Chúng ta thường thấy hoàng tộc cũ triều Nguyễn có rất nhiều họ và cách đặt tên rất phức tạp, bài viết này sẽ giải quyết thắc mắc trên của các bạn đọc.
Triều Vua Minh Mạng chia trong Hoàng Tộc làm Tiền Biên và Chánh Biên, vì vậy, 9 hệ Nguyễn Phước thời kỳ các chúa Nguyễn được gọi 9 hệ Tôn Thất Tiền Biên. Các con cháu đều mang họ Tôn Thất.
Các hệ từ Vua Gia Long trở về sau được gọi là các hệ Tôn Thất Chánh Biên, các con cháu đều mang họ Tôn Thất kèm theo chữ lót tên như Tôn Thất Chiêm Đông, Tôn Thất Viễn Nam (Phòng Đinh Viễn) hay Tôn Thất Thể Bắc, Tôn Thất Dương Tây (Phòng Từ Sơn). Có lúc dùng cả 4 chữ Tôn Thất Nguyễn Phước như Tôn Thất Nguyễn Phước Miên Đông, Tôn Thất Nguyễn Phước Hường Nam... Qua đến triều Vua Thành Thái bỏ thi cử rồi nên các hệ Chánh Biên bỏ 2 chử Tôn Thất, mà mang họ Nguyễn Phước kèm theo chữ lót.
Chữ lót tên : Thời kỳ các Vua Nguyễn, 2 hệ đầu giữ nguyên họ Nguyễn Phúc như Nguyễn Phúc Ánh Vua Gia Long, Nguyễn Phúc Đảm Vua Minh Mạng.
ĐẾ HỆ THI
Năm 1823, Vua Minh Mạng đã làm bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu các thế hệ sau. Bài Đế Hệ Thi gồm 20 chữ, dùng làm chữ lót tên cho mỗi thế hệ từ Vua Minh Mạng trở về sau.
Các nhánh của các Hoàng Tử con Đức Minh Mạng đặt chữ lót theo bài Đế Hệ Thi và đặt tên theo mỗi nhánh mỗi bộ hoặc Mộc (木), Thủy (水), Mịch (糸) v.v..
MIÊN HƯỜNG ƯNG BỬU VĨNH
BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG
HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT
THẾ THOẠI QUỐC GIA XƯƠNG
Tạm dịch như sau:
Huấn nghiệp lớn do Tổ Tiên gầy dựng
Gắng giữ gìn cho xứng ân sâu
Phồn vinh thịnh đạt dài lâu
Anh tài hiền đức cùng nhau bảo toàn
Đời đời nối nghiệp tiền nhân
Nước nhà hưng thịnh muôn phần phát huy.
Thích nghĩa của từng tôn hiệu chữ như sau:
MIÊN: Trường cửu phước duyên trên hết
HỒNG: Oai hùng đúc kết thế gia
ƯNG: Nên danh xây dựng sơn hà
BỬU: Bối báu lợi tha quần chúng
VĨNH: Bền chí hùng anh ca tụng
BẢO: Ôm lòng khí dũng bình sanh
QUÝ: Cao sanh vinh hạnh công thành
ĐỊNH: Tiên quyết thi hành oanh liệt
LONG: Vương tướng rồng tiên nối nghiệp
TRƯỜNG: Vĩnh cửu nối tiếp giống nòi
HIỀN: Tài đức phúc ấm sáng soi
NĂNG: Gương nơi khuôn phép bờ cõi
KHAM: Đảm đương mọi cơ cấu giỏi
KẾ: Hoạch sách mây khói cân phân
THUẬT: Biên chép lời đúng ý dân
THẾ: Mãi thọ cận thân gia tộc
TH ỌAI: Ngọc quý tha hồ phước lộc
QUỐC: Dân phục nằm gốc giang san
GIA: Muôn nhà Nguyễn vẫn huy hoàng
XƯƠNG: Phồn thịnh bình an thiên hạ
Bài Đế hệ thi được khắc trong một cuốn sách bằng vàng ( kim sách ) cất trong hòm vàng (kim quỹ) để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, các bài Phiên hệ thi cũng được khắc trong các cuốn sách bằng bạc. Có tư liệu cho rằng tới thời Vua Tự Ðức, chúng đã bị nấu ra để trả nợ chiến phí bốn triệu đồng cho Pháp và Tây Ban Nha theo Hiệp ước Nhâm Tuất (1962). Không ai biết sự thật ra sao vì đến ngày Ngài Bảo Ðại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn thoái vị, các sách kim loại này đã biến mất.
Đối với nữ, viêc đặt chữ lót khác hẳn. Con gái Vua (thế hệ 1) gọi là Công Chúa đi đôi với tên thường là tên đôi như Công Chúa An Đông, Công Chúa Ngọc Tây ... Cháu gái Vua (thế hệ 2) lấy chữ lót Công Nữ, chắt gái (thế hệ 3), chữ lót Công Tằng Tôn Nữ; chắt gái (thế hệ 4) chữ lót Công Huyền Tôn Nữ - Các thế hệ gái kế tiếp lấy chữ lót Công Huyền Tôn Nữ.
Tóm lại, con cháu các hệ Chánh từ Vua Minh Mang trở về sau, kể cả các Phòng thuộc hệ Chánh, đều đặt họ tên chữ lót theo cách nói trên.
Chữ lót tên ở các nhánh anh em Vua Minh Mạng :
Vua Gia Long có 13 Hoàng Tử. Vua Minh Mạng là Hoàng Tử thứ 4, có 2 Hoàng Tử chết sớm, còn lại 10 Hoàng Tử là anh và em Vua Minh Mạng. Vua Minh Mạng cũng làm cho các anh em mỗi người một bài thơ gồm 4 câu 5 chữ, gọi là Phiên Hệ Thi. Có 10 bài Phiên Hệ Thi. Con cháu vị nào lấy các chữ trong bài thơ của vị ấy. Chữ đầu của các bài Phiên Hệ Thi như Mỹ, Lương, Tịnh, Diên ... đối ngang với chữ đầu của bài Đế Hệ Thi là Miên, dùng làm chữ lót tên cho thế hệ 1. Chữ thứ 2 của các bài Phiên Hệ Thi như Duệ, Kiến, Hoài, Hội ... đối ngang với chữ thứ 2 bài Đế Hệ Thi là Hường, dùng làm chữ lót tên cho thế hệ 2 v.v. ... Cách đặt họ tên chữ lót cũng làm như trên.
Dùng chữ lót giúp bà con để phân biêt. ngôi thứ trong các nhánh, chi, phái của các hệ Chánh Biên. Vĩnh Tây gặp Bửu Đông, biết ngay cùng thuộc hệ Chánh Biên và biết Bửu Đông không thuộc hàng anh hay con, mà thuộc hàng chú hay bác của mình. Muốn biết chú hay bác, còn phải biết thuộc Phòng nào, nhánh nào.
Con cháu của 10 Hoàng Tử anh em Vua Minh Mạng hiểu biết ngôi thứ của nhau củng như vậy.
Các bộ tên : Tuy nhiên, chưa dừng lại đó , đi kèm với mỗi chữ trong bài Đế hệ thi là một bộ Ngự Chế Mạng Danh Thi :
Miên (miên), Hồng (nhân), Ưng (thị), Bửu (sơn), Vĩnh (ngọc),
Bảo (phụ), Quý (nhân), Định (ngôn), Long (thủ), Trường (hòa),
Hiền (bối), Năng (lực), Kham (thủ), Kế (ngôn), Thuật (tâm),
Thế (ngọc), Thoại (thạch), Quốc (đại), Gia (hòa), Xương (tiểu),
Tên đặt cho các Hoàng Tử lúc chưa làm vua bắt buộc phải dùng một chữ có bộ đó, ví dụ:
Vua Thiệu Trị, có chữ lót là Miên, và tên là Tông (thuộc bộ miên : 宀), và tất cả các anh em của Vua Thiệu Trị cũng đều phải có tên có chữ bộ Miên cả (tuy nhiên con của các vị Hoàng Tử này phải đặt tên không được có bộ nhân (亻), trừ con Vua Thiệu Trị).
Vua Tự Đức có chữ lót là Hồng, và tên là Nhậm (thuộc bộ nhân :亻).
Vua Tự Đức không có con , nên lấy cháu lên làm vua, người cháu này tên là Nguyễn Phúc Ưng Ái, chữ lót thì đúng, nhưng tên không có bộ thị, không phải dòng họ chính của Vua, nên để được làm Thái Tử, ông được đổi tên thành Ưng Chân, chữ Chân này có bộ thị.
Vua Minh Mạng mong muốn dòng họ Nguyễn Phước sẽ truyền nối 20 đời , nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở chữ Vĩnh - đời thứ 5 . Từ Phước Đảm tới Hồng Nhậm , sau đó các vua nối tiếp lại thuộc chi khác, thế hệ trước, nên 13 vua nhà Nguyễn vẫn chỉ thuộc 5 đời. Hai vua thuộc thế hệ thứ 5 là vua thứ 11 Vĩnh San (Duy Tân) và vua thứ 13 Vĩnh Thụy ( Bảo Đại ).
Như vậy, bên cạnh họ và chữ lót, tên các Chúa thuộc 8 hệ đầu đều dùng bộ Thủy (水) đến hệ 9 (hệ cuối) lại dùng cả bộ Nhật (日) và bộ Thủy (水). Từ Vua Gia Long trở về sau đều dùng chuyên một bộ Nhật (日). Năm 1823, Vua Minh Mạng làm một bài thơ gọi là Ngự Chế Mạng Danh Thi (như trên đã giới thiệu) gồm 20 bộ, các triều Vua kế tiếp sau cứ noi theo thế thứ mà đặt bộ tên cho các con.
Tên các con Vua Minh Mạng đều dùng bộ Miên (宀), con Vua Thiệu Trị dùng bộ Nhân (亻), con Vua Bảo Đại là Bảo Long dùng bộ Phụ (阜) bộ thứ 6 bài thơ trên. Còn các Phòng con Vua Minh Mạng đặt chữ lót theo Đế hệ thi và đặt tên mỗi Phòng theo một bộ hoặc Mộc (木), Thủy (水), Mịch (糸) v.v...
Ngày nay ít dùng chữ Hán, họ tên viết theo chữ Việt, nên bà con không mấy để ý đến các bộ nầy nữa.
PHIÊN HỆ THI
Vua Minh Mạng ban cho dòng họ của các con vua Gia Long 10 bài phiên hệ thi
1. Anh Duệ hệ Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng Liên Huy Phát Bội Hương Linh Nghi Hàm Tốn Thuận Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang
2. Kiến An hệ: (hoàng tử thứ 5) Lương Kiến Ninh Hòa Thuật Du Hành Suất Nghĩa Phương Dưỡng Di Tương Thực Hảo Cao Túc Thể Vi Tường
3. Định Viễn hệ: (hoàng tử thứ 6) Tịnh Hoài Chiêm Viễn Ái Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha Nghiễm Khác Do Trung Đạt Liên Trung Tập Cát Đa
4. Diên Khánh hệ: (hoàng tử thứ 7) Diên Hội Phong Hanh Hiệp Trùng Phùng Tuấn Lãng Nghi Hậu Lưu Thành Tú Diệu Diễn Khánh Thích Phương Huy
5. Điện Bàn hệ: (hoàng tử thứ 😎 Tín Diện Tư Duy Chánh Thành Tôn Lợi Thỏa Trinh Túc Cung Thừa Hữu Nghị Vinh Hiển Tập Khanh Danh
6. Thiệu Hóa hệ: (hoàng tử thứ 9) Thiện Thiệu Kỳ Tuần Lý Văn Tri Tại Mẫn Du Ngưng Lân Tài Chí Lạc Địch Đạo Doãn Phu Hưu
7. Quảng Oai hệ: (hoàng tử thứ 10) Phụng Phù Trưng Khải Quảng Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ Điển Học Kỳ Gia Chí Đôn Di Khắc Tự Trì
8. Thường Tín hệ: (hoàng tử thứ 11) Thường Cát Tuân Gia Huấn Lâm Trang Túy Thạnh Cung Thận Tu Dy Tấn Đức Thọ Ích Mậu Tân Công
9. An Khánh hệ: (hoàng tử thứ 12) Khâm Tùng Xưng Ý Phạm Nhã Chánh Thủy Hoằng Quy Khải Dễ Đang Cần Dự Quyên Ninh Cộng Tráp Hy
10. Từ Sơn hệ: (hoàng tử thứ 13) Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm Phu Văn Ái Diệu Dương Bách Chi Quân Phụ Dực Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương
Chữ lót của mỗi đời dùng một chữ trong bài thơ, nhưng tên ở mỗi đời thì phải dùng một bộ trong ngũ hành theo thứ tự: thổ, kim, thủy, mộc, hỏa và trở lại, vì thế tên của tất cả đời thứ nhất dùng bộ thổ.
Họ tên ngày nay :Từ khi không còn triều đình nhà Nguyễn, nhiều bà con trong hệ Tien Biên thôi dùng 2 chữ Tôn Thất, mà lại dùng họ cũ ngày trước là Nguyễn Phúc hay Nguyễn Phước ( 阮福 ).
Mặt khác, nhiều bà con trong hệ Chánh Biên thôi dùng 2 chữ Nguyễn Phước, lại lấy chữ lót làm họ, cho nên trong khai sinh, giấy tờ ... xảy ra tình trạng cha con không cùng họ, việc khai báo lắm khi bị trở ngại. Ví dụ: Cha tên Bửu Đông đẻ con trai mang tên Vĩnh Tây, đẻ con gái mang tên Công Huyền Tôn Nữ Phương Nam. Hoặc cha tên Chiêm Đông, đẻ con trai tên Viễn Tây (Nhánh Định Viễn Quận Vương). Nhiều cơ quan chính quyền trong nước cũng như ngoài nước không hiễu, không công nhận cha con. Về phía nữ các bà các cô mang họ Công Tằng Tôn Nữ hay Công Huyền Tôn Nữ ... thấy dài , nên thường hay rút ngắn lại là Tôn Nữ.
Ngày nay trong Hoàng Tộc, về các Hệ Chánh đã đặt tên đến chữ thứ 6 hoặc thứ 7.