhiều người băn khoăn về tính khả thi và hiệu quả kinh tế của công trình do vốn đầu tư lớn, vật tư thiết bị đa phần nhập từ nước ngoài, thời gian dự kiến hoàn thành công trình quá ngắn so với kinh nghiệm thực tế của thế giới, mức độ an toàn của công trình nhìn từ góc độ xã hội có thể gây lo lắng vì nhiều vùng tình hình an ninh phức tạp, có nơi đường dây đi quá gần với biên giới các nước láng giềng…. Tất cả những khó khăn trên đây cùng với những kiến nghị về giải pháp khắc phục đã được báo cáo và phân tích chi tiết, đầy đủ bởi Võ Văn Kiệt và đồng sự, đúng như tuyên bố của ông trước đó: “Nhiệm vụ của cán bộ khoa học và kỹ thuật các anh là phải chứng minh và chịu trách nhiệm về tính khả thi của công trình, những việc khác như tiền nong, nhân lực, các vấn đề về xã hội, an ninh đã có Chính phủ lo”.
Ông ra lệnh xử lý nghiêm, dù cho người đó là ai, ở cương vị nào. Sau này, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải, người lập đề án đường dây truyền tải điện 500kV Bắc - Nam bị kết tội thiếu trách nhiệm trong quản lý, bị kết án ba năm tù giam, một số cán bộ có liên quan bị cách chức. Ông Kiệt cũng tuyên bố nếu đường dây 500KV không thành công thì ông sẽ tự động từ chức.
Công trình được Bộ Chính trị thông qua vào tháng 1 năm 1992. Đến ngày 25 tháng 2 năm 1992, Chính phủ phê duyệt Luận chứng kinh tế - kỹ thuật với quyết định thời gian hoàn thành là 2 năm và do thời gian khẩn cấp nên cho phép thực hiện theo phương thức khảo sát, thiết kế, nhập vật tư - thiết bị và thi công thực hiện song song.
Mục tiêu hoàn thành xây dựng đường dây 500kV Bắc - Nam có chiều dài tới 1.500 km trong 2 năm cũng đã được nhiều người cho là không khả thi và nhất là giải quyết bài toán 1/4 bước sóng (sóng điện từ có hình cos và mỗi bước sóng điện từ tương ứng 6.000 km. Độ dài của đường dây 500kV mạch 1 được tính toán là khoảng 1.500 km, đúng bằng 1/4 bước sóng, tức là đúng ngay đỉnh của hình sin. Nghĩa là nếu điện từ ở Hoà Bình đang ở mức cực tiểu thì khi vào đến TP.HCM sẽ vọt lên cực đại và ngược lại, nếu ở Hoà Bình cực đại thì vào TP.HCM có thể bằng không. Điều này dẫn đến tình trạng điện áp không ổn định, và khi ấy không còn là 500kV mà có thể vọt lên đến 700 hoặc 1.000kV, gây cháy toàn bộ thiết bị.)
Con người không chịu bó tay trước những thách thức ấy. Cùng với các chuyên gia nước ngoài, các tính toán kỹ thuật như chia đường dây thành 4 đoạn, đặt các tụ bù dọc, kháng bù ngang với chi phí không hề rẻ, để điều chỉnh kịp thời, triệt tiêu tác động của câu chuyện 1/4 bước sóng đã được các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật của ngành Điện tính toán và thực hiện.
Vào ngày 5 tháng 4 năm 1992, tại các vị trí móng số 54, 852, 2702, Võ Văn Kiệt đã phát lệnh khởi công xây dựng công trình. Theo sự phân công của Chính phủ, ông Kiệt làm Tổng chỉ huy công trình đường dây 500kV Bắc - Nam.
5, Nhiệm kì thủ tướng thứ hai
Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, ngày 23 tháng 9 năm 1992, ông tái cử Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh nhiệm kỳ hai.
5.1, Khánh thành đường dây 500 kV Bắc-Nam
Sau hơn 2 năm xây dựng Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1, đúng 19 giờ 7 phút 59 giây ngày 27 tháng 5 năm 1994, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình tại Đà Nẵng. Sau sự kiện này, ông được nhiều người gọi là "Thủ tướng điện", một tổng tư lệnh ngành, một nhà lãnh đạo đặt nền móng và có những đóng góp to lớn cho một lưới điện thống nhất cả nước, đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập kinh tế như ngày nay. Quyết định năm xưa của ông Kiệt đã giải quyết được vấn đề thiếu điện ở miền Nam và thúc đẩy phát triển kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu phát triển kinh tế của cả nước.
Sáng hôm sau khi đóng điện, ông Võ Văn Kiệt vào nhà tù thăm cựu Bộ trưởng Năng lượng Vũ Ngọc Hải báo tin mừng đường dây truyền tải điện 500kV Bắc - Nam đã thành công, huy hiệu đường dây 500kV mà anh em điện lực gắn cho ông Kiệt, ông đã gắn cho ông Hải.
5.2, Chính sách đối ngoại
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác đối ngoại, ông Kiệt cùng tập thể Bộ Chính trị và Trung ương Đảng tích cực triển khai đường lối đối ngoại: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” và tuyên bố “sẽ lèo lái con tàu cách mạng Việt Nam vươn ra biển, thực hiện chính sách đối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa” trong quan hệ quốc tế”.
Mục tiêu là phát triển liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu. Đối với các nước và khu vực lân cận, ông chủ trương giải quyết vấn đề một cách cởi mở. Đặc biệt nhất, là sự kiện ông bà Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ với tiêu chí “khép lại quá khứ, hướng đến tương lai”, đồng thời tiếp tục củng cố mối quan hệ với những người bạn cũ, bao gồm: Bắc Âu Tích cực tham gia vào Khối, phía Đông Khối Châu Âu, các Quốc gia Khối thịnh vượng Chung Độc lập (CIS) và các Tổ chức Tài chính Quốc tế. Với chính sách đối ngoại cởi mở, Việt Nam đã củng cố được sức mạnh trong nước và thoát khỏi vòng vây, cấm vận. Giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước và khu vực lân cận, trong đó có các nước Đông Bắc Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) sau này trở thành đối tác chiến lược quan trọng của Việt Nam.
Bằng những suy nghĩ và hành động táo bạo của mình, Võ Văn Kiệt đã gửi đến thế giới một thông điệp mới về Việt Nam, một đất nước khao khát hòa bình và phát triển. Đây là những đóng góp quan trọng của ông trong chính sách đối ngoại, cứu đất nước khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững quốc phòng, an ninh, không ngừng mở rộng quan hệ ngoại giao, từng bước củng cố Việt Nam và những giá trị mà đất nước đang làm củng cố vị thế của chúng ta trên trường quốc tế thế giới.
Tháng 12 năm 1997, Võ Văn Kiệt đã được trao tặng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra ông còn được trao tặng nhiều huân, huy chương khác và huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
6, Về hưu nhưng vẫn có sức ảnh hưởng lâu dài
Từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 4 năm 2001, tuy không còn giữ các chức danh trong Chính phủ nhưng ông cũng đã cùng Đỗ Mười và Lê Đức Anh được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào vị trí Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nơi ông ở lại cho đến khi sứ mệnh của vị trí này khép lại vào năm 2001. Một trong những thư ký của ông trong thời gian này là Vũ Đức Đam, sau này là Phó Thủ tướng Chính phủ (từ 2013).
Sau khi từ nhiệm và rời khỏi cương vị Thủ tướng Chính phủ, ông quyết định về Thành phố Hồ Chí Minh để sinh sống.Từ đây đến sau khi qua đời thì trước mỗi sự kiện nóng bỏng, quan trọng mang tầm quốc gia hoặc ảnh hưởng lớn đến quyền lợi nhân dân, Võ Văn Kiệt lại lên tiếng với tư cách một người công dân. Ông là cựu lãnh đạo Việt Nam đầu tiên công khai đặt vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc. Võ Văn Kiệt cũng đã có ý kiến chính thức với lãnh đạo đất nước là nên đối thoại với những người bất đồng chính kiến, ông nói: "Chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng". Và về việc bầu cử đại biểu Quốc hội, ông cũng có nhận định: "Một Quốc hội có người tự ứng cử và được dân bầu lên một cách tự do sẽ tốt hơn quốc hội bây giờ".
Trong những năm cuối đời, ông phát biểu ý kiến, kiến nghị với các cơ quan đảng và nhà nước nhiều hơn. Từ những vấn đề trọng đại như ý kiến đóng góp với Đại hội X, hoà hợp dân tộc, đến những kiến nghị, góp ý, phát biểu về những sự việc cụ thể như: quy hoạch về thành phố dọc sông Hồng, việc xây nhà Quốc hội,...
Năm 2005, Võ Văn Kiệt phát biểu rằng "Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu. Sau 30/4, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: "Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai". Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam cảm nhận được điều đó".
Ngày 30 tháng 4 năm 2007, trả lời phỏng vấn BBC, ông phát biểu "Hơn 30 năm rồi, năm nay nữa là 32 năm, không có lý do gì giữa chúng ta với nhau không hòa giải được... Tôi đã đặt vấn đề này và cũng viết trong một số bài rằng có một cách nhìn méo mó từ phía một số người cộng sản rằng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội là đúng, còn những người yêu nước khác mà không yêu chủ nghĩa xã hội thì không yêu nước đủ như mình. Có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau. Tổ quốc Việt Nam không của riêng một đảng, một phe phái, tôn giáo nào... chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng... chính phủ không nên áp dụng biện pháp hành chính đi đầu với họ, trừ phi là con người hoặc sự việc đó có nguy hại đối với đất nước, nhưng không được quy chụp người ta". Võ Văn Kiệt cho rằng đã tới lúc bỏ lại phía sau những chia rẽ mà theo ông phần nhiều do nước ngoài can thiệp gây ra.
Mặt khác, Võ Văn Kiệt cũng đề nghị Nhà nước cảnh giác với những mưu đồ lợi dụng dân chủ và nhân quyền để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong thư gửi Bộ Chính trị năm 1995, ông cho rằng: "Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập hợp lực lượng chống lại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trước được nữa. Vì ngọn cờ này đã hết phép mê hoặc, chúng phải chuyển sang ngọn cờ dân chủ và nhân quyền. Song ngay cả ý đồ muốn thủ tiêu nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực đế quốc và phản động cũng phải được đánh giá dưới ánh sáng của cục diện quốc tế mới... Điều hiển nhiên là trên thế giới tiếng nói ủng hộ hay đồng tình với yêu cầu ổn định chính trị của Việt Nam ngày càng mạnh, sự chấp nhận trên thế giới đối với chế độ chính trị một đảng của Việt Nam cũng đang tăng lên – mặc dầu lúc này lúc khác vấn đề dân chủ và nhân quyền được sử dụng như một phương tiện chính trị đối phó với chúng ta."
Về đường lối xây dựng đất nước và quan hệ ngoại giao, ông cho rằng:"quốc gia nào khắc phục được những mâu thuẫn nội tại để cùng tìm thấy niềm tự hào chung, lợi ích chung thì có thể tạo ra sức mạnh nội lực và do đó càng có uy tín quốc tế. Kể cả những nước nhỏ, nếu có những yếu tố đó thì cũng vẫn tạo ra thế mạnh. Ngược lại, nơi nào mà dân tộc chia rẽ, đối địch với nhau, thì dù có tài nguyên quốc gia phong phú, có dân số đông đúc, vẫn không tạo ra sức mạnh, vị thế quốc tế, do đó cũng không thể vững vàng... Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng, nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn. Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế? Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ, thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng... Muốn thế, cần ngồi lại với nhau. Bằng thiện chí, bằng tấm lòng chân thật, hãy cùng nhau xem lại một cách sòng phẳng những chỗ hay, chỗ dở, chỗ nào đã khắc phục được rồi, chỗ nào còn phải hoàn thiện tiếp... "
Võ Văn Kiệt đã lên tiếng trên công luận bày tỏ quan điểm lo ngại về các dự án như: nhà máy lọc dầu Dung Quất, thành phố bên sông Hồng, việc xây dựng tòa nhà quốc hội mới và lần gần nhất là về vấn đề mở rộng địa giới Hà Nội (giữa tháng 5/2008 ông có ra Hà Nội để vận động dừng việc mở rộng thủ đô nhưng ông ốm và mất vài tuần sau đó). Ông viết: "Thủ đô của cả nước, của cả dân tộc và cả của lịch sử. Không nên và không được phép đưa thủ đô làm nơi thí nghiệm cho bất cứ mục đích gì."
Bên cạnh đó, ông còn bày tỏ rõ quan điểm ủng hộ tự do báo chí đối với các tổ chức chính trị và chính quyền, thể hiện rõ ở việc ông can thiệp vào sự kiện Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh thay thế các vị trí quản lý ở báo Tuổi Trẻ nhằm cài cắm người để quản lý.
7, Qua đời trong yên bình
Lúc 8 giờ 40 phút ngày 11 tháng 6 năm 2008 (giờ Singapore, tức 7 giờ 40 phút cùng ngày giờ Hà Nội), Võ Văn Kiệt được xác nhận là đã qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Mount Elizabeth, Singapore. Theo hãng tin Reuters thì lý do là tuổi cao và viêm phổi cấp tính, còn theo AP thì nguyên do là tai biến mạch máu não. Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long sau đó đã gửi lời chia buồn và hỗ trợ Việt Nam đưa thi hài của ông sau đó đã đuợc đưa về nước vào tối cùng ngày để chuẩn bị tổ chức quốc tang.
Sau khi các hãng tin quốc tế đã đưa tin và nhiều lãnh tụ nước ngoài đã gửi lời chia buồn, báo chí Việt Nam chính thức thông báo Võ Văn Kiệt mất vào tối ngày hôm sau. Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã thông báo 2 ngày quốc tang. Lễ viếng được tổ chức vào ngày 14 tháng 6 tại Hà Nội, Hội trường Thống Nhất (nơi đặt linh cữu của ông) và trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (quê hương ông), có trưởng ban lễ tang nhà nước là Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Lễ truy điệu tổ chức vào ngày 15 tháng 6, sau đó đến trưa cùng ngày, linh cữu của Võ Văn Kiệt được đưa đi an táng tại nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ truy điệu và an táng được tường thuật trực tiếp trên VTV1, VTV9 và VOV1. Kênh tiếp sóng lễ truy điệu và an táng là HTV9.
8, Sự vinh danh dành cho Võ Văn Kiệt - cái tên của nhiều con đường
Ngày 22 tháng 2 năm 2009, tên của ông được đặt cho một con đường dài 23,6 km chạy từ ngã tư Bình Long cắt Quốc lộ 1 trên đường Nguyễn Hoàng qua nhà máy lọc dầu Dung Quất ra cảng Dung Quất, Quảng Ngãi.
Ngày 29 tháng 4 năm 2011, Sở Giao thông Vận tải và Ủy ban nhân dân quận 1, TP Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ đặt tên đường Võ Văn Kiệt cho Đại lộ Đông – Tây, một trong những tuyến đường hiện đại và quan trọng trong hệ thống hạ tầng giao thông của Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại lộ Võ Văn Kiệt có tổng chiều dài hơn 13,42 km, kéo dài từ đoạn giao nhau giữa đường Hàm Nghi và đường Tôn Đức Thắng, thuộc bờ Tây sông Sài Gòn, quận 1 đến cầu vượt quốc lộ 1, huyện Bình Chánh.
Dự án đại lộ Đông – Tây là công trình trọng điểm của hệ thống giao thông TP Hồ Chí Minh có tổng chiều dài 21,89 km đi qua địa bàn 8 quận, huyện trên địa bàn thành phố bắt đầu từ nút giao Tân Kiên, huyện Bình Chánh đến nút giao Cát Lái, thành phố Thủ Đức, trong đó có một hầm vượt sông Sài Gòn dài 1.490 m. Dự án có tổng mức đầu tư 9.863 tỷ đồng.
Tại thành phố Cần Thơ, tuyến đường đẹp nối từ trung tâm (đường Mậu Thân) đến cảng hàng không quốc tế Cần Thơ cũng mang tên Võ Văn Kiệt. Đà Nẵng có đường mang tên ông nối đường Nguyễn Văn Linh với đường Võ Nguyên Giáp (Trường Sa cũ).
Tại Hà Nội, tên của ông được đặt tên cho đoạn đường nối từ cầu Thăng Long đến sân bay quốc tế Nội Bài, chạy trên địa bàn các huyện Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn (trước đây là trục đường Bắc Thăng Long – Nội Bài).
Các tên Võ Văn Kiệt hay Phan Văn Hòa còn được đặt tên cho các đường phố và trường học ở nhiều nơi khác tại Việt Nam.
Từ tháng 10 năm 2015, tại Phan Thiết, Bình Thuận có thêm công viên Võ Văn Kiệt với diện tích 4ha để phục vụ người dân đến vui chơi, tập thể dục mỗi ngày. Đặc biệt, vào mỗi dịp tối cuối tuần, lễ tết, công viên tấp nập du khách gần xa vào đây để tham gia các hoạt động ngoài trời.
Ngày 8 tháng 11 năm 2015, UBND tỉnh Trà Vinh long trọng tổ chức lễ công bố nghị quyết của HĐND tỉnh Trà Vinh về đặt tên ông cho đoạn đường với điểm đầu từ ngã ba Sóc Ruộng và điểm cuối đến quốc lộ 53.
Tại Đồng Tháp, tên ông được đặt cho đoạn đường từ thị trấn Thanh Bình (huyện Thanh Bình) đến xã Trường Xuân (huyện Tháp Mười). Đây được xem là tuyến đường đi xuyên Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp với chiều dài 40 km.
Kết
Có thể nói, Võ Văn Kiệt là một người luôn đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết. Suy nghĩ và việc làm của ông luôn thể hiện sự trăn trở của một công dân, của một nhà lãnh đạo, người đứng đầu Chính phủ đau đáu vì tương lai phát triển của đất nước. Ông cũng là một người có tầm nhìn khi không say sưa với những thắng lợi, mà luôn tìm tòi theo cách nghĩ khám phá, đột phá, sáng tạo. Mỗi khi nhắc tới cuộc đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ, khó khăn vì độc lập, tự do của Tổ quốc, Đồng chí luôn trăn trở Đảng phải làm gì cho dân để đáp ứng lại sự hy sinh to lớn và vô giá đó. Ông cũng luôn day dứt về nguy cơ tụt hậu của đất nước, về sự tăng trưởng bền vững của nước nhà, làm sao phát huy được tiềm năng sẵn có trong Nhân dân để tận dụng cơ hội, bứt phá đưa đất nước phát triển nhanh hơn. Với tầm nhìn xa, tư tưởng nhân văn, đoàn kết, hòa hợp, chủ động khép lại quá khứ chiến tranh và hướng tới tương lai, cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã góp phần tạo sự ổn định và phát triển mạnh mẽ của đất nước về sau. Trên đây là toàn bộ bài viết về cuộc đời của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Nếu có chia sẻ nào về nhân vật này, các bạn có thể để lại nhận xét bên dưới phần bình luận nhé. Còn bây giờ, xin chào và hẹn gặp lại.
#Backturn
Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất