
Chương 2: Ghanta
Lão Tâm đưa tay lên trời rồi vạch tay xuống, như điệu bộ người hát tuồng, lão cất giọng hát rung rung của người có tuổi.
Sông Thu Bồn chảy ra cửa Đại,Lạch Bình Long chảy mãi ra Hàn[i]Thương người ở bến Bình ThanMối tình son sắc mở mang giống nòi
Ngâm nga đủ lâu để cái dư âm trong cuốn họng dừng lại, những thanh đới không còn miễn cưỡng điều mệt mỏi, đó là lúc ánh tà dương cũng mất dạng trên từng nếp mái ngói cảng thị Hội An. Trên cảng thị lúc này những ánh đuốc được đốt lên trên chòi gác, mọi con thuyền đã dừng bốc chuyển hàng hoá xuống bến, lũ người lem luốc trên bến cũng đã lui về căn nhà của mình khuất trong những con hẻm chằn chịt phố Hội, cánh cửa cao cũng đóng, mì cũng không còn bán nữa. Nhưng đó chỉ là giấc ngủ ngắn chờ đợi nửa đêm, bởi khi con nước xuôi dòng chảy mạnh hơn, những chiếc thuyền của người miền ngược mang sản vật vùng núi đến trao đổi chốn này thì những cánh cửa phố thị lại mở ra, ánh đèn dầu sáng lên bên trong mỗi căn nhà, đó là lúc hiếm hoi người ta nhìn thấy nhau. Thật, người ta sẽ chẳng cố nhìn thấy nhau và tìm thấy nhau trong màn đêm, bởi ánh đèn vạch lên khuôn mặt con người vào đêm tối những ngả rẽ kỳ quặc của thời gian, ở đó, mỗi con người là một bí mật để khám phá. Lão Tâm biết, trong lúc này, đám thính giả đang ngồi trước mặt mà ánh đèn dầu trên mỗi chiếc ghế đẩu soi sáng mặt họ một cách lập loè, họ là một bí mật. Đám người kia cũng chẳng khác gì, họ đang chờ đợi một bí mật nào đó của lão Tâm, một câu chuyện của lão Tâm sẽ rẽ thành nhiều bí mật trong mỗi người nghe.
Với Sophia đó chỉ là câu chuyện như mọi câu chuyện mà người đàn bà này vẫn nghe đám thuỷ thủ kể về vùng Tân Thế Giới, những huyền hoặc thêu dệt nên phép màu, đám thuỷ thần xứ Annam này chẳng khác nhiều lắm với bọn phù thuỷ xứ Anh Cát Lợi, những quyền năng của chúng không gây hứng thú cho bà bằng thứ âm vực của chốn núi rừng nhiệt đới. Bà ta đầy hứng thú đến thót tim khi nghe kể về vị nữ thần của dòng sông Thu Bồn này, có mái tóc dài xinh đẹp như trí tưởng tượng vốn có trong những câu chuyện cổ mà Sophia vẫn nghe, nữ thần Bô Bô theo cách gọi của người Chăm chốn này, nhưng lão Tâm thì gọi một cách kính trọng hơn là Bô Bô phu nhơn. Theo lão, Bô Bô được người Việt gọi là Thu Bồn, một vị nữ tướng chiến thắng giặc ngoại xâm, Sophia dừng lão nhiều lần để gặn hỏi là giặc nào, lão chỉ trả lời một cách mơ hồ là giặc từ phương Bắc; nhưng, sau khi thắng trận bà cưỡi ngựa đến chốn này, thương nhớ người chồng vẫn chinh chiến chưa về dù áo mũ đã tàn theo cuộc chiến, một mình Bô Bô phu nhơn leo lên ngọn núi cao dõi mắt chờ chồng như bao người đàn bà mà ký ức chốn này mong muốn họ phải làm như vậy, chờ suốt năm tháng, Bô Bô phu nhơn cắt đi mái tóc dài của mình để nó trôi theo triền dốc tạo nên sông Thu Bồn và bà lao đầu xuống sông tự vẫn. Hằng đêm vào trung tuần tháng hai, người ta thường nghe thấy tiếng hát từ đáy của nước sông, tiếng hát nỉ non và đôi kẻ chèo đò trên sông kể rằng, họ còn nhìn thấy một người đàn bà với mớ tóc dài trôi lững thững dưới mặt sông.
Nhưng với ngài François thì khác, ngài chỉ quan tâm đến mối tình của đôi phu phụ theo gót chân chúa Tiên[ii] vào Thuận Hoá dựng nghiệp, người vợ thì ở Thuận Hoá còn chồng thì theo lệnh chúa vào đất Cửa Hàn[iii] để tìm người đúc binh khí phòng khi chúa Trịnh ở miền ngoài vào xâm lấn. Người chồng từ Cửa Hàn tìm đường đến Mũi Nạy[iv], nơi cuối cùng của quốc gia. Vì anh tin rằng nơi đó có vị tổ nghề đúc đồng xứ Thanh lưu lạc vào đây. Nói là lưu lạc nhưng kỳ thực đó cũng là người đã theo chàng cùng phò chúa Tiên vào Thuận Hoá, nhưng nó đã quá lâu để chàng còn nhớ bởi khi chàng theo chân chúa chỉ mới mười ba mười bốn, năm nay chàng đã ngoài ba mươi. Chúa Tiên lắc đầu khi chàng hỏi chúa, “Bẩm chúa, muốn binh khí sắc bén không chỉ lệ thuộc vào kẻ rèn sắt như thần mà còn phải biết tỉ lệ pha trộn kim loại với nhau, tạo thành một loại thép cứng hơn binh khí của miền ngoài. Còn việc mài cho sắc là nhiệm vụ của thần. Thần biết trong chuyến đi phò chúa năm xưa, có lão già họ Dương cùng đứa cháu, lão đến từ xứ Thanh và hình như là người đứng đầu dòng họ đúc đồng. Xin chúa hãy triệu lão đến giúp thần tôi rèn binh khí.” Chúa nhăn mặt rồi thở dài, phẩy tay ra hiệu cho hắn ra ngoài. Hai tuần trăng kế tiếp, việc rèn luyện binh khí vẫn chưa đến đâu, chàng nhận được mật chiếu của chúa, “An, ngươi chọn vài tuỳ tùng thân tín mà xuôi Nam đến Mũi Nạy, cụ Dương có lẽ ở đó. Hãy mời cụ về giúp ta và nếu cụ từ chối, hãy nói với cụ câu này, “Hãy vì lời hứa với Bạch Vân am cư sĩ[v].”” An vượt qua sông Hàn, men theo triền núi Ngũ Hành thì thấy những ngôi làng nhỏ phía xa. Hỏi ra mới biết đó là ba ngôi làng bên sông, mé tả có làng Cẩm Phố và Hoài Phố, mé hữu có làng Lai Nghi. Nhưng đám dân làng ở đây có thứ tiếng trọ trẹ của người Chăm bản địa, họ không nói được những từ có âm sắc, nên An chỉ nghe được Cẩm Phô và Hoài Phô. Con sông ở giữa trong mùa nước lũ, nó quá khó để vượt qua nên đám người của An nghỉ lại làng Hoài. Chàng không ngừng hỏi thăm tung tích lão Dương, mọi người dân lắc đầu mãi đến khi lang thang đến bến đò thì có một người nhận ra. Thì ra cụ Dương đã trú ở làng Phước Kiều ở mé Tây, chỉ cần đi ngược con nước sẽ gặp. Khi lão Tâm kể đến đây thì lão nhận ra ánh mắt của François sáng rực lạ thường, lão xem đó là lời tán thưởng.
Nhưng với Ojeda, một kẻ trông lười biếng với đôi mắt ti hí hiếm khi tròn xoe, hắn xem chừng chỉ tán thưởng những điều mà người ta cho là xằng bậy. Hắn vỗ tay không ngớt khi nghe đến chuyện nữ thần sông Bồ Bồ mang lòng yêu An, dâng nước sông nhấn chìm ba ngôi làng để bày tỏ cơn ghen của mình khi An chỉ một lòng với Hội, vợ chàng. Vợ chàng, Hội, ở giữa dòng Thu Bồn nức nở khóc rống lên khi biết tin chồng đã bị dìm xuống đáy sông. Hội như một người đàn bà ở miền ngoài, lòng dạ cứng cáp như chân lúa bám trên đồng ruộng, nước da nâu của Hội cũng như tấm áo trên người và Hội nguyền rủa dòng sông. Thân người Hội hoá thành gò nổi chắn ngang dòng sông lớn, thân xác hội rữa ra thành lớp đất sét bên bờ sông. Mối tình tay ba đó tạo thành muôn ngã chảy của dòng nước trước khi đổ ra cửa Đại. Hội trở thành một vị linh thần của dòng sông cùng Bồ Bồ phu nhơn.
Thanh và công tử thì chờ một câu chuyện khác, bức tượng Amida ở nhà lão Tâm. Khi một thiền sư từ Phù Tang đến xứ Annam này thì biết lòng oán hận của hai vị nữ thần của dòng sông, khi nước dâng lên, ông ta nghe cả tiếng than khóc của hàng vạn dân chài chết trong cơn lũ dữ nhiều năm trước. Oán hận ngập tràn khắp dòng sông, ông bèn ngược ra Đà Nẵng, đến núi Ngũ Hành tạc lấy chín bức tượng phật Amida trấn ở chín địa điểm bên bờ sông nhằm ngăn cơn giận của hai vị nữ thần này. Nhưng nước sông đã cuốn trôi tám bức tượng, còn mỗi một bức ven bờ sông là nơi thiền sư lập cái am nhỏ. Nước lũ cuốn quanh cái am trong cơn mưa gió, vị thiền sư này lột chiếc áo và toạ thiền trước mặt bức tượng. Sét nổ một tiếng mạnh xuống đỉnh đầu thiền sư, thân thể ông rách toác làm đôi và trôi xuống dòng sông, người ta vẫn còn nghe văng vẳng tiếng kinh kệ trôi theo dòng nước.
Hữu thời đoạt nhân bất đoạt cảnhHữu thời đoạt cảnh bất đoạt nhânHữu thời nhân cảnh câu đoạtHữu thời nhân cảnh câu bất đoạt
Thanh và công tử rợn người khi nghe tiếng kinh đó từ lão Tâm, họ nhìn nhau đầy khó hiểu. Vài ngày sau, nước sông bình lặng lại và từ đó về sau nước lũ không còn dữ dội nữa. Nó luôn dâng lên cao nhất là nằm bên dưới đài sen của tượng phật Amida.
Lão Tâm cúi đầu chờ tiếng vỗ tay của đám thính giả, nhưng tai lão vẫn nghe tiếng tằng hắng rất nhỏ từ miệng công tử đủ để Thanh nghe thấy. Thanh đưa tay lên ra dấu hiệu muốn hỏi, lão cúi đầu lắng nghe, “Còn lời nguyền dòng sông?” Lão Tâm cười đáp, “Người dân ở đây truyền rằng, hai vị nữ thần dòng sông khi nghe kinh kệ từ lão thiền sư đã từ bỏ lòng ghen tuông, một lòng phò trợ dân chúng di chuyển trên con sông này, giúp họ vượt qua những khúc quanh hiểm trở. Nhưng họ để lại một lời nguyền, nếu kẻ nào không chung thuỷ hay cưỡng đoạt tình yêu của người khác sẽ mãi mãi bị giam hãm nơi khúc sông này. Đó chỉ là một lời răn về lòng chung thuỷ của người dân chốn này.” Nói rồi lão Tâm cười, nhìn sang người vợ tròn trịa và phụng phịu[vi] đang bưng chiếc mâm chứa đầy những tô mì mang ra đãi khách. Một người đàn bà quê mùa và chân chất, Thanh nhìn và nghĩ, như mọi người đàn bà ở mọi miền nước Nhật gắn liền với căn bếp và xa lạ với đàn ông. Họ lúc nào cũng nhìn chồng mình như một người đàn ông khác những người đàn ông khác, nhưng với người đàn bà ở vùng nhiệt đới này thì ánh nắng đã nung chảy tròng đen thành một màu nhũ, mắt họ mờ nhanh hơn đàn bà nước Nhật và vì vậy, họ thường nhìn chồng của mình lâu hơn để cố gắng thêm bớt đường nét trên khuôn mặt mờ nhạt phía trước, vẽ lại chồng mình như trí nhớ của mình. Có lẽ vì vậy mà đàn bà thường sờ lấy khuôn mặt chồng hoặc con, những người họ yêu thương, để cố mường tượng khuôn mặt mà đôi mắt đã từ chối tình cảm mình. Đặt mỗi tô mì trước mặt khách, người đàn bà lại phụng phịu chùi bàn tay lên gấu áo, mà Thanh nhìn kỹ, thật ra bà ta mặc đến hai ba lớp áo mỏng có lẽ để chống lại cơn lạnh vào đêm. Đến khi bà ta lui vào sau nhà, Thanh vẫn còn nghe tiếng guốc mộc của bà và thoáng nhớ lại tiếng guốc của người phụ nữ quen thuộc.
Đám võ sĩ Phù Tang suýt xoa khi gắp sợi mì lên, họ nói, “Udon! Udon!” Chuyến hải trình kéo dài hơn một con trăng khiến họ nhớ quê hương, món mì nơi đây có sợi to tròn giống với món mì xứ họ, mì udon. Nhưng rõ ràng nó không giống hẳn mì udon, bởi nó làm bằng bột gạo, không phải bột mì. Còn đám người Tây nỗ lực xoắn các sợt mình quanh chiếc đũa để đưa vào miệng, trừ Sophia, bà ta dùng đũa khá lành tay. Lão Tâm tinh ý nhận thấy điều đó, ông nhướn người về phía Sophia hỏi, “Bà từng quen biết một người Annam?” Câu hỏi của lão Tâm làm Sophia khựng, đôi chân mày nhíu lại và cặp môi vốn mỏng trở nên mím chặt, người ta có thể nhìn thấy dấu vết tuổi tác trên động tác mím môi đó. Ngước nhìn lão Tâm, Sophia hỏi, “Điều nào khiến ông nghĩ vậy?” Đôi mắt lão Tâm trở nên tinh quái, “Thưa bà. Cách cầm đũa của người Annam khác hoàn toàn những người Phù Tang, người Tàu và người Cao Ly.” Sophia ngồi thẳng người, đôi mắt lãnh đạm nhìn lão Tâm. Một tiếng nói từ trong đầu lấn át tiếng nói lão Tâm.
Người Annam chúng tôi đặt hai chiếc đũa vào giữa ngón trỏ và ngón giữa, ở đây, ngay đốt thứ hai của ngón giữa. Chúng tôi khi mở bàn tay ra, hai chiếc đũa sẽ tạo thành hình dấu chéo và khi co lại, chúng khép lại và gắp được thức ăn. Bà phải làm thế này thưa bà, đúng rồi, đúng rồi. Chúng tôi khác người Tàu và người Phù Tang ở cách cầm, họ sẽ để hai chiếc đũa song song trên bàn tay, khi co lại, chúng chụm lại với nhau và gắp được thức ăn.
Lạ nhỉ?
Chúng tôi có một triết lý trong bàn tay. Với người Annam chúng tôi, bàn tay là một gia đình. Đây là ngón cái, đại diện cho người mẹ; đây là ngón trỏ, chỉ người cha đi chinh chiến nơi xa, người cha luôn hướng ra ngoài nó giống như chúng ta chỉ một thứ gì đó nằm ngoài chúng ta; ngón giữa là đại diện cho ông bà, họ đã khuất, nhưng họ ở giữa như vị trí tủ thờ của chúng tôi và phù hộ chúng tôi, nó như ngón giữa, nó nâng đỡ và chịu lực khi chúng tôi nâng những vật nặng; đây là ngón áp út, nó là đứa con luôn làm theo những gì ngón giữa làm, nó phải học; còn đây là ngón út, tương lai của chúng tôi, khi hứa hẹn với nhau một điều gì đó phải thực hiện trong tương lai, chúng tôi móc hai ngón út của nhau lại. Còn ngón cái, người mẹ, nó là ngón duy nhất chạm được vào tất cả những thành viên khác trong gia đình. Ở giữa, nó là một khoảng trống, lõm sâu vào, chúng tôi gọi nó là: lòng bàn tay. Với người Annam, lòng là trung tâm của con người và đại diện cho lý trí, khác với người Anh như bà, lý trí nằm ở bộ não. Nên ở giữa bàn tay là lý trí và còn là tình cảm, nó cấu thành nên một gia đình của người Annam. Nên bà sẽ không thấy lạ nếu người Annam chúng tôi dùng rất nhiều hai từ lòng và cả. Bà thấy gì lạ không? Ngón cái không bao giờ chạm được vào chính giữa bàn tay, vì người mẹ nào cũng yêu gia đình mình bằng tình cảm chứ không phải bằng lý trí; trái lại, chỉ có đứa con cả và ngón ông-bà mới chạm vào chính giữa, vì họ phải suy nghĩ cho cả gia đình, khi người cha chinh chiến miền xa.
Người đàn ông nào ở xứ đó cũng đi chinh chiến?
Chúng tôi không bao giờ muốn nhưng vận mệnh của đất nước tôi đã khiến cho những người đàn ông một tay cày ruộng sâu thì tay còn lại phải cầm vũ khí. Họ phải bảo vệ đất, bảo vệ nước để mỗi con người đều được nuôi sống bằng đất mẹ trong sự tự do cày cấy mà không ai ép buộc họ.
Nhưng họ sẽ trở về với gia đình chứ?
Rất nhiều người vợ và người mẹ xứ Annam tôi cũng chờ chồng chờ con bằng đôi mắt mà bà nhìn tôi lúc này. Họ rất muốn có câu trả lời, ngay cả câu trả lời tàn nhẫn nhất cũng không nhận được.
Họ chết hay mất tích?
Tôi không biết bà ạ, người ở xứ Annam của tôi muốn câu trả lời như của bà. Đó là nỗi đau mà thời gian cũng không làm nguôi cơn nhức nhối, nó biến thành nỗi ám ảnh trong đời người. Như tôi đây, hiện giờ, cánh chuồn chuồn liệu có vượt qua nhiều vùng biển lớn để về đến quê hương, đậu lên đoá hoa đồng nội rồi tàn lụi xuống dòng sông không?
Cánh chuồn chuồn?
Mỗi lằn vân trên cánh là khuôn mặt mẹ tôi.
Khuôn mặt nhăn nheo của lão Tâm nhìn đăm đăm vào Sophia cho đến khi bà ta nhận ra điều đó. Đôi mắt lão như nhìn thấy cả ký ức của mình, Sophia nghĩ, làm sao lão có thể nhìn thấy qua đôi mắt ấy, đôi mắt của những người Annam.
Tiếng dậm cửa đột ngột. Lão Tâm mỉm cười lấy ra quyển sổ chi chít chữ, lật ra trang cần thiết. Người khách cuối cùng cũng đến, lão nói, mời mọi người ra phòng khách để tham dự buổi đấu giá tối nay. Bà nó! Lão nói như thét, dường như vợ lão càng về khuya càng lãng tai, thắp đèn lồng nhà trước! Nhớ thắp nhang!
Đám khách ồn ào ra phòng khách, tự phân vị trí, Sophia vẫn ngồi cạnh Ojeda, nói chuyện gì không hiểu. François ngồi cạnh Ojeda vẫn tư lự điều gì đó. Đám người phù Tang thì ngồi phía đối diện, như những bức tượng, họ nhắm mắt để thực hiện một giấc ngủ ngắn. Riêng Thanh thì biết công tử không thực hiện giấc ngủ Inemuri, bởi tiếng ồn mà chắc chỉ có hai người nghe được, tiếng vo ve của lũ ong. Thanh nhận ra chúng khi kết thúc câu chuyện của lão Tâm, một tổ ong nằm trên thanh xà ngang phía gác mái mé chái tây. Nhìn dáng vẻ của công tử, Thanh biết, công tử đang cố đương đầu với tiếng vỗ cánh của lũ ong và cũng như Thanh, công tử vừa ghét vừa khiếp đảm thứ âm thanh đó. Đôi lúc, tay công cử nắm chặt lấy vạt áo của mình, rung lên, như cánh ong vò vò quanh tai.
Một người đan ông ốm nhác, cao lêu nghêu, mũi hỉnh và chòm ria mép dài xuống cổ, vận trang phục thương gia. Một người Tàu. Mắt tau háu của hắn dò xét lũ người trong phòng khách rồi nhanh chóng phát hiện một chiếc ghế đủ riêng tư cho mình, hắn không nhìn lũ người Phù Tang nửa con mắt, bỏ mặc nụ cười khệ nệ của Ojeda; ngồi xuống chiếc ghế khuất xa ở trong phòng, nhưng có thể nhìn bao quát những người ngồi trong gian phòng này. Lão Tâm giới thiệu vắn tắt, đây là Ngô gia, lão Ngô. Chỉ có họ mà không thấy tên. Lão Ngô xua tay ra dấu hiệu hãy thực hiện buổi đấu giá càng sớm càng tốt. Lúc này người ta mới chú ý đến đám gia nhân xuất hiện, chúng treo một cái đèn lồng to giữa nhà, một cái lồng đèn có thứ hoa văn kỳ lạ. François nheo mày lại, lầm bầm “Mandala[vii], là Mandala.” Ojeda ngạc nhiên nhoài người sang hỏi, “Ông biết Mandala? Ông đến Tây Tạng rồi sao?” François đáp như không đáp, thu mình vào chiếc ghế, đối diện với thứ ký ức không tốt đẹp của mình, miệng lẩm bẩm Mandala. Sophia chú ý cử chỉ kỳ quái đó của François, bà ta nhướn đôi mắt cố thích nghi với ánh đèn chập chờn bên trong chiếc lồng, một hoạ tiết màu đỏ gồm những chiếc lá cây vây quanh, chính giữa là một con bọ hung có sừng. Sophia biết đây là loài côn trùng không phổ biến ở phương Tây, nhưng hẳn nó có nhiều ở phương Đông. Sophia nhìn sang đám người Phù Tang để kiểm chứng suy nghĩ của mình, quả thật thọ nhìn và trầm trồ bởi sự nét vẽ tinh xảo trên chiếc lồng đèn, nhìn nhau và nói, “Kabutomushi[viii]” Trông ánh mắt đó, phần nào kính trọng. Thanh liếc nhìn công tử, khuôn mặt công tử trong chiếc mạn che, dường như không bận tâm về chiếc đèn lồng cầu kỳ kia. Nhìn quanh phòng, Thanh nhận ra những vị khách đang có nỗi niềm riêng của mình, bóng họ bị ánh đèn hắt lên vách tường, cột nhà, cùng với đống vật dụng phòng khách. Họ là một phần của căn phòng này, như đám đồ vật bất động kia. Dường như thiếu một ai đó, lão Ngô, ánh đèn không bắt được chỗ ngồi tối tăm trong góc tường của lão. Thanh không thể nhìn được khuôn mặt đó, bóng tối của thanh xà trên trần che đi mặt lão. Ngô lão nhân gia dường như biến mất khỏi căn phòng, không ai bận tâm có lão hay không.
Vợ lão Tâm ăn vận tươm tất hơn lúc chiều, bà ta chịu khó thay một chiếc áo dài màu đen, đầu vấn chiếc khăn nít chặt vào đầu hướng về khu vực thờ tự. Bà ta kéo cánh cửa gỗ bên hông khu thờ tự, lão Tâm giả thích cho đám khách hiểu phong tục nơi đây, “Xứ chúng tôi, căn phòng thờ đặt nơi phòng khách, một mặt để trống nhìn thẳng ra nhà để tổ tiên nhìn thấy mọi hành vi của con cháu. Bên dưới bệ thờ là một cái sập ngựa[ix] dùng để dạy dỗ con cháu nếu chúng phạm lỗi, chúng phải được dạy trước sự chứng kiến của tổ tiên ông bà. Nhưng nơi đây không được phép xuất hiện phụ nữ, nên nữ nhân trong nhà muốn thắp hương phải đi qua cánh cửa gỗ bên trái để vào kệ thờ, họ không được đi chính diện trước kệ thờ.” Đám khách Tây gật gù. Bà Tâm thắp ba nén hương thơm, rồi ngồi trước tủ thờ, trên mảnh chiếu hoa[x] lạy chín lạy. Rồi bà đứng dậy, buông tấm mành tre[xi], phủ xuống, tách rời nơi thờ tự với phòng khách. Lão Tâm lại giải thích, “Chúng tôi không muốn tổ tiên mình thấy cảnh mua bán trong nhà hoặc, chơi đùa thưởng nguyệt thưởng trà, chúng tôi sẽ lạy tổ tiên mình rồ buông rèm để họ không nhìn thấy mà phật lòng.”
Bà Tâm nói với lão Tâm, “Xong rồi ông.” “Cho đám gia nhân lui ra ngoài, nói chúng về nhà gia đình nghỉ ngơi dăm hôm rồi lại đến phụ việc, nhớ cho chúng ít tiền.” Bà Tâm vâng dạ rồi cùng đám gia nhân lui vào nhà sau.
Căn phòng trở nên im lặng lạ thường, ánh đèn duy nhất trong căn phòng này là chiếc đèn lồng lớn treo giữa nhà, nhưng nó không đủ để làm cho căn phòng sáng hơn. Thay vào đó, nó làm mờ nhạt hẳn những khuôn mặt, xoá nhoà vách ngăn về sắc tố trên da ở mỗi con người, xoá nhoà ranh giới lãnh thổ, xoá nhoà sự khác biệt trong cơn lập loè của ngọn lửa.
Lão Tâm rung giọng nói, “Các vị đều được mời đến đây để dự một phiên đấu giá bí mật, bởi chúng là bảo vật xứ Annam này. Và thật tự hào mà nói rằng, tôi may mắn được giữ nó và đưa đến người nào ngả giá cao nhất. Và đây là món đồ thứ nhất, bên dưới lớp vải này, với giá khởi điểm, tám ngàn đồng Thái Bình[xii] hoặc tám đồng ecu vàng[xiii]. Nhưng các vị có thể trả bằng tiền mà các vị có, như tiền Vĩnh Lạc, tiền Vĩnh Khoan, tiền Toraisen, tiền Bitasen[xiv]. Để dễ quy đổi và ngả giá, ở đây tôi sẽ dùng đồng ecu vàng để rao giá. Các vị dựa vào tiền mình có và bỏ giá, sau ba lần không ai hạ giá mới thì món đồ đó sẽ thuộc về người đã ngả giá cao nhất.”
Nhìn đám khách gật đầu tán đồng, lão Tâm kéo mảnh vại lụa trắng đặt ngay bên dưới ánh đèn của chiếc lồng trên cao. Một vật nhỏ ánh lên sắc đồng phản chiếu ánh sáng của ngọn đèn, chiếc gia trì chung[xv] bằng đồng sáng bóng như mới.
Ông nhận ra giá trị của nó chứ? Người đàn ông ẩn bên trong chiếc nón lá rộng vành nghiêm nghị nói.
Long thần tạc trên vành chuông này có từ thời Lý Thái Tổ, lão Tâm cầm nó lên săm soi, nó được khắc bằng bàn tay tài hoa của người xứ Chiêm Thành năm xưa. Nâng chiếc chuông nhà lên, nhìn bên dưới nổi rõ hàng chữ Ứng Tâm tự, Cổ Pháp[xvi]. Chùa Dận[xvii]? Lão tự hỏi. Bên hông chuông nhà còn rõ hàng chữ Thuận Thiên năm thứ sáu[xviii]. Lão trợn mắt nhìn nhìn đàn ông trước mặt, không lẽ?
Đúng, nó là Gia trì chung của thiền sư Vạn Hạnh năm xưa. Người đàn ông nói, tay nâng tách trà nhấp miệng. Ông hẳn biết rõ về nó.
Nó có rất nhiều huyền thoại, lão lẩm bẩm, rất nhiều rất nhiều.
Chờ đám người khách đến gần săm soi nó, khi lui về chỗ, lão Tâm tiếp tục nói bằng lời nói của người đàn ông đội chiếc nón lá kia.
Huyền thoại thì rất nhiều nhưng đất nước này không cần quá nhiều huyền thoại, kể cả vật này. Kẻ bán hàng như ông chỉ thích vẽ thêm huyền thoại để trang điểm cho món hàng của mình, nhưng nó chỉ là lớp phấn son làm lệch lạc khuôn mặt mà tự nhiên tạo nên. Nó phản lại sự thật và phản cả lòng trung thực, hãy gạt bỏ những yếu tố của trí tưởng tượng và tự đặt mình vào góc nhìn của một người khách, ông sẽ mua nó nếu biết nó là di vật của thiền sư Vạn Hạnh. Như vậy, kẻ bán phải có nghĩa vụ chứng minh đây quả thật là di vật của thiền sư Vạn Hạnh. Ông sẽ chứng minh thế nào?
Nó rõ như ban ngày! Hoạ tiết này chỉ có thể tạo nên từ thời nhà Lý.
Có thể làm giả.
Hàng chữ bên dưới chuông cho thấy nó xuất phát từ chùa Dận.
Cũng có thể làm giả.
Đây là chất lượng đồng pha vàng theo một tỉ lệ mà chỉ có thời Lý mới đạt được, nó đã thêm một thứ chất liệu nào đó để đồng không bị phai màu mà thời đại sau đó không làm được.
Đã gần đến sự thật hơn, làm cách nào phân biệt được nó?
Tôi… tôi…
Ông đã từng nghe đến trâu vàng hồ Tây?
Chuyện đó bất kỳ đứa trẻ nào ở Thăng Long cũng biết.
Tôi không kể truyện cổ, chỉ vắn tắt rằng, đồng đen là mẹ của vàng. Người ta nói rằng Không Lộ thiền sư đã có được một quyển sách mà trước khi Vạn Hạnh viên tịch, ghi chép lại cách thức tạo nên đồng đen để giữ được vàng. Không Lộ đã đúc một cái chuông đồng mà gióng lên một tiếng, con trâu vàng từ Tàu đã chạy sang Đại Việt. Không Lộ ném cái chuông xuống hồ Tây và con trâu vàng lao xuống đó. Nhưng đôi lúc người ta kể Không Lộ thành Khổng Lồ, chuyện đó không quan trọng bằng việc Không Lộ đã dùng đồng đen bên Tàu đúc thành bốn pháp khí trấn yểm bốn trạch địa của Thăng Long nhằm bảo vệ kinh đô. Ông biết trạch địa chứ?
Trạch địa tuỵ?
Đúng, nó là quẻ tuỵ, quẻ thứ bốn mươi lăm trong kinh dịch.
Tụy Tự Quái. Cấu giả ngộ dã. Vật tương ngộ nhi hậu tụ. Cố thụ chi dĩ Tụy. Tụy giả tụ dã.[xix]
Ông am hiểu khá nhiều, đó là quẻ chỉ những nơi có thể cuốn hút nhân tài, tạo nên quốc gia. Không Lộ lo rằng những nơi đó sẽ bị lũ thầy phong thuỷ Tàu sang phá, nên dựng nên những am chùa nhỏ chôn bốn pháp bảo ở đó, để ngàn đời Thăng Long vẫn là nơi rồng hội tụ. Những pháp bảo đó khi ngân lên, nó có thể kéo lũ côn trùng, nâng nước dòng sông và tương truyền còn gọi cả dã tượng trên ngàn đến hội tụ.
Tôi đã biết cách để kiểm tra cái chuông này.
Lão Tâm lấy một cái dùi bằng đồng, miết quanh miệng chuông, nó ngân lên một tiếng kỳ lạ ù ù như gió thổi. Lũ ong trong nhà cuốn theo tiếng ù đó vây quanh lồng đèn, bám lên đó, hắt những cái bóng của mình lên vách tường xám xịt. Gõ mạnh một tiếng, chuông ngân như tiếng gầm của dã tượng trên rừng, lũ ong dáo dác bay ra khỏi lồng lèn, một cảnh tượng thật kỳ quái. Nhìn ánh mắt ngạc nhiên của đám khách, lão Tâm biết rằng khuôn mặt của mình khi đó cũng không khác bao nhiêu. Đây quả là quốc bảo. Nhưng rồi lão tự hỏi, bảo vật vô giá này sao có thể ra giá rẻ như vậy? Chỉ tám đồng écu? Giọng người đàn ông đó như vọng về, “Sẽ có người trả giá cao nhất để mua nó, giá đó liên thành[xx].”
“Hai trăm écu.” Sophia lên tiếng.
“Ba trăm.” François đáp miệng mỉm cười nhìn Sophia.
“Sáu trăm.” Sophia tiếp. “Sáu trăm năm mươi.” François thách thức. “Bảy trăm.” Tôi xem chừng ông không mang được nhiều hơn mười vạn đồng écu, Sophia thách thức.
“Một ngàn.”
Cả Sophia và François nhìn quanh, bởi họ nghĩ cuộc đấu giá này sẽ không nhiều người tranh giành, nhưng đó là tiếng nói của Thanh. Ojeda cười khì khì, “Đây không phải là thứ tôi cần, các người cứ ngả giá với nhau.”
Với Sophia trả nhiều hơn không phải là điều khó, nhưng cả chặn đường dài thì Sophia lẫn François không mang theo quá nhiều tiền, cả hai con người nhìn nhau lưỡng lự, nếu họ trả giá quá cao thì có thể sẽ không đủ tiền để mua món đồ mình cần. Hai người im lặng. Lão Tâm hô giá lần thứ nhất.
“Mười ngàn.”
Cả phòng ồ lên một tiếng, không biết ai vừa ra giá gấp mười lần vị công tử xứ Phù Tang. Rồi thì mọi ánh mắt tập trung vào dáng người ốm yếu cao nhòng như đính chặt vào chiếc ghế, nấp phía sau bóng tối.
“Mười ngàn.” Lão Ngô lập lại một cách chậm rãi.
Thanh cúi người chờ công tử, một âm thanh nhỏ nhắn đủ để mỗi Thanh nghe thấy.
“Mười lăm ngàn.” Thanh nói to.
“Ba mươi ngàn.” Lão già nói như thể miệng ông ta không mở, chòm râu chẳng hề động đậy.
Thanh cúi xuống nghe công tử, Thanh nhăn mặt thì thào nói, “Chúng ta không mang theo quá nhiều tiền, nếu vật đó xuất hiện sẽ không mua được thưa công tử.” “Hừ.”
Lần hai, lần ba. Lão Tâm kết luận quả chuông thuộc về lão già họ Ngô. Lão đứng dậy, quẳng bọc tiền lên bàn và ôm lấy chiếc chuông vào lòng, “Ba mươi lăm ngàn đồng vàng, ta đưa dư cho ngươi. Bây giờ mở cửa cho ta về.”
“Không được thưa Ngô gia, tất cả người ở đây chỉ được ra ngoài khi phiên đấu giá kết thúc. Ngài cần hiểu đây là buổi đấu giá chui, tôi không muốn các quan trên biết nên tôi cần cẩn thận. Xin ngài thứ lỗi.”
Lão Ngô nhăn mặt rồi biến mất vào bóng tối.
Lão Tâm thì già dặn kinh nghiệm, đã từng có kẻ lợi dụng việc ra về trước, chúng báo quan và nhiều món hàng bị tịch thu sung công. Đôi lúc, nhiều vị quan còn giả dạng làm kẻ đấu giá, khi một cuộc giao dịch thành công ông ta thét lớn cho đám lính tràn vào bắt. Phủ chúa đã có lệnh cấm những buổi đấu giá chui, nhằm tránh thất thoát tiền đồng mà đàng Trong lúc này thiếu hụt, bởi chỉ đàng Ngoài mới có mỏ đồng để đúc tiền. Người ta biết Chúa Tiên từng ra lệnh cho người lén ra đàng Ngoài đúc tiền mang vào, nhưng không được là bao, buộc lòng phủ chúa phải đồng tiền của những quốc gia đến buôn bán. Hơn hết, phủ chúa lo lắng nhiều bảo vật quốc gia và của tông thất bị kẻ gian bán ra ngoài, nên các chúa ra lệnh kiểm soát nghiêm ngặt những buổi đấu giá.
Không khí sau buổi giằn co của từ ngữ trở nên trầm lắng, người ta có thể nghe rõ tiếng ù ù của lũ ong mật. Đôi tay công tử rung, nắm chặt vạt áo, Thanh có thể nhìn thấy. Lão Tâm thì đưa vật thứ hai ra, thay vào vị trí của vật đã đi.
Người đàn ông lại tiếp tục đưa ra trước mặt lão Tâm, “Ông hẳn biết nó?” “Làm cách nào ngài có vật này?” “Chuyện đó ông đừng quan tâm.” Đưa tay sờ lấy món đồ, màu đồng đã chuyển đen và ẩn hiện sắc xanh của thời gian mà tạo hoá bố thí cho những kẻ đã dám tồn tại. “Tôi đã nhìn thấy nó từ lúc rất nhỏ, rất nhỏ.” Giọng lão Tâm nhỏ dần như một đứa trẻ. “Ông nội ơi, nó là gì?” “Một trong tứ đại pháp bảo của Lý Quốc Sư[xxi]. Pháp bảo này được ngài đưa về làng ta từ hàng trăm năm trước, dùng để trấn yểm con tinh sông Đào. Năm đó để cứu dân ở hạ nguồn sông Hồng, Lý Quốc Sư đã cho đào một con kênh dài nối sông Hồng và sông Đáy để giảm sức tàn phá của lũ sông Hồng. Nhưng hàng trăm người đào song bị nhiễm khói độc của vùng đất này mà chết, Lý Quốc Sư biết có một con tinh ăn linh hồn người phu đào. Ngài ra tay giết nó nhưng ngài đã phạm sai lầm, linh hồn người thoát ra khỏi con tinh đó đã cùng chui xuống đất, nó kêu hồn vía của lũ phu đào, chúng tự đập đầu vào đất và chết hết. Máu chúng đỏ cả mảnh đất này rồi đất tự nứt thành một rãnh dài, song Hồng đổ mạnh vào rãnh đó hình thành nên sông Đào. Sông Đào đến nay đỏ như máu nhưng nó cũng là con sông của lũ phu đào năm xưa đã chết. Lo sợ oán niệm, ngài đã đặt một pháp khí trấn yểm ở đây.” “Sao con không biết câu chuyện này?” Đứa trẻ ngây thơ hỏi. “Minh Không thiền sư lo rằng sẽ có kẻ muốn đánh cắp tứ đại pháp khí của mình, linh khí nước Nam sẽ bị diệt, bởi mỗi linh khí đều hội tụ tinh khí đất trời. Nó đặt ở đâu thì xứ đó sẽ sản sinh ra nhân tài kiệt xuất để bảo vệ Đại Việt. Ngài che dấu tên gọi và hình dáng pháp khí, nên không ai biết rõ tứ đại pháp khí là gì.”
Lũ khách chưng hửng khi nhìn thấy món đồ trước mặt, trừ một người. Lão Tâm đảo mắt quanh từng người, rồi dừng lại ở François. François hỏi, “Đây không thể là bảo vật xứ Annam.” “Ngài biết gì về nó?” “Nó thuộc về một thầy tu Tây Tạng, một thầy tu trẻ.” “Tôi rất muốn nghe câu chuyện của ngài, thưa ngài François.” “Không, không một câu chuyện nào cả.” “Chắc ngài nhận ra con rồng bên dưới đài sen này thuộc về Đại Việt chúng tôi?” “Đúng, nhưng vật phía trên thì không, nó là Kim Cương Chử.”
Tại sao ngài lại giết ông ấy! Người thanh niên thét lên rồi oà khóc ôm lấy thân thể người chết.
Ta cần vật này!
Ông đã làm nhuốm máu pháp bảo, nó sẽ không bao giờ đáp ứng nguyện vọng của ông! Ông đã giết ngài thiền sư! Ông là kẻ sát nhân!
Lũ người Annam chúng mày!
Giết tôi đi nếu ông có thể làm! Hãy đâm vào tim tôi bằng vật mà ông đã giết thiền sư!
Ta không muốn làm điều đó…
Ông thật tàn nhẫn như giống nòi của ông.
Ta chỉ là đứa con xấu xa của giống nòi mình. Đừng phỉ báng dân tộc ta.
Những con người đã chết dưới khẩu hoả pháo của ông còn nằm dưới biển, lũ người của các ông nào xem chúng tôi là con người như ông.
Các ngươi khác với chủng tộc của ta.
Khác màu da? Màu mắt?
Đúng.
Nhưng tôi với ông đều chung một màu máu, tất cả họ đều thở như cách ông đang thở. Đều có gia đình như ông và đều lạc mất gia đình như ông. Họ cũng đau đớn như ông và hơn ông, bởi ông còn biết gia đình mình chết vì sao. Còn chúng tôi, chẳng hiểu vì sao mình chết và gia đình tôi, ở chín dòng biển lớn, nơi mà lũ mòng biển cũng không thể nào tìm đến chỉ hi vọng tôi trở về dù là một cái xác.
Ngươi…
Rầm! Một tiếng nổ ngoài bầu trời báo hiệu cơn dông. Ừ thì dông tố, Ojeda nghĩ, nó lạ gì với kinh nghiệm của kẻ như hắn. Hít thở như lũ mòng biển từ lúc sinh ra, hắn nhớ người ta kể rằng hắn sinh ra trên con tàu giữa biển Địa Trung Hải. Khệ nệ, Ojeda mệt mỏi đứng dậy khỏi ghế chầm chậm bước đến Kim Cương chử, nó đã ngả đen, như thứ mà hắn đã cướp trên tay cậu thiếu niên năm đó. Cầm nó lên, ngoài trời gầm rú lên mãnh liệt, người ta có thể cảm nhận hơi nước lành lạnh lùa trong không khí. Sự ngột ngạt căn phòng chấm dứt bởi làn gió lạnh. Ojeda lẩm bẩm, săm soi, tư lự như vật đó đã thuộc về mình tự lúc nào. “Bao nhiêu?” Râu xồm xoàm của lão rung lên theo nhịp thở. “Nhưng phải chờ mọi người đấu giá, thưa ngài Ojeda.” “Cứ nói giá, ta sẽ mua nó.” Rồi lão nhìn về mọi người, qua từng con mắt, người ta có thể nhận thấy sự u ám thương tâm trong đôi mắt lão và kể cả sự lạnh lùng như lời khẳng định, lão nhất quyết mua nó, bằng mọi giá.
“Người chủ nó ra giá… tám ngàn đồng écu.” Lão Tâm nói.
Mọi người bất ngờ, buổi đấu giá lạ lùng, khi vật đấu giá đầu tiên chỉ bắt đầu tám đồng écu, vật phía sau thì tám ngàn, gấp một ngàn lần. Ojeda không quan tâm, lão nhìn ngắn nó và nói như tâm sự với chính mình, “Ở Tây Tạng người ta gọi nó là Dorje, có ai biết được nó cũng là tên thường đặt cho những đứa trẻ là nam giới tại Tây Tạng và Druk Yul[xxii]. Ừ thì ta không biết, ngươi nói cho ta đi. Druk Yul nghĩa là vùng đất Rồng sấm à?” Ngoài trời lại gầm rú mạnh hơn, lão như thể nói với một đứa con của mình. “À… ừ…, kim cương chử này có ba mũi, tượng trưng cho Phật Pháp và Tăng. Sao? Mỗi đầu gọi là một khum? Lạ nhỉ.” Rồi lão cười hề hề, trong đôi mắt mọi người nhìn, Ojeda thật kỳ quái. “Không, sao lão trượng kia lại nói với ta ba khum này mỗi khum tượng trưng cho ngôn ngữ, ý nghĩa và hành động? Ngươi là người ở xứ Annam, sao lại biết về nó? Ngươi đã từng thấy nó sao?” Rồi lão ngẩn người, nhìn ngắm nó, “Các ngươi muốn đấu giá bao nhiêu?” Phải mất một hồi lâu đám người trong phòng mới biết Ojeda nói mình. François lạnh lùng, “Hai mươi ngàn écu.” Ojeda quay sang nhìn François, đôi mắt trừng trừng, “Thì ra là ngươi. Chính ngươi đã giết nó!” François trợn mắt không hiểu những gì Ojeda nói, thì đã thấy Ojeda đứng sát mặt mình, mũi Ojeda gần chạm vào mũi François. “Mày đã giết nó! Chính mày! Thằng khốn nạn.” “Ông nói cái quái gì vậy? Ojeda?” Một tay Ojeda siết chặt cổ áo của François, mặc cho hắn vùng vẫy. Lão Tâm vội đến kéo Ojeda ra khỏi, ánh mắt như tia lửa vẫn không rời khỏi François. Ojeda nói, mắt vẫn không rời François, “Một trăm ngàn.” François rụt người lại. Ojeda lại nhìn quanh từng kẻ trong căn phòng, tay vẫn nắm chặt kim cương chử, “Còn ai muốn có nó, ra giá!” “Ra giá!” Ojeda nói như thét, lão giọng ồm ồm, vang như tiếng sấm. Cả đám người im lặng. Lão Tâm hô lên vài tiếng chiếu lệ để kết luận vật này thuộc về Ojeda. Ojeda không khi về ghế ngồi, vốn bên cạnh François. Lão nặng nề nhấc bước chân bước ra phía giếng trời, nơi lũ không khí gào thét như điên loạn. Lão quẳng lại một túi tiền mà chẳng cần quan tâm, lão Tâm cầm lên biết nó nhiều hơn một trăm ngàn écu. Không ai muốn làm phiền Ojeda. Lão lủi thủi ngồi giữa sân.
Một cuộc đấu giá kỳ quái.
Người ta nhanh chóng quên mất Ojeda, trừ François, “Hắn biết thằng bé đó ư?”
“Ông quen ngài Ojeda?” Sophia hỏi.
“Không, tôi chưa từng gặp ông ta, đây là lần đầu.”
“Lạ nhỉ, một kẻ như ông lý ra phải quen người như Ojeda hơn là tôi.”
“Vì bà mạt hạng chẳng khác gì tôi, thưa bà Sophia.”
“Mỉa mai làm sao, đấng Christ vẫn được quỷ Satan nhận là bằng hữu.”
“Trong trường hợp này sao bà lại nhận tôi làm bằng hữu? Tôi nào dám sánh bằng địa ngục của ngôi điền trang hạt[xxiii] Kent của bà?”
Sophia hít thận sâu để đè nén cơn nóng giận, “Thưa ngài François, bằng một cách nào đó mà quỷ dữ xuôi khiến ngài, ngài đã săm soi vào sự riêng tư của một người đàn bà goá như tôi thì ngài đang bỉ bạc thứ nhân cách của Pháp quốc. Ngài và đất nước ngài thật giống nhau, phải không?[xxiv]”
“Cette question comme merde![xxv]”
Lão Tâm vỗ tay để mọi người tránh xa khỏi cuộc cãi vả giữa Sophia và François, tập trung vào món đồ đấu giá kế tiếp. Sophia thờ ơ, bởi câu nói vô tình đầy cố ý của François đã khơi dậy một cảm giác không lành mạnh. Sophia luồn tay vào cổ áo, nắm chặt lấy thập tự giá, “Chúa thương xót tâm hồn con.” Ký ức không buôn tha những tâm hồn sùng đạo, Sophia biết vậy, những mảng mầu sáng tối hiện trước mặt, hình ảnh người thanh niên bị lột trần trong cũi sắt. Tiếng cười như man dại của một người đàn bà. Tay Sophia lại nắm chặt thập tự giá.
Vật thứ ba được nâng lên, dưới ánh đèn chập choạng của chiếc lồng. François đánh rơi tách trà. Lão nói như gầm gừ, “Làm cách nào ông có nó?”
“Ngài cũng biết vật này sao ngài François?” Lão Tâm hỏi như thể ngạc nhiên, “Ngài có nhầm lẫn gì không?”
François tự an ủi rằng mình vẫn nhầm lẫn, nhắm chặt mắt và thả lỏng cơ thể, “Không phải là nó! Chúa ơi, không phải là nó.” François lập đi lập lại liên tục trong đầu để tự trấn tĩnh mình. Thật bình tĩnh, François nói, “Tôi có thể mượn cây truỷ thủ đó chứ?”
“Sẵn lòng thưa ngài François.” Lão Tâm cung kính dâng nó lên. Dáng người François cao hơn hẳn lão Tâm những hai cái đầu, cây truỷ thủ đưa ngang tầm mắt lão Tâm, không hiểu lão cung kính François hay cây truỷ thủ.
“Đây là kilaya, sắc bén và nhọn. Người Tây Tạng gọi nó là phuraba, đây là pháp khí của những lạt ma.” François đưa tay sờ lên cán cây truỷ thủ, lòng thầm nghĩ, đây quả thật là nó nhưng sao nó lại xuất hiện ở đây trong tay lão già này, hay lão đã biết việc của mình làm, “Nhưng cây kilaya này khác hoàn toàn những cây kilaya khác ở Tây Tạng. Ở chuôi nó tạc hình tượng phật Amida, nhưng vị phật này có thân hình nhỏ nhắn mảnh khảnh… như một người Annam.” François nhìn lão Tâm, “Chủ nhân của cây truỷ thủ này là ai?”
“Tôi phải giữ kín bí mật này theo yêu cầu của người chủ vật đấu giá. Nhưng chắc ngài còn chưa hiểu hết cây truỷ thủ này. Nó chính là…”
“Pháp bảo thứ hai của Không Lộ thiền sư.” Một giọng nói e é cất lên, là Ngô gia, giọng lão không còn trầm đục như ban đầu, mà trở nên the thé kỳ lạ. Lão vẫn ẩn phía sau bóng tối, dường như căn phòng càng tối hơn khi nhìn vào nơi Ngô gia ngồi.
“Ngài dường như rất am hiểu về nó.” Lão Tâm nói.
Ngô gia lầm bầm điều gì đó rồi im bặt. Lão Tâm bắt đầu đấu giá cổ vật này, “Một trăm ngàn đồng écu vàng.”
Sẽ không ai mua nó, trừ một người. Người đàn ông đội nón khẳng định, những giọt nước mưa sau cùng trên nón lá cũng bắt đầu dừng chảy.
Sao ngài biết?
Chỉ có quỷ dữ mới muốn có nó.
Đám người Phù Tang im lặng. Sophia dường như vẫn chưa thoát ra khỏi ký ức của mình. Ngô gia có vẻ biến mất khỏi căn phòng ngày càng tối hơn vì cây đèn cầy bên trong lồng đèn đang dần cạn xuống thì phải.
“Một trăm năm mươi ngàn.” François ra giá.
Vài thủ tục chiếu lệ, lão Tâm tuyên bố vật này thuộc về François. Lòng lão thầm nghĩ, “Người đàn ông kia nói rất chính xác.”
Năm vật này: Cái đầu tiên là chuông của thiền sư Vạn Hạnh, tay người Tàu sẽ mua nó. Bốn vật này là tứ đại pháp khí của Lý Quốc Sư năm xưa: Kim cương chử, người Hoà Lan sẽ mua nó; truỷ thủ phuraba, tay người Phú Lan Sa sẽ mua; kiền truỳ này người đàn bà xứ Cách Lan sẽ mua; sau cùng, kinh luân sẽ do người Phù Tang mua.
Ngài chắc chắn điều đó?
Họ phải mua vì không có lựa chọn nào khác, nhiệm vụ của ông là bán được cao hơn cái giá mà tôi đưa ra. Phần dư ra đó sẽ thuộc về ông. Yên tâm, ông sẽ ngạc nhiên về sự hào phóng của đám khách mua hàng chứ không phải của tôi.
Cái kiền truỳ này trông lạ quá, cả đời tôi chưa bao giờ thấy nó. Ngay cả tứ đại pháp bảo của Lý Quốc Sư, tôi chỉ biết mỗi kim cương chử này.
Nó lạ là phải vì nó thuộc về pháp khí của lạt ma Tây Tạng. Ông đã nghe nói gì về nơi này?
Chưa từng.
Ông cũng không cần biết về nó, hãy giữ cho tên gọi đó xa khỏi tầm với của trí tưởng tượng.
Nhưng Lý Quốc Sư liên can gì đến lạt ma Tây Tạng mà ông ta lại rèn những pháp bảo này?
Ông biết được gì về nhà sư Không Lộ?
Tôi nghe ông tôi kể, ngài sinh ra ở một làng chày bên bờ sông Hoàng Long, phủ Tràng An. Lớn lên ngài chu du khắp nơi, kết bạn với Từ Đạo Hạnh và Giác Hải. Đến khi chữa bệnh hoá hổ của vua Lý Thần Tông thì được phong làm Lý Quốc Sư. Sau khi đi sứ phương Bắc, ngài đã đúc một cái chuông đồng mà tiếng ngân mạnh đến mức trâu vàng phương Bắc chạy sang phương Nam. Chính ngài đã dạy cho thuỷ tổ làng tôi nghề đúc đồng, ngài chính là ông tổ nghề làng tôi.
Để tôi bổ sung những thứ nằm ngoài trí tưởng tượng của cư dân Nam Định. Tên tục của Không Lộ là Nguyễn Chí Thành, ông ta đã du học sang tận Thiên Trúc và vượt qua thung lũng Kathmandu đến Tây Tạng, tiếp kiến đức Na-lạc-pa[xxvi]. Chí Thành đã tu tập Kim cương thừa và Đại thủ ấn của Phật giáo chốn này. Sau đó xuôi dòng chảy con sông Trường Giang và trở về Thăng Long. Ngài đã cho đúc tứ đại pháp khí này khi ở ngôi quốc sư, dấu trong tứ đại pháp bảo: Kim cương chử cất trong pho tượng đồng chùa Quỳnh Lâm, truỷ thủ phuraba nằm bên dưới chùa Diên Hựu, kiền truỳ nằm trong vạc Phổ Minh và kinh luân ở trên đỉnh tháp Báo Thiên. Sau này vì đào sông để nối sông Hồng và sông Đáy, ông ta đã mang kim cương chử đến làng ông mà trấn lũ tinh.
Thật kỳ lạ! Sao ngài biết câu chuyện này? Nó đã hàng trăm năm rồi?
Thoáng chút tư lự, người đàn ông đó đứng lên, mái hiên bắt đầu ngừng rơi những giọt nước cuối cùng. Chúng ngưng tụ lại ở phần mái ngói, chờ những giọt nước khác chảy xuống đủ nặng để rơi. Người đàn ông nói, người ta phải chờ đợi ký ức đủ nhiều và đủ nặng để chở mọi thứ về quá khứ. Nói rồi ông ta lại ngắm nhìn giọt nước tụ ngoài mái hiên.
Nhưng tại sao họ lại mua những vật đó?
Người ta kể rằng, từ những cơn mưa rừng nhiệt đới phủ lấp từ miền Nam Thiên Trúc kéo dài lên miền Bắc, len qua những tầng núi cao và cơn gió gợi nên sự hùng vĩ của thần linh. Người ta có thể nghe, có thể nghe ông Tâm à, người ta nghe được vạn vật chung một tiếng nói, hoà cùng một âm điệu. Tiếng nói diệu kỳ đó còn ẩn chứa bên trong lời ca tụng thần Indra.
Sophia: Thần Indra, vị chúa tể của thời tiết và chiến tranh. Khi trời và đất nổi cơn tình tự, khí hậu như chiến tranh, nó bất thường và không thể lý giải. Thần Indra cỡi trên lưng con bạch tượng, mỗi chân của nó mang một cái lục lạc vàng, thật kỳ diệu phải không các vị? Trí tưởng tượng của những chủng tộc man di. Trên tay I[xxvii]ndra, một tay cầm kim cương chử một tay cầm lấy kiền truỳ, như vật trên tay của tôi lúc này, thật tinh xảo.
François: Tay thiền sư đó nói với tôi rằng, Indra chính là hoá thân của vị Bồ Tát, tên ngài là Vajraghanta. Đừng cười tôi, quý bà Sophia, chúng ta có chắc được sẽ sống qua đêm nay không? Những kẻ còn thoi thóp trong màn đêm chờ sáng này? Này Ojeda, vật trên tay ông với trên tay bà Sophia này đây vốn là một cặp, kim cương chử còn gọi là Vajra; còn kiền truỳ là Ghanta. Ghép hai tên đó lại chính là tên của vị Bồ Tát của người Tây Tạng.
Ojeda: Đứa bé đó nói tôi có nụ cười dễ mến, bà có thấy điều đó ở tôi không Sophia? Vâng, tôi cũng tự thấy điều đó. Hà hà. Đôi mắt bà giống y chang lúc nó nhìn tôi, thật trong sáng, đen nháy, khi tôi bảo đây là dương vật và âm đạo. Ha ha. Xem tôi nói đúng không, cái Vajra này khác gì dương vật? Nó phình to như đầu dương vật còn gì?
Sophia: Ngài Ojeda, ngài cần hiểu ở đây còn có phụ nữ, là tôi.
Ojeda: Tại sao thứ đạo đức tôn giáo trong con người bà lại cố phủ nhận những gì mà tạo hoá tạo trên thân thể bà?
Sophia: Nhưng đó là thứ cần được giữ riêng tư khỏi mọi ánh nhìn và nên nằm bên trong lớp quần áo, chứ không thể lồ lộ thô thiển như ngôn từ của ngài, thưa ngài Ojeda.
Ojeda: Chính lớp áo đó đã làm khác biệt tôi với bà, bà Sophia à. Kể cả tôi và ông, François. Nó khiến chúng ta trở thành những kẻ dị chủng với đám người Phù Tang bên kia và kể cả đứa nhỏ đó. Ôi, đứa bé thật dễ mến, nó đã theo tôi từ cảng thị này, vượt qua khỏi những tay cướp biển ngoài khơi Baghdag, nó cùng tôi nghe những câu chuyện của Sheherazade và nói cho tôi câu chuyện thần tiên ở xứ mình. Nó làm tôi yêu quý xứ Annam của nó như cách nó yêu mến xứ sở của mình. Chúng ta khác gì nó ngoài cái áo mà chúng ta mặc? Lớp áo ngôn ngữ? Lớp áo của màu da đầy lông lá? Chúng ta là gì nếu vứt bỏ lớp áo đó đi và trần truồng trước Chúa? Như tổ phụ của chúng ta, Adam và Eva, những con người là của Chúa trước khi rời khỏi Chúa và rời khỏi nhau. Chúng ta rời bỏ đồng loại của mình như cách thức mà hai con người kia rời khỏi vườn địa đàng của Chúa, nơi họ có thể hạnh phúc, nhưng họ đã rời khỏi những gì thuộc về bằng cách chọn lấy sự văn minh. Văn minh như bà đây, bà Sophia ạ, văn minh như cách người Anh nhìn về người Pháp, cái nhìn đó là một lớp áo. Cậu bé xứ Annam kia nói với tôi rằng, nó chẳng phân biệt nổi người Anh và người Pháp nếu họ đừng mặc lên người lớp áo làm phân biệt họ ra. Chỉ có cái dương vật và âm đạo mới khiến chúng ta nhận ra mình thuộc về nhau. Như kiền truỳ trên tay bà và kim cương chử trên tay tôi. Âm đạo và dương vật.
Sophia: Đừng báng bổ Chúa, Ojeda!
Ojeda: Ai sẽ bán bổ Chúa? Như thế này bà Sophia ạ. Tôi cũng như bà tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa, nhưng tại sao một người quyền năng như Chúa lại để con rắn và trái cấm ở cùng một nơi, trong vườn địa đàng và dưới mái nhà của tạo vật mà ngài yêu mến?
Sophia: Đó là thử thách mà Chúa dành cho con người. Họ có vượt qua được sự cám dỗ hay không.
Ojeda: Không thưa bà, kể cả ngài François đây, chắc sẽ đồng ý với tôi như cách mà tôi đã đồng ý với đứa bé đó. Khi tôi kể cho nó những gì mà kinh Thánh dạy cho chúng ta. Chúa của ngài đã không thử thách con người, bởi Chúa biết rõ sự ngu muội sẽ không vượt qua cám dỗ. Chúa đã sắp xếp một vở kịch để lừa phỉnh con người, đuổi chúng ra khỏi sự ngây thơ mà ngài đã đặt vào tự nhiên, cho chúng một thứ để chúng rời khỏi tự nhiên là trí tuệ. Chính trí tuệ đã mang cho các ngài lớp áo để che dấu những gì thầm kín của riêng tư, giúp các ngài phân biệt được quê hương mình khác với đất nước người và cũng giúp cho chúng ta nhìn lại vở kịch mà Chúa đã sắp đặt bằng cách, biến chính mình thành sự hoài nghi. Sự hoài nghi lần nữa sẽ chiến thắng đầu óc mông muội đã dệt thành lớp áo bên ngoài, đưa con người trở lại vườn địa đàng với thân thể trần trụi trước ngài. Có thể lúc đó, ngài sẽ hỏi những đứa con của ngài như cách mà tôi sẽ hỏi ngài, ngài Ojeda đáng mến của tôi, “Các ngươi đã học được gì khi rời khỏi vườn địa đàng của ta?”
Sophia: Đó không bao giờ là lời của Chúa, mà đó là lời của quỷ dữ.
Ojeda: Quỷ dữ đang giết chết tâm hồn của bà, bà Sophia ạ. Như cách mà chúng ta bị giam lỏng chốn này, xung quanh là xác chết.
François: Ojeda nói đúng, Sophia. Chúng ta xứng đáng phải trả những gì mình phải gây ra, một lần sau cuối để chấm dứt. Hãy nhìn đám người Phù Tang kia, họ vẫn bình thản như cái chết chỉ là sự khởi đầu hơn là sự kết thúc.
Thần Indra mang mưa và sấm sét, phủ xuống tinh cầu này, như lúc này đây ông Tâm. Nước sông Thu Bồn cứ dâng rồi hạ, hạt mưa nảy lên trên bề mặt sông khúc khải hoàn của thần Indra sau mỗi cuộc chiến tranh. Nhờ thần, những cây dầu đã vươn người lên tầng không, men theo bước chân con bạch tượng của ngài phủ xanh từ Thiên Trúc đến tận Đại Việt. Làm nơi ẩn trú cho hàng triệu con bọ hung bay ngang cánh rừng nhiệt đới, mượn cơn gió mùa đến đảo Lưu Cầu.
Công Tử: Ngươi theo ta được bao lâu rồi Sang?
Thanh: Từ khi người cũng như tôi, những đứa trẻ đủ để quên dần những gì khi đã lớn.
Công Tử: Ngươi có nhớ gia đình của mình không? Đặc biệt là cha ngươi.
Thanh: Cha thần đã mất theo vết hoa hài Rebun vùng núi Iwate.
Công Tử: Gia đình ngươi vẫn còn ở Lưu Cầu?
Thanh: Thưa vâng.
Công Tử: Ừ, nơi đó rất nhiều đám bọ hung, chúng có đầy trên cây hút nhựa vào mùa hè. Ngươi vẫn còn nhớ chứ?
Thanh: Ngày ấy công tử vẫn thích xem chúng chiến đấu cùng nhau.
Công Tử: Chúng là võ sĩ đạo của núi rừng, cứng cáp và mạnh mẽ, kiên trì và lẫn cố chấp. Nhưng quan trọng hơn hết là âm thanh mà chúng tạo nên, như lũ ve sầu, cánh của chúng là vần vũ của tiếng gió kéo cơn dông. Tiếng đập cánh của lũ ong vò vẽ, tiếng gọi nhau của loài dế đêm hè. Ngươi nghe thử xem, giống tiếng này không, tiếng kinh luân xoay. Ôi… Sam ơi, ta lại nghe thấy tiếng của hắn trong kinh luân này, tiếng tụng kinh đêm của hắn, tại sao giọng nói của hắn lại ngọt ngào và nghẹn ngào như vậy? Tại sao chúng ta lại giam lỏng hắn trong tiếng chuông chùa, trước mặt Amida và bên dưới ánh mắt Lôi Thần?
Thanh: Công tử đừng suy nghĩ nhiều, điều đó sẽ nhọc đến thân thể của ngài.
Công Tử: Chúng ta đang đối diện điều gì đây? Bản lai diện mục chúng ta ư?
Đó là lí do mà họ sẽ phải mua những món đồ đó.
Tôi hoàn toàn không hiểu ý ngài.
Ông không cần phải hiểu, ông Tâm à. Ông chỉ cần làm những gì ông vẫn thường xuyên làm, hoàn thành thật tốt vai trò của mình, chúng ta đều có một vai trò trong cuộc đời này trước khi kết thúc. Hãy phô diễn thật xuất sắc những gì mà chúng ta có, để tế phụng trời cao, dưới gót ngà của vị chúa tể tầng trời. Đó là một nhiệm vụ hơn là trách nhiệm, là nghệ thuật hơn là nhân sinh. Đây là kinh luân, một pháp khí mà Không Lộ năm xưa đã học được từ thầy tu Tây Tạng, khi nó xoay, vũ trụ sẽ vận hành. Người ta nói rằng, nếu xoay kinh luân và miệng đọc thần chú Om Mani Padme Hum thì Bồ Tát sẽ xuất hiện, người sẽ giải thoát những kẻ còn chìm đắm trong vòng luân hồi không thoát ra được.
Tôi chưa nghe đến câu thần chú này.
Nhưng hẳn ông đã nghe đến Án ma ni bát mê hồng?
Đã nghe rất nhiều, thì ra chúng là một. Á! Ngài làm gì vậy?
Đừng sợ, mũi của cây truỷ thủ này luôn cách ông một khoảng cách an toàn. À… ừ… tôi nghĩ an toàn là cách chừng hai lóng tay, để nó có thể cắt đứt cổ của ông. Để tôi xem rõ khuôn mặt của ông, thời gian đã lấy đi của ông nhiều quá, ông Tâm. Lấy cả lòng lương thiện của ông mà chỉ còn lại khuôn mặt của loài quỷ. Hẳn là thời gian đã dằn vặt ông rất nhiều.
Tôi không hiểu lắm ý của ngài. Tôi và ngài có quen biết nhau? Tôi đoán cùng lắm ngài chừng ba mươi mấy tuổi dù tôi không nhìn rõ mặt ngài, bên dưới cái nón lá đó là một màu đen, đó là thứ màu sắc duy nhất mà tôi có thể nghĩ về ngài.
Bóng đêm cho ta nhiều trí tưởng tượng hơn. Tôi và ông đã quen nhau từ rất lâu, ừ thì lâu lắm rồi. Thôi, tạm biệt ông, sẽ như lời hứa, toàn bộ số tiền dư ra khỏi giá mà tôi đề nghị đều sẽ thuộc về ông. Khi năm người đó mua hết năm món đồ này, ông hãy lấy vật cuối cùng này ra làm vật đấu giá.
Nó là gì? Tôi mở ra xem được chứ?
Không. Tôi sẽ cắt đứt mạch máu trên cổ ông ngay lúc này và bất kỳ lúc nào ông nghĩ rằng, sẽ lén mở nó ra. Chắc ông thừa hiểu cái giá phải trả của sự tò mò lớn thế nào, đúng không? Xem đôi mắt tật nguyền vì ký ức của ông đủ để hiểu, ông hiểu rõ những gì mà mình phải trả giá, vì sự tò mò ngu xuẩn.
Làm sao ông biết được chuyện đó!
Ông chỉ là một đứa trẻ như năm nào. Nhớ. Đây là vật cuối cùng phải được đấu giá!
Nó sẽ thuộc về ai?
Tạm biệt ông, ông sẽ sớm biết câu hỏi đó khi đấu giá vật này.
———–
[i] Sông Hàn ở Đà Nẵng.
[ii] Là Nguyễn Hoàng.
[iii] Tức Đà Nẵng sau này.
[iv] Nằm giữa Phú Yên và Khánh Hoà, có từ thời vua Lê Thánh Tôn đánh Chiêm Thành mở rộng bờ cõi Đại Việt đến đây, năm 1470.
[v]白雲庵居士, tức Nguyễn Bỉnh Khiêm (阮秉謙; 1491–1585)
[vi] Phương ngữ miền Trong, chỉ những người ưa xấu hổ.
[vii] Xem phần Giải nghĩa danh từ.
[viii] Xem phần Giải nghĩa danh từ.
[ix] Xem phần Giải nghĩa danh từ.
[x] Xem phần Giải nghĩa danh từ.
[xi] Xem phần Giải nghĩa danh từ.
[xii] Tiền đồng Thái Bình thông bảo. Xem phần Giải nghĩa danh từ.
[xiii] Tiền tệ phổ biến ở Châu Âu lúc đó, khoảng 3,315 gram vàng.
[xiv] Xem phần Giải nghĩa danh từ.
[xv] Là Chuông nhà, xem phần Giải nghĩa danh từ.
[xvi] 応心寺 . 古法. Xem phần Giải nghĩa danh từ.
[xvii] Xem phần Giải nghĩa danh từ.
[xviii] Tức năm 1016 theo Tây lịch.
[xix] Nguyên văn Hán tự:
萃 序 卦
姤 者 遇 也
物 相 遇 而 後 聚
故 受 之 以 萃
萃 者 聚 也.
[xx] Giá liên thành hay giá trị liên thành, là thành ngữ thông dụng vùng Đông Á chịu ảnh hưởng văn minh Hoa Hạ, chỉ món đồ có giá trị như nhiều toà thành.
[xxi] Tức nhà sư Nguyễn Minh Không. Xin xem Giải nghĩa danh từ.
[xxii] Tức Butan.
[xxiii] Xem Giải nghĩa danh từ.
[xxiv] Tên François và người Pháp, nước Pháp (Français) đồng âm.
[xxv] Đại khái là… hỏi như cứt!
[xxvi] Tức Naropa, một đại sư Thiên Trúc, đã truyền bá Phật giáo đến Tây Tạng.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất