Họ là một đơn vị huyền thoại, những kị  binh được trang bị khôi giáp nặng nề nhất trong lịch sử Trung Hoa. Được  biết dưới cái tên “Thiết Phù Đồ” (铁浮屠), đây là một công cụ đắc lực của  Kim quốc, tham gia hàng chục trận chiến quan trọng, góp phần tạo dựng  nên những võ công vang dội của người Nữ Chân khắp vùng phía Bắc Trung  Quốc trong thế kỉ 12.


Nguồn gốc
Hoàn Nhan A Cốt Đả
Nhà Kim là một vương quốc của người Nữ  Chân, được hình thành trên địa bàn tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang hiện  nay (Đông Bắc Trung Quốc). A Cốt Đả (Aguda) thủ lĩnh của bộ tộc Hoàn  Nhan là người có công kiến quốc. Theo truyền thuyết, tên của vương quốc  “Kim” (vàng) bắt nguồn từ tên dòng sông nơi bộ tộc của A Cốt Đả sinh  sống (sông Anchuhu trong tiếng Nữ Chân có nghĩa là vàng). Cũng có thể  tên này được đặt để đối kháng lại với vương quốc thù địch với họ, nhà  Liêu, như A Cốt Đả khi lên ngôi đã nói: “Liêu lấy sắt tinh luyện làm  hiệu, nhằm thể hiện sự vững mạnh. Sắt tinh luyện tuy cứng song cuối  cùng cũng bị “biến hoại”, chỉ có ‘kim’ là “bất biến bất hoại”.Liêu  là một quốc gia của người Khiết Đan, kẻ thù đầu tiên của nước Kim, có vị  trí tại vùng phía Bắc, Đông Bắc Trung Hoa và Mông Cổ hiện đại.

Tranh cổ vẽ người Nữ Chân
Vào mùa xuân năm 1114, A Cốt Đả đã thống  nhất được các bộ lạc Nữ Chân, lúc này đang bị người Khiết Đan (nhà  Liêu) nô dịch. Ông đã phát động một cuộc chiến chống Liêu. Năm 1115, ông  lên ngôi Hoàng đế, thành lập nhà Kim, bắt đầu xuất binh chinh phạt  Liêu.

Năm 1121, người Nữ Chân đồng ý tham gia  liên minh trên biển (Hải thượng chi minh) với nhà Tống để cùng nhau diệt  Liêu. Trong khi quân Tống thua trận, quân Kim giành được hết chiến  thắng này đến chiến thắng khác và buộc tàn quân Liêu phải chạy sang phía  Tây. Trong những trận chiến với Liêu, chiến thắng của quân Kim đến từ  việc triển khai một cách khéo léo những đội thiết kị thiện chiến của họ.
Kim diệt Liêu cùng Bắc Tống hình thế đồ (quá trình diệt Liêu và đánh Bắc  Tống của nhà Kim) (Ngũ kinh của nhà Liêu: 東京遼陽府: Đông Kinh Liêu Dương  phủ, 上京臨潢府: Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ, 中京大定府: Trung Kinh Đại Định phủ,  西京大同府: Tây Kinh Đại Đồng phủ, 南京析津府: Nam Kinh Tích Tân phủ)
Kim diệt Liêu cùng Bắc Tống hình thế đồ (quá trình diệt Liêu và đánh Bắc Tống của nhà Kim) (Ngũ kinh của nhà Liêu: 東京遼陽府: Đông Kinh Liêu Dương phủ, 上京臨潢府: Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ, 中京大定府: Trung Kinh Đại Định phủ, 西京大同府: Tây Kinh Đại Đồng phủ, 南京析津府: Nam Kinh Tích Tân phủ)Năm 1125, sau cái chết của A Cốt Đả, nhà  Kim đã phá vỡ liên minh với nhà Tống và bắt đầu Nam tiến. Khi giao  chiến với quân Tống, họ đã gặp khó khăn khi đụng phải những khối bộ binh  vững chắc với hỏa khí. Tứ hoàng tử Ngột Truật đã tập hợp những kị sĩ  giỏi và giàu kinh nghiệm nhất thành một đội quân, gọi là “Thiết Phủ Đồ”.

Sự hưng khởi của nước Kim là một kì  tích. Dưới sự lãnh đạo của A Cốt Đả và những võ công của Hoàng tử Ngột  Truật, xuất phát từ những vùng đồng cỏ khô cằn quanh sông Anchuhu, họ  chỉ mất 10 năm để chinh phạt toàn bộ nước Liêu và mất hơn 5 năm để tràn  ngập miền Bắc Trung Quốc, tấn công kinh thành và bắt hai vua Tống làm tù  binh. Từ những người lang thang, trong vòng chưa đến 20 năm, họ đã tạo  dựng được một vương quốc rộng lớn hơn cả đế quốc Frankish của  Charlemagne hay nước Pháp đệ nhất dưới thời Napoleon.
Nước Kim năm 1142 (金: Kim, 宋: Tống,  西夏: Tây Hạ, 西遼: Tây Liêu, 大理: Đại Lý)
Lực lượng tiên phong
Ngột Truật muốn sử dụng đội kị binh này  như một đơn vị tiên phong, luôn đi đầu trong các trận chiến, tạo ra  những cơn shock cho quân địch bằng những cuộc càn quét (charge) khủng  khiếp hay xuống ngựa chiến đấu như những người bộ binh nặng.

Phong cách chiến đấu của đơn vị này có  thể đã chịu ảnh hưởng từ những kị binh “Thiết Dao Tử” (鐵 鷂子) của đế quốc  Tây Hạ. Về “Thiết Dao Tử”, trong Tống sử có miêu tả về đơn vị này như  sau: “những kị sĩ có thể di chuyển hàng trăm đến hàng nghìn dặm một  ngày trên mình ngựa, họ là những kị sĩ xuất sắc, tấn công mạnh mẽ như  sấm sét, di chuyển linh hoạt như mây bay. Khi gặp quân địch, họ tấn công  phủ đầu bằng những đợt charge mạnh mẽ và bất ngờ”.  Những kị binh  này là một đội quân tinh nhuệ của hoàng gia Tây Hạ, họ tham gia rất  nhiều chiến dịch. Chỉ được bọc giáp ở mức độ trung bình, ưu thế của họ  đến từ độ dẻo dai và nhanh nhẹn. Những cây thương cũng có thể gắn chặt  lên mình ngựa để phòng trường hợp người kị sĩ hi sinh, con ngựa vẫn có  thể tự hoàn thành nhiệm vụ.



Thiết Phủ Đồ
Khác với “Thiết Dao Tử”, “Thiết Phủ Đồ”  là những kị sĩ được trang bị những bộ giáp nặng nhất ở vùng Viễn Đông.  Chúng ta sẽ khảo sát nhân lực, trang thiết bị và phong cách của đơn vị  này một cách chi tiết ở bên dưới.

Nhân lực
Khoảng ba triệu người, một nửa trong số  đó là người Nữ Chân đã tiến xuống miền Bắc Trung Quốc trong hơn hai thập  kỉ. Số người Nữ Chân này đã thiết lập được sự cai trị lên 30 triệu  người Hán bản địa. Sau khi chiếm được miền Bắc Trung Quốc, nhà Kim bị  Hán hóa, họ nhanh chóng tiếp thu rất nhiều nét văn hóa Trung Quốc như  trang phục, bộ máy quan liêu, Nho giáo. Nhiều người Nữ Chân kết hôn với  phụ nữ người Hán, hoặc nô dịch họ làm thê thiếp, nô tỳ. Các quý tộc Nữ  Chân rất hứng thú với việc nghiên cứu kinh điển Trung Hoa và làm thơ  kiểu Hán. Nhưng họ vẫn giữ vị trí độc tôn của những quý tộc Nữ Chân  trong chính quyền.

Theo “金虏图经” (Kim lỗ đồ kinh – ghi chép  của một tù binh Kim) “金兀术自将牙兵三千策应,皆重铠全装,虏号铁浮屠,又号叉千户,这叉千户便是指侍卫亲军” (Kim  Ngột Truật đích thân đem ba ngàn nha binh đến tiếp ứng, tất cả nha binh  toàn thân bọc giáp, giặc gọi là Thiết Phủ Đồ, cũng gọi là Xoa Thiên Hộ,  cái tên Xoa Thiên Hộ này là để chỉ thân quân thị vệ)


Nhìn chung chính quyền và quân đội hoàn  toàn do người Nữ Chân nắm giữ. Theo những ghi chép của Uông Nhược Hải  (汪若海), một người làm việc trong triều Tống đã quan sát được những cuộc  chiến giữa Kim và Tống thì Thiết Phủ Đồ là một đơn vị dành riêng cho con  trai của các gia đình quý tộc Nữ Chân danh giá. Lòng trung thành của họ  được đảm bảo một cách vững chắc. Các vị trí trong quân đội của người Nữ  Chân được thế tập từ đời này sang đời khác và họ còn được ban phát đất  đai. Những gia đình Nữ Chân được tổ chức theo chế độ Mãnh An Mưu Khắc,  100 hộ hợp lại thành 1 Mưu Khắc, 10 Mưu Khắc thành 1 Mãnh An.

Kị binh là lực lượng chuyên nghiệp duy  nhất trong quân đội nước Kim. Họ được trả lương, trang thiết bị được nhà  nước chu cấp. Trong khi đó, kị binh của người Hán đa phần là những đơn  vị được trưng tập.

Trang bị
Các Thiết Phủ Đồ được bọc giáp toàn  thân, chỉ để lộ hai mắt và bàn tay, gần giống với các kĩ binh Ba Tư thế  kỉ 4-7. Một số sử gia dùng thuật ngữ “cataphracts” hay “clibanarii” (với  Hi-La) để chỉ những kị binh được bọc giáp kín người như vậy. Những con  ngựa  cũng được bọc giáp. Họ sử dụng giáp lamellar và giáp bông dày. Một  kị sĩ sẽ được cấp cho hai con ngựa để đảm bảo được độ cơ động và khả  năng tác chiến trong mọi tình huống.

Vũ khí của họ cũng rất đa dạng. Ngoài  một cây thương, họ thường có một chiếc chùy nhỏ, cung tên và đao. Để  thực hiện được những nhiệm vụ khác tùy yêu cầu của tình hình thực tế, họ  được trang bị cả thang dây, xẻng và rìu.


Họ thường được triển khai với số lượng  lớn, 3000-6000 người mỗi lần ra quân. Những kị sĩ ở châu Âu thời trung  đại còn xa mới đạt đến con số này, những đợt tấn công của họ trở nên  chết chóc hơn bao giờ hết.

Quy mô quân đội của các quốc gia phương  Đông vượt xa châu Âu rất nhiều. Lưu ý rằng đây chỉ là đơn vị tiên phong  của một đoàn quân khổng lồ được hỗ trợ bởi 15.000 kị binh khác các loại  và 40-80.000 bộ binh được trang bị tốt. Quân số của nước Kim đã có thể  đạt đến con số nửa triệu người, vẫn còn rất khiêm tốn nếu so với nhà Hán  hay nhà Đường.

Chức năng
“Thiết Phủ Đồ” được sử dụng như một mũi  dùi tiên phong lao thẳng vào đội hình quân địch. Triệu Ngạn Vệ, một  người Tống đã ghi chép lại về chiến thuật của họ: “Những kị sĩ xếp  thành hình tam giác hướng về phía trước, họ lao về phía kẻ thù nhanh hết  mức có thể rồi sau đó tỏa ra, chạy quanh bao vây quân địch, chờ cơ hội  để tấn công thêm lần nữa, nếu tình hình yêu cầu, họ có thể xuống ngựa  chiến đấu như những người lính bộ binh”
Đội hình tam giác để càn quét xuyên qua hàng rào bộ binh dày đặc
Trong một số ghi chép khác, quân Kim  cũng sử dụng Quải Tử Mã (拐子马), ba kị sĩ sẽ được liên kết với nhau bằng  một sợi dây da, tàn sát bất kì tên bộ binh xấu số nào bị kẹt ở giữa.

Có nhiều tranh cãi xung quanh từ này, có  ý kiến cho rằng “Quải tử mã” là một đơn vị riêng, tách biệt với “Thiết  Phủ Đồ”. Có ý kiến lại cho rằng “Quải tử mã” thật ra là lực lượng 10.000  kỵ binh chạy ở hai cánh trợ chiến cho những đợt tấn công của  “Thiết  Phủ Đồ”.
Hai cánh “B” sẽ là những lực lượng kị binh trợ chiến cho lực lượng chính “C” tấn công vào đối phương “A”
“Thiết Phủ đồ” còn có thể xuống ngựa  chiến đấu như một đơn vị bộ binh nặng. Trong trận chiến tại Tiên Nhân  Quan, họ đã xuống ngựa và tiến lên theo đội hình của bộ binh. Điều này  được thể hiện trong bộ trang bị của họ, trong đó có nhiều vũ khí được  trang bị cho bộ binh như trường đao dùng để phá giáp.

Để chống lại những đội kị binh thiện  chiến quân Kim, quân Tống cũng đã phát triển những chiến thuật của riêng  mình với những khối bộ binh vững chắc được trang bị nỏ, hỏa khí và các  loại kích (Halberd).



Lê Tùng Dương - Nghiên Cứu Lịch Sử. Chuyễn ngữ và biên tập từ trang Dragon’s Armory