Trong vài thế kỷ qua, Nga luôn đứng giữa những lựa chọn khó khăn: giữa Tây phương hóa và bản địa hóa, giữa cải cách và bảo thủ. Với tư cách là một cường quốc, Nga chưa bao giờ bị kẻ thù bên ngoài đánh bại hoàn toàn, nhưng lại phải đối mặt với vô số vấn đề từ nội bộ. Việc nghiên cứu về quá khứ và hiện tại của Nga không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các quyết sách hiện tại và hướng đi tương lai của họ mà còn mang lại nhiều bài học quý giá từ những thành công lẫn thất bại trong lịch sử. Trong chuỗi bài viết này, xin mời bạn đọc cùng khám phá sâu hơn về "Quá khứ và hiện tại của nước Nga ".
Chương I: Bốn dấu ấn lớn của nền văn minh Nga - Người Mông Cổ, Tây phương hóa, Đông La Mã, sông Volga
1.Người Mông Cổ
Vào thời La Mã cổ đại, người Slav vẫn được xem là các bộ tộc man rợ và bị người La Mã coi là nô lệ, từ "Slav" còn trùng với từ "slave" (nô lệ). Chính vì lý do này, địa vị của người Slav ở châu Âu luôn thấp, giống như người Do Thái, họ bị coi thường trong một thời gian dài.
Vào thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên, người Đông Slav thành lập Vương quốc Kiev Rus, và trong vài trăm năm sau đó, Kiev Rus nhanh chóng nổi lên, trở thành một cường quốc Đông Âu. Dựa trên nền tảng Kiev Rus, sau này ba dân tộc là Nga, Ukraine, và Belarus đã được hình thành. Nhưng nhìn chung, Ukraine có tư cách trở thành người thừa kế chính thống của Kiev Rus hơn, bởi vì khu vực trung tâm của Kiev Rus chủ yếu nằm ở khu vực Ukraine ngày nay.
Sau sự trỗi dậy của Thành Cát Tư Hãn, quân đội Mông Cổ tiến hành các cuộc viễn chinh về phía Tây, tiêu diệt hàng loạt quốc gia bao gồm Tây Hạ, Khwarezm, và Kiev Rus. Sau khi Kiev Rus bị diệt vong, vương quốc này chia thành ba phần: một phần nằm ở vùng đất của Nga ngày nay bị người Mông Cổ cai trị; một phần ở Ukraine ngày nay bị Ba Lan cai trị; và một phần ở Belarus ngày nay bị Lithuania cai trị.
Phong cách cai trị khác nhau đã dần dần hình thành nên các nền văn hóa khác nhau giữa Nga, Belarus, và Ukraine, cuối cùng tạo ra ba dân tộc riêng biệt.
Người Mông Cổ đã thành lập Kim Trướng Hãn Quốc (Golden Horde) trên lãnh thổ Nga và biến nhiều người Nga thành nô lệ của họ. Để kiểm soát người Nga tốt hơn, người Mông Cổ đã kết hôn với giới quý tộc Nga, cưới các phụ nữ quý tộc địa phương làm vợ, điều này đã khiến dân tộc Nga bị pha trộn một phần gen của người Mông Cổ. Nhiều người Nga nổi tiếng như cựu Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu là người Tuva, một nhánh của người Mông Cổ.
Sau hơn 200 năm bị người Mông Cổ cai trị, người Nga cũng trở nên hiếu chiến, bạo lực, nghiện rượu, thô bạo và chuyên chế. Người Nga không chỉ thừa kế kỹ năng chiến tranh của người Mông Cổ mà còn cả tính tham lam đối với mở rộng đất đai. Trong thời kỳ cận đại và hiện đại, Nga đã xâm chiếm rất nhiều lãnh thổ của các nước láng giềng, từ một quốc gia với diện tích vài trăm nghìn km² đã mở rộng thành một siêu cường với hàng chục triệu km².
Cũng vì trải qua thời kỳ bị người Mông Cổ cai trị, người châu Âu luôn có sự dè dặt khi tiếp nhận Nga. Nhiều người ở Tây Âu coi Nga như một quốc gia châu Á, trong khi Nga luôn khao khát được hòa nhập vào phương Tây. Cái nhìn của phương Tây về Nga cũng tương tự như đối với Thổ Nhĩ Kỳ: Một bên là quốc gia kế thừa người Mông Cổ, còn bên kia là quốc gia Hồi giáo. Vì vậy, Liên minh châu Âu không muốn kết nạp Nga cũng như không muốn tiếp nhận Thổ Nhĩ Kỳ.
2.Người kế vị Đế quốc Đông La Mã
Đế chế La Mã có một vị trí lịch sử quan trọng ở phương Tây vì không chỉ ban hành Luật 12 Bảng, đặt nền tảng cho pháp luật hiện đại, mà còn thống nhất phần lớn châu Âu. Sau khi Đế chế La Mã phân rã, các quốc gia châu Âu đều cố gắng tranh giành danh hiệu người thừa kế chính thống của La Mã. Lý do rất đơn giản: ai có thể trở thành người thừa kế chính thống của Đế chế La Mã thì sẽ có quyền pháp lý để thống nhất châu Âu.
Đến thời cận đại, có hai dân tộc ở châu Âu tự cho mình là người thừa kế chính thống của Đế chế La Mã: một là dân tộc Đức và hai là dân tộc Nga.
Lý do của dân tộc Đức như sau:
Sau khi Đế chế La Mã phân rã, nó chia thành Tây La Mã và Đông La Mã. Lãnh thổ của Tây La Mã bao gồm các phần của Pháp, Ý, Tây Ban Nha ngày nay, còn Đông La Mã bao gồm Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và các vùng đất ven Địa Trung Hải phía Đông. Năm 476 sau Công nguyên, Tây La Mã sụp đổ, quyền kế vị được trao cho lãnh tụ của Đế chế Frank – Charlemagne. Sau đó, Đế chế Frank cũng chia rẽ, và một trong những người kế vị là Hoàng đế Otto Đại Đế của Vương quốc Đức được phong làm Hoàng đế tại Rome, kế thừa danh hiệu "Hoàng đế La Mã". Vương quốc Đức sau đó đổi tên thành "Đế quốc La Mã Thần thánh của dân tộc Đức". Kể từ thời điểm đó cho đến cận đại, Đức luôn coi mình là người thừa kế chính thống của Đế chế La Mã.
Lý do của dân tộc Nga như sau:
Năm 1453, Đế chế Đông La Mã bị người Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt, công chúa cuối cùng của đế chế là Sophia đã kết hôn với Đại công tước Ivan III của Moscow. Sau đó, Ivan III đánh bại người Mông Cổ và thống nhất nước Nga. Cháu của Ivan III và Công chúa Sophia – Ivan IV – đã đăng quang với danh hiệu "Sa hoàng", từ này trong tiếng Nga có nghĩa là "Caesar". Từ thời điểm đó, Nga tự nhận mình là người thừa kế của Đế chế Đông La Mã.
Nga từ lâu đã ngưỡng mộ nền văn minh La Mã. Đế quốc Đông La Mã đã sử dụng tiếng Hy Lạp và tiếng Nga cũng phát triển từ tiếng Hy Lạp. Đế chế Đông La Mã tôn sùng Chính Thống giáo và sau này Nga cũng cải đạo sang Chính Thống giáo. Sau khi Công chúa Sophia kết hôn với Đại công tước Moscow, Nga đã áp dụng các nghi lễ và trang phục của Đế chế Đông La Mã.
Nga cũng kế thừa lá cờ đại bàng của Đế chế La Mã, và Đức cũng kế thừa lá cờ đại bàng La Mã ở một mức độ nào đó, cả Đức và Nga đều có tham vọng thống nhất châu Âu. Mặt khác, sau khi Đế chế Đông La Mã sụp đổ, trung tâm của Giáo hội Chính thống giáo dần chuyển từ Constantinople đến Moscow, điều này đã tạo cho người Nga một sứ mệnh tôn giáo, đó là chống lại sự xâm lăng của những người ngoại đạo. Trong thời kỳ cận đại, Nga đã tham gia 12 cuộc chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ vì Nga muốn mở rộng lãnh thổ ven Biển Đen mà còn vì Nga, là một quốc gia Chính thống giáo, có mối thù truyền kiếp với Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc gia Hồi giáo. Nhiều thanh niên Nga theo đạo trở nên cực kỳ phấn khích khi nghe nói về các cuộc chiến chống Thổ Nhĩ Kỳ, họ sẵn sàng dấn thân vào chiến trường.
Vì vậy Nga và phương Tây, ở một mức độ nào đó đều có sự khinh miệt lẫn nhau. Người phương Tây coi Nga là những kẻ man rợ, là hậu duệ của người Mông Cổ, trong khi người Nga tự coi mình là người thừa kế chính thống của La Mã, và cho rằng Tây Âu mới thực sự là những kẻ man rợ, đồng thời Nga có trách nhiệm giải phóng châu Âu.
Hơn một nửa người dân Nga theo đạo Chính Thống giáo, trong đó bao gồm cả Tổng thống Putin hay cựu Tổng thống Medvedev, đều là những tín đồ sùng đạo. Đây cũng là một trong những lý do tại sao mối quan hệ giữa Putin và Trump lại tốt đẹp, vì cả hai đều là người theo đạo Thiên Chúa và đều cho rằng thế giới Cơ đốc giáo, đặc biệt là người da trắng nên đoàn kết lại. Đạo Chính Thống giáo đã mang đến cho người dân Nga một cảm giác về sứ mệnh, một lý tưởng cứu rỗi thế giới và giải phóng nhân loại.
Trong lịch sử, người Nga đã hai lần đóng vai trò là những người giải phóng châu Âu. Lần đầu tiên là trong các cuộc chiến tranh Napoleon, và lần thứ hai là trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (Thế chiến II).
Nga tin rằng chính sự hy sinh anh dũng của họ đã cứu các quốc gia châu Âu khỏi tay kẻ xâm lược. Nga luôn cho rằng bước ngoặt của các cuộc chiến tranh Napoleon là trận hỏa hoạn Moscow, chứ không phải trận Waterloo, và bước ngoặt của Thế chiến II là trận Stalingrad, chứ không phải cuộc đổ bộ Normandy. Nga cho rằng chính họ là người bảo vệ hòa bình châu Âu, trong khi người Nga cho rằng Anh và Mỹ, những người tự xưng là giải phóng châu Âu chỉ đến để cướp lấy chiến thắng.
Trên thực tế, người Nga luôn có tinh thần cứu thế. Tại sao chủ nghĩa cộng sản lại được thực hiện đầu tiên ở Nga? Một trong những lý do quan trọng là vì mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng toàn nhân loại, giải phóng giai cấp vô sản, xóa bỏ sự bóc lột và loại bỏ sự phân cực giàu nghèo. Tư tưởng này hoàn toàn phù hợp với niềm tin cứu thế của dân tộc Nga. Đây cũng là lý do tại sao Liên Xô thời kỳ đầu sẵn sàng hy sinh lợi ích thực tế để xây dựng một xã hội lý tưởng không có ranh giới quốc gia hay sự phân biệt giai cấp. Dưới thời Lenin, người dân Liên Xô là những người ủng hộ nhiệt thành của chủ nghĩa cộng sản và chân thành giúp đỡ các quốc gia nhỏ yếu khác.
Napoleon Bonaparte từng nói: "Trên thế giới chỉ có hai loại sức mạnh: một là gươm, hai là tư tưởng, nhưng về lâu dài, tư tưởng luôn chiến thắng gươm."
Từng có thời điểm Nga dựa vào tư tưởng cộng sản và tinh thần cứu thế của mình để khiến Ukraine tự nguyện hợp nhất với họ, và phần lớn lục địa Á-Âu trở thành người ủng hộ Liên Xô. Nhưng khi Nga từ bỏ vũ khí tinh thần và chuyển sang sử dụng vũ khí vật chất thì không thể đánh bại được dù chỉ một nửa Ukraine.
3.Tây phương hóa
Trong thời kỳ cận đại, nước Nga có hai vị đại đế nổi bật: Peter Đại đế và Catherine II. Cả hai vị sa hoàng này đều có vị thế cao trong lịch sử nước Nga, không chỉ vì họ mở rộng lãnh thổ giúp Nga có được các lối ra biển Baltic và Biển Đen, mà còn vì họ đã dẫn dắt nước Nga tiến tới sự Tây phương hóa.
Thực tế, Nga luôn có thái độ mâu thuẫn với phương Tây: về mặt tinh thần, người Nga tự coi mình là người thừa kế của La Mã và là chủ nhân của châu Âu; nhưng trong thực tế, Nga luôn tụt hậu so với phương Tây, nên thường xem hiện đại hóa là đồng nghĩa với Tây phương hóa, điều này đã trở thành một dấu ấn văn hóa sâu sắc.
Peter Đại đế là một trong những lãnh đạo được kính trọng nhất trong lịch sử Nga, bao gồm cả tổng thống Vladimir Putin hiện nay. Nhìn chung, ông đã có hai thành tựu nổi bật bao gồm:
- Đánh bại kẻ thù mạnh là Thụy Điển, giành quyền kiểm soát lối ra biển Baltic và xây dựng thành phố St. Petersburg, cùng một hải quân hùng mạnh (Peter Đại đế từng nói: “Hãy cho tôi 20 năm, tôi sẽ trả lại cho các bạn một nước Nga kỳ diệu”).
- Ông học hỏi một cách toàn diện từ phương Tây, từ quân sự, khoa học, công nghiệp, tập tục cho đến giáo dục, biến Nga từ một quốc gia nô lệ lạc hậu trở thành một quốc gia hiện đại. Peter Đại đế đã phá vỡ chế độ kế vị của quý tộc và quan chức, tước bỏ quyền can thiệp chính trị của Giáo hội, thành lập cục phiên dịch để nhập khẩu văn hóa và tư tưởng phương Tây, và xây dựng các trường học hiện đại ở Nga. Để Nga giống phương Tây hơn, ông thậm chí cấm đàn ông Nga để râu dài, nếu không sẽ phải nộp thuế nặng.
Không quá khi nói rằng Peter Đại đế là cha đẻ của hiện đại hóa Nga. Nếu không có ông, Nga sẽ không thể trở thành cường quốc thế giới trong thời kỳ cận đại. Ông được xem là một trong những nhà cải cách vĩ đại nhất lịch sử.
Vị đại đế vĩ đại thứ hai của Nga là Catherine II, mặc dù bà thực chất là người Đức. Trong thời gian cầm quyền, bà đã biến Nga thành cường quốc số một ở lục địa châu Âu. Điều này cũng cho thấy mối quan hệ lịch sử tốt đẹp giữa Đức và Nga. Dù có nhiều mất mát trong cuộc chiến tranh Đức-Xô trong Thế chiến II, nhưng trong phần lớn lịch sử, Đức và Nga thường hợp tác với nhau, và nhiều sa hoàng Nga mang dòng máu Đức. Bất cứ khi nào Đức và Nga hợp lực, không chỉ châu Âu mà cả thế giới cũng khó có ai có thể ngăn cản.
Công lao lớn của Catherine II bao gồm:
- Đánh bại Thổ Nhĩ Kỳ, giành được lối ra Biển Đen, chiếm đóng Crimea và Ukraine. Bà cũng hợp tác với Phổ và Áo để chia cắt Ba Lan. Tuy nhiên, sự mở rộng lãnh thổ của Nga trong thời gian này phần lớn nhờ vào việc Anh và Pháp, hai cường quốc hàng đầu lúc đó, đang bị lôi cuốn vào các vấn đề nội bộ: Anh đang vướng vào Chiến tranh giành độc lập của Bắc Mỹ, còn Pháp thì đối mặt với cuộc Cách mạng Pháp.
- Thực hiện chế độ chuyên chế khai sáng, đưa tư tưởng khai sáng Tây Âu vào Nga, giúp tầng lớp quý tộc Nga tiếp cận giáo dục phương Tây. Bà khuyến khích văn học và nghệ thuật, khiến Nga trở thành trung tâm văn hóa tư tưởng của châu Âu, và đề cao pháp quyền, kêu gọi bình đẳng trước pháp luật. Catherine II cũng thành lập các trường học nữ, cho phép phụ nữ có quyền được giáo dục.
Dù không hạnh phúc trong hôn nhân, khi bà bị coi chỉ là công cụ sinh đẻ khi mới về Nga, nhưng trên chính trường bà lại rất thành công. Catherine II không chỉ chiến thắng trên chiến trường mà còn mang văn hóa và tư tưởng phương Tây vào Nga. Những người cai trị nam giới cùng thời với bà ở châu Âu gần như không ai là đối thủ của bà.
Nga có rất nhiều người đặt tên Alexander. Đó là bởi vì Alexander Đại đế có vị thế rất cao trong thế giới Hy Lạp-Đông La Mã. Nga, là người thừa kế của Đông La Mã, cũng rất tôn thờ Alexander. Nhiều sa hoàng của Nga mang tên Alexander. Là đệ tử của Aristotle, Alexander không chỉ xây dựng một đế chế trải dài từ Hy Lạp, Ai Cập, Ba Tư đến Bắc Ấn Độ, mà còn truyền bá nền văn minh Hy Lạp đến các vùng đất này, lan tỏa ánh sáng của lý trí khắp nơi. Vì vậy trong mắt người Nga, một vị quân vương như Alexander, người cầm kiếm trong tay và lan tỏa văn minh là hình mẫu đáng kính.
Vì vậy, Nga luôn khao khát một hình mẫu lãnh đạo mạnh mẽ, không chỉ dẫn dắt đất nước đến sự thịnh vượng (mở rộng lãnh thổ, giành quyền kiểm soát các lối ra biển), mà còn giúp Nga trở nên văn minh hơn (trở thành một quốc gia hiện đại và được phương Tây công nhận). Đây là mẫu hình lý tưởng của một đại đế, và cũng là mục tiêu của các nhà cai trị Nga qua từng thời kỳ.
4.Sự lãng mạn của sông Volga
Nếu người Mông Cổ làm cho Nga trở nên tàn bạo, khoa học và tư tưởng phương Tây làm cho nước Nga trở nên hiện đại, và di sản của Đông La Mã mang lại cho Nga cảm giác sứ mệnh, thì sông Volga đã mang lại cho Nga sự lãng mạn và chất văn nghệ.
Nếu bạn là một người yêu thích văn học và nghệ thuật, bạn sẽ nhận thấy rằng trong thời kỳ cận đại, có ba trung tâm văn nghệ lớn trên thế giới: Anh, Pháp và Nga.
Pushkin và Tolstoy – mặt trời của thơ ca và đại thụ của văn học Nga
Nước Nga trong thời cận đại có rất nhiều nhà văn xuất chúng, bao gồm: Lev Tolstoy, tác giả của Chiến tranh và Hòa bình; Alexander Pushkin, tác giả của Cô con gái viên đại úy; Nikolai Gogol, tác giả của Linh hồn chết; Anton Chekhov, Fyodor Dostoevsky với Tội ác và Hình phạt; và Ivan Turgenev, tác giả của Cha và con. Các tiểu thuyết của Nga không chỉ chứa đựng sức mạnh tư tưởng mà còn phản ánh sự phê phán sâu sắc đối với thực tại. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, khi nhiều người Nga rời quê hương để đến thành phố, môi trường xa lạ và lối sống mới khiến họ mâu thuẫn với bản sắc của mình, nhiều thanh niên chìm đắm trong sự mơ hồ và khủng hoảng. Vì vậy, văn học Nga thúc đẩy một nền văn hóa cứu rỗi, cho rằng dù cuộc sống đầy đau khổ, con người không nên nản lòng mà phải trải qua sự rèn luyện để tự thanh tẩy và đạt được sự cứu rỗi.
Nước Nga cũng có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực nghệ thuật, chẳng hạn như những tác phẩm kinh điển của Pyotr Tchaikovsky như Hồ Thiên Nga, Khúc hát thuyền, Romeo và Juliet, và Kẹp hạt dẻ. Ngay cả trong thời kỳ Liên Xô, những bài hát nổi tiếng như Chiều ngoại ô Moscow, Cây táo gai, và Tam xa mã cũng nổi tiếng trên toàn thế giới. Dù Mỹ có nền âm nhạc đại chúng phát triển, Liên Xô lại giống như người thừa kế của âm nhạc cổ điển.
Phong cảnh tuyệt đẹp của sông Volga – món quà tuyệt vời từ thiên nhiên dành cho Nga
Sông Volga dài 3.692 km, là dòng sông nội địa dài nhất thế giới, nối liền miền Nam và miền Bắc nước Nga. Lưu vực sông Volga nuôi dưỡng 60% dân số Nga và được coi là "mẹ của nước Nga".
Do ít bị ô nhiễm trong lịch sử, sông Volga có cảnh quan cực kỳ đẹp, với nhiều kỳ quan tự nhiên nằm dọc bờ sông. Nhiều danh lam thắng cảnh của Nga nằm dọc theo dòng sông này. Nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật Nga lấy cảm hứng từ sông Volga, ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Hầu hết các nhà văn và nghệ sĩ Nga hoặc lớn lên bên bờ sông Volga hoặc chọn nơi đây để định cư. Ngoài ra, tình yêu thiên nhiên của người Nga cũng đã góp phần vào những thành tựu khoa học nổi bật, chẳng hạn như Mendeleev, người phát minh ra bảng tuần hoàn các nguyên tố, và Pavlov với lý thuyết phản xạ có điều kiện. Trong thời kỳ Liên Xô, người Nga đã vận dụng tài năng văn nghệ vào lĩnh vực toán học và vật lý, trở thành quốc gia đầu tiên phóng vệ tinh nhân tạo và đưa con người vào không gian. Cho đến ngày nay, Nga vẫn là một trong ba trung tâm toán học hàng đầu thế giới, ngang hàng với Mỹ và Pháp.
Tác phẩm Những người kéo thuyền trên sông Volga của Ilya Repin
Danh họa hiện thực Ilya Repin cũng đã sử dụng bối cảnh sông Volga để sáng tác nhiều bức tranh, trong đó nổi bật là Những người kéo thuyền trên sông Volga. Tác phẩm không chỉ thể hiện sự phản kháng đối với chế độ chuyên chế mà còn mô tả tinh thần kiên cường và bền bỉ của dân tộc Nga, ca ngợi ý chí vượt qua mọi khó khăn. Tinh thần này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc chiến tranh chống lại Napoleon và trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (Thế chiến II).
Trong trận Stalingrad thời Thế chiến II, khẩu hiệu truyền cảm hứng mạnh mẽ nhất cho người Nga không phải là "Vì chủ nghĩa cộng sản" hay "Vì tổ quốc", mà là câu "Phía sau lưng chúng ta là sông Volga!". Nhiều người Nga coi dòng sông Volga như mẹ của mình, và họ không bao giờ cho phép "mẹ" của mình bị quân Đức Quốc xã làm ô uế. Dưới ảnh hưởng của khẩu hiệu này, nhiều người Nga chiến đấu quyết liệt với Đức Quốc xã, không ngần ngại hy sinh để bảo vệ dòng sông. Trong suốt trận Stalingrad, với cái giá của hàng trăm nghìn sinh mạng, người Nga đã chặn đứng quân Đức ở phía tây sông Volga.
Dân tộc Nga cũng rất mâu thuẫn. Họ vừa kế thừa sự man rợ và tàn bạo từ người Mông Cổ, vừa được ban tặng sự lãng mạn và văn nghệ từ sông Volga; họ vừa tự ti vì thua kém phương Tây, vừa kiêu hãnh vì tôn giáo và di sản của mình, luôn muốn trở thành người giải phóng nhân loại. Không có từ nào có thể miêu tả đầy đủ dân tộc Nga. Người Nga không sợ bị trừng phạt và không ngại hy sinh, và đó là lý do tại sao Nga thường bị đánh giá sai lầm.
Nhìn lại lịch sử, Nga là quốc gia dễ bị cuốn vào những thái cực, hoặc hướng về cực tả, hoặc hướng về cực hữu, và điều này xuất phát từ đặc tính văn hóa của họ. Putin từng nói: "Nếu không có nước Nga, thì thế giới này để làm gì?" .
Câu nói này không phải là trò đùa, mà phản ánh một niềm tin sâu sắc trong dân tộc Nga rằng họ là dân tộc được Chúa chọn, là người thừa kế của Đế chế La Mã và là những người cứu thế của nhân loại. Chính vì vậy, đừng bao giờ đánh giá thấp khả năng Nga có thể sử dụng các biện pháp cực đoan. Trong quá khứ, để đánh bại Napoleon, Nga đã không ngần ngại đốt cháy thủ đô Moscow. Nếu Nga bị dồn vào đường cùng, họ thực sự có khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Các chính trị gia phương Tây, những người kêu gọi cứng rắn hơn với Nga, có thể đã đánh giá rất thấp nguy cơ này.
Chương II: Kinh nghiệm và bài học từ các cuộc cải cách của Nga
Những bước đầu tiên trong quá trình cải cách chính trị của Nga có thể nói là bắt đầu từ giữa thế kỷ 19.
Năm 1853, Nga xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ, khơi mào cuộc Chiến tranh Nga-Thổ lần thứ chín. Ban đầu, Nga đã đánh giá sai phương Tây, cho rằng Biển Đen cách xa Anh và Pháp, không phải là lợi ích cốt lõi của họ, vì vậy Anh và Pháp sẽ không can thiệp.
Đánh giá này ban đầu không sai, nhưng sau trận hải chiến Sinope, khi Nga phá hủy phần lớn hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ, gây ra hơn 3.000 thương vong, Anh và Pháp bắt đầu lo ngại. Nếu Nga tiếp tục tiến triển, với đà này họ có thể chiếm được eo biển Thổ Nhĩ Kỳ và kiểm soát toàn bộ Biển Đen, điều này đe dọa trực tiếp đến lợi ích cốt lõi của Anh và Pháp. Do đó, Anh và Pháp đã tận dụng lợi thế truyền thông, mô tả Nga như một kẻ đồ tể tàn sát dân thường để kích động dư luận trong nước, từ đó tạo lý do để tuyên chiến với Nga.
Trước chiến tranh Nga có hai đồng minh thân cận là Áo và Phổ. Ba quốc gia này đã hợp thành Liên minh Thần thánh (Holy Alliance) để bảo vệ chế độ quân chủ chuyên chế ở châu Âu. Tuy nhiên, khi Anh và Pháp tuyên chiến với Nga, cả hai đồng minh của Nga đều giữ thái độ trung lập. Áo lo ngại rằng nếu Nga chiếm được vùng Balkan, điều này sẽ đe dọa đến lợi ích của mình. Phổ thì thực sự không hài lòng với chính sách hỗ trợ Áo lâu dài của Nga, trong khi Phổ và Áo có sự cạnh tranh rõ ràng. Kết quả là chiến tranh trở thành cuộc đối đầu giữa Nga và Anh-Pháp.
Điều tồi tệ hơn cho Nga là đồng minh "thân như anh em" – Áo – sau đó còn điều quân tới biên giới Nga-Áo để biểu dương lực lượng, ép buộc Nga phải rút khỏi khu vực Balkan. Đây chẳng khác gì một cú đâm sau lưng Nga, và sự phản bội này đã khiến quan hệ giữa Nga và Áo, từ thân thiết như anh em trở nên đối địch sau chiến tranh.
Trên thực tế quân đội Nga chiến đấu rất dũng cảm. Dưới sự thúc đẩy của sứ mệnh tôn giáo, người Nga liên tục tiến lên, khi một sư đoàn bị tiêu diệt, một sư đoàn khác lại thay thế, bất kể quý tộc hay dân thường đều xông lên dưới làn đạn.
Tuy nhiên, Anh và Pháp lại có ưu thế về công nghệ. Nga sử dụng xe ngựa để vận chuyển vật tư và quân đội, trong khi Anh và Pháp sử dụng đường sắt, với hiệu suất cao hơn hàng chục lần. Súng hỏa mai của Nga có tầm bắn 137 mét, trong khi súng trường nòng xoắn của Anh và Pháp có tầm bắn 457 mét, và còn có độ chính xác cao hơn. Các tàu chiến buồm của Nga chẳng khác gì đồ chơi bằng gỗ khi đối đầu với các tàu chiến bọc thép chạy bằng hơi nước của Anh và Pháp. Ngay cả kỵ binh đưa tin của Nga cũng không thể sánh được với tốc độ của điện báo dây dẫn của Anh và Pháp.
Mặc dù người dân Nga không sợ chết, nhưng với sự vượt trội về công nghệ, Anh và Pháp đã giáng một đòn chí mạng vào Nga. Cuối cùng, Nga phải trả giá bằng hơn 400.000 thương vong và thất bại thảm hại trong chiến tranh. Không chỉ mất đi các vùng lãnh thổ chiếm đóng, mà còn phải chấp nhận giới hạn phi quân sự hóa Biển Đen. Sa hoàng Nikolai I không chịu nổi sự nhục nhã này, đã chọn cách tự tử bằng thuốc độc và truyền ngôi cho con trai mình, Aleksandr II.
Dưới thời Aleksandr II
Ngay từ thời kỳ chiến tranh Napoléon, tư tưởng về tự do và nhân quyền từ cuộc cách mạng Pháp đã lan truyền vào Nga, ươm mầm cho những cuộc cách mạng trong tương lai. Tuy nhiên, trong thời gian Nikolai I trị vì, ông tin tưởng tuyệt đối vào chính trị cường quyền, thực hiện các chính sách áp bức trong nước và cứng rắn đối ngoại. Ông kiên quyết đàn áp các phong trào cải cách trong nước. Nga thậm chí còn giữ lại hệ thống nông nô lạc hậu, khiến Cách mạng công nghiệp khó có thể phát triển tại đây, vì đất đai và lao động cần thiết cho việc thành lập nhà máy đều nằm trong tay địa chủ. Trong cuộc chiến tranh Crimea, nước Nga nông nghiệp đã bị các nước công nghiệp Anh và Pháp đánh bại thảm hại, không chỉ về mặt quân sự mà còn về cả thể chế.
Vào giữa thế kỷ 19, 90% dân số Nga vẫn là nông nô. Những người này phần lớn bị ràng buộc vào đất đai, làm việc không công cho địa chủ, điều này đã ngăn cản bước tiến công nghiệp hóa của Nga.
Sau khi Aleksandr II lên ngôi, ông tuyên bố giải phóng nông nô, cho phép họ được tự do hoàn toàn về mặt nhân thân và không còn bị địa chủ ràng buộc nữa. Tuy nhiên, để cân bằng lợi ích của địa chủ, chính sách quy định nông nô phải mua đất nông nghiệp từ địa chủ thông qua việc chuộc lại. Cải cách này ban đầu được thử nghiệm ở các khu vực ven biển có tư tưởng cấp tiến, sau đó mới lan rộng vào vùng nội địa.
Về tổng thể, việc giải phóng nông nô là phù hợp với lợi ích quốc gia của Nga, nhưng điều này đã tác động mạnh đến lợi ích của tầng lớp địa chủ quý tộc rộng lớn, những người đã yêu cầu bãi bỏ cải cách với lý do nó gây nguy hiểm cho sự ổn định quốc gia. Đồng thời, nhiều nông nô được giải phóng cũng không hài lòng với cải cách. Vì nông nô thiếu tiền để chuộc lại đất đai nên họ cảm thấy gánh nặng trên đầu càng nặng nề hơn, các cuộc nổi dậy của nông dân ở Nga ngày càng thường xuyên hơn. Tuy nhiên, Aleksandr II là một nhà cải cách kiên định, dù có phải đắc tội với cả hai bên, ông vẫn kiên quyết thúc đẩy cải cách đến cùng.
Không chỉ vậy, Aleksandr II còn tiến hành cải cách tư pháp, thiết lập hệ thống bồi thẩm đoàn, trao quyền bình đẳng cho các dân tộc thiểu số và phụ nữ. Hệ thống kiểm duyệt của Nga cũng dần được nới lỏng, không còn hạn chế các sáng tác văn học dân gian, cho phép dư luận phê bình chính phủ, đồng thời đề cao sự quản lý của các giáo sư đại học trong nhiệm kỳ của ông, văn học nghệ thuật Nga phát triển rực rỡ chưa từng thấy và trở thành một cường quốc văn hóa châu Âu. Về mặt ngoại giao, ông thúc đẩy quan hệ với Phổ, khôi phục lại Liên minh Ba Hoàng đế giữa Phổ, Áo và Nga, giúp Nga thoát khỏi sự kiềm chế sau thất bại trong cuộc chiến Crimea và tái thiết hạm đội Biển Đen. Tuy nhiên, việc ông ngồi yên trước quá trình thống nhất nước Đức lại trở thành một thất bại ngoại giao đối với ông.
Không còn nghi ngờ gì, Aleksandr II là một nhà cải cách đối với nước Nga. Dưới sự lãnh đạo của ông, sức mạnh quốc gia Nga đã có bước phát triển vượt bậc. Khi ông mới lên ngôi, hệ thống đường sắt của Nga chỉ dài vài trăm km, nhưng đến khi ông qua đời, chiều dài đường sắt của Nga đã đạt hơn 20.000 km. Nước Nga bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, các thương nhân Tây Âu đổ xô đến Nga đầu tư và xây dựng nhà máy, Nga cũng thiết lập hệ thống tài chính hiện đại và hệ thống ngân hàng trung ương, giúp sức mạnh quốc gia lên cao nhanh chóng.
Nhưng những nhà cải cách trong lịch sử thường đắc tội với người khác, và hành động của Alexander II cũng xúc phạm toàn bộ tầng lớp quý tộc Nga. Trước khi cải cách, những quý tộc này có thể dựa vào đất đai và nông nô để ngồi không hưởng lợi, không ngừng vơ vét tài sản từ tầng lớp dưới đáy mà không quan tâm đến tương lai của quốc gia. Sau cải cách, nhiều quý tộc buộc phải tự lực cánh sinh, sống nhờ vào sức lao động của bản thân. Họ khó có thể chấp nhận việc những người từng là nô lệ vượt lên làm giàu nhờ kinh doanh và giàu có hơn họ. Một số quý tộc xưa cũng tỏ ra phẫn nộ vì cuộc sống đồng quê thơ mộng một thời đã chuyển thành cuộc sống thành thị trong thời đại công nghiệp.
Vì vậy, Alexander II đã trở thành cái gai trong mắt giới quý tộc, đặc biệt là trong thời kỳ sau này, khi ông cố gắng thúc đẩy cải cách chế độ quân chủ lập hiến và cố gắng đẩy nước Nga vào con đường theo chủ nghĩa hợp hiến. Họ đầu tư một số tiền lớn để hỗ trợ các tổ chức khủng bố dân sự. Nhiều tổ chức trong số này bao gồm các thanh niên có tư tưởng cách mạng cực đoan, những người cho rằng sa hoàng là trở ngại đối với sự phát triển của Nga, và rằng giết sa hoàng sẽ giúp Nga hiện đại hóa.
Một trong những tổ chức cấp tiến được gọi là "Đảng Dư luận Nhân dân" bao gồm các thành viên chủ yếu là những người bất mãn với xã hội hiện thực. Họ tin tưởng vào thuyết anh hùng và cho rằng dân thường chỉ là “đám đông vô tri”, còn lịch sử chỉ có thể được thúc đẩy bởi một số ít những người anh hùng. Đảng cực đoan này bắt đầu thực hiện hàng loạt vụ ám sát, và giới quý tộc Nga cũng tích cực đóng vai trò nội ứng, tiết lộ lộ trình của sa hoàng. Thậm chí, trong đội cận vệ của sa hoàng cũng xuất hiện nhiều kẻ phản bội. Cuối cùng, sau hơn 100 lần ám sát, Aleksandr II đã bị sát hại.
Sau khi Aleksandr II bị ám sát, phần lớn nông dân Nga đều quỳ xuống cầu nguyện cho ông và vô cùng căm ghét những kẻ khủng bố, bởi Sa hoàng mới là người thực sự có thể bảo vệ lợi ích của họ. Tại lễ tang của ông, vòng hoa do phái đoàn đại diện nông dân dâng lên được đặt trên ngực ông. Vị Sa hoàng này, người khi còn sống đã luôn đặt nông dân ở vị trí quan trọng nhất trong lòng, đã nhận được sự kính trọng từ phần lớn nông dân Nga.
Phải thừa nhận rằng Aleksandr II là một nhân vật bi kịch, vì tương lai của nước Nga, ông không ngại đắc tội với toàn bộ tầng lớp quý tộc. Mặc dù ông đã giải phóng hàng triệu nông nô, nhưng cuối cùng những người nông nô này lại không thể bảo vệ ông. Trong lịch sử, hầu hết các nhà cải cách đều không có kết cục tốt, ngay cả các hoàng đế cũng không ngoại lệ.
Dưới thời Aleksandr III
Sau khi Sa hoàng kế nhiệm Aleksandr III lên nắm quyền, chính trị Nga bắt đầu chuyển sang xu hướng bảo thủ. Vào thời điểm này, tầng lớp tinh hoa Nga cho rằng làn sóng tự do hóa xã hội cần được kiềm chế, và sự ổn định xã hội phải được đặt lên trên cải cách thể chế. Do đó, Sa hoàng đã ban hành sắc lệnh tăng cường các hình phạt đối với các cuộc đình công và biểu tình. Vì các trường đại học là nguồn gốc của chủ nghĩa tự do, Aleksandr III đã bãi bỏ quyền tự trị của các trường đại học. Hệ thống kiểm duyệt báo chí trở nên nghiêm ngặt trở lại, nhiều nhân vật đối lập bị bắt giữ và việc cải cách chế độ quân chủ lập hiến của Nga cũng không còn được đề cập đến.
Mặc dù chính trị Nga có xu hướng bảo thủ, nhưng các bước cải cách kinh tế của Nga vẫn không bị đình trệ. Vào cuối thế kỷ 19, Nga bước vào giai đoạn công nghiệp hóa nhanh chóng. Chiều dài đường sắt tiếp tục gia tăng, hàng loạt nhà máy hiện đại được xây dựng, và sản lượng công nghiệp của Nga dần thu hẹp khoảng cách so với phương Tây. Các ngành công nghiệp hiện đại như than đá, thép, hóa chất và điện lực đạt được những bước tiến đáng kể. Toàn bộ nước Nga đã biến thành một công xưởng lớn, với rất nhiều nông dân rời nông thôn lên thành phố để tìm kiếm cơ hội việc làm. Nga cũng hoàn toàn hòa nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu, trở thành nhà xuất khẩu nông sản và khoáng sản lớn nhất châu Âu.
Tuy nhiên ở Nga vào cuối thế kỷ 19, mặc dù kinh tế phát triển nhanh chóng, nhưng những nguy cơ xã hội lại ngày càng gia tăng. Một trong những vấn đề đó là sự phân hóa ngày càng sâu sắc giữa các tầng lớp trong xã hội.
Trước đây Nga chủ yếu có hai tầng lớp: quý tộc và nông nô.
Sa hoàng thông qua tầng lớp quý tộc để cai trị nông nô một cách gián tiếp, khiến việc quản lý xã hội tương đối dễ dàng. Sau cải cách, Nga xuất hiện nhiều tầng lớp mới như quý tộc cũ, nhà tư bản mới nổi, công nhân và nông dân. Quý tộc cũ có quyền nhưng không có tiền, nhà tư bản có tiền nhưng không có quyền, công nhân có kỹ năng nhưng không sở hữu tư liệu sản xuất, còn nông dân là tầng lớp đông đảo nhất nhưng bị áp bức nặng nề nhất. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội Nga ngày càng gia tăng nhanh chóng. Chất lượng cuộc sống của người dân ở tầng lớp dưới cùng ngày càng trở nên khó khăn. Những mẫu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, ngay cả những trí thức từng ủng hộ Sa hoàng cũng dần mất niềm tin vào chế độ chính trị Nga. Xã hội Nga trở thành một thùng thuốc súng, chỉ cần một mồi lửa nhỏ cũng có thể bùng nổ.
Sa hoàng cuối cùng Nicholas II
Năm 1894 Sa hoàng Nikolai II lên ngôi, vào thời điểm đó, nước Nga đã bước vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền trong kinh tế, nhưng về chính trị vẫn tồn tại nhiều tàn dư của chế độ phong kiến quý tộc. Người dân ngày càng mất hy vọng vào việc vươn lên và thiếu sự đồng thuận xã hội.
Trong nửa đầu thế kỷ 19, sự đồng thuận xã hội của Nga dựa trên văn hóa truyền thống Nga, nhờ vào sức mạnh đoàn kết xã hội từ cuộc chiến chống lại Napoleon, đa số người Nga đều mang trong mình một giấc mơ vươn lên thành cường quốc. Ngay cả một người nông dân bình thường cũng có thể thuộc lòng những bài thơ của Pushkin, và đây là giai đoạn mà Nga đoàn kết hơn bao giờ hết.
Từ thập niên 1860 đến 1880, sự đồng thuận xã hội của Nga tập trung vào phát triển kinh tế. Sau khi Aleksandr II giải phóng nông nô, kinh tế Nga bước vào giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng, hàng loạt nhà máy được xây dựng và dân số đô thị tăng mạnh. Tăng trưởng kinh tế mang lại lợi ích cho hầu hết người dân Nga, Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã mang lại lợi ích cho hầu hết người Nga, cho dù họ là tầng lớp quý tộc cũ kiếm tiền bằng cách bán đất, các nhà tư bản kiếm tiền bằng cách thành lập các nhà máy, tầng lớp lao động kiếm thu nhập bằng cách làm việc ở thành phố hay những người nông dân kiếm sống bằng cách xuất khẩu nông sản.Tất cả đều trở thành người ủng hộ cải cách kinh tế. Vì vậy, mặc dù có sự chênh lệch giàu nghèo ở Nga vào thời điểm đó rất lớn và sự áp bức giai cấp rất nghiêm trọng, nhưng đại đa số những người đã được hưởng trọn vẹn chiếc bánh tăng trưởng kinh tế đều ghét bỏ và ủng hộ trật tự cũ. Chừng nào thu nhập còn tăng, sự áp bức chính trị vẫn có thể được chịu đựng được.
Tuy nhiên đến cuối thế kỷ 19, sự đồng thuận xã hội dần biến mất.Mặc dù nền kinh tế Nga vẫn đang phát triển với tốc độ cao, nhưng phần lớn chiếc bánh tăng trưởng của cải đã được chia cho một số ít người và hầu hết mọi người không cảm thấy rằng họ là người chiến thắng trong tăng trưởng kinh tế. Do tỷ lệ sinh cao, nhiều thanh niên không tìm được việc làm và họ cho rằng chỉ có phá bỏ trật tự cũ mới có thể thay đổi số phận của mình.
Vào cuối thế kỷ 19 , tất cả các tầng lớp ở Nga ngày càng bị chia rẽ. Dù thuộc tầng lớp nào thì họ cũng không hài lòng với tình hình hiện tại. Ở đây chủ yếu có một số tầng lớp:
- Tầng lớp quý tộc cũ: tầng lớp quý tộc từng là người ổn định xã hội Nga và là người ủng hộ lớn nhất cho trật tự cũ. Tầng lớp quý tộc chiếm 5% dân số, từng cai trị nông nô chiếm 90% dân số . Mặc dù tầng lớp quý tộc cản trở quá trình hiện đại hóa nước Nga, nhưng không thể phủ nhận rằng tầng lớp quý tộc có bầu không khí yêu nước mạnh mẽ hơn trong cuộc chiến chống lại Napoléon, rất nhiều quý tộc đã đứng lên và hy sinh trên chiến trường. Tuy nhiên, sau khi Nga hoàn thành công cuộc cải cách chế độ nông nô, tình trạng kinh tế của tầng lớp quý tộc tụt dốc, nhiều người trong số họ chỉ có thể sống trong cảnh nghèo đói, lòng yêu nước và đạo đức truyền thống cũng bị mai một. Mặc dù địa vị giàu có của giới quý tộc dần dần bị giai cấp tư sản vượt qua, nhưng hầu hết các sĩ quan trong quân đội Nga đều được phục vụ bởi các quý tộc, sa hoàng vẫn phải dựa vào giới quý tộc để điều khiển quân đội nên giới quý tộc có địa vị chính trị cao.
- Giai cấp tư sản: Vào cuối thế kỷ 19, Nga cũng như toàn bộ phương Tây bước vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã thúc đẩy các ngành công nghiệp như luyện kim, dầu mỏ, điện lực và ô tô phát triển. Các ngành này có xu hướng độc quyền tự nhiên. Nền kinh tế Nga dần bị các công ty độc quyền kiểm soát, vốn công nghiệp trong nước và vốn tài chính quốc tế ngày càng hội nhập, chèn ép các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khác với các nước phương Tây, phần lớn các nhà tư bản độc quyền Nga đều ở trong tình trạng bất lực về chính trị nên rất mong muốn phá bỏ trật tự cũ để tìm kiếm sự tham gia chính trị. Nhưng giai cấp tư sản Nga sợ cách mạng xã hội nên từ chối hợp tác với dân thường.
- Tầng lớp trung lưu: Làn sóng công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Nga đã biến một lượng lớn người dân trở thành tầng lớp trung lưu. Các tầng lơp trung lưu này bao gồm các doanh nhân nhỏ và những người có thu nhập trung bình và việc làm ổn định. Nhiều công dân Nga đã được tiếp nhận nền giáo dục hiện đại và có những mục tiêu nhất định về chất lượng cuộc sống, nhưng họ luôn trong trạng thái lo lắng. Xem ra đã tích lũy được một lượng của cải nhất định, nhưng số của cải này có thể bị giới quý tộc tước đoạt và bị tư bản thôn tính bất cứ lúc nào. Trong con mắt của nhà văn Gorky, tầng lớp này là những người theo chủ nghĩa vị kỷ, dễ dàng bị tổn thương và dễ sụp đổ.
- Giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân ra đời trong quá trình công nghiệp hóa nước Nga. Họ có những kỹ năng nhất định nhưng do không làm chủ được phương tiện sản xuất nên thường xuyên phải làm việc ngoài giờ và môi trường làm việc vô cùng nghèo nàn. Giai cấp công nhân rất bất bình với trật tự cũ. Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác, công nhân ở Nga và thậm chí cả Tây Âu vào cuối thế kỷ 19 thường đình công để chống lại sự áp bức của các nhà tư bản. Tuy nhiên các cuộc đình công này thường bị chính phủ và giới tư bản đàn áp.
- Nông dân: Nông dân Nga chiếm phần lớn tổng dân số trong xã hội. Trình độ văn hóa và giáo dục của họ nhìn chung thấp và là đối tượng bị bóc lột nặng nề nhất. Nhưng nông dân là những người ủng hộ trật tự cũ, bởi vì nông dân thường tin vào Cơ đốc giáo Chính thống. Theo truyền thống Chính thống giáo Nga, Sa hoàng là đại diện của Chúa trên trần gian, và quốc ca Nga là "God Bless the Tsar". Vì vậy, hầu hết nông dân Nga đều ủng hộ sa hoàng và có phần phản kháng cách mạng dân chủ.
Vì vậy, nước Nga cuối thế kỷ 19 tưởng chừng mạnh mẽ nhưng thực tế lại rơi vào tình trạng hỗn loạn. Sự đồng thuận xã hội đang dần biến mất và không có chính sách nào có thể làm hài lòng số đông trong xã hội. Giới quý tộc hy vọng duy trì chế độ quân chủ, giai cấp tư sản hy vọng thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, tầng lớp trung lưu hy vọng tiến tới một nước cộng hòa, giai cấp công nhân hy vọng phá bỏ trật tự cũ, và nông dân hy vọng khai sáng chế độ quân chủ. Đối với nước Nga lúc bấy giờ, cải cách có thể dễ dàng dẫn tới nội chiến, nhưng không cải cách sẽ là tự sát từ từ. Đất nước tưởng chừng như hùng mạnh này thực ra mạnh bên ngoài nhưng lại yếu bên trong.
Trước tình cảnh khó khăn của Nga, Sa hoàng Nikolai II đã chọn cách tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế, cố gắng duy trì sự ổn định xã hội bằng cách áp dụng các biện pháp đàn áp mạnh mẽ, dần dần cắt giảm quyền tự trị địa phương.
Ở Nga thời đó, hầu hết sĩ quan đều là quý tộc và hầu hết binh lính là nông dân. Cả quý tộc và nông dân đều là những người ủng hộ chế độ Sa hoàng. Mặt khác, tầng lớp tư sản nắm giữ kinh tế nhưng do Nga trong quá trình trỗi dậy phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư từ phương Tây, tầng lớp tư sản Nga mang đặc trưng của một giai cấp môi giới, liên kết với phương Tây để bán rẻ lợi ích quốc gia. Giới trí thức Nga nắm giữ quyền ngôn luận, nhưng bản thân họ lại yếu đuối, dù có lý tưởng nhưng không có quyền lực, tiền bạc, hay quân đội, và họ cũng bị chia rẽ sâu sắc. Do đó, họ thường chỉ là công cụ truyền tải thông tin và trở thành công cụ cho các cuộc đấu tranh tư tưởng. Trong bối cảnh đó, Sa hoàng dựa vào quân đội để kiểm soát kinh tế và thông qua việc mua chuộc trí thức để duy trì chế độ chuyên chế.
Một vấn đề khác của Nga thời điểm đó là ý thức độc lập dân tộc của Ukraine bắt đầu thức tỉnh, ngôn ngữ và văn học Ukraine dần trở nên phổ biến trong tầng lớp thượng lưu tại địa phương, tạo ra một mối đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định của Nga. Bởi Nga từ trước đến giờ vẫn coi người Đông Slav, bao gồm người Nga và người Ukraine, là dân tộc chủ thể, chiếm hai phần ba dân số cả nước. Nếu dân tộc Ukraine và dân tộc Nga tách biệt, dân tộc Nga sẽ chiếm chưa đến một nửa tổng dân số, từ đó các mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo của Nga sẽ lộ rõ, bao gồm cả các khu vực như Ba Lan, Phần Lan và vùng ven biển Baltic sẽ tìm cách độc lập.
Trên thực tế những mâu thuẫn này bề ngoài có vẻ là vấn đề dân tộc, nhưng thực chất là sự đối lập giữa các vùng kinh tế phát triển ven biển và các khu vực nội địa lạc hậu. Các khu vực ven biển, bao gồm Ukraine và Lithuania, đã phát triển kinh tế nhanh chóng trong thời kỳ công nghiệp hóa của Nga, với sản lượng công nghiệp bình quân đầu người không thấp hơn mức trung bình của Tây Âu, và nhiều thị trấn hiện đại đã được xây dựng. Tuy nhiên, các khu vực nội địa của Nga vẫn chìm trong nghèo đói. Để cân bằng ngân sách, hàng năm Nga phải thu thuế nặng từ các khu vực ven biển để hỗ trợ các khu vực nội địa, điều này khiến dân cư ven biển bất mãn, họ tin rằng nếu giành độc lập, cuộc sống của họ sẽ tốt hơn.
Trước tình hình phức tạp trong nước, nhằm xoa dịu xung đột xã hội, Nicholas II theo chủ nghĩa dân tộc và chuyển trọng tâm sang Đông Á, tìm cách xâm chiếm Đông Bắc Trung Quốc. Sự bành trướng của Nga cuối cùng đã vấp phải sự phản đối của các cường quốc khác. Để chống lại Nga, Anh đã chọn hỗ trợ Nhật Bản ở Viễn Đông.
Trước cuộc chiến tranh Nga-Nhật, nội bộ Nga chia thành hai phe: phe ôn hòa và phe chủ chiến.
- Phe ôn hòa chủ yếu bao gồm giai cấp tư sản. Họ cho rằng Nga đang đối mặt với nguy cơ cách mạng từ bên trong và sự bao vây của Anh-Mỹ từ bên ngoài, trong khi lực lượng quân sự của Nga ở vùng Viễn Đông còn yếu kém. Do đó, phe này đề xuất nên áp dụng biện pháp bóc lột kinh tế đối với vùng Đông Bắc Trung Quốc, chờ đến khi tuyến đường sắt Xibêri hoàn thành và pháo đài Lüshun được xây dựng xong mới khởi chiến với Nhật Bản.
- Ngược lại, phe chủ chiến với thành phần chủ yếu là tầng lớp quý tộc, lại coi thường Nhật Bản, cho rằng đây chỉ là một quốc gia nhỏ bé. Họ tin rằng, mở chiến tranh với Nhật Bản có thể tạo ra sự đồng thuận xã hội, và thông qua một chiến thắng vẻ vang có thể ngăn chặn cách mạng, đồng thời chuyển hướng các mâu thuẫn nội bộ.
Cuối cùng, Nikolai II đã chọn con đường của phe chủ chiến. Mặc dù ông biết rằng Nga chưa chuẩn bị đầy đủ và đang phải đối mặt với khó khăn trong và ngoài nước, nhưng ông vẫn quyết định đánh cược, bởi Nga có sản lượng công nghiệp gấp 10 lần Nhật Bản và quân đội Nga cũng mạnh hơn nhiều, nên khả năng chiến thắng lớn hơn.
Nhưng cuối cùng, Nga đã thua trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật. Cảng Lüshun bị công phá, hạm đội Thái Bình Dương của Nga bị tiêu diệt hoàn toàn, biến Nga trở thành quốc gia da trắng đầu tiên trong lịch sử cận đại bị một quốc gia da vàng đánh bại. Vị thế quốc tế của Nga từ đó tụt dốc không phanh.
Trên thực tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của Nga trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật:
- Khoảng cách địa lý: Viễn Đông cách châu Âu quá xa, trong khi tuyến đường sắt Siberia vẫn chưa hoàn thành, dẫn đến sự thiếu hụt trong việc tiếp tế hậu cần.
- Hỗ trợ từ Anh và Mỹ: Nhật Bản nhận được sự hỗ trợ từ Anh và Mỹ, trong khi đồng minh của Nga là Pháp, mặc dù trên bề mặt ủng hộ Nga, nhưng thực chất không muốn Nga bị cuốn vào các vấn đề châu Âu, vì vậy không cung cấp sự giúp đỡ thiết thực.
- Quan hệ với Trung Quốc: Nga đã chiếm đóng đông bắc Trung Quốc một cách mạnh mẽ. Chính phủ nhà Thanh lúc đó tuyên bố trung lập, nhưng thực tế lại có thiên hướng ủng hộ Nhật Bản thắng lợi và từ chối cung cấp tiếp tế cho Nga.
- Quan liêu trong chính phủ và quân đội: Chính phủ và quân đội Nga bị quan liêu hóa cao độ, tình trạng thân quen, chỉ huy hỗn loạn, và khả năng thu thập thông tin kém hơn nhiều so với Nhật Bản.
- Mâu thuẫn nội bộ gia tăng: Xung đột trong nước ở Nga ngày càng gia tăng, giai cấp công nhân có thái độ phản chiến và yêu cầu chính phủ thúc đẩy cải cách hơn là mở rộng ra bên ngoài. Điều đáng nói là trong Chiến tranh Nga-Nhật, Nhật Bản đã phái một số lượng lớn gián điệp đến hậu phương Nga để kích động nổi dậy trong nước, khiến Nga không thể lo cho cả hai đầu.
Thất bại của Nga đã gây ra cuộc khủng hoảng chính trị trong nước, dẫn đến hàng loạt cuộc đình công của công nhân. Hơn 200.000 người đã tập trung tại Cung điện Mùa đông để yêu cầu Sa hoàng cải thiện đãi ngộ cho công nhân, hạn chế lao động quá sức và thúc đẩy cải cách chính trị. Tuy nhiên, điều họ nhận được cuối cùng là sự đàn áp của quân đội và cảnh sát, khiến hàng nghìn người thiệt mạng. Đáng chú ý là, lực lượng vệ binh Sa hoàng chủ yếu được hình thành từ quý tộc, và đây là trụ cột của chế độ Sa hoàng. Những quân nhân này được trang bị và đãi ngộ tốt nhất, chủ yếu là kỵ binh, điều này giúp họ có thể nhanh chóng đến hiện trường.
Tuy nhiên, để xoa dịu mâu thuẫn trong nước, Sa hoàng Nicholas II vẫn khởi động quá trình quân chủ lập hiến, nhưng ông cũng nhấn mạnh rằng: “Nga là một quốc gia thiếu tinh thần công dân, và công nhân nổi dậy chủ yếu xuất phát từ những nhu cầu sinh tồn, họ không có lý tưởng xây dựng xã hội mới.”
Vì vậy, quá trình thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Nga diễn ra vô cùng chậm chạp. Mặc dù có việc thành lập Duma Quốc gia (quốc hội), nhưng do những yêu cầu khác nhau từ các tầng lớp trong xã hội, quốc hội trở thành nơi tranh cãi. Nó không đưa ra được những gợi ý hiệu quả cho việc quản lý đất nước, mà thường xuyên đối lập với chính phủ, chỉ biết phê phán mà không đưa ra được giải pháp. Điều này khiến chính phủ Nga rất thất vọng. Cuối cùng, Sa hoàng đã giải tán quốc hội và tìm kiếm một con đường cải cách mới.
Thực tế, ở Nga thời đó, do thiếu sự đồng thuận trong xã hội nên khó có thể thúc đẩy những cải cách tiến bộ. Thủ tướng Nga Vitte là người theo chủ nghĩa ôn hòa và chủ trương cải cách dần dần các công việc của chính phủ, nhưng ông đã bị nhiều phe phái chỉ trích. Sa hoàng tố cáo ông là người cộng hòa, trong khi các nhà cách mạng cấp tiến cho rằng ông đặt lợi ích của tầng lớp quyền quý lên trên lợi ích của nhân dân, còn các nhà bảo thủ lại cho rằng ông vì muốn làm hài lòng nhân dân mà đã khiến các địa chủ phá sản. Một nhà cải cách trung lập cuối cùng lại rơi vào tình thế khó xử, không được lòng cả hai bên.
Nhà cải cách cuối cùng của Nga - Stolypin
Sau khi giải tán quốc hội, Sa hoàng đã chỉ định Stolypin để dẫn dắt các cải cách. Stolypin là một người bảo thủ trong chính trị, ông đã sử dụng các biện pháp mạnh mẽ để đàn áp phong trào của công nhân và nông dân, tàn sát những người cách mạng, và giải tán quốc hội, rất trung thành với Sa hoàng.
Tuy nhiên về mặt kinh tế, ông lại là một người theo chủ nghĩa tự do, ông tin rằng nước Nga có thể phát triển một xã hội trung lưu ổn định, thịnh vượng và đông đảo. Ông cũng tin rằng nền tảng của sự thịnh vượng của một quốc gia là sự thịnh vượng của người dân. Khi người dân trở nên giàu có, đạo đức sẽ được cải thiện và toàn bộ nền văn hóa xã hội sẽ tiến bộ. Vì vậy, mục đích cải cách của Stolypin là cố gắng tăng tỷ lệ tầng lớp trung lưu.
Không giống như hầu hết các nhà cải cách, những cải cách của Stolypin không phức tạp. Chỉ có một điểm cốt lõi là tư nhân hóa đất đai. Bởi vì phần lớn dân số Nga là nông dân, hầu hết nông dân đều bị ràng buộc bởi các xã nông thôn và phần lớn thành quả lao động của họ phải được giao nộp. Do đó, thiếu nhiệt tình lao động và nghèo đói cũng khiến nông dân mất đi trách nhiệm xã hội.
Vì vậy, Stolypin cho phép nông dân rút khỏi công xã và khuyến khích việc mua bán đất. Đối với những nông dân muốn trồng trọt, ông khuyến khích các ngân hàng cho họ vay tiền để họ có thể trở thành những người nông dân khá giả thông qua việc tích lũy đất đai; đối với những nông dân không muốn làm nông, ông khuyến khích họ chuyển đến thành phố để trở thành công nhân; và đối với những nông dân không có đất, ông hướng dẫn họ di cư đến Siberia để khai hoang.
Cải cách của Stolypin đã đạt được hiệu quả to lớn. Trong 5 năm nắm quyền, sản lượng ngũ cốc của Nga đã tăng 30%, trở thành nước xuất khẩu ngũ cốc lớn nhất châu Âu. Sản lượng ngũ cốc bình quân đầu người đạt mức cao lịch sử, vượt cả thời kỳ Stalin. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm về giá trị sản lượng công nghiệp đạt 5%, đứng đầu thế giới. Thu nhập quốc dân tăng 78,8%. Sức mạnh quốc gia của Nga đã tăng lên đáng kể, và tầng lớp nông dân giàu có ngày càng lớn mạnh.
Mặt khác, Stolypin chủ trương hòa bình trong ngoại giao. Ông nhấn mạnh: "Đất nước Nga đủ rộng và tài nguyên đủ phong phú, không cần phải mở rộng lãnh thổ hay chiến tranh nữa, chỉ cần 20 năm hòa bình phát triển, sau khi cải cách thành công, dù đối thủ là ai, chúng ta cũng không sợ."
Vì vậy, ông kiên quyết phản đối chiến tranh với Đức và Áo, khẳng định rằng phần lớn tài chính nên được dùng để phát triển kinh tế thay vì mở rộng quân sự. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra nỗi sợ hãi cho Đức, quân đội Đức cho rằng: "Một khi Nga nhờ vào cải cách của Stolypin đạt được hiện đại hóa, sẽ trở thành một siêu cường, lúc đó toàn bộ Tây Âu cộng lại cũng không thể đánh bại Nga." Chính vì vậy, Đức đã tìm cách khơi dậy một cuộc chiến tranh thế giới, nhằm ngăn chặn quá trình hiện đại hóa của Nga.
Các chính sách cải cách của Stolypin cũng bị phe đối lập trong nước ghét bỏ. Do chính sách cải cách đất đai, các địa chủ không còn có thể tùy ý áp bức nông dân như trước đây; vì Stolypin thường xuyên đàn áp các cuộc cách mạng, các tổ chức cấp tiến của công nhân cũng ghét ông; tầng lớp tư sản cũng muốn loại bỏ ông vì ông đã nhiều lần đàn áp quyền lực của Duma (quốc hội); còn Sa hoàng thì coi ông là mối đe dọa đối với quyền lực của mình và rất lạnh nhạt với ông. Ngay cả những nông dân được hưởng lợi từ cải cách đất đai cũng cảm thấy bất mãn do quá trình thực hiện cải cách thô bạo.
Giống như nhà cải cách Alexander II, trong 5 năm cầm quyền, Stolypin đã phải đối mặt với hàng chục vụ ám sát, gia đình ông cũng bị ảnh hưởng. Đến năm 1911, khi mất đi sự ủng hộ từ Sa hoàng, Stolypin cuối cùng bị một nhà cách mạng cánh tả đầy hận thù với xã hội bắn chết. Mặc dù một nửa xã hội Nga được hưởng lợi từ cải cách của ông, nhưng nửa còn lại lại không hài lòng với những cải cách đó.
Nhìn chung, trong lịch sử cải cách của Nga thế kỷ 19, hầu hết các nhà cải cách đều làm mất lòng cả hai bên, không ai được lòng cả trên lẫn dưới; lịch sử cho thấy đa số các nhà cải cách thường có kết cục bi thảm.
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Sau cái chết của Stolypin, mâu thuẫn trong nội bộ Nga ngày càng trở nên gay gắt. Lợi ích giữa các tầng lớp quý tộc, tư bản, trung lưu, công nhân và nông dân không thể hòa giải, dẫn đến việc Nga cuối cùng phải bước vào cuộc chiến tranh. Năm 1914, Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ, Nga huy động hàng triệu quân đội để chiến đấu với Đức và Áo-Hung. Mặc dù quân đội Nga có số lượng lớn, nhưng tinh thần lại rất kém; nhiều lính là nông dân bị bắt đi lính, chỉ khoảng 10% trong số họ biết chữ, và phần lớn không hiểu bản đồ cũng như các chỉ thị tác chiến. Thậm chí, quân đội Nga còn sử dụng mã hiệu đơn giản để giao tiếp. Ngoài ra, do người Nga chỉ chiếm 43% dân số của Nga, các dân tộc thiểu số khác trong nước đều bất mãn với chế độ của Sa hoàng, thường xuyên nổi dậy ở hậu phương.
Về mặt trang bị và hậu cần, quân đội Nga gặp rất nhiều vấn đề. Do năng lực vận chuyển bằng đường sắt không đủ, một số đơn vị quân đội thậm chí phải đi bộ để tới chiến trường. Ở một số đơn vị, ba người lính thậm chí còn dùng chung một khẩu súng. Tình trạng thiếu súng máy hạng nặng, pháo dã chiến, đạn dược, thuốc men. Số lượng lớn bệnh truyền nhiễm lây lan khắp doanh trại, khiến cho tình hình của binh lính trở nên vô cùng khổ sở.
Do sức chiến đấu hạn chế nên trong Thế chiến thứ nhất, hơn 5 triệu quân Nga bị quân Đức tiêu diệt, hơn 3 triệu người bị quân Đức bắt và hơn 2 triệu người đào ngũ. Trên chiến trường, phải mất gần 6 quân Nga mới đánh bại được 1 quân Đức. Nền tảng của chế độ Sa hoàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, vì nhiều binh lính Nga hy sinh đều là những người trung thành với Sa hoàng, chủ yếu là quý tộc và nông dân theo đạo Chính thống, những người bảo vệ kiên quyết cho chế độ cũ và cũng là những người yêu nước nhất. Do đó, họ là những người xông pha nhất trên chiến trường và cũng dễ bị tổn thương nhất. Ngược lại, phần lớn những người không yêu nước, không ủng hộ Sa hoàng đều trốn ở hậu phương để tránh chiến tranh.
Chiến tranh đã trở thành một "bộ lọc," loại bỏ những quân nhân trung thành với Sa hoàng, trong khi những người còn lại phần lớn đều có xu hướng chống đối chế độ. Ở giai đoạn sau, khi ngay cả Vệ binh Sa hoàng cũng bị lôi ra chiến trường và bị tiêu hao với số lượng lớn, trật tự cũ của Nga không còn cỗ máy bạo lực để duy trì.
Năm 1917, một phong trào đình công quy mô lớn nổ ra ở Nga Công nhân nhất trí yêu cầu chấm dứt chiến tranh và thành lập Bộ chỉ huy Liên Xô. Như thường lệ, Sa hoàng cử Vệ binh đến trấn áp, nhưng lúc này do quý tộc bị tiêu hao số lượng lớn trên chiến trường nên Vệ binh phải được bổ sung bởi một số lượng lớn những người vô sản, những người rất ghét chính hệ thống Sa hoàng. Vì vậy, lần này người Janissaries chọn cách từ chối nổ súng và hợp sức với công nhân để gây náo loạn. Cách mạng Tháng Hai bùng nổ và Sa hoàng bị lật đổ. Hai chế độ nổi lên ở Nga, đó là chính phủ lâm thời tư sản và chính phủ Xô Viết.
Cách mạng Tháng Mười tuyên bố ra đời nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nhân loại
Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản Nga chủ yếu đại diện cho lợi ích của các nhà tư bản, địa chủ, quý tộc, quan chức và giới thương nhân, có mối liên hệ sâu sắc với phương Tây. Để thu hút đầu tư nước ngoài, họ chủ trương tiếp tục chiến tranh, cố gắng thực hiện chế độ quân chủ lập hiến và mạnh tay đàn áp các cuộc nổi dậy của công nhân.
Khi nhận ra bộ mặt thật của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản ở Nga đã nổi giận và quyết định đứng lên chống lại, dẫn đến cuộc Cách mạng Tháng Mười bùng nổ, mở ra một chương mới trong lịch sử nhân loại với sự ra đời của quốc gia xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Trong suốt quá trình cải cách của Nga, có thể tóm tắt ít nhất 4 bài học kinh nghiệm:
- Xã hội kiểu "quả ô liu" với tầng lớp trung lưu làm chủ yếu dễ duy trì sự ổn định. Khoảng cách giàu nghèo quá mức sẽ khiến bất kỳ chính sách nào cũng có nguy cơ làm mất lòng một nửa dân số.
Xã hội cần xây dựng sự đồng thuận, nếu không sẽ có nguy cơ chia rẽ nội bộ. Một xã hội có nhiều nhóm lợi ích và giá trị khác nhau sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện các cải cách, ngay cả khi những cải cách đó là tốt.
Tốc độ cải cách không thể trì trệ, nếu không vấn đề sẽ ngày càng khó giải quyết. Không chỉ cần xem xét trước nhu cầu hiện tại của các giai cấp mà còn phải xem xét trước cơ cấu xã hội trong tương lai.
Những cuộc cải cách thành công nhất trong lịch sử đều bắt đầu từ tư liệu sản xuất. Đối với một nước nông nghiệp, tư liệu sản xuất quan trọng nhất là đất đai một khi được phân phối thì cải cách mới có thể diễn ra suôn sẻ. Do đó, quyền lợi của công nhân và nông dân cần được chú trọng.
Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất