Nhìn lại lịch sử nghìn năm dựng nước giữ nước: Chúng ta có nên quá tự hào về sức mạnh quân sự của dân tộc?
Nếu không tiện đọc bài viết, bạn có thể nghe bản audio tại đây: Có lẽ một trong những điều đáng tự hào nhất về lịch sử Việt...
Nếu không tiện đọc bài viết, bạn có thể nghe bản audio tại đây:
Có lẽ một trong những điều đáng tự hào nhất về lịch sử Việt Nam đó là trong hành trình nghìn năm dựng nước giữ nước của mình, người Việt Nam đã "đánh thắng" rất nhiều những cường quốc trên thế giới vào thời điểm đó như các triều đại Trung Hoa (tiêu biểu là Nguyên, Minh, Thanh), quân đội viễn chinh Pháp, quân đội Hoa Kỳ... Chúng ta có quyền tự hào về điều đó không? Chắc chắn là có. Chúng ta có nên cho rằng việc giữ vững nền độc lập sau hàng nghìn năm sống dưới áp lực và dã tâm xâm lược của ngoại bang là hoàn toàn nhờ vào sức mạnh quân sự? Chúng ta có nên "huyễn hoặc" mình rằng dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc có khả năng quân sự vào hàng xuất sắc nhất trên thế giới không? E rằng... không, ít nhất là sau khi chúng ta thực sự xem xét lại những cuộc chiến trong lịch sử dưới góc độ toàn diện hơn, xét tới cả những yếu tố về mặt địa lý, văn hóa, chính trị thay vì chỉ đơn thuần quan tâm tới kết quả của những chiến dịch quân sự.

(Lưu ý: những điều người viết muốn nói tới ở đây không phải là "xét lại lịch sử" mà chỉ đơn thuần là phân tích nhằm giúp chúng ta cùng có một cái nhìn toàn diện hơn, qua đó giúp đánh giá chính xác sức mạnh của đất nước và sẵn sàng có những sự chuẩn bị - ít nhất về mặt tâm lý - trước mọi biến cố có thể xảy tới trong tương lai).
Vai trò của địa hình trong các chiến dịch quân sự
Nhìn lại chiều dài lịch sử Việt Nam, từ sau khi Ngô Quyền dựng nền độc lập năm 938 tới nay, gần như không triều đại/chế độ nào tại Việt Nam không phải gánh chịu những đợt tấn công xâm lược từ phương Bắc. Chúng ta luôn rất tự hào với những chiến tích chống ngoại xâm và tài lãnh đạo kiệt xuất của các danh tướng từ Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo tới Lê Lợi và Quang Trung Nguyễn Huệ. Nhưng trong sách giáo khoa, báo đài, các phương tiện thông tin đại chúng và trong nhận thức của số đông, chúng ta dường như không hoặc rất ít đề cập tới một yếu tố quyết định góp phần cực kỳ quan trọng vào những chiến công giữ nước của chúng ta: đó chính là địa hình địa thế hay cụ thể hơn là vai trò che chắn của các dãy núi.

Nhìn vào bản đồ chúng ta nhận thấy không phải ngẫu nhiên mà chúng ta đã quá quen với cụm từ "các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam". Địa hình đồi núi nơi đây với 5 dãy núi chính đóng vai trò là tấm lá chắn tự nhiên bao bọc cho miền đồng bằng Bắc Bộ, cái nôi văn hóa cũng như trái tim của nền văn minh Đại Việt. Trong mỗi cuộc xâm lược từ phương Bắc, để tiến tới Thăng Long có 2 cách bằng đường bộ hoặc đường thủy.
Nếu đi đường bộ, không quá khó để hình dung những khó khăn phải vượt qua với một đội quân viễn chinh thời cổ: hàng vạn người, ngựa cùng với hàng chục tấn hàng hậu cần tiếp tế phải di chuyển qua quãng đường vài trăm cây số trên một lộ trình đồi núi, khấp khủy và luôn nơm nớp nỗi lo sợ bị phục kích trong bất kỳ thời điểm nào. Trong điều kiện thời xưa, ước tính để hoàn thành chặng đường từ miền nam Trung Quốc sang tới đồng bằng sông Hồng cần mất hàng tháng di chuyển vất vả, ước chừng những dãy đồi núi tự nhiên đã giúp cha ông ta triệt tiêu chừng 20% sức mạnh của những đạo quân xâm lược trước khi trực tiếp đụng độ trên chiến trường. Ngoài ra còn phải kể tới việc chuẩn bị cho một đợt hành quân qua địa hình đồi núi như vậy yêu cầu ở các triều đại Trung Quốc rất nhiều thời gian và công sức chuẩn bị, yếu tố bất ngờ do đó bị giảm đi nhiều bởi hệ thống tình báo và do thám.
Đọc thêm về vai trò và tầm quan trọng của chuỗi cung ứng trong lịch sử quân sự:
Nếu di chuyển bằng đường thủy, dường như không có nhiều lựa chọn cho các triều đại Trung Hoa, sông Bạch Đằng là con đường ngắn nhất để đi thẳng từ miền Nam Trung Quốc qua biển Đông tới Thăng Long. Nhưng tại Bạch Đằng, cha ông ta đã tận dụng quá tốt những đợt thủy triều và địa hình hiểm địa nơi đây để khiến Thủy quân Trung Hoa 3 lần đại bại.

Sang tới thời kỳ chiến tranh hiện đại, trong Chiến tranh Đông Dương (1946-1954) và Chiến tranh Việt Nam (1955-1975), núi non hiểm trở vùng trung du miền núi Bắc bộ cũng như bạt ngàn hecta rừng ở miền Trung và miền Nam Việt Nam là những tấm lá chắn tự nhiên hoàn hảo giúp che chở cho những người lính Việt Minh và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tránh đối đầu trực diện với những khí tài hiện đại và hỏa lực vượt trội của đối phương.
Khả năng chiến đấu của các quân đội Việt Nam?
Trong tiến trình bành trướng lãnh thổ, vó ngựa Mông Cổ chỉ chịu dừng bước tại 3 nơi: những cánh rừng rậm ở Trung Âu, những cơn bão ngoài biển Nhật Bản và Đại Việt. Những rặng núi dày đặc miền Bắc Việt Nam đã giúp làm suy yếu đáng kể sức mạnh kỵ binh Mông Cổ, và việc lựa chọn chiến thuật "vườn không nhà trống" sau đó của nhà Trần thực sự đóng vai trò quyết định. Trong lần đầu tiên chạm trán trực diện trên chiến trường tại Bình Lệ Nguyên, với cách dàn trận đánh nhau theo kiểu chính quy, quân đội nhà Trần đã nhận thất bại khá nặng nề.
Một ví dụ tiêu biểu nữa về khả năng chiến đấu của cha ông ta theo kiểu chiến tranh chính quy dàn trận đó là khi nhà Hồ lựa chọn xây dựng thành lũy và đối đầu trực diện với quân đội nhà Minh. Thất bại chóng vánh của nhà Hồ, tuy đặt trong bối cảnh xã hội rối ren và sự thiếu gắn kết quân dân, phần nào nói lên khả năng thủ thành khá yếu kém của quân đội Việt Nam. Điều này phải chăng là do thiếu kinh nghiệm khi chúng ta đã quá quen với chiến tranh du kích và phòng ngự dựa vào các điều kiện địa hình tự nhiên? Sang tới thời kỳ chiến tranh cận hiện đại, có nên đổ lỗi hoàn toàn cho sự chênh lệch về khí tài và tinh thần chiến đấu yếu kém của quan quân nhà Nguyễn không, khi mà chỉ cần vài chục người lính Pháp cũng dễ dàng vượt qua những bức tường kiên cố với hàng nghìn quân chính quy thủ thành với đầy đủ đại bác và súng hỏa mai tại Hải Dương, Ninh Bình và Nam Định trong biến cố Bắc Kỳ 1873?

Cuộc chiến di dân và xâm thực văn hóa
Tại khu vực Đông Á và Đông Nam Á, trong lịch sử hình thành những quốc gia, lãnh thổ thì tiến trình đồng hóa về mặt văn hóa và chủng tộc đóng vai trò quan trọng thậm chí còn lớn hơn vai trò của những cuộc xâm lược quân sự. Một vùng đất có thể bị đánh chiếm về mặt quân sự trong một số thời điểm nhất định, bên thắng trận có thể duy trì ở đây một chế độ cai trị từ cứng nhắc và hà khắc (như những gì nhà Minh đã làm với Việt Nam) tới mềm mỏng như tự trị hay bán tự trị (như vua Minh Mạng từng áp dụng ở Trấn Tây Thành, đất Campuchia ngày nay), nhưng đều không thể mang lại sự bền vững lâu dài. Việc sát nhập hoàn toàn một vùng đất yêu cầu một sự đồng hóa về mặt nhân chủng học và văn hóa: dân cư bản địa với số lượng ít hơn bị số lượng di dân đông đảo từ nước thắng cuộc dần dần đồng hóa theo thời gian và cuối cùng gần như biến mất. Hiện tượng này, có thể kéo dài bền bỉ qua vài thế kỷ, được gọi là "tằm ăn dâu" hay "tằm thực", là một trong những yếu tố quan trọng quyết định trong việc hình thành nên hình dạng đất nước Việt Nam ngày nay.
Dựng nước và giữ nước
Trước hết, chúng ta nên thầm cảm ơn những rặng núi non cách trở miền Bắc đã giúp ngăn cản những đợt di dân ồ ạt từ Trung Quốc xuống vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ sơ khai của lịch sử dân tộc, khi mà quy mô của những nhà nước Văn Lang hay Âu Lạc có lẽ chỉ dừng ở mức những bộ lạc liên kết lỏng lẻo với số dân ít ỏi. Ngay cả khi đã xâm chiếm được Âu Lạc về mặt quân sự, các chính quyền Trung Hoa chỉ đủ khả năng duy trì chế độ cai trị về mặt quân sự đối với người Việt bản xứ, một cuộc đồng hóa về nhân chủng học, may mắn thay, đã không diễn ra, khi mà có lẽ không nhiều người Hoa mặn mà với việc vượt qua những ngọn núi hiểm trở và đầy hiểm nguy trong điều kiện hàng nghìn năm trước. Đất đai miền nam Trung Quốc khi đó vẫn còn rộng lớn và phì nhiêu, vậy là đủ cho họ, vất vả vượt núi băng rừng xuống phía nam là một sự mạo hiểm không cần thiết và không đáng để đánh đổi. Trong hoàn cảnh như vậy, người Việt Nam tuy chịu ảnh hưởng mạnh mẽ về văn hóa và chữ viết từ Trung Quốc, nhưng đã may mắn giữ được tiếng nói bản địa, làm gốc rễ cho sự hình thành và nuôi dưỡng nên ý thức dân tộc Việt Nam sau này. (nếu có dịp xin được trở lại với vấn đề này trong lần sau với một bài viết khác).
Đọc thêm:

Tầm quan trọng của ngôn ngữ nói trong việc giữ gìn văn hóa dân tộc có thể được nhắc tới qua câu chuyện của người Mãn Châu. Người Mãn Châu (người Mãn) vốn là một dân tộc thuộc nhóm người Tungus, gốc là người Nữ Chân (lập ra nhà Kim), thống trị vùng Mãn Châu rộng lớn nằm ở Đông Nam Nga và Đông Bắc Trung Quốc ngày nay. Sau khi chiếm được Trung Quốc từ tay nhà Minh, những người Mãn từ vị thế kẻ đi xâm lược và cai trị, đã bị đồng hóa ngược với những người Hán có số lượng đông đảo gấp bội, tới mức tiếng Mãn ngày nay đã gần như tuyệt diệt và chỉ còn được nói bởi một bộ phận rất nhỏ những người già sống trong các làng quê hẻo lánh vùng Đông Bắc Trung Quốc. Qua bài học của người Mãn, những người đã "chiến thắng một cuộc chiến và phải đánh đổi bằng cả một dân tộc", chúng ta càng nên cảm ơn những ngọn núi?
Mở rộng biên giới
Giữ vững được đồng bằng sông Hồng và dành lại nền độc lập, người Việt có thêm cho mình vài thế kỷ dựng nước và phát triển thành một quốc gia có "số má" trong khu vực. Trên hành trình mở rộng lãnh thổ, không thể bắc tiến (vì người Hoa quá mạnh và vì... núi) hay đông tiến (vì biển), người Việt tiến về phía tây qua những cuộc chinh chiến với Bồn Man, Lan Xang và Ai Lao (nước Lào ngày nay), nhưng dù giành được những thắng lợi quân sự, những rặng núi - thứ đã bảo vệ chúng ta - lần này lại ngăn cản Đại Việt mở rộng lãnh thổ trong một hoàn cảnh y hệt: không ai muốn mạo hiểm vượt núi di cư về phía tây trong một khu vực toàn "rừng thiêng nước độc" cả. Nếu phải di dân, có một hướng đi khác hấp dẫn các cư dân Việt hơn, đó là phía nam.
Trong thời kỳ thịnh vượng nhất của mình, Vương quốc Chăm Pa (Chiêm Thành) thời Chế Bồng Nga từng đánh vào tới tận Thăng Long thời Trần mạt, cướp phá rồi rút về. Nhưng sau thất bại trong cuộc chiến năm 1471, toàn bộ phần phía bắc của Chăm Pa khi đó (từ đèo Hải Vân tới Phú Yên ngày nay) bị sát nhập vào Đại Việt. Đèo Hải Vân tuy hiểm trở, nhưng chỉ dừng ở mức một con đèo, không phải trùng trùng điệp điệp núi non như ở biên giới Việt Nam - Trung Hoa - Lào. Dòng người di cư đông đảo và dồn dập từ phía Bắc, từ thời vua Lê Thánh Tông và được tiếp tục hoàn hảo bởi các chúa Nguyễn, đã định đoạt số phận những người Chăm ít ỏi còn lại trong một tiến trình đồng hóa không thể cứu vãn. Sau Chăm Pa là tới Chân Lạp. Những thắng lợi quân sự cùng địa hình bằng phẳng và rộng rãi ở miền nam Việt Nam đã nâng bước chân khai hoang mở cõi của những con người Việt Nam không ngừng dắt díu nhau, sinh sôi nảy nở vào tới mũi Cà Mau.
Người xưa đâu? Mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu. Lầu các đâu? Naу thấу chăng rừng xanh xanh một màu.Kìa ngoài trùng dương đoàn thuуền ai? Nhấp nhô trên sóng xa xa tắp, mơ bóng Ϲhiêm Thành Ϲhế Bồng Nga vượt khơi...Hận Đồ Bàn, tác giả Xuân Tiên & Lữ Liên.

Bài học cho ngày nay
Qua bài viết, có thể tạm đưa ra những kết luận rằng trong tiến trình lịch sử chúng ta giữ được nước và mở rộng lãnh thổ về phía Nam vì:
Sức chiến đấu bền bỉ, sự đoàn kết và sáng suốt của lãnh đạo trong lựa chọn chiến thuật, đặc biệt là chiến tranh du kích.Địa hình hầu hết có đồi núi bao quanh, vừa thuận lợi cho phòng thủ quân sự, vừa tránh được nguy cơ bị đồng hóa do di dân từ phía bắc.Trong 2 yếu tố này, không khó để nhận thấy dù mức độ quan trọng ngang nhau, yếu tố địa hình địa lý đang không được xem trọng đúng mức trong nhận thức của đa số. Thực tế là, chúng ta đã giữ được nước không chỉ nhờ vào sự oai hùng của dân tộc mà còn nhờ rất nhiều vào núi non cách trở. Núi non, rừng rậm đã giúp chúng ta rất nhiều trong quá trình dựng nước giữ nước, nhưng thế giới luôn không ngừng vận động, vai trò của địa hình ngày càng giảm sút trong chiến tranh hiện đại. Nắm được điều này sẽ giúp chúng ta bớt "tự tin" vào sức mạnh quân sự qua đó có thể chủ động hơn trong việc lựa chọn cho mình chiến thuật ngoại giao phù hợp. Cần lắm những sự thay đổi, bắt đầu từ các cuốn sách giáo khoa cấp tiểu học, với những thông điệp kiểu như "Chúng ta ĐÃ giữ vững nền độc lập nhờ lòng yêu nước, sự bền bỉ VÀ địa hình hiểm trở"!
Tham khảo
Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng KimSơn xuyên chi cương vực kỳ thú - Nguyễn Gia KiểngSeries Kháng Minh truyền kỳ - lichsuvn.net Series Kháng chiến chống Nguyên Mông – lichsuvn.netNgười viết không học hay nghiên cứu lịch sử một cách bài bản mà chỉ là một người thích đọc sử, do đó khó tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ các bạn để có điều kiện hoàn thiện bài viết hơn nữa. Xin cảm ơn và hi vọng sớm gặp lại các bạn trong những bài viết sau.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

nemesis
Nhiêuc người khi viết về chủ đề quân sự VN hay vỗ ngực tự cao, mình ok và góp lời các vị ấy là chúng ta PHÒNG THỦ rất tốt, còn đi đánh được người khác lại là chuyện khác. Tính ra trong lịch sử VN có vài lần đi đánh nước khác mà lần gần đây nhất đánh Khmer Đỏ xong mò sang tận biên giới Thái Lan khiến các quốc gia láng giềng phải lo lắng (dĩ nhiên là nhờ cả công tuyên truyền đểu về tiểu bá VN của Trung Quốc).
Nói chung, mình nghĩ nếu 1 vs 1 thì trong khu vực chúng ta có 1 đối thủ cùng hạng là Indonesia. Còn TQ thì hờ hờ, thôi đừng bàn chuyện đánh người ta, mệt lắm :)))
- Báo cáo

Minh Quân Nguyễn
Họ chưa đánh mình đã là điều may mắn =)) còn indonesia thì chắc nước mình không có xích mích hay xung đột gì về lợi ích cả. Đánh nhau cũng khó :3
- Báo cáo

nemesis
Thì mình đang tạm bàn về năng lực thôi, chứ chắc Việt Nam và Indo chả bao giờ có lý do mà đánh nhau mất :))
- Báo cáo
Go Ahead
Mình không đồng ý việc Indo cùng hạng với Việt Nam. Chiến tranh tổng lực giữa 2 quốc gia thì mình nghĩ Việt Nam không có cửa thắng Indo đâu.
Giả thiết: Giữ nguyên các chỉ số kinh tế, dân số, quốc phòng như hiện tại. Đặt 2 nước sát bên cạnh nhau để dễ đổ bộ và tiến quân hơn.
Indo có gì: Dân số 350 triệu người, phần lớn vẫn trong độ tuổi quân dịch. Quy mô nền kinh tế gấp từ 4 đến 5 lần Việt Nam (Indo trong G20). Nền công nghiệp của Indo rất phát triển, đã tự chế tạo được kha khá thứ "hay ho". Hải quân Indo mạnh nhất trong khu vực và được đầu tư khá bài bản, không quân cũng thế (do đặc thù có 18000 hòn đảo nên điều này là đương nhiên). Lục quân không nổi bật bằng (of course)
VN: Dân số 100 triệu, cũng thuộc dạng dân số trẻ. Nền công nghiệp nặng của VN đến bây giờ vẫn còn là dấu hỏi chấm?! Hải quân và không quân đang được đầu tư nhưng chắc chắn là vẫn chưa nhằm nhò gì nếu so với Indo. Thủ nhà thì khá OK chứ để chiếm đóng và đổ bộ thì khá khoai. Thế mạnh duy nhất của VN là lực lượng lục quân rất đông và khá "quái". Mình cũng đánh giá cao VN về yếu tố con người, rất chịu khó mày mò cải tiến về kĩ chiến thuật.
- Báo cáo

Dark Ice
bàn về kinh tế: gdp/ capita của indo chỉ có 3500usd thôi, dù nó phát triển kinh tế trước VN mấy chục năm. Nền kinh tế của nó hiện tại suy yếu lắm nhé. Do dân đông hơn nên nền kt nó nhìn có vẻ to chứ tiềm lực kinh tế để bứt phá ko mạnh đâu
- Báo cáo
Go Ahead
Bạn nhìn vào GDP/capita để đánh giá về sức mạnh của quốc gia khi có chiến tranh tổng lực thì mình chịu thua luôn. GDP/capita của TQ là hơn 8800 USD, GDP/capita của Nhật là 48000 USD, vậy chiến tranh tổng lực thì bên nào ăn? Chắc chắn là chúng ta không thể nói được.
CT tổng lực là huy động toàn bộ nguồn lực của quốc gia, là bài thử của nền công nghiệp nặng và công nghiệp vũ khí với quốc gia tham chiến. Như mình đã nói, CN nặng của VN hiện tại là CÓ hay KHÔNG vẫn còn là một dấu hỏi chấm to đùng.
Mình cũng không biết bạn lấy căn cứ ở nguồn nào để nhận xét nền kinh tế của Indo là "suy yếu lắm" và "nhìn có vẻ to". Sự thật là nó vẫn to đùng, và vì to nên việc bứt phá như Lào hay Cam là gần như không thể (you don't say?). Nhưng chỉ vì nó không bứt phá mà bảo nó suy yếu lắm rồi thì chắc Nhật, Mỹ, Nga, cùng cả khối EU sẽ sập trong nay mai thôi.
Chờ hồi âm của bạn.
Thân.
- Báo cáo

Dark Ice
giới kinh tế học ko quan tâm về GDP tổng nhiều lắm, trừ những nền kinh tế có thị trường khủng đủ sức tác động đến global trade. mình ghi rõ là nền kinh tế của indo nó suy yếu chứ mình ko nói quân sự nó suy yếu. Còn lý do tại sao thì ko gõ ra đây dc vì dài lắm
- Báo cáo

Sonnnn
Khi quan sát lịch sử của các cuộc chiến tranh trên thế giới cho đến tận thời kì cận đại, yếu tố địa hình gần như luôn giữ vai trò then chốt trong việc quyết định sự thành bại của cả trận đánh. Không phải là ngẫu nhiên khi mà địa lợi được coi trọng chỉ sau nhân hoà trong nghệ thuật quân sự tại các nước đông á. Ngoài ra, có một điều dễ nhận thấy là các quốc gia trên thế giới, không riêng gì Việt Nam, thường tiếp giáp với nhau bằng kiểu địa hình núi-sông. Dựa vào điểm chung này giữa các quốc gia, có thể kết luận rằng cái chúng ta cần cảm ơn không phải là địa hình của tổ quốc, mà là năng lực của cha ông đã biết khôn khéo tận dụng nó để giữ gìn độc lập.
Yếu tố địa hình thuộc về ngoại cảnh mang những tác động phức tạp đến cục diện trên chiến trường, cho nên nơi mà khái niệm này thuộc về là các sách chuyên ngành quân sự chứ không phải sách giáo khoa dành cho trẻ con.
- Báo cáo

WiKiWi
Mình hoàn toàn đồng ý với các luận điểm bạn đã nêu, quá trình hình thành nước Việt Nam (cũng đồng thời với không ít các quốc gia khác ở Đông và Đông Nam Á) gắn liền với hai yếu tố không thể tách rời là nhân hòa - địa lợi. Điều mình muốn đề cập trong bài viết đó là nhận thức chưa cân bằng của đa số về tầm quan trọng của hai yếu tố này. Điều này theo mình là do sự xuất sắc của cha ông gắn liền với lòng tự tôn dân tộc, làm nổi bật sự xuất sắc của cha ông cũng đồng thời là một cách để chúng ta nâng cao hơn nữa lòng tự tôn của dân tộc. Điều này có thể có lợi về mặt tinh thần nhưng đôi khi dễ làm nảy sinh tâm lý chủ quan, tự tin quá mức và có thể gây ảo tưởng về sức mạnh trong thời bối cảnh giao tranh hiện đại.
Sách giáo khoa tiểu học dành cho trẻ em thì nó càng nên mang vai trò định hướng và gây dựng ý thức đúng đắn về khả năng thực sự của chúng ta. Không cần thiết phải phân tích địa hình đóng vai trò cụ thể như thế nào, chỉ cần luôn nhớ nhắc tới nó trong các bài học lịch sử chống ngoại xâm, vậy thôi là đã đủ thay đổi rất nhiều điều về ý thức rồi.
Cảm ơn ý kiến của bạn 

- Báo cáo

Sonnnn
Như mình đã đề cập ở trên thì vấn đề này thuộc về chuyên môn. Việc một người bình dân không hiểu tầm quan trọng ở địa hình cũng giống như việc một kĩ sư ngành tự động hoá không thể giải thích rõ mười mươi nguyên nhân của suy thoái kinh tế. Đòi hỏi một người phải biết những kiến thức không thực sự phục vụ nhu cầu học tập, lao động và làm việc như vậy là không cần thiết. Tất nhiên điều này có thể gây ra tình trạng chủ quan trong đám đông, nhưng
mấu chốt cho sự thành bại một khi giao tranh xảy ra lại nằm quốc hội, bộ ngoại giao, bộ quốc phòng chứ không phải nằm ở đám đông kia. Nó cũng tương tự hoạt động của một nhà máy, khi mà bộ phận quyết định đến tương lai của nhà máy là ban giám đốc. Còn công nhân, mặc cho tâm lí của họ có thế nào, điều mà họ cần làm chỉ là chăm chỉ và tuân thủ chỉ đạo của ban điều hành mà thôi.
Trẻ em là đối tượng tuy có năng lực tư duy hạn chế nhưng lại có trí tò mò cao. Vấn đề địa hình trong chiến tranh khá phức tạp nếu tìm hiểu sâu, cho nên một khi đề cập đến vấn đề này với trẻ, người dạy cần nhiều kiến thức về lịch sử, chiến thuật quân sự mới có thể đảm bảo giải đáp hết những thắc mắc mà trẻ có thể có. Tất nhiên trẻ biết nhiều là tốt, nhưng việc trang bị thêm những kiến thức này là gánh nặng thừa thãi với giáo viên khi mà trách nhiệm của họ chỉ gói gọn ở việc bồi dưỡng đạo đức và kiến thức mềm cho trẻ.
- Báo cáo
AnhDung
Tôi nghĩ cái thông điệp lớn mà tác giả muốn nói đến về việc giảm bớt yếu tố tự tôn thái quá trong cách nhìn nhận và giảng dạy lịch sử tại Việt Nam là một ý đúng. Thực tế là để giữ vững được nền độc lập chúng ta đã không chỉ dựa vào địa hình mà còn phải dựa vào cả ngoại giao khôn khéo và trong nhiều trường hợp là cả sự may mắn nữa. Chúng ta cũng đã từng thất bại trước quân xâm lược và những lần thất bại đó chúng ta đã mất rất nhiều.
Ví dụ về nhà máy với công nhân và giám đốc mà anh đưa ra cho tôi thấy ngụ ý của anh về việc số đông chỉ nên được một cách giáo dục một cách đại khái, quan trọng và chủ yếu là ở tầng lớp trên kia. Đây là một nhận định sai lầm. Cái tâm lý cho rằng phần đông nhân dân chỉ là là một tập thể để dắt mũi bởi một tầng lớp trên là suy nghĩ của quá khứ. Nếu chúng ta muốn hướng đến một xã hội tốt hơn thì cái phần đông kia mới là trọng tâm cần được chú ý. Hơn thế nữa đừng quên rằng chính những người lãnh đạo cũng đi lên từ cái phần đông nhân dân này. Vì thế những bất cập xảy ra trong xã hội không sớm thì muộn cũng sẽ được phản ánh lên chính tầng lớp lãnh đạo ở trên.
Quay lại với chủ đề chính thì tôi nghĩ một cách tiếp cận theo hướng gần với thực tế và ít những yếu tố tự tôn thái quá đi là cần thiết. Bởi lẽ để có thể xây dựng một tinh thần ái quốc lành mạnh và vững vàng chúng ta cần phải bắt đầu với những nhìn nhận đúng đắn. Nếu lòng ái quốc được xây dựng dựa trên những sự huyễn hoặc thái quá thì thường nó không thể bền vững được. Khi người ta nhận ra được rằng thực tế nó không bay bổng như những gì được dạy thì rất dễ để họ cảm thấy như mình bị lừa dối. Trong nhiều trường hợp nó có thể có những tác động ngược và tiêu cực đến chính lòng ái quốc ấy. Cái thứ hai nữa là trong thế kỉ 21 này chúng ta nên biết mình là ai. Và tôi nói điều này không phải với hàm ý hạ thấp dân tộc mà tôi nói với cái sự mong muốn rằng chúng ta cần phải có những nhìn nhận khách quan và trung thực hơn về bản thân. Biết mình mạnh về cái gì, yếu về cái gì, hay ở chỗ nào dở ở chỗ nào. Sự chủ quan và kiêu ngạo là những yếu tố có thể giết chết tiềm năng của một dân tộc.
Bàn về chủ đề này tôi lại nhớ lại ngày trước dạo tôi đi học được dạy rằng Việt Nam có "rừng vàng biển bạc". Cái "rừng vàng biển bạc" này đã từng là một trong những cái chúng tôi được dạy là cần phải tự hào về nó. Bây giờ theo tôi đoán thì chắc là người ta không còn dạy như thế nữa. Rừng vàng biển bạc không còn nhiều nữa, phải nhìn vào thực tế thôi. Đành rằng là không phải ai cũng có thể đi sâu vào chuyên môn để hiểu tường tận về vấn đề nhưng ngay cả với những người không đi sâu vào chuyên môn thì ít ra họ cũng nên có một cái nhìn tổng quan và giản lược sát với thực tế hơn là những sự tâng bốc thái quá hiện tại. Tôi thấy cái đề nghị của tác giả về việc nhấn mạnh thêm vào yếu tố địa hình trong sách sử cho trẻ em là một đề xuất hay. Nó nhỏ, đơn giản và là khởi đầu cho một hướng đi đúng đắn.
- Báo cáo

Sonnnn
Sử Việt cho thấy không ít lần địa hình không phải then chốt quyết định lịch sử, điển hình là thắng lợi của nhà Hậu Lê trước Chăm pa nhờ ưu thế vũ trang, hay thành công trong việc thống nhất hai miền thời VNDCCH nhờ đóng góp đặc biệt quan trọng của hoạt động ngoại giao như bạn nói. Cho nên, chứng minh rằng người Việt đang tự tôn thái quá bằng cách gán cho địa hình một vai trò mấu chốt quyết định toàn bộ tiến trình lịch sử dan tộc, trong khi xem nhẹ yếu tố con người là thiếu công tâm.
Như tôi đã nói từ đầu, lịch sử của mọi quốc gia, dân tộc đều bị chi phối bởi nhiều yếu tố ngoại cảnh, và địa hình dù quan trọng nhưng chỉ là một trong số đó. Mỗi dân tộc nếu muốn tồn tại đều cần có phản ứng thích hợp trước những lợi thế và bất lợi mà ngoại cảnh mang lại. Người Việt nói riêng đã lợi dụng tốt lợi thế địa hình để giữ nền tự chủ đến ngày nay, trong khi nhiều dân tộc khác thì không. Nên sẽ không phải thái quá khi người Việt thể hiện lòng tự tôn của mình trước điều đó.
Điều mà tôi muốn nói khi đề cập đến lãnh đạo và đám đông chỉ đơn giản là hiểu biết của hai nhóm này về địa lí, chiến thuật ảnh hưởng thế nào tới các cuộc giao tranh với nước ngoài một khi chúng xảy ra. Ngành quân sự khẳng định rằng điều kiện tiên quyết để chiến thắng là người đứng đầu phải nắm vững chuyên môn, mà cụ thể trong khuôn khổ bài viết là kiến thức địa lí, nhằm đưa ra các chỉ đạo thích hợp, trong khi người dân phải tuân thủ tuyệt đối những chỉ đạo đó. Tất nhiên tôi luôn ủng hộ việc cá nhân tìm hiểu thêm, nhưng dựa trên những gì tôi vừa nêu, việc đám đông biết hay không không thực sự quan trọng, đơn giản vì họ không trực tiếp tham gia hay giữ vị trí lãnh đạo trong các cuộc chiến.
Ngoài ra, tác giả cũng chỉ đang dùng một lợi thế ngoại cảnh để chứng minh cho sự ngộ nhận của người Việt về năng lực quân sự của họ, cho nên tôi chỉ đơn giản cố gắng bàn luận về vấn đề này mà thôi. Còn về câu chuyện ‘rừng vàng biển bạc’ cùng những bất cập trong xã hội thời bình, hay những vấn đề khác có ảnh hưởng đến lòng tự tôn dân tộc, xin phép được dành cho một chủ đề khác phù hợp hơn.
- Báo cáo

WiKiWi
Cảm ơn 2 bạn rất nhiều vì những bình luận quá tâm huyết, trong bài viết mình không có ý xem nhẹ khả năng của cha ông mà vẫn luôn nhắc tới nó đầu tiên, chỉ là muốn nhắc nhở chúng ta đây ko phải là yếu tố quan trọng duy nhất thôi.
Ngoài ra mình sẽ nghiên cứu thêm và bổ sung yếu tố ngoại giao vào bài viết này hoặc mở rộng sang bài viết mới, đây cũng là 1 yếu tố cực kỳ quan trọng nhất là trong bối cảnh hiện đại.
Bên cạnh đó, chúng ta có lẽ nên mở rộng thêm vấn đề về tầm quan trọng của giáo dục trong vấn đề xây dựng và nâng cao nhận thức cho cộng đồng về lịch sử và tiềm năng của đất nước, loại bỏ đi những nhận định phiến diện và chủ quan kiểu "rừng vàng biển bạc" hay "đất nước ta rất giàu tài nguyên"... Điều này sẽ phải cần tới một hoặc nhiều bài viết khác bởi lẽ đây là 1 vấn đề rất lớn.
Xem chừng có thật nhiều thứ để chúng ta cùng tìm hiểu, nếu có thể thì hi vọng trong những bài viết sau sẽ lại được nhận những ý kiến đóng góp xây dựng tâm huyết từ các bạn.
Trân trọng.
- Báo cáo

Sao Vũ
Nhận định về hoàn cảnh địa lí và vai trò đóng góp trong lịch sử Việt Nam của tác giả rất chính xác. Tuy nhiên phần nhận định về sức mạnh quân sự thì mình lại đặt một dấu hỏi lớn.
- Văn hóa lúa nước hình thành tính cách ôn hòa và không ưa chiến tranh của người Việt. Do đó hiếm khi ta thấy lịch sử Việt Nam chủ động gây chiến với các quốc gia láng giềng. Tuy nhiên, mỗi lần chiến tranh thì ta đều thấy sức mạnh kinh sợ của quân Đại Việt. Tiêu biểu: Lý Thường Kiệt đánh Ung Châu, nhà Trần chiếm đất Chiêm, chúa Nguyễn chiếm Xiêm La, Quang Trung quét đến kinh thành Thái Lan, ....
- Về khả năng phòng thủ, ở đại chiến Đa Bang trong bài, mình ngược lại, đánh giá rất cao khả năng phòng thủ với súng thần công mà Hồ Nguyên Trừng đã thực hiện.
--> Nếu kết luận sức mạnh thực sự chỉ nằm ở du kích thì có quá vội vàng không?
Về vấn đề Đồng hóa và di dân thì Đại Việt cũng đã từng hứng chịu rất nhiều lần đồng hóa từ phương Bắc, đến nỗi mất hẳn chữ viết cổ (có nhiều tương đồng với chữ Mường). Vấn đề đồng hóa diễn ra hơn ngàn năm, từ vụ tìm thuốc trường sinh của Tần Doanh Chính cho đến cướp bóc đốt sạch văn hóa của Chu Đệ. Vậy nhận định cảm ơn dãy núi về đồng hóa có thật sự chuẩn xác không? Cái thật sự cần cám ơn là công sức ông cha đã giữ gìn và bảo tồn văn hóa đến tận bây giờ, và thậm chí, còn đồng hóa ngược đám người Hoa Hạ
.

- Báo cáo

WiKiWi
Chào bạn, trước hết cảm ơn những ý kiến đóng góp quý giá của bạn, mình sẽ lần lượt phản biện nó ở dưới đây:
- Trên thực tế, trong lịch sử ông cha ta không hề "hiếm khi chủ động gây chiến với láng giếng", mà ngược lại, rất chủ động trong việc này. Cụ thể, với Chiêm Thành, kể từ thời Tiền Lê tất cả các triều đại VNam đều ít nhất 1 lần phát động các cuộc xâm lược lấn chiếm đất đai Chiêm Thành. Tổng cộng đã có 11 cuộc chiến với 21 lần giao tranh giữa Việt - Chiêm được ghi nhận trong khoảng thời gian từ năm 982 - 1693, tức là trung bình cứ hơn 60 năm 1 lần, trong đó hầu hết là do "chúng ta" chủ động. Đối với Lào (Ai Lao, Lang Xan, Bồn Man), chúng ta cũng có 6 lần phát động chiến tranh nhằm mở rộng lãnh thổ về phía Tây, nhưng không giữ được nhiều đất đai.
- Trong lần Lý Thường Kiệt đánh Ung Châu, chiến thắng của chúng ta rất đáng ghi nhận, nhưng cũng nên kể tới các yếu tố khách quan như sự bất ngờ (lần đầu tiên và duy nhất 1 quân đội Việt Nam "dám" đánh thẳng vào đất Trung Quốc), quân đội nhà Tống thuộc hàng yếu nhất trong lịch sử Trung Hoa và số quân ở Ung Châu hầu hết là tân binh mới được tuyển mộ... Trong các lần xung đột với Xiêm La thì ngoài trận Rạch Gầm - Xoài Mút chiến thắng vang dội trong thế phòng thủ, những lần chủ động tấn công của quân đội nhà Nguyễn đều dừng ở mức thất bại hoặc hòa hoãn.
- Trận chiến thành Đa Bang mình chưa tìm được nhiều tài liệu về vai trò của súng thần công Đại Việt, mới chỉ thấy ghi chép là hỏa lực của nhà Minh khá vượt trội so với chúng ta? Hơn nữa thành Đa Bang cuối cùng cũng thất thủ khá chóng vánh chỉ sau hơn 1 tháng.
- Về vấn đề đồng hóa, như mình có nói người Hoa tuy dồng hóa được chúng ta về chữ viết nhưng không đồng hóa nổi về ngôn ngữ nói. Việc đồng hóa về chữ viết trên thực tế không khó do trong điều kiện thời xưa, tỉ lệ người biết đọc biết viết rất thấp, sử dụng những chính sách giáo dục, khoa cử bắt buộc dùng chữ Hán từ trên áp xuống thì chỉ cần vài chục năm là xong. Ngôn ngữ nói trái lại khó hơn nhiều, cần vài thế kỷ với một số lượng di dân áp đảo người bản xứ mới được. Điều kiện đầu người Hoa đã có đủ, nhưng điều kiện sau, cảm ơn những dãy núi, và cũng như bạn nói, chúng ta đã đồng hóa ngược tầng lớp người Hoa sang cai trị 

- Báo cáo

Sao Vũ
Xin lỗi vì mình bận việc nên không thể trả lời ngay được 😔
- Về việc chiến tranh gây hấn với Chiêm Thành, nếu tìm hiểu cặn kẽ thì không phải chúng ta muốn gây hấn. Cụ thể:
1. Thời Tiền Lê: nhà Tiền Lê thành lập năm 980, và chiến tranh lần 1 diễn ra vào năm 982. Vậy theo bạn sau 2 năm nhiếp chính thì có nên gây chiến không? Huống hồ Chiêm Thành lại là 1 thế lực lớn ở phía Nam, vậy vì sao Đại Cồ Việt phải đánh?
( "Năm 979, hay tin Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Ngô Nhật Khánh, một sứ quân Đại Cồ Việt, thuyết phục vua Paramesvaravarman I, dẫn hơn một ngàn chiến thuyền từ Chiêm Thành vào chiếm Hoa Lư, nhưng không thành. Ngô Nhật Khánh bị giết, quân Chăm phải rút về. Năm 982, vì bắt giữ sứ giả của Lê Đại Hành nên Lê Đại Hành đánh Chiêm Thành, chém Ba Mỹ Thuế tại trận, phá hủy thành trì tông miếu." Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Chiêm_Thành#Vương_triều_thứ_sáu_(875-991))
2. vào thời nhà Lý, Chiêm Thành có ý liên minh với Tống để kháng Việt.
(https://baomoi.com/vua-ly-thanh-tong-bat-chiem-thanh-phai-tra-gia-vi-tim-cach-lien-tong-chong-viet/c/25025434.epi)
3. Vào thời nhà Trần, thời Trần Thái Tông, nhân lúc mới lên ngôi, quân Chiêm ở phía Nam nổi dậy cướp bóc. Sau đó 2 bên có hòa hoãn kháng Hốt Tất Liệt. Trong thời kì ngay trước và sát sau Chế Bồng Nga, quân Trần giải cứu công chúa Huyền Trân khỏi hủ tục hỏa thiêu, dẫn đến 7 cuộc chiến tiếp theo.
(https://vi.wikipedia.org/wiki/Chiến_tranh_Việt_–_Chiêm_(1367-1396)
4. Thời nhà Hồ có cần xét không nhỉ? Vì đó là quân Chiêm Thành gây chiến cướp lại đất đã bị mất vào tay nhà Trần.
5. Thời nhà Hậu Lê: Quân Chiêm luôn nhăm nhe đòi Châu Hóa và thường xuyên cướp bóc biên giới phía Nam, gây ra chiến tranh, và trận quyết định vận mệnh Chiêm Thành là trận chiến dưới thời Lê Thánh Tông.
6. Thời chúa Nguyễn: duy nhất chỉ có thời này là chúa Nguyễn chủ động tấn công cướp đất, thảm sát và đồng hóa người Chiêm.
- Về trận chiến Ung Châu:
1. Quân Tống toàn tân binh: không đúng, đó là trận đánh 2 châu: Khâm, Liêm. Còn trận chiến Ung Châu thì lại là câu chuyện khác.
2. Quân Tống yếu nhất: thời đó Tống yếu, nhưng đã lên kế hoạch đánh úp Đại Việt, do đó các cơ sở quân sự và trang thiết bị đều nằm ở biên giới phía Nam, tức là chủ lực dồn về phía Nam, với tiềm lực rộng lớn của nhà Tống, bạn có nghĩ là sẽ yếu không?
3. Lại nói về thời Quang Trung, nổi bật nhất là vụ công phá thành Ngọc Hồi với 29 vạn quân Thanh, như vậy không thể phủ nhận sức tấn công được.
4. Thời Nguyễn: đã từng chiến tranh với Xiêm, Chân Lạp, và Cao Miên, Khmer,... và hầu hết chúng ta đều chiến thắng
, không phải ngẫu nhiên Đại Việt ảnh hưởng rất lớn đến Đông Dương trước khi Pháp nhảy vào.
- Về trận Đa Bang:
Tự hào lớn nhất của nhà Hồ đó là súng thần công do Hồ Nguyên Trừng sáng tạo, trong lúc thế giới còn thai nghén thì Đại Việt đã sở hữu thần công đi trước cả thế kỷ.
- Về vấn đề đồng hóa:
Từ thời Triệu Đà đã đẩy 50 vạn dân (500.000 người) không hề nhỏ xuống. Thời nhà Hán thì họ đẩy tội phạm, lưu manh, và thực hiện đồng hóa bằng cướp hiếp giết phụ nữ Việt.
Tham khảo (https://vi.wikipedia.org/wiki/Đồng_hóa_thời_Bắc_thuộc)
Người Việt lành vì văn hóa làng xã, không quen ngao du là đúng, tuy nhiên còn nhiều lý do khác nữa như tôn giáo, truyền thống,...
Mình kết lại, ok, cảm ơn những ngọn núi, chúng quan trọng, nhưng không bao giờ có thể quan trọng bằng con người được.

- Báo cáo

Huy Tran Van
Hi Sao
Mình công nhận với Sao là trận thành Đa Bang có súng thần công. Nhưng không công nhận với tác giả là khả năng thủ thành của Việt Nam kém vì trận thành Đa Bang: Ở trận này vì nhà Hồ mới lên, các tưởng giỏi binh pháp nhà Trần bị giết, lưu lạc hết nên mới thua. Có 1 tướng mở cổng thành cho tượng quân ra đánh, bị bọn Minh bắn pháo vào, voi chưa được huấn luyện tốt, sợ quá chạy vào trong, kỵ binh quân Minh theo đuôi voi mà vào thành đánh phá.
6.1 Cùng quan điểm với tác giả về lần Lý Thường Kiệt đem quân bắc phạt. Mình nghĩ quân Tống lúc đó thực sự yếu vì: quân tinh nhuệ của Tống phải tập trung ở phía Bắc để phòng thủ nước Liêu với Tây Hạ. Họ lên kế hoạch đánh Đại Việt một phần là vì:
- Nội bộ triều đình nhà Lý đang lục đục, vua Lý Càn Đức mới 7 tuổi
- Đại Việt vừa đánh nhau với Chiêm Thành
Trận đánh thành Ung Châu là trận đánh tiêu hao. Mãi đến khi cho tù binh liều chết đắp bao đất cao ngang mặt thành rồi tràn vào đánh mới thắng.

- Báo cáo

Huy Tran Van
Tác giả đưa ra hai trận Đa Bang và Bình Lệ Nguyên để chứng minh khả năng đánh kiểu chính quy của Việt Nam kém là không đúng.
Trận Đa Bang như mình đã nói ở trên. Còn trận Bình Lệ Nguyên thì: quân Mông Cổ không thua một ai với lối đánh khô máu như vậy cả. Họ ở trên lưng ngựa từ khi sinh ra, vừa cưỡi ngựa vừa bắn cung, chuyên đánh ở đồng bằng, hành quân với rút quân thần tốc. Tất nhiên là quân nhà Trần thua rồi, dù là quân đội nước nào ở thời điểm đó cũng thua họ với lối đánh ấy thôi :3
Họ làm mình liên tưởng đến quân của mẹ rồng trong game of thrones ở trận đánh tan tác nhà Lannister :v
Cám ơn bạn đã viết bài
hay quá

- Báo cáo

Sao Vũ
á đù Huy idol :v
1. Về Đa Bang, khả năng thủ thành một phần, chủ yếu là vì lực lượng quá mỏng, nội gián + chiêu Phù Trần Diệt Hồ nên quân Minh gần như 1 đường thẳng tắp tiến vào Đa Bang. Thành Đa Bang bị cô lập hoàn toàn thì dĩ nhiên là sẽ bại thôi.
2. Về vấn đề nhà Tống có khá nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nếu xét về lịch sử thì các triều đại Trung Hoa thường xuyên bị quấy nhiễu bởi phía Liêu, phía Tây Hạ, Thổ Phồn,... duy chỉ có phía Nam thì không bị. Người Tàu có câu Bắc Địch, Tây Hung, Nam Man, Đông Ôn là vì thế. Trong 4 phía thì phía Nam trong mắt người Hoa luôn dễ xơi hơn cả. Xét về điều kiện trong nước thì đúng như idol nói, Lý Nhân Tông lên ngôi lúc quá nhỏ. Nhà Tống tiến hành xây dựng cơ sở quân sự và tuyển binh ở phía Nam rất nhiều, không phải ngẫu nhiên mà Lý Thường Kiệt nhận định sắp có chiến tranh để tiên thủ hạ vi cường. Nếu đem so về quân lực + khí tài thì chắc chắn ăn đứt Đại Việt lúc bấy giờ, nhà Tống yếu, nhưng Đại Việt không phải cực thịnh.
3. Nếu chỉ đem 1 trận Bình Lệ Nguyên để nói lên toàn cục là nhà Trần thủ thành kém thì không đúng, còn các trận Chương Dương Độ, Vạn Kiếp,... thì sao?
--> để đánh giá khả năng quân sự là mạnh hay yếu, thì điều kiện cần là lực lượng 2 bên tham chiến phải không quá chênh lệch.
- Báo cáo

WiKiWi
Cảm ơn ý kiến từ Huy, lịch sử quân sự của chúng ta quá đồ sộ, thật là khó lòng để phân tích kỹ càng chỉ trong phạm vi 1 bài viết nhỏ được. Điều mình muốn đề cập chỉ là mong muốn nâng cao nhận thức của số đông về vai trò của địa hình địa lý trong quá trình dựng nước giữ nước, chứ không hề có ý hạ thấp khả năng quân sự của cha ông
Những comment của mọi người lượm lặt từ hôm lên bài tới giờ cảm giác có thể hoàn thiện bài viết để đưa thành 1 cái luận văn nho nhỏ :v

- Báo cáo

WiKiWi
Cảm ơn bạn, câu trả lời tâm huyết quá làm mình cũng phải gắng tìm hiểu để trả lời sao cho xứng
Về nguyên nhân các cuộc xung đột Đại Việt - Chiêm Thành, trong lịch sử các cuộc chinh phạt thì các quốc gia xâm lược luôn luôn cần có một lý do "hợp lý" cho việc xuất quân của mình:
- do bị cướp phá ven biên giới nên kéo quân sang trả thù, lý do này theo mình khá mơ hồ và rất dễ được lợi dụng. Cụ thể ai là người cướp bóc? Là quân đội chính quy hay các nhóm thổ phỉ? Quy mô cướp bóc như thế nào? Có tổ chức hay là tự phát? Có lấn sâu vào biên giới với ý định cướp đất không hay chỉ đơn giản là đói quá nên sang cướp rồi về? Nhiều khi chỉ 1 cuộc xung đột nho nhỏ cũng đủ để làm cớ phát động xâm lược rồi. Đó là suy nghĩ của mình
- do không chịu triều cống đầy đủ.
- do thay chiều đổi đại mà không "xin phép"...
Có rất nhiều lý do có thể đưa ra, nhưng 1 khi đã xuất binh chứng tỏ đã có sự chuẩn bị, tham vọng là điều chắc chắn.
Trong các cuộc giao tranh với Xiêm La, chúng ta có 2 thất bại vào năm 1718 và 1772 thời chúa Nguyễn, 1 chiến thắng của Tây Sơn năm 1785. Đây là 3 lần giao tranh trực tiếp, còn lại là những lần xung đột ở Cao Miên và Viêng Chăn mà chúng ta đóng vai trò đồng minh.
Về việc đồng hóa, mình hơi nghi ngờ con số 50 vạn quân/dân thời nhà Tần được đẩy xuống phía Nam. Dân số thời nhà Tần vào khoảng 20-30 triệu người, tình trạng dân số là bắc đông nam ít, 50 vạn người theo mình là con số quá lớn so với cơ cấu dân số khi đó. Ngoài ra, bất luận là con số nào, các nỗ lực đồng hóa của người Hoa đã thất bại, có lẽ do nó chưa đủ ào ạt để mất đi tiếng nói của người dân Việt.
Người Việt có thể lành, nhưng xu hướng bạo lực là không nhỏ, mình đang thu thập vài tài liệu để hi vọng có thể trở lại trong một bài viết khác
Thật sự mà nói thì có cảm giác lượng kiến thức chúng ta tìm kiếm có thể đủ cho 1 cái luận văn nho nhỏ :v



- Báo cáo

WiKiWi
Gửi bạn tham khảo thêm danh sách những cuộc chiến tranh liên quan tới người Việt:
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c_cu%E1%BB%99c_chi%E1%BA%BFn_tranh_li%C3%AAn_quan_%C4%91%E1%BA%BFn_Vi%E1%BB%87t_Nam
- Báo cáo

nemesis
- Xin chỉ ra 1 số chỗ hơi lệch, bạn check lại nhé: chúa Nguyễn chiếm Xiêm La (thực ra là Chân Lạp = Campuchia); Quang Trung đánh đến kinh thành Thái Lan (thực ra đánh nó trên đất mình, QT còn chưa bao giờ đặt chân sang Chân Lạp).
- Mình nghĩ bạn đừng quá tin là dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến thế. Vì không sản xuất đủ gạo nuôi quân, vũ khí trang bị cho quân và văn hóa làng xã sợ đi xa quê, không thích phiêu lưu nên chúng ta ko đủ sức ăn thịt họ thôi, thật đấy. Những miếng nào nuốt được đều nuốt cả rồi, chính bản đồ hiện nay là ví dụ điển hình, còn lại toàn "quái thú" nên thôi ta đành ngậm ngùi nhìn nó vậy.
- Trong lịch sử kéo dài tới tận 1990 khi Việt Nam chuẩn bị rút quân về nước thì nhiều lần chúng ta đánh kiểu quy ước, và vẫn làm kẻ địch phải bạt vía.
- Khổ thân ông Hồ Nguyên Trừng là người tài giỏi, bị bắt sang nhà Minh làm quan đúc súng vì làm ngon hơn quan Tàu, cuối đời vẫn mong người đồng hương nào mang nắm xương tàn về nước.
- Báo cáo

Lục Thảo
Thế rồng cuộn hổ ngồi thế này tại sao đến tận 1010 mới dời đô nhỉ?
- Báo cáo

WiKiWi
trc 1010 áp lực từ TQ lớn quá phải ở Hoa Lư hiểm địa giữ thế phòng ngự thôi bạn
tính ra từ sau cột mốc 938 thì cũng chưa đc 100 năm đã dời đô rồi mà

- Báo cáo

Thành Minh
[Đã xóa]

WiKiWi
cảm ơn bạn, ngoại giao cũng là 1 chủ đề rất hay và góp phần không nhỏ trong tiến trình dựng nước giữ nước, mình sẽ trở lại với vấn đề này trong 1 bài viết sau vì cần thêm thời gian tìm hiểu về nó nữa 

- Báo cáo

Phong Linh
Nói là chư hầu nhưng mình cũng có cái thế của mình nha bạn, vài ví dụ:
1. Mình và Cao Ly đều bị coi là chư hầu hết, nhưng vua Đại Việt vẫn mặc áo vàng, vua Cao Ly chỉ mặc áo đỏ thôi nha.
2. Mình khá độc lập với Trung Quốc, chuyện nội bộ, sắc phong, ngoại giao...các thứ mình quyết hết. Như lúc mình chơi khô máu với thằng Chiêm Thành, Trung Quốc cũng chỉ bày tỏ niềm quan ngại sâu sắc với mình thôi chứ làm gì được đâu, trong khi Chiêm Thành nó cũng là chư hầu của Trung Quốc vậy.
3. Lý Thường Kiệt sau khi làm thịt Ung, Khâm, Liêm, rồi đập luôn Quách Quỳ, Triệu Tiết ở Như Nguyệt. Tẩn con người ta đã đời, xong tới hồi kêu: "Thôi, hòa nghen mậy", thế là con người ta cũng đành xách dép về không nói năng chi =))
4. Đúng là mình có công nạp cho TQ thật, nhưng TQ nó cũng phải cho lại mình để giữ thể diện cho Thiên Triều chớ, (Thiên Triều ban ân, ahuyhuy)
tính ra cũng chả thiệt =))
....
Bạn nói đúng, chuyện mình nhường Trung Quốc là có, chẳng ai dại gì đi cương với thằng vừa to vừa khỏe mà nhà nó lại sát nhà mình cả, mà cái thằng ấy nó còn hay mắc bệnh sỹ nữa chớ :v. Khen nó vài câu cũng chả chết ai, rủi nó lên cơn tự ái, lại giở cái trò "Phù đội A diệt đội B" thì mình cũng vã.
- Báo cáo