Đoàn Minh Huyên – Wikipedia tiếng Việt
(2021) Đọc Sấm Giảng Phật Thầy Tây An - Bửu Sơn Kỳ Hương 🕮 Tổng số sách đã đọc được: 59 quyển 🕮
✤1/ MƯỜI ĐIỀU KHUYẾN TU ✤✤2/ GIẢNG GIÁC MÊ ✤✤✤3/ TIỀN GIẢNG

Đoàn Minh Huyên
Điều thứ nhất Thầy khuyên nên nhớ, Lòng trung kiên muôn thuở còn nêu. Dầu ai nặng nhẹ trăm điều, Quyết không bỏ lý cao siêu của Thầy. Nhiều thử thách đang vây con đó, Nếu ngã lòng công khó tiêu tan. Việc chi còn ỡ trần gian, Là điều huyễn hoặc chớ mang nơi lòng.

Điều Thứ hai Thầy mong đệ tử, Tình bạn bè phãi giữ thủy chung.
Luôn luôn tha thứ khoan dung, Nhủ khuyên nhỏ nhẹ chớ dùng lời thô. Dìu dẫn nhau điểm tô công quả, Phải thật thà với cả chung quanh. Thiệt thòi cam chịu đã đành, Vô vi phẩm vị thầy dành cho con.
Điều thứ ba vẹn toàn hạnh đức, Tuy bán buôn cơ cực tảo tần. Đổi công nuôi lấy tấm thân, Đừng ham mến chuyện phi nhân gạt lương. Dù vàng bạc đầy rương tràn tủ, Cuộc trần này chưa đủ con ơi. Ác gian cũng chỉ một đời, Thà nghèo trong sạch thảnh thơi linh hồn.
Điều thứ tư pháp môn quy luật, Lục, thập chay cố sức trao dồi. Thịt thà xương máu tanh hôi, Cỏ cây rau cải cũng rồi bữa ăn. Đức Từ Bi thường hằng thể hiện, Không sát sanh lòng thiện ta còn. Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon, Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng.
Điều thứ năm quyết không hờn giận, ghét ganh chi cho bận lòng mình. Con xem vạn quyển thiên kinh, Hiền nhơn quân tử rộng tình vô câu. Muôn việc xảy ra bắt đầu sân nộ, Là nguyên nhân thống khổ ly tan. Chân truyền chánh pháp đạo tràng, Tập xong chữ Nhẫn Niết Bàn không xa.
Điều thứ sáu thiết tha thầy dặn, Ngày hai thời lẳng lặng công phu. Việc chi dù quá cần cù, Cũng nhơn vài phút tập tu nguyện cầu Khi rảnh việc đồng sâu chợ búa, Đem sấm kinh tự của Thầy ban. Học cho thông thuộc đôi hàng, Ngâm nga trong lúc thanh nhàn, bâng khoăng.
Điều thứ bảy quyết tăng công quả, An ủi người già cả ốm đau. Tùy duyên có thể giúp vào, Lâm cơn hoạn nạn khi nào cần con. Phước đức đó vẫn còn muôn thuở, Tuy vô hình đừng ngỡ rằng không. Con ơi! Trong chốn trần hồng, Mấy ai nghĩ đến cõi lòng thanh cao.
Điều thứ tám lời nào thầy dạy, Đầu khổ lao chớ nại công trình. Biết rằng con phãi hy sinh, Phật tiên đâu nở quên tình hay sao, Đừng chấp việc núi cao rừng thẩm, Hay là đường muôn dậm xa trông. Hể con thề giữ trọn lòng, Đương nhiên đắc đạo thoát vòng tử sinh.
Điều thứ chín đạo lành căn bản, Giữ làm sao có bạn không thù. Từ đây con nhớ rằng tu, Hạ mình nhận lỗi mặc dù là không. Lời nói sao hòa trong hiệp ngoại, Đừng hơn người nếu phải ép lòng. Không ham những chuyện mênh mong, Vừa no, đủ ấm đèo bồng làm chi.
Điều chót hết mười ghi trăm nhớ, Phật, Pháp, Tăng con chớ quên ơn. Gia đình nghĩa trọng nhiều hơn, Tình thương xã hội giúp cơn thiết cần. Ơn tổ tiên dành phần con cháu, Đó những lời dạy bảo Thầy mong. Con ơi hãy khá ghi lòng, Bấy nhiêu tâm huyết, mấy dòng thi văn.

KIM CANG

Kệ rằng:
Đạo phật cùng người chẳng bao xa!
Làm lành nên Phật, dữ làm ma.
Quí tiện đua theo dường danh lợi,
Nào ai thoát khỏi chốn Diệm la?
Người đời chẳng khác ngựa qua cửa sổ,
Thiểu niên rồi trẻ lại thấy già.
Chi cho bằng an phận đươc nhẫn nhục.
Ắt là tảo ngộ chốn Di Đà.***Thọ truyền giáo đạo Thích Ca,
Màu thiền tấm ấn phép nhà nhiệm thay!
Chim cò bay trong rừng sương tuyết,
Người vô tình chẳng biết dấu xưa.
Một thuyền vượt biển vô biên,
Phàm trần thoát khỏi về miền Tây Phương.
Sự chẳng toan dọn đào giếng trước,
Đến cơn nghèo khát nước tầm đâu?
Những lời điên đảo dối nhau,
Thiệt vàng thì ít giả thau thì nhiều.
Công đã liều ăn sương nằm tuyết,
Lên non tầm cho biết ky nam.
Việc chẳng làm than tân rằng khó,
Của ở đời ai khó cho không?
Phật Trời há dễ tư công,
Không tu mà đặng cho không máy thiền.
Đạo Thánh hiền tầm đâu cho khó,
Ai dạy mình, mình lại dạy ai!
Ngọc nhà luống bỏ chẳng mài,
Tiểu tâm vì bởi cậy tài nên xa.
Giác suy xa ấy là người quân tử,
Xét phận mình ngày đủ ba phen.
Ai đốt đèn nhà ta đặng tỏ,
Kẻ gian tà đâu dám phạm xâm.
Loài cầm thú còn hay biết ổ,
Huống chi người nở bỏ tứ ân!
Trách ai bụng lượng vô phân,
Để theo tranh tụng giành phần thịt kia.
Trông chi chì, vàng mười thì bỏ,
Chim ham mồi mắc khó nào hay.
Ai trau công quả cho dày,
Đất bùn có thuở mọc rày hoa sen.
Đất gần miền gắng công chèo lấy,
Dại chi sao ngồi vậy chẳng toan.
Tuy là tấn dị thối nan,
Trượng phu kia hỡi cho bền chí trai.
Khối sắt mài nên kim mới kể,
Chí anh hùng lấp bể làm non.
Sắt kia vào lửa mẻ mòn,
Gan vàng tiết đá lòng son mấy người?
Sự nực cười nước kia chảy ngược,
Bạch hạt bay trượng trước nhành hoa.
Trống kia chặp bảy chặp ba,
Trực nhìn dường thấy Bửu tòa Thiên thai.
Chỉn lạ hay trâu cày đáy biển,
Người đã cười hả miệng cùng nhau.
Màu thiền đắc ý cũng mầu,
Còn hơn chen chúc công hầu vương khanh.
Những đua tranh tiền ma gạo quỉ,
Của ở đời ai có cho không.
Tây phương trước mặt chẳng bao xa,
Cách nhau vì bởi ái hà biển mê.
Những che khen cười nhau lộn xạo,
Gẫm ở mình ngay thảo nổi chi!
Dốc lòng niệm chữ từ bi,
Lấy dao trí huệ cắt đi cho rồi.
Bởi dây dùng không bề khó dứt,
Sao trách rằng Trời đất không binh.
Chớ khen những đảng không minh,
Ở mình lại giác lấy mình rằng khôn.
Chốn hải môn ra vào ngày tháng.
Giữ lái lèo tốt gió thì hơn.
Hay buôn mới gọi nhiều tiền,
Điên đầu cũng gọi rằng người làm chi!
Chốn hải môn lánh mình khỏi trước,
Giả chơn ai đặng nước hoa sen.
Có công hay học thì nên,
Chẳng cầu ai dễ đem quyền tới cho.
Ham ăn chim mới mắc dò,
Lưới mê thoát khỏi ngoài vòng mới ngoan.
Quyết lìu mình giồi mài trí huệ,
Kẻo bán đồ nhi phế uổng công.
Rối tơ khéo gở thì xong,
Lọc lừa thời đặng nước trong khó gì!
Há dạy chi nên ai phải dạy,
Tới cửa thiền thì thấy Đế vương.