Trang bị và phục trang Tây Sơn giai đoạn đầu, ảnh của Ấm Chè
Trang bị và phục trang Tây Sơn giai đoạn đầu, ảnh của Ấm Chè
Phần 3 này, cũng là phần cuối, sẽ dẫn các ghi chép về nước ta trong các bộ chính sử Trung Quốc về các thời kỳ Lê Sơ, Mạc, Lê Trung hưng, Tây Sơn và Nguyễn.

THỜI KỲ SAU KHI GIÀNH LẠI ĐỘC LẬP

NHÀ LÊ SƠ - NHÀ MINH

Năm Thành Hóa thứ 4 (1468), Hạo (tức là Lê Hạo, húy của vua Lê Thánh Tông) vốn là người hùng kiệt, tự phụ nước giàu binh mạnh, bèn dần tự đại. Hạo xâm chiếm Bằng Tường ở Quảng Tây. Hoàng đế hay tin, mệnh cho quân trấn thủ canh phòng cẩn mật.
Năm Thành Hóa thứ 7 (1471), Hạo phá Chiêm Thành, bắt vua Chiêm là Bàn La Trà Toàn, qua ba năm lại phá nước ấy, bắt vua là Bàn La Trà Duyệt, bèn đổi nước ấy thành châu Giao Nam, đặt quân trấn giữ. Đường cống sứ của An Nam đi, vốn vẫn theo lối Quảng Tây. Bấy giờ trấn thủ Vân Nam là Trung quan Tiền Năng tham lam phóng túng, sai chỉ huy Quách Cảnh mang sắc lệnh sang đòi lấy hóa vật. Hạo vốn định nhòm ngó Vân Nam, bèn lấy cớ là giải trả những tội nhân ở Long Châu, Quảng Tây, theo Cảnh mượn đường Vân Nam vào kinh, bắt phu dịch hơn sáu trăm người, lại phát binh kế bước theo sau, khiến Vân Nam phải rối loạn. Bộ Binh tâu Vân Nam không phải đường cống đạo, tội nhân Long Châu nên giải về Quảng Tây, bất tất phải đến kinh sư. Bèn lệnh cho quan trấn thủ truyền hịch hiểu dụ, và phòng bị biên cương nghiêm ngặt. Hạo đã được Bằng Tường, diệt Chiêm Thành, bèn xâm lấn Quỳnh Châu, Lôi Châu của Quảng Đông, lại cướp đất Châu Trì, Long Châu, Hữu Bình của Quảng Tây, Lâm An, Quảng Nam, Trấn An của Vân Nam cũng mấy phen cáo cấp. Triều đình chiếu cho quan trấn thủ cật vấn, Hạo bèn đem lời gian dối mà đáp. Triều đình chỉ muốn qua loa cho yên, tuy giáng nhiều sắc dụ, nhưng không đủ lời nghiêm khắc, Hạo càng thêm khinh nhờn không sợ hãi gì, nói: “Vua Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn xâm phạm đạo Hóa Châu, bị em là Bàn La Trà Duyệt giết chết mà tự lập. Kịp khi sắp nhận phong, lại bị con là Trà Chất Đài giết chết. Nước ấy tự loạn, chẳng phải là tội của thần Hạo này.” Triều đình biết là dối trá, nhưng không thể cật vấn, chỉ khuyên Hạo trả lại đất đai nước ấy. Hạo tâu rằng: “Chiêm Thành chẳng phải là đất màu mỡ, trong nhà ít tích lũy, ngoài nội tuyệt dâu gai. Núi không vàng ngọc để thu, biển ít ngư diêm lấy lợi, chỉ sản ngà voi, tê giác, ô mộc, trầm hương. Được đất ấy cũng không thể ở, được dân ấy cũng không thể dùng, được của ấy cũng chẳng đủ giàu, ấy là nguyên cớ mà thần chẳng xâm đoạt Chiêm Thành vậy. Thánh chiếu bắt thần trả lại đất đai nước ấy, vậy xin cho sứ giả triều đình đến vạch biên giới, để biên thùy hai nước được yên ổn, thì thần không mong gì hơn.” Bấy giờ Chiêm Thành đã bị chiếm cứ từ lâu, mà lời lẽ còn hoang đường đến như vậy.
Năm Thành Hóa thứ 15 (1479), Hạo sai quân hơn tám trăm người, vượt địa giới Mông Tự, Vân Nam, đánh tiếng là bắt cướp, tự ý lập doanh dựng nhà mà ở. Quan trấn thủ ra sức ngăn cản, mới lui. Hạo phá Chiêm Thành rồi, bèn có chí mở rộng bờ cõi, đích thân đốc thúc chín vạn binh, mở núi chia làm ba đường, công phá Ai Lao, xâm lược Lão Quan, lại đều đại phá được. Giết ba cha con Tuyên úy Đao Bản Nhã Lan Chưởng, người con út là Phạ Nhã Trại chạy đến Bát Bách mới thoát. Hạo lại tích lương luyện binh, ban ngụy sắc cho Xa Lý, mượn quân hợp công Bát Bách. Tướng sĩ bị chết mất mấy ngàn, nhưng đều nói là bị sét đánh. Bát Bách bèn chặn đường quay về, tập kích giết hơn vạn người, Hạo mới đem quân về [...] Rồi đó, Hạo tâu, chưa xâm phạm Lão Qua, vả cũng không biết cương giới của Bát Bách ở chỗ nào, lời lẽ rất dối trá. Hoàng đế lại úy dụ, xong Hạo vẫn không phụng mệnh.
Năm Thành Hóa thứ 17 (1481), mùa thu, Mãn Lạt Gia cũng bẩm báo bị Hạo xâm lấn, Hoàng đế cho sứ giả đến dụ, khiến Hạo hòa mục với lân bang mà giữ nước.
Chính Đức nguyên niên (1506), sách phong cho Nghị (chỉ Uy Mục Đế Lê Tuấn) làm vương. Nghị sủng dụng bè đảng của mẹ là anh em Nguyễn Chủng, Nguyễn Bá Thắng, thả sức làm điều uy ngược, giết chóc tôn thân, đầu độc chết bà nội.
Năm Chính Đức thứ 4 (1509), bọn Chủng cậy sủng trộm quyền, bức Nghị tự sát, tôn lập em mình là Bá Thắng lên ngôi, biếm Nghị làm Lệ Mẫn vương. Người trong nước là bọn Lê Quảng cùng trừ diệt đi, lập cháu của Hạo là Trửu (tức là Tương Dực Đế Lê Oanh), cải thụy cho Nghị là Uy Mục Đế.
Kỵ binh Đại Việt qua các thời kỳ, ảnh của Ấm Chè
Kỵ binh Đại Việt qua các thời kỳ, ảnh của Ấm Chè
Năm Chính Đức thứ 11 (1516), Xã đường thiêu hương quan là Trần Cảo, cùng hai con là Bỉnh và Thăng làm loạn, giết Trửu mà tự lập, nói dối là hậu duệ nhà Trần trước đây, lại xưng là Đại Ngu Hoàng đế, đổi niên hiệu là Ứng Thiên, biếm Trửu làm Linh Ẩn vương. Bề tôi của Trửu là Đô trai lực sĩ Mạc Đăng Dung mới đầu theo Cảo, sau lại cùng đại thần họ Lê là bọn Nguyễn Hoành Dụ khởi binh đánh dẹp. Cảo thua chạy, bắt được Bỉnh cùng đồ đảng là bọn Trần Thúy. Cảo và Thăng chạy đến đạo Lạng Sơn, chiếm cứ ba phủ Trường Ninh, Thái Nguyên, Thanh Tiết để tự giữ. Bọn Đăng Dung bèn cùng lập con của Hạo - anh Trửu - là Huệ (tức vua Lê Chiêu Tông), cải thụy cho Trửu là Tương Dực Đế [...] Vì Đăng Dung có công, bèn phong cho là Vũ Xuyên bá, tổng lĩnh thủy lục chư quân. Đăng Dung nắm được binh quyền rồi, dần ngầm nuôi chí khác. Bề tôi họ Lê là Trịnh Tuy, cho Huệ chỉ giữ ngôi suông, lại lập một người khác trong dòng dõi họ Lê là Dậu Bảng, rồi đem quân đánh đô thành. Huệ bỏ thành chạy, Đăng Dung đánh phá được quân của Tuy, bắt Dậu Bảng giết, lại càng cậy công lao ra sức phóng túng, bèn bức mẹ của Huệ làm vợ mình, rồi đón Huệ về, tự cho mình làm Thái phó Nhân Quốc công.
Sử ta chép là khi loạn Trần Cảo xảy ra, Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản vì trước bị phạt đánh nên ngầm nuôi thù với vua Tương Dực, nhân lúc loạn bèn cho người giết vua. Sử ta cũng không chép việc Mạc Đăng Dung có theo Trần Cảo, còn Nguyễn Hoành Dụ ở đây tức là Nguyễn Hoằng Dụ. Việc Mạc Đăng Dung được phong Vũ Xuyên bá thì sử ta chép diễn ra năm 1511 thời vua Tương Dực. Việc Mạc Đăng dung “bức mẹ của Huệ làm vợ mình”, sử ta cũng không chép.
Năm Chính Đức thứ 16 (1521), Đăng Dung đem quân đánh Trần Cảo, Cảo thua chạy mà chết.
Gia Tĩnh nguyên niên (1522), Đăng Dung tự xưng An Hưng vương (việc này sử ta chép xảy ra năm 1526), mưu giết Huệ. Mẹ Huệ báo cho biết, Huệ bèn cùng bề tôi là Đỗ Ôn Nhuận theo đường tắt trốn đi thoát chết, vào ở Thanh Hoa. Đăng Dung bèn lập thứ đệ của Huệ là Khoáng (tức là Cung Hoàng Đế Lê Xuân), rồi thiên cư đến phủ Trường Khánh, ở Hải Đông. 
Năm Gia Tĩnh thứ 4 (1525), mùa hạ, Huệ sai sứ đi đường tắt sang cống, cùng thỉnh phong, nhưng bị Đăng Dung ngăn trở.
Năm Gia Tĩnh thứ 6 (1527), Đăng Dung lệnh cho bè đảng là Phạm Gia Mô làm giả chiếu nhường ngôi của Khoáng, rồi thoán vị, đổi niên hiệu Minh Đức, lập con là Phương Doanh (theo sử ta là Đăng Doanh) làm Hoàng thái tử. Ít lâu sau, lại đầu độc giết Khoáng, đặt thụy là Cung Hoàng Đế.
Năm Gia Tĩnh thứ 9 (1530), Đăng Dung nhường ngôi cho Phương Doanh, tự xưng Thái thượng hoàng, dời đến ở Đô Trai, Hải Dương để làm ngoại viện cho Phương Doanh, soạn thiên Đại Cáo 59 điều, ban bố trong nước. Phương Doanh đổi niên hiệu là Đại Chính. Tháng Chín năm ấy, Lê Huệ chết ở Thanh Hoa, nước mất (sử ta thì chép là Mạc Đăng Dung đã cho người bí mật giết vua Lê Chiêu Tông từ năm 1526).
Mạc Đăng Dung, ảnh của Ấm Chè
Mạc Đăng Dung, ảnh của Ấm Chè

NAM, BẮC TRIỀU (LÊ TRUNG HƯNG, MẠC) - NHÀ MINH

Năm Gia Tĩnh thứ 16 (1537), Lê Ninh ở An Nam sai người trong nước là bọn Trịnh Duy Liêu đến kinh, dâng trạng kể rõ việc thoán thí của Đăng Dung, nói: “Ninh là con của Huệ. Huệ chết, người trong nước lập Ninh làm đích tự, tạm làm chủ việc nước. Nhiều lần sai người mang thư đến các quan ngoài biên cáo nạn, nhưng đều bị Đăng Dung chặn giết. Xin triều đình hưng binh sang hỏi tội, mà trừ kẻ quốc tặc giúp cho.” Bấy giờ Nghiêm Tung chưởng quản Lễ bộ nói lời ấy chưa hẳn đáng tin, xin cho giữ lại, để đợi quan khám xét có tấu báo về. Hoàng đế nghe theo [...] lệnh cho hai bộ Lễ, Binh hội đình thần bàn bạc, nêu ra mười tội lớn của Đăng Dung, xin Hoàng đế mau chóng quyết đoán, định kỳ xuất chinh [...] Bộ Binh lại phụng chiếu, tâu rõ mười hai việc nên làm trong việc điều dụng binh cơ. Riêng có Thị lang Phan Trân cho là không được, dâng sớ ra sức can gián. Hoàng đế nổi giận, bèn cách chức. Lưỡng Quảng Tổng đốc Phan Đán cũng dâng sớ xin dừng mệnh lệnh trước, nói: “Triều đình vừa hưng binh hỏi tội, thì Đăng Dung đã có sứ đến xin cống, nên nhân đó mà bằng lòng, giới nghiêm để xem biến động, đợi nước ấy tự an định.” Nghiêm Tung, Trương Toản dò ý vua, ra sức nói rằng không thể tha được, lại nói Lê Ninh ở Thanh Đô mưu đồ khôi phục, mà Đán nói rằng nước ấy đã yên định, dâng biểu xin cống, thì quyết không thể cho phép. Sớ tấu của Đán bèn bị gạt đi [...] Kịp tới khi Bộ Binh dâng nghị tấu lên, vua bỗng giữa chừng đổi ý, nói Lê Ninh thực hay ngụy còn chưa thẩm xét được, lệnh cho bề tôi trấn thủ ba nơi tùy nghi mà yên vỗ hay trừ dẹp, các đại thần Tham tán, Đốc hưởng đều tạm đình lại [...] Tháng Tám, Tuần phủ Vân Nam Uông Văn Thịnh bắt được gián điệp cùng bản Đại Cáo của Đăng Dung đem báo lên. Hoàng đế nổi giận, mệnh cho các quan trấn thủ lại tuân theo như bản chiếu trước mà chinh thảo [...] Án sát Quảng Đông là Dư Quang tâu: “Mạc thoán ngôi Lê, cũng như Lê thoán ngôi Trần, không đáng để so tính quá. Chỉ cần xét tội chúng không bẩm báo triều đình, trách phải xưng thần nạp cống, chứ chẳng cần viễn chinh, khiến Trung quốc phải mệt nhọc. Thần đã sai sứ sang tuyên dụ, nếu chúng đến quy phụ, triều đình nên nhân đó mà yên vỗ tiếp nhận.” Hoàng đế cho là Quang khinh suất, tước một năm bổng lộc.
Văn Thịnh lập tức truyền hịch An Nam, rằng nếu Đăng Dung có thể trói mình chịu tội, dâng nạp địa đồ, thì sẽ miễn khỏi tội chết. Vì vậy, cha con Đăng Dung bèn sai sứ phụng biểu xin hàng, lại gửi điệp văn tới Văn Thịnh và Kiềm quốc công Mộc Triều Phụ, đều nói họ Lê suy loạn, Trần Cảo phản nghịch, mình với Phương Doanh có công, được người trong nước quy phụ, tất cả đất đai đã ghi trong Nhất thống chí, xin xá tội lỗi, cho được cống nạp như lệ định.
Năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538), tháng Ba, bọn Triều Phụ dâng tấu lên triều đình, nhưng Lê Ninh theo chiếu trước, e rằng thiên triều rốt nhận cho Đăng Dung hàng, cũng đem hết đầu đuôi việc thoán thí trong nước cùng số quân mã, đường tiến quân thủy lục đến dâng. Triều đình bèn giao cả cho Bộ Binh, tập hợp đình thần nghị bàn. Ai nấy đều nói, họ Mạc tội không thể tha, nên mau chóng tiến binh. Xin lấy Hàm Ninh hầu Cừu Loan đã tiến cử trước đây làm Tổng đốc quân vụ, Bá Ôn vẫn làm Tham tán. Hoàng đế đều thuận theo. Trương Kinh tâu rằng: “Có sáu đường tiến binh sang An Nam, nên dùng ba mươi vạn quân, lương ăn một năm cần dùng một trăm sáu mươi vạn, các chi phí đóng thuyền, sắm ngựa, đúc binh khí, khao quân lại cần hơn bảy mươi vạn nữa. Huống chi ta điều động đại quân, lặn lội cõi nóng nực, so với chúng thế nhàn mệt khác nhau, không thể không thẩm xét mà xử sự vậy.” Sớ văn vừa dâng lên, thì Khâm Châu Tri châu Lâm Hi Nguyên lại dâng trạng ra sức trình bày có thể hạ được Đăng Dung. Bộ Binh không thể quyết được, lại xin đình nghị. Kịp lời bàn nghị dâng lên, Hoàng đế không vui, nói: “Trẫm nghe lời bàn riêng của các khanh sĩ đại phu, đều nói không nên hưng binh. Các ngươi chức trách phải lo chính sự nước nhà, mà dây dưa không có chủ trương, thảy đều ủy thác cho hội bàn. Đã không hiệp tâm lo việc nước, thì thôi đi vậy. Loan và Bá Ôn hãy dùng vào việc khác.”
Năm Gia Tĩnh thứ 18 (1539) [...] đặc biệt khởi dụng Hoảng Oản làm Lễ bộ thượng thư, Học sĩ Trương Trị làm phó, đi sứ sang nước ấy. Lệnh vừa ban xuống, Phương Doanh bèn sai sứ dâng biểu hàng, và kê khai đất đai, dân số, xin nghe theo thiên triều xử trí [...] Đến tháng Bảy, Oản còn chưa đi, vì trái chỉ nên mất chức, bèn dừng việc đi sứ. Mới đầu, lời bàn chinh thảo xuất phát từ Hạ Ngôn, Hoàng đế trách tội Oản rồi, nhân nổi giận nói: “Việc An Nam, vốn từ một người xướng lên, mọi người đều theo sau, cười nhạo ta nghe theo kế của Ngôn, mà cùng đặt điều khinh mạn. Nước ấy nên tha hay nên đánh, phải có bàn bạc quyết định. Binh bộ lập tức họp bàn rồi tâu lên ta biết.” Vì vậy, Trương Toản cùng đình thần đều sợ hãi, xin theo như chiếu trước, vẫn sai Loan và Bá Ôn nam chinh. Nếu như cha con Đăng Dung trói mình quy hàng, không có bụng khác, thì sẽ cho miễn tội chết. Hoàng đế bằng lòng. Đăng Dung nghe tin, mừng lắm.
Năm Gia Tĩnh thứ 19 (1540), bọn Bá Ôn đến Quảng Tây, truyền hịch tuyên dụ cái ý Phương Doanh nạp khoản thì sẽ tha tội. Bấy giờ Phương Doanh đã chết, Đăng Dung lập tức sai sứ xin hàng. Tháng Mười một, Đăng Dung dẫn cháu là Văn Minh cùng các bộ mục bốn mươi hai người vào Trấn Nam quan, cổ gông chân đất, bò lết khấu đầu trên bàn, mà dâng biểu xin hàng. Bá Ôn tuyên chiếu xá tội. Đăng Dung lại đến quân môn, bò lết bái lạy, dâng sổ sáng kê khai đất đai quân dân, xin theo lịch chính sóc, mãi mãi làm phiên thần. Bọn Bá Ôn tuyên thị uy đức, sai về nước đợi mệnh. Văn sớ dâng lên, Hoàng đế mừng lắm, mệnh tước An Nam quốc thành An Nam đô thống sứ ty, trao cho Đăng Dung làm Đô thống sứ, trật tòng nhị phẩm, ấn bạc [...] Lại lệnh cho hặc xét Lê Ninh thực giả thế nào, nếu quả là hậu duệ họ Lê, thì cắt cho bốn phủ mà Lê Ninh chiếm cứ để lo sự thờ cúng, nếu không thì thôi.
Các binh chủng thời Lê Trung hưng, ảnh của Ấm Chè
Các binh chủng thời Lê Trung hưng, ảnh của Ấm Chè
Năm Gia Tĩnh thứ 22 (1543), Đăng Dung chết (sử ta chép Mạc Đăng Dung qua đời năm 1541), con Phương Doanh là Phúc Hải nối.
Năm Gia Tĩnh thứ 25 (1546), Phúc Hải chết, con là Hoành Dực nối (tức là Mạc Phúc Nguyên theo sử ta) [...] Lúc Hoành Dực mới lên ngôi, sai sứ là Lê Quang Bí sang cống, đến Nam Ninh, quan trấn thủ báo tin về. Lễ quan cho rằng nước ấy nội loạn, danh phận chưa định, ngăn sứ giả lại không cho đi, mà lệnh cho quan trấn thủ, hặc hỏi người đáng lập là ai.
Năm Gia Tĩnh thứ 30 (1551), việc rõ ràng, mới mệnh trao cho Hoành Dực làm Đô thống sứ, đến quan ải lĩnh điệp. Gặp lúc bộ mục là Lê Bá Ly và bề tôi của Lê Ninh là Trịnh Kiểm hợp binh đến đánh, Hoành Dực chạy về Hải Dương, nên không đến được.
Năm Gia Tĩnh thứ 43 (1564), Hoành Dực chết, con là Mậu Hợp nối (sử ta chép việc này xảy ra năm 1561).
Vạn Lịch nguyên niên (1573), Mậu Hợp được trao Đô thống sứ.
Năm Vạn Lịch thứ 3 (1575), sai sứ sang tạ ơn, mừng Hoàng đế lên ngôi, và tiến phương vật.
Bấy giờ, họ Mạc dần suy, họ Lê lại phục hưng, cùng đánh lẫn nhau, trong nước xảy ra nhiều biến cố. Mới đầu, Lê Ninh chiếm cứ Thanh Hoa, vẫn tiếm xưng đế hiệu, năm Gia Tĩnh thứ 9 (1530) đặt niên hiệu là Nguyên Hòa (theo sử ta là năm 1533 chứ không phải 1530), ở ngôi bốn năm, bị Đăng Dung tiến đánh, trốn sang địa giới Chiêm Thành. Người trong nước lập em là Hiến, đổi niên hiệu Quang Chiếu (việc này không có trong sử ta). Năm thứ 15 (1536), bề tôi tìm hỏi biết được nơi Ninh đang náu, mới đón về Thanh Hoa, sau lại dời đến sông Tất Mã. Ninh chết, đại thần của Ninh là Trịnh Kiểm lập con của Ninh là Sủng (tức là vua Lê Trung Tông Lê Huyên). Sủng chết, không có con trai, người trong nước cùng lập cháu năm đời của Lê Huy là Duy Bang (tức là vua Lê Anh Tông Lê Duy Bang, hậu duệ năm đời của Lam Quốc công Lê Trừ, anh trai của Thái Tổ Lê Lợi). Duy Bang chết, con Kiểm là Tùng lập con của Duy Bang là Duy Đàm, nối đời đóng đô ở Thanh Hoa, tự làm một nước.
Năm Vạn Lịch thứ 19 (1591), Duy Đàm dần mạnh, cử binh đánh Mậu Hợp. Mậu Hợp thua, chạy sang huyện Gia Lâm. Mùa đông năm sau, Tùng dụ người địa phương làm nội ứng, đánh úp giết Mậu Hợp, đoạt được ấn Đô thống sứ, thân thuộc đồ đảng của Mậu Hợp phần lớn bị hại. Có kẻ là Mạc Đôn Nhượng chạy đến Phòng Thành cáo nạn, Tổng đốc Trần Cừ báo lên triều đình. Tùng lại bắt Đôn Nhượng, thế càng thêm lớn. Con của Mậu Hợp là Kính Cung (sử ta chép Mạc Kính Cung là con của Khiêm vương Mạc Kính Điển) cùng người trong họ là bọn Mạc Lý Tốn chạy sang châu Tư Lăng, Quảng Tây; Mạc Lý Cơ chạy sang Khâm Châu. Chỉ có Mạc Kính Bang có quân hơn mười vạn, dấy binh ở đạo Kinh Bắc, đánh tan các quân của Phạm Bạt Tụy, Phạm Bách Lộc thuộc đảng của họ Lê, nên Đôn Nhượng lại được trả về. Quân chúng bèn suy tôn Kính Bang lên nắm quyền Đô thống, những người lưu ngụ ở Tư Lăng, Khâm Châu đều quay về cả. Quân họ Lê đánh châu Nam Sách, Kính Bang bị giết, thế lực họ Mạc càng suy. Kính Cung, Kính Dụng đóng ở Cao Bằng, Lạng Sơn; Kính Chương đóng ở Tân An, Đông Hải, sợ quân họ Lê truy tìm, trốn đến địa giới Long Châu, Bằng Tường, bảo thổ quan dâng trạng bẩm báo với quan nha. Duy Đàm cũng đến quan ải xin vào cống, trên giấy tờ dùng dấu kim ấn quốc vương.
Những việc này của người tên Mạc Kính Bang khá giống với Mạc Kính Chỉ. Năm 1593, sau khi Mạc Mậu Hợp bị bắt và xử chém, Mạc Kính Chỉ tự lên ngôi, đặt niên hiệu Bảo Định. Kính Chỉ đóng quân ở Nam Sách, Hải Dương, sau bị quân Lê tiến đánh, bị bắt và xử trảm. Vậy có thể Mạc Kính Bang này chính là Mạc Kính Chỉ.
Năm Vạn Lịch thứ 21 (1593), bọn Quảng Tây Tuần phủ Trần Đại Khoa dâng tấu rằng: “Đất man đổi họ như đánh cờ, không nên coi việc phản phục ở nước ấy là thuận hay nghịch, chỉ nên coi việc nước ấy phản ta hay phục ta là nghịch hay thuận mà thôi. Nay Duy Đàm tuy mưu tính khôi phục, nhưng Mậu Hợp vốn là ngoại thần của thiên triều, sao có thể không thỉnh mệnh mà hùng hổ đánh giết. Thần trộm nghĩ, cái tội tự ý dấy binh của họ Lê, không thể không hỏi đến. Mà những con côi còn sót lại của họ Mạc cũng không thể không bảo toàn. Nếu được như việc trước đây của tiên triều, bằng lòng cho họ Lê nạp khoản, mà vẫn bảo toàn cho họ Mạc, cũng như họ Lê được ở sông Tất Mã trước đây, khiến họ Mạc không đứt đoạn tế tự, thì ấy là kế rất nên.” Đình nghị cũng cho là như vậy. Năm sau, Đại Khoa mới cho người sang xem xét, Kính Dụng lập tức sai sứ đến cửa quân cáo nạn, và xin giúp binh. Mùa thu năm sau, Duy Đàm cũng sai sứ sang tạ tội, xin nạp khoản. Bấy giờ Đại Khoa đã làm Tổng đốc lưỡng Quảng, với Quảng Tây Tuần phủ Đới Diệu cùng ủy thác Tả Giang phó sứ Dương Dần Thu xử trí việc này. Dần Thu trộm tính, rồi nói: “Không cự Lê, cũng không bỏ Mạc, kế của ta đã định rồi.” Rồi sai quan sang cả hai phía hỏi han, thấy bọn Kính Cung đến bẩm cáo, nguyện ở đất Cao Bằng, mà sứ của Duy Đàm cũng mấy lần sang cầu nạp khoản. Dần Thu bèn hẹn kỳ với chúng rồi báo cả lên Tổng đốc, Tuần phủ. Gặp khi Kính Chương đem quân đến Vĩnh An, bị quân họ Lê đánh bại, đất Hải Đông, Tân An đều mất cả, vì vậy việc khoản nghị càng thêm dứt khoát. Khi ấy, Duy Đàm lấy danh nghĩa mưu đồ khôi phục, không muốn giống như Đăng Dung, phải tự trói mình sang ải quan. Dần Thu lại sai quan sang dụ, sứ giả của Duy Đàm sang báo theo như kỳ hẹn, đến ngày bỗng lại nói với quan coi ải là: “Sĩ tốt đói bệnh, khoản nghị chưa được đầy đủ. Vả họ Mạc là kẻ thù của ta, nay ở Cao Bằng, nên chưa dám nghe mệnh.” Rồi bèn nửa đêm trốn đi. Bọn Đại Khoa dâng sớ về triều, nói vì đại thần của Duy Đàm chuyên quyền thành ra như thế. Duy Đàm lại sai sứ đến cửa quan, bẩm rằng mình không trốn tránh. Bọn Đại Khoa lại sai quan khuyến dụ, Duy Đàm vâng mệnh.
Năm Vạn Lịch thứ 25 (1597), Duy Đàm sai sứ xin hẹn, Dần Thu hẹn đến tháng Tư. Tới ngày, Duy Đàm đến ngoài ải, người thông ngôn cật vấn về sáu việc. Đầu tiên là việc tự ý giết Mậu Hợp, đáp rằng: “Nóng lòng phục cừu, nên không kịp thỉnh mệnh.” Thứ đến tông phái của Duy Đàm, đáp rằng: “Là con cháu dòng đích, tổ là Huy, từng được thiên triều sắc mệnh.” Thứ đến về Trịnh Tùng, đáp rằng: “Đó là bậc thế thần của họ Lê, chẳng phải là làm loạn họ Lê vậy.” Hỏi đến vì sao đang đêm bỏ trốn, đáp: “Vì các vật lễ nghi không đủ, chứ không phải trốn.” Lại hỏi làm sao dùng dấu quốc vương, đáp: “Quyền tạm phỏng dụng, đã lập tức tiêu hủy.” Duy có việc cắt đất Cao Bằng cho họ Mạc ở, là còn giằng co không xong. Lại dụ bảo rằng: “Đều là bề tôi cống nạp của triều đình, họ Lê trước đây có thể ở sông Tất Mã, mà họ Mạc không thể ở Cao Bằng ư?” Duy Đàm bèn nghe mệnh, được trao cho các nghi tiết vào ải, khiến tập dượt cho thông thạo [...] An Nam lại yên định. Triều đình xuống chiếu trao cho Duy Đàm chức Đô thống sứ, ban lịch phụng cống, theo như việc cũ của họ Mạc.
Sử Trung Quốc chép rất vắn tắt về bảy lần hai họ Trịnh - Nguyễn đánh nhau từ năm 1627 đến năm 1672, chỉ có vài dòng mà thôi, mà cũng chỉ để giải thích cho việc Tây Sơn dấy binh. Cho nên phần đó sẽ ghi một thể trong mục sau.

NHÀ LÊ TRUNG HƯNG, TÂY SƠN, NGUYỄN - NHÀ THANH

Năm Càn Long thứ 51 (1786), họ Nguyễn ở An Nam gây biến.
Trước đây, niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, An Nam vương Lê Duy Đàm phục quốc, thực là nhờ sức của hai bề tôi là họ Nguyễn và họ Trịnh, từ đó hai họ nối đời trở thành phụ chính tả hữu. Sau, hữu phụ chính thừa cơ họ Nguyễn chết, con nối còn nhỏ, bèn kiêm nhiếp cả tả phụ chính mà chuyên quyền nước, cho họ Nguyễn ra Thuận Hóa, gọi là Quảng Nam vương. Họ Nguyễn, họ Trịnh thành kẻ thế cừu liên tục giao tranh với nhau. Kịp đến đời Lê Duy Đoan (tức vua Lê Hiển Tông), thực quyền càng thêm kém, chỉ giống như ngồi giữ vương phủ mà thôi. Phụ chính Trịnh Đống (tức là Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm) bèn giết Thế tử, giữ kim ấn, mưu soán quốc, nhưng còn ngại Quảng Nam binh mạnh, mới dụ những thổ hào đất ấy là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, cùng đánh Quảng Nam vương, diệt họ Nguyễn ở Phú Xuân. Nguyễn Huệ bèn tự làm Thái Đức vương (chỗ này Thanh sử cảo chép sai, vì Nguyễn Nhạc mới là người xưng làm Thái Đức Hoàng đế, không phải Nguyễn Huệ), Trịnh Đống tự làm Trịnh Tĩnh vương, hai bên không chịu kém nhau, Duy Đoan không thể làm thế nào được.
Kinh đô của An Nam gọi là Đông Kinh, tức đất Giao Châu, trị sở đô hộ ở An Nam của nhà Đường xưa, mà lấy hai đạo Quảng Nam, Thuận Hóa làm Tây Kinh - tức là đất Nhật Nam, Cửu Chân xưa, nơi Lê Duy Đàm khởi binh - với Đông Kinh giữa còn cách một cửa biển, nối đời là cứ địa của họ Nguyễn ở Quảng Nam, binh mạnh hơn An Nam. Đến bấy giờ, Trịnh Đống chết, Nguyễn Huệ thấy họ Trịnh chuyên quyền nước, lòng người không theo, bèn lấy danh nghĩa là diệt họ Trịnh, công phá kinh thành nhà Lê, đánh diệt con của Trịnh Đống là Trịnh Tông (tức là Đoan Nam vương Trịnh Khải), họ Nguyễn lại chuyên quyền nước. Duy Đoan thưởng công cho đất hai quận, lại đem con gái gả cho.
Minh họa quân Tây Sơn bắn hỏa hổ, ảnh của Ấm Chè
Minh họa quân Tây Sơn bắn hỏa hổ, ảnh của Ấm Chè
Năm Càn Long thứ 52 (1787), Duy Đoan chết, Tự tôn là Duy Kỳ lập (tức là vua Lê Chiêu Thống), Nguyễn Huệ cho voi chở hết đồ trân bảo vào Quảng Nam, sai bề tôi của họ Trịnh là Cống Chỉnh (tức Nguyễn Hữu Chỉnh) lưu lại trấn giữ đô thành. Cống Chỉnh nghĩ muốn giúp Lê chống Nguyễn, bèn lấy vương mệnh đem quân đoạt lại 50 thớt voi, trong khi Nguyễn Nhạc ở Quảng Nam cũng muốn đoạt lấy những khí giới xe cộ của Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ về, sửa thành trì ở Phú Xuân, sai tướng của mình là Nguyễn Nhậm (tức Vũ Văn Nhậm) đem mấy vạn quân ra đánh Cống Chỉnh ở quốc đô. Chỉnh chiến tử, Duy Kỳ đào vong, Nguyễn Nhậm bèn chiếm cứ Đông Kinh, canh giữ những nơi hiểm yếu bốn phía, có chí muốn tự làm vương.
Năm Càn Long thứ 53 (1788), mùa hạ, Nguyễn Huệ lại đem binh ra giết Nguyễn Nhậm ở Đông Kinh, mà mời Duy Kỳ về phục vị. Duy Kỳ biết là khó mà lường, không dám ra. Huệ biết lòng dân không theo, phá hủy hết vương cung, đem các con trai, con gái cùng ngọc lụa xuống thuyền chở vào Phú Xuân, lưu lại ba ngàn quân giữ Đông Kinh. Có Phủ đốc Cao Bằng là Nguyễn Huy Túc, bảo vệ mẹ, vợ và tôn tộc của Duy Kỳ hai trăm người từ Cao Bằng lên thuyền trốn đi xa đến Khê Hà ở Bác Nẫm, là biên giới Long Châu, phủ Thái Bình, Quảng Tây, liều chết vượt sông sang bờ bắc, những người không kịp vượt sông, đều bị quân truy đuổi giết chết. Lưỡng Quảng Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, Quảng Tây Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh trước sau tấu báo về triều, lại nói: “Phá, giữ, cho, đoạt, xin theo mệnh vua.” Hoàng đế thấy họ Lê giữ phiên phụng cống đã hơn trăm năm, nên xuất quân hỏi tội, để hưng diệt kế tuyệt. Trước tiên bố trí cho gia quyến ở Nam Ninh, sai bồi thần của Duy Kỳ là Lê Hồi, Nguyễn Đình Mai về nước, mật báo cho Tự tôn biết [...]
Hoàng đế mệnh cho Tôn Sĩ Nghị đưa hịch đến các lộ ở An Nam, nêu cho biết điều thuận nghịch, để sớm quay về chính nghĩa. Bấy giờ, em Duy Kỳ là Duy Lưu, Duy Chỉ, đều chạy đi lánh nạn ở ngoài. Duy Lưu chết ở thành Tuyên Quang, Duy Chỉ từ Ba Bồng xưởng ở Kinh Bắc đến hàng. Tôn Sĩ Nghị thấy Duy Chỉ có tài năng khí độ, muốn cho tạm giữ việc nước. Hoàng đế sợ anh em Duy Kỳ ngày sau có điều hiềm nghi, không cho, bèn sai Sầm Nghi Đống ở châu Thổ Điền hộ tống Duy Chỉ ra hiệu triệu nghĩa binh. Gặp khi bọn Nguyễn Đình Mai thấy phục thư của Tự tôn đến nơi, xin được chuyển tấu. Vì vậy thổ ty ở nước An Nam cùng quan binh các châu chưa bị hãm đều tranh nhau trói ngụy đảng, dâng địa đồ, mà nghĩa dũng các xưởng ngoài cửa quan cũng đều xin lương ăn rèn luyện, xin làm hướng đạo. Bấy giờ anh em Nguyễn Huệ cũng đến cửa quan xin cống, đem biểu của thần dân trong nước đến, nói Lê Duy Kỳ không biết còn sống hay đã chết, xin lập con của cố vương Duy Đoan là “ông hoàng tư Duy Cẩn” làm chủ việc nước, và nghênh mẫu phi về nước. Hoàng đế biết Nguyễn Huệ khinh Duy Cẩn ngu muội nhu nhược dễ sai khiến, nên dùng kế gian thảo để hoãn quân, bèn mệnh cho Tôn Sĩ Nghị nghiêm lệnh gạt đi.
Binh tiến sang An Nam theo ba đường: Một đạo, đi ra Trấn Nam quan, Quảng Tây, là đường chính; Một đạo, từ Khâm Châu, Quảng Đông đi đường biển, qua núi Ô Lôi đến phủ Hải Đông, An Nam là đường đi thuyền từ thời Đường trước; Một đạo từ bãi Liên Hoa, huyện Mông Tự, Vân Nam theo đường bộ đến Thao Giang, An Nam, là đường mà Mộc Thạnh đời Minh dẫn quân đi vậy. Tôn Sĩ Nghị và Đề đốc Hứa Thế Thanh đem một vạn quân từ Lưỡng Quảng ra khỏi cửa quan, lấy tám ngàn quân đánh thảnh đến kinh sư của quốc vương, còn hai ngàn quân đóng lại Lạng Sơn làm thanh viện. Vân Nam Đề đốc Ô Đại Kinh đem tám ngàn quân theo đường cửa ải Mã Bạch phủ Khai Hóa, vượt sông Đổ Chú, vào địa giới Giao Chỉ một ngàn một trăm dặm đến trấn Tuyên Hóa, gần hơn một chút so với đường cũ của Mộc Thạnh. Vân Quý Đề đốc Phú Cương xin đi, Hoàng đế cho rằng một đạo quân không thể có hai tướng, sai đóng ở Đô Long ở ngoài ải để đôn đốc việc vận lương.
Cuối tháng Mười, quân Lưỡng Quảng ra khỏi Trấn Nam quan. Triều đình có chiếu rằng, An Nam sau cơn loạn lạc, mệt nhọc không thể kham cung đốn được, lương ăn sẽ vận chuyển từ hai lộ Điền, Việt, lập đài trạm hơn bảy mươi chỗ, nhưng nơi đi qua quân không được xâm phạm mảy may gì. Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Thanh từ Lạng Sơn thì chia đường mà tiến, Tổng binh Thượng Duy Thăng, Phó tướng Khánh Thành coi quân Quảng Tây, Tổng binh Trương Triều Long, Lý Hóa Long coi quân Quảng Đông. Bấy giờ thổ binh, nghĩa dũng đều đi theo, nói phao lên rằng đại quân có mấy chục vạn người, các quân canh ải đều nghe tiếng mà trốn chạy, chỉ còn chặn nơi hiểm yếu ở Tam Giang để chống cự. Ngày 13, tháng Mười một, Thượng Duy Thăng, Khánh Thành đem hơn ngàn quân, canh năm đến sông Thọ Xương. Quân An Nam lui giữ bờ nam, quân ta thừa thế tiến sang, cầu phao đứt, bèn cùng lên bè vượt sang. Khi ấy trời sương mù dày đặc, quân địch tự đánh giết lẫn nhau, quân ta bèn sang sông hết, đại phá được. Trương Triều Long cũng phá được quân địch ở Trụ Thạch. Ngày 15, tiến binh đến sông Thị Cầu. Sông rộng, vả bờ nam tựa vào núi, cao hơn bờ bắc, quân địch chiếm cứ nơi hiểm yếu bầy pháo, quân ta không thể kết bè được. Các quân thấy thế sông uốn khúc, quân địch không thể trông xa được, bèn làm ra vẻ chuyển tre gỗ làm cầu phao, cho chúng thấy tất sẽ vượt sông, nhưng lại ngầm cho hơn hai ngàn quân lên thượng du cách hai mươi dặm nhân chỗ giãn binh dùng thuyền nhỏ đang đêm vượt qua sông. Ngày 17, đi bè sang áp sát bờ bên cùng cầm cự. Đúng khi ấy, quân trên thượng du đã đi vòng ra tới sau lưng địch, nhân trên cao hò hét đánh xuống, âm thanh vang động cả khe núi. Địch không biết quân triều đình từ đâu giáng xuống, đều kinh hãi tan vỡ.
Ngày 19, áp sát sông Phú Lương. Sông ở ngoài cửa kinh thành, quân địch chặt hết tre gỗ ven sông, dồn thuyền sang bờ đối diện. Nhưng từ xa trông thấy thế trận địch không chỉnh tề, có thể biết là chúng không vững chí, bèn tìm lấy những thuyền nhỏ ở xa, chở hơn trăm quân, đang đêm ra sông, lại đoạt được hơn ba chục thuyền nhỏ, luân phiên đưa hai ngàn quân qua, chia nhau tiến đánh doanh trại địch. Quân địch đang đêm tối, không biết là quân ta đông hay ít, bèn tan vỡ. Quân ta đốt hơn chục thuyền của chúng, bắt được Tổng binh, hầu, bá mấy chục người. Đến sáng sớm, đại quân đều qua sông cả. Tôn tộc họ Lê cùng bách tính ra nghênh đón, quỳ phục bên trái đường, Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Thanh vào thành tuyên dụ ủy lạo rồi ra. Thành có lũy đất vây quanh, cao không tới vài thước, trên trồng tre bụi, phía trong có hai lớp thành xây gach, tức là nơi quốc vương ở, cung thất đều đã bị phá sạch rồi. Lê Duy Kỳ ẩn nấp nơi dân thôn, canh hai đêm ấy mới ra, đến quân doanh gặp Tôn Sĩ Nghị, lạy chín lạy mà tạ ơn. Tin thắng trận báo về triều [...] Tôn Sĩ Nghị bèn chọn ngày 22, tuyên dụ sách phong cho Lê Duy Kỳ làm An Nam quốc vương, và chạy ngựa báo cho Tôn Vĩnh Thanh đưa gia quyến Duy Kỳ về nước. Duy Kỳ dâng biểu tạ ơn, xin đến năm Càn Long thứ 55 thì sang kinh đô, chúc mừng lễ bát tuần vạn thọ của Hoàng đế. Hoàng đế mệnh cho đợi đến khi An Nam hoàn toàn bình định, Duy Kỳ có thể tự lập, thì bằng lòng cho sang chầu [...]
Bấy giờ, Nguyễn Huệ đã lánh về Phú Xuân, Tôn Sĩ Nghị mưu tính đóng thuyền truy thảo, Tôn Vĩnh Thanh tâu rằng: “Quảng Nam còn cách đô kỳ họ Lê đến hai ngàn dặm, dùng một vạn quân, đặt trạm lương phải dùng mười vạn phu dịch, bằng từ Trấn Nam quan đến đô thành họ Lê.” Hoàng đế thấy An Nam bị tàn phá rỗng không, vả họ Lê mấy đời suy yếu, việc hưng phế chưa hẳn không phải là vận số vậy. Đã đường xa, lương khó, không có lí gì mà lại để quân ở bên ngoài lâu ngày mà lùng bắt thay cho họ Lê được, bèn xuống chiếu lập tức lui binh ra khỏi quan ải. Nhưng Tôn Sĩ Nghị vẫn tham bắt sống Nguyễn Huệ lập công, không lập tức rút quân về, lại khinh địch, không phòng bị, sai giải tán những nghĩa dũng, thổ quân, đóng quân ở kinh thành họ Lê hơn một tháng. Họ Nguyễn do thám rõ hư thực, cuối năm dốc hết toàn quân ra tập kích quốc đô, nói dối là ra hàng. Bọn Sĩ Nghị tin lời dối trá, thản nhiên không hay biết gì.
Tượng binh Tây Sơn với pháo gắn trên bành, ảnh của Ấm Chè
Tượng binh Tây Sơn với pháo gắn trên bành, ảnh của Ấm Chè
Năm Càn Long thứ 54 (1789), mồng một tháng Giêng, trong quân bày rượu tấu nhạc, đang đêm bỗng có tin báo quân Nguyễn Huệ đã đến nơi, mới hốt hoảng chống cự. Quân địch dùng voi chở đại pháo xung phá quân ta, quân ít không địch nổi số đông, trong đêm đen tự dẫm đạp lên nhau mà chạy. Lê Duy Kỳ đã đem theo gia quyến chạy trước, quân Vân Nam nghe tiếng pháo cũng rút chạy. Tôn Sĩ Nghị đoạt đường vượt sông Phú Lương, rồi lập tức chặt cầu phao để đoạn hậu, vì vậy những quân còn lại trên bờ, Đề đốc Hứa Thế Thanh, Tổng binh Trương Triều Long, cùng quan quân phu dịch hơn vạn người, đều chen nhau chết đuối cả. Bấy giờ Sĩ Nghị chạy về Trấn Nam quan, đốt bỏ hết những lương thảo khí giới ở ngoài ải đến mấy chục vạn, quân mã quay về được không tới một nửa. Còn quân Vân Nam, nhờ có bề tôi họ Lê là Hoàng Văn Thông hướng đạo, nên được toàn quân trở về. Mẹ con Lê Duy Kỳ lại chạy sang nương nhờ. Tấu dâng lên, Hoàng đế thấy Tôn Sĩ Nghị không sớm lui quân, mà lại trễ nải không phòng bị, khiến làm mất uy nước, tổn tướng sĩ, bèn lột chức đưa về kinh đợi tội, mà lấy Phúc Khang An thay chức ấy.
Nguyễn Huệ tự biết rằng chuốc họa, sợ quân triều đình trở lại thảo phạt, lại vừa đánh nhau với Xiêm La, sợ Xiêm La sẽ thừa cơ đánh sau lưng mình, vì vậy bèn gõ cửa quan tạ tội xin hàng, đổi tên là Nguyễn Quang Bình, sai con trai của anh mình là Quang Hiển mang biểu sang cống, khẩn xin phong hiệu. Đại lược nói, mình giữ Quảng Nam đã chín đời, với An Nam là địch quốc chứ không phải quân thần. Vả chăng chỉ mà Man Xúc tranh nhau (ý nói hai nước nhỏ nhoi không đáng kể tranh giành lẫn nhau), chứ chẳng dám chống lại Trung quốc, xin năm sau sẽ đích thân đến kinh sư yết kiến, và ở trong nước sẽ đắp đàn, dựng miếu cho các tướng sĩ chết trận, xin ban cho quan hàm và thụy hiệu, để lập thần chủ phụng thờ. Lại nghe cống sứ của Xiêm La sắp vào kinh, sợ rằng thiên triều sẽ nghe theo những điều giá họa gây tội của họ, xin thiên triều chớ nghe lời ấy. Phúc Khang An đều trước sau tâu báo về triều.
Hoàng đế thấy Duy Kỳ lại lẫn nữa bỏ nước, mà chẳng thể giữ được sách phong và ấn, thì ấy là trời chán ghét họ Lê, chẳng thể tự còn được nữa. Mà Nguyễn Quang Bình thì đã xin đích thân sang yết kiến, chẳng phải như họ Mạc, họ Lê trước đây chỉ đem cống người vàng thế thân mà thôi. Vả, An Nam từ cuối đời Ngũ Đại tới đây, các họ Khúc, Kiểu, Ngô, Đinh, Lý, Trần Lê, Mạc thôn tính lẫn nhau, đời trước từng đặt đất đó làm quận huyện, nhưng phản trắc vô thường, khiến phải luôn lo nghĩ đến phương nam. Vì vậy bèn ưng theo lời xin, lập tức phong cho Nguyễn Quang Bình làm An Nam quốc vương [...]
Còn Lê Duy Kỳ thì thưởng hàm tam phẩm, sai cùng thuộc hạ các nhà đến kinh sư, quy thuộc vào Hán quân kỳ, và lấy Duy Kỳ làm Tá lĩnh. Lại lệnh cho Nguyễn Quang Bình hỏi tìm những thân thuộc của Duy Kỳ, hộ tống đến cửa quan.
Năm Càn Long thứ 55 (1790), Nguyễn Quang Bình sang chầu chúc phúc, xin phong cho con trưởng Nguyễn Quang Toản làm Thế tử. Tháng Bảy, Quang Bình vào yết kiến ở Nhiệt Hà sơn trang, ban thứ ở dưới hàng thân vương, mà ở trên quận vương, được tặng thơ ngự chế, nhận mũ đai rồi về. Kỳ thực là Quang Bình sai em mình mạo danh mà đến, chứ Quang Bình chưa dám đích thân đến vậy, có thể thấy dối trá đến như thế!
Năm Càn Long thứ 56 (1791), Quang Bình đánh bại Lê Duy Chỉ cùng quân nước Vạn Tượng, sang báo tiệp, Hoàng đế ban thưởng cho.
Năm Càn Long thứ 57 (1792) [...] Tháng Chín, Nguyễn Quang Bình bị bệnh chết ở Nghệ An, Thế tử Nguyễn Quang Toản tạm nắm quyền việc nước, cho báo tang sang.
Quang Trung Hoàng đế mặc triều phục, ảnh của Ấm Chè
Quang Trung Hoàng đế mặc triều phục, ảnh của Ấm Chè
Năm Càn Long thứ 58 (1793), tháng Giêng, sai Quảng Tây án sát sứ Thành Lâm sang dụ tế, tặng thụy cho Quang Bình là Trung Thuần, lại ban tặng cho thơ ngự chế, khắc bia dựng trên mộ để khen ngợi lòng cung thuận. Phong cho Quang Toản làm An Nam quốc vương.
Gia Khánh nguyên niên (1796), Phúc Châu tướng quân Khôi Luân, Lưỡng Quảng Tổng đốc Cát Khánh trước sau tâu bắt được bọn cướp biển Tàu Ô, có Tổng binh An Nam cùng sắc mệnh phong tước và ấn tín [...] Cha con Nguyễn Quang Bình sau khi đem quân soán quốc rồi, quốc dụng hư hao, thương thuyền không đến, bèn sai hơn trăm thuyền Tàu Ô, cùng mười hai Tổng binh, giả là thu gom quân lương, phần lớn chiêu dụ những kẻ vong mệnh ven biển Trung quốc, đem quan tước ra dụ, lại cấp cho thuyền và khí giới, sai dẫn đường vào cướp các tỉnh Mân, Việt, Giang, Triết.
Năm Gia Khánh thứ 2 (1797), Tổng đốc Lưỡng Quảng tâu rằng, An Nam quốc vương Nguyễn Quang Toản ủy nhiệm bọn võ quan Đinh Công Tuyết, dẫn binh thuyền, đem bọn tội phạm cướp bể bắt được là Hoàng Trụ, Trần Nhạc hơn sáu mươi tên, giải đưa sang nội địa. Hoàng đế giáng sắc khen ngợi, và đem các thứ đồ vải sa, gấm mãng, ngọc sơn, gậy như ý, đặc biệt thưởng cho.
Trước kia, Nguyễn Quang Bình đã đánh diệt Quảng Nam vương Nguyễn mỗ, Nguyễn mỗ là con rể vua Lê, vợ là Lê thị đã có mang, trốn chạy đến Nông Nại. Nông Nại là cựu đô của Thủy Chân Lạp, tức tỉnh Gia Định, nay là Tây Cống vậy. Lê thị sinh con trai, là Nguyễn Phúc Ánh, vốn tên là Chủng, lẩn trốn trong dân gian.
Chỗ này Thanh sử cảo chép sai, mẹ của Nguyễn Phúc Ánh không phải họ Lê, mà là Nguyễn Thị Hoàn, con gái Diễn Quốc công Nguyễn Phúc Trung.
Kịp khi lớn lên, Chủng bèn chạy sang Xiêm La. Vua Xiêm La vốn có thù trước với Nguyễn Quang Bình, bèn đem em gái gả cho Phúc Ánh, rồi giúp binh, đánh chiếm lấy đất Nông Nại, đóng làm căn cứ, thế lực dần lớn mạnh, xưng là họ “Nguyễn cũ”, mà gọi là cha con Nguyễn Quang Bình là “Nguyễn mới”, cũng gọi là “Tây Nguyễn” (tức là Nguyễn Tây Sơn). Họ Nguyễn lấy cớ phục thù, đoạt lại cựu đô Phú Xuân. Bấy giờ là năm Gia Khánh thứ 4 (1799).
Năm Gia Khánh thứ 6 (1801), tháng Mười một, Ngụy tổng binh An Nam là Trần Thiên Bảo đem gia quyến chạy sang xin theo, triều đình mới biết việc giao tranh binh biến giữa An Nam với Nông Nại.
Năm Gia Khánh thứ 7 (1802), tháng Tám, Nông Nại đánh thành Thăng Long, Nguyễn Quang Toản thua chạy bị bắt. Nguyễn Phúc Ánh trói bọn Mạc Quan Phù ba tên đưa đến Quảng Đông, đồng thời dâng phong sách và kim ấn thu được của Nguyễn Quang Toản khi đánh hạ thành Phú Xuân, và dâng biểu xin quy phụ theo. Bọn Mạc Quan Phù đều là tội phạm trộm cướp của Trung quốc, được An Nam chiêu dụ mà chạy đến theo, phong làm Đông Hải vương cùng ngụy chức Tổng binh [...] Tháng Mười hai, Nguyễn Phúc Ánh thu được An Nam, sai sứ sang cống trình bày rõ trước sau việc giao tranh, là để phục thù cho họ Lê đời trước, lại nói nước mình vốn là đất Việt Thường khi xưa, nay đã kiêm tính toàn bộ An Nam, không quên nối đời gìn giữ. Xin lấy “Nam Việt” đặt tên nước. Hoàng đế dụ rằng, tên “Nam Việt” bao hàm rộng quá, đất Lưỡng Quảng ngày nay cũng đều nằm trong đó. Nguyễn Phúc Ánh có được toàn bộ An Nam, cũng chẳng qua chỉ là đất Giao Chỉ xưa mà thôi, không được lấy tên nước là “Nam Việt”.
Năm Gia Khánh thứ 8 (1803), bèn đổi An Nam làm nước Việt Nam. Tháng Sáu, sai Quảng Tây án sát sứ Tề Bố Sâm sang phong cho Nguyễn Phúc Ánh làm Việt Nam quốc vương. Trở nên, từ khi Nguyễn Quang Bình soán họ Lê phàm mười chín năm, lại bị diệt bởi Nguyễn Phúc Ánh, từ đó về sau kẻ lo việc chức cống lại là con cháu họ Nguyễn cũ vậy.
Một số binh chủng trong quân chúa Nguyễn Phúc Ánh, ảnh của Ấm Chè
Một số binh chủng trong quân chúa Nguyễn Phúc Ánh, ảnh của Ấm Chè
Năm Hàm Phong thứ 8 (1858), Pháp Lan Tây đoạt đất Tây Cống của Việt Nam. 
Đồng Trị nguyên niên (1862), Vua Nã Phá Luân đệ tam của Pháp đưa hải quân rầm rộ đến chinh phạt Việt Nam, đoạt cảng Trà Lân, đòi cắt cho ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, mở ba cửa khẩu thông thương, bồi thường 2 triệu quan, thì sẽ giảng hòa. 
Năm Đồng Trị thứ 6 (1867), mùa đông, hai phủ Thái Bình, Trấn An ở Quảng Tây thổ phỉ nổi lên như ong, quan quân đánh dẹp, chúng bị thua, chạy trốn sang Việt Nam
Năm Đồng Trị thứ 7 (1868), quốc vương hỏi nhờ Quảng Tây Tuần phủ Tô Phượng Văn, giúp tâu xin triều đình cho viện binh sang tiễu trừ, Hoàng đế sai Đề đốc Phùng Tử Tài đem quân ba mươi doanh sang chinh thảo.
Năm Đồng Trị thứ 8 (1869) Ngày hai mươi mốt tháng Bảy, quân Trung Hoa theo Trấn Nam quan tiến sang. Tháng Tám, thủ lĩnh giặc là Ngô Côn cùng đánh nhau ở Bắc Ninh, trúng đạn súng bị thương, chết. Các quân giặc khác đều sợ hãi, đại quân đến nơi, bèn xin hàng. Mùa đông, thủ lĩnh giặc là Lương Thiên Tích chạy sang phía tây, đến Tuyên Quang, đến theo đầu sỏ giặc là Hoàng Sùng Anh ở Hà Dương. Năm ấy, người Pháp lại cắt lấy ba tỉnh An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long của Việt Nam, từ đó sáu tỉnh phía dưới của Giao Chỉ đều thuộc cả người Pháp.
Năm Đồng Trị thứ 9 (1870), đầu sỏ giặc Lưu Vĩnh Phúc ở Bảo Thắng, tỉnh Hưng Hóa, đầu sỏ giặc Đặng Chí Hùng ở Tô Nhai, tỉnh Thái Nguyên đều đến xin hàng. Mùa hạ, tháng Tư, Hoàng Sùng Anh trốn đến địa phận Bạch Miêu, châu Bảo Lạc, Đề đốc Phùng Tử Tài rút quân về. Tháng Bảy, quân đến Long Châu, mà Hoàng Sùng Anh lại ra chiếm cứ Hà Dương; Lưu Vĩnh Phúc lại chiếm cứ Bảo Thắng, Hưng Hóa; Đặng Chí Hùng lại chiếm cứ Tô Nhai, Thái Nguyên. Tháng Mười, hàng tặc Tô Quốc Hán nhân đang đêm đánh úp hãm thành tỉnh Lạng Sơn. Bắc kỳ Tổng thống lĩnh Đoàn Thọ chết. Bấy giờ Quảng Tây hậu bổ đạo Từ Diên Húc nhân có việc đến phố Khu Lư ngoài thành Lạng Sơn, điều binh giúp Việt Nam công thành, nhưng không hạ được. Tháng Mười một, thủ lĩnh giặc là bọn Nguyễn Tứ, Lục Chi Bình, Trương Thập Nhất lại chiếm cứ tỉnh Cao Bằng. Vua Việt lại khẩn cầu triều đình xuất binh. Hoàng đế sai Phùng Tử Tài lại đốc quân ra cửa quan.
Năm Đồng Trị thứ 10 (1870), mùa hạ, Phùng Tử Tài đến Long Châu. Ngày hai mươi mốt tháng Tư, Tổng binh Lưu Ngọc Thành đốc các tướng xuất quan đến Bắc Ninh. Tháng Chín, Khâm Châu tri châu Trần mỗ dụ bắt được Tô Quốc Hán, giải đến chỗ Lưỡng Quảng Tổng đốc Thụy Linh, đem giết. Con của y là Tô Á Đặng trốn ra ngoài biển, chiếm cứ Cẩu Đầu Sơn.
Năm Đồng Trị thứ 12 (1873), quân Trung Hoa sắp rút, người Pháp đột nhiên đưa binh thuyền đến tỉnh Hà Nội [...] Người Pháp bèn chiêu tập những quân tản dũng của Trung quốc và những kẻ bất mãn ở biên cảnh Vân Nam tiến đánh các tỉnh Việt Nam. Các bề tôi trấn thủ của Việt nam đa phần đều hàng cả. Đến tỉnh Thái Nguyên, quan trấn thủ vời Lưu Vĩnh Phúc giúp sức. Quân Pháp đến, Vĩnh Phúc đặt phục binh đánh bại, bắt được tướng Pháp là An Nghiệp (tức là Francis Garnier). Quân Pháp thua, lui về tỉnh Hà Nội, cùng hòa với quốc vương. Vương sai bề tôi là Nguyễn Văn Tường cùng nghị, người Pháp bèn lập dinh ở Hà Nội và đặt trạm thuế quan ở cửa biển Bạch Đằng để thu thuế [...] Vĩnh Phúc hàng, Việt Nam vương trao cho giữ chức Đề đốc ba tỉnh, còn Hoàng Sùng Anh vẫn chiếm cứ Hà Dương làm giặc cướp như cũ.
Năm Đồng Trị thứ 13 (1874), Lưu Trường Hựu sai Lưu Ngọc Thành đem mười doanh tả quân, Đạo viên Triệu Ốc đem mười doanh hữu quân, từ phủ Trấn An ra khỏi cửa quan đánh dẹp Hoàng Sùng Anh. Năm ấy, người Pháp ép buộc Việt Nam vương phải công nhận Thiên Chúa giáo, và cho tự do đi lại trên sông Hồng. Rồi Pháp lại lấy danh nghĩa là bảo vệ thương mại, sai quân đến đóng giữ các nơi Hà Nội, Hải Phòng, và xin khai thác các mỏ ở thượng lưu sông Hồng.
Năm Quang Tự thứ 8 (1882), tháng Hai, người Pháp đưa binh hạm từ Tây Cống chạy ra Hải Dương, mưu chiếm Đông Kinh. Tổng đốc Trực Lệ là Trương Thụ Thanh tâu lên, Hoàng đế dụ Tổng đốc Vân Nam tùy cơ mà ứng phó. Tháng Ba, cho Tăng Quốc Thuyên làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Pháp đánh Đông Kinh, phá được. Trương Thụ Thành tâu triều đình lệnh cho quân trú phòng ở các tỉnh Điền, Việt nghiêm giữ ngoài thành, lấy danh nghĩa là tiễu trừ thổ phỉ, để nhân đà tiến binh, và lệnh cho binh hạm ở Quảng Đông ra khơi làm thanh viện từ xa. Tháng Năm, Tổng đốc Vân Nam Lưu Trường Hựu sai Đạo viên Thẩm Thọ Dung đem quân xuất cảnh, liên lạc làm thanh thế với quan quân Quảng Tây, cùng bảo hộ Việt Nam [...]
Lưu Vĩnh Phúc vốn là người châu Thượng Ân, Quảng Tây. Niên hiệu Hàm Phong, Quảng Tây loạn, Vĩnh Phúc đem ba trăm người ra khỏi Trấn Nam quan. Khi ấy, người tỉnh Việt là Hà Quân Xương chiếm cứ Bảo Thắng. Vĩnh Phúc bèn đuổi đi mà chiếm lấy Bảo Thắng, bộ quân của Vĩnh Phúc đều dùng màu đen, nên gọi là “quân Cờ Đen”. Sau khi Vĩnh Phúc lập công, Việt Nam bèn trao cho giữ chức Đề đốc ba tỉnh, thường luôn tự chuẩn bị lương thực khí giới tiễu phỉ, nhưng Hoàng Tá Viêm đều giấu kín, không báo tin lên triều đình. Các đại thần Việt Nam cũng đa phần nghi kỵ nên Vĩnh Phúc rất oán giận Tá Viêm [...] Khi Việt Nam nạn đã sâu, quốc vương Nguyễn Phúc Thì phẫn uất quyết chiến, trách lệnh Tá Viêm đốc Vĩnh Phúc ra quân, nhưng sáu lần điều động đều không đến. Vì quân Pháp sợ Vĩnh Phúc, nên quốc vương mới trước sau ủy nhiệm như vậy.
Trước đây, Lưu Trường Hựu sai Phiên ty Đường Quýnh đem bộ quân cũ ra đóng ở Bảo Thắng, Tăng Quốc Thuyên đến Quảng Đông, sai Đề đốc Hoàng Đắc Thắng thống lĩnh quân đội phòng giữ Khâm Châu, Đề đốc Ngô Toàn Mỹ đem tám tàu thủy quân phòng giữ Bắc Hải, Quảng Tây Phòng quân Đề đốc Hoàng Quế Lan, Đạo viên Triệu Ốc nối nhau ra ải, chính là nói “ba tỉnh hợp quân cùng lo việc Bắc Kỳ” vậy. Khi ấy, người Pháp muốn Trung quốc cùng hội bàn về việc ở Việt Nam, triều đình dụ hai tỉnh Điền, Việt trù hoạch để chuẩn bị nghị bàn. Công sứ của Pháp là Bảo Hải đến Thiên Tân, triều đình sai Bắc Dương đại thần (tức là Lý Hồng Chương) cùng họp bàn về việc phân chia biên giới với Việt Nam. Lại bộ chủ sự Đường Cảnh Tung tự xin đến Việt Nam chiêu phủ Lưu Vĩnh Phúc, Hoàng đế mệnh cho đến Vân Nam, nghe theo sai khiến của Sầm Dục Anh.
Lính bắn súng điểu thương nhà Nguyễn, ảnh của Ấm Chè
Lính bắn súng điểu thương nhà Nguyễn, ảnh của Ấm Chè
Năm Quang Tự thứ 9 (1883), Cảnh Tung bèn mượn đường Việt Nam vào Vân Nam, trước tiên đến Quảng Đông gặp Tăng Quốc Thuyên, Quốc Thuyên cũng cho cách của Cảnh Tung là phải, mà tư trợ cho sang Việt Nam. Cảnh Tung gặp Vĩnh Phúc, trình bày ba sách lược, rằng: “Việt bị Pháp bức, chỉ mất trong sớm tối, thực là nên nhân đất Bảo Thắng mà truyền hịch để ổn định các tỉnh, rồi thỉnh mệnh Trung quốc, mượn lấy danh nghĩa, việc thành thì làm vua, ấy là thượng sách vậy. Thứ, thì đem toàn quân đánh Hà Nội, đuổi người Pháp đi, Trung quốc tất trợ giúp lương thảo, đó là trung sách vậy. Còn như ngồi không mà giữ Bảo Thắng, đến khi việc bại mới chạy sang theo Trung quốc, thì đó là hạ sách vậy.” Vĩnh Phúc nói: “Tôi sức mỏng không làm nổi theo thượng sách, trung sách sẽ cố gắng làm vậy.” 
Tháng Ba, quân Pháp phá thành Nam Định. Hoàng đế dụ cho Quảng Tây Bố chính sứ Từ Diên Húc ra ải hội thương, Hoàng Quế Lan, Triệu Ốc chuẩn bị phòng ngự, Lý Hồng Chương đang có việc tang, cũng phải dứt tình quay về nhậm chức Bắc Dương đại thần. Hồng Chương khẩn khoản từ chối. Đến đây, sai Hồng Chương đến Quảng Đông đôn đốc xử trí các việc ở Việt Nam, quân trú phòng ba tỉnh Việt, Điền, Quế đều chịu sự tiết chế. Hồng Chương tâu rằng nên đến Thượng Hải để tính toán toàn cục. Công sứ Pháp là Bảo Hải ở Thiên Tân nghị ước đã lâu chưa thống nhất được, được điều về nước, lấy Tham tán Tạ Mãn Lộc (tức Robert Semallé) thay xử lý. 
Lưu Vĩnh Phúc và người Pháp đánh nhau ở Cầu Giấy, Hà Nội, đại phá được quân Pháp, chém tướng Pháp là Lý Thành Lợi (tức Henri Rivière) tại trận. Việt Nam vương phong cho Lưu Vĩnh Phúc tước nam, nhất đẳng. Từ Diên Húc tâu xin lưu doanh trú phòng của Đường Cảnh Tung để giúp dùng, đồng thời tâu trình chiến tích của Vĩnh Phúc. Hoàng đế giục Lý Hồng Chương quay lại nhậm chức Bắc Dương đại thần, đồng thời hỏi về tình hình Công sứ Pháp là Thoát Lợi Cổ (tức Arthur Tricou) đến Thượng Hải, sai Hồng Chương định ngày hội nghị. Thoát Lợi Cổ hỏi Hồng Chương: “Có phải giúp Việt Nam không?” Hồng Chương vẫn lấy cớ tiễu phỉ và phòng biên để nói, nhưng quân Pháp đã chuyển đánh vào quốc đô Thuận Hóa, ép Việt Nam nghị ước. Hồng Chương cùng Công sứ mới của Pháp vẫn không thỏa thuận được nghị ước, quân Pháp tuyên bố sẽ đánh Quảng Đông. Quảng Đông giới nghiêm. Tổng thự gửi thư cho Công sứ Pháp, nói: “Việt Nam từ lâu đã là phiên phong, trải được Trung quốc đem quân tiễu phỉ, ra sức bảo hộ. Nay người Pháp xâm lăng không ngừng, há có thể coi thường vậy sao? Nếu rốt lại xâm lấn đến nơi quân chúng tôi đóng trú, thì chỉ có quyết chiến, chứ không thể ngồi nhìn.” Hoàng đế dụ bảo Từ Diên Húc sức cho Lưu Vĩnh Phúc liệu cơ thu phục Hà Nội, nếu như quân Pháp phạm vào Bắc Ninh, lập tức lệnh cho tiếp chiến. Mệnh cho Đề đốc Vân Nam tăng binh canh phòng biên giới, Đường Phủ tiến quân ra tiền tuyến chuẩn bị chiến đấu, và chu cấp lương hưởng của Vĩnh Phúc. Lại mệnh Sầm Dục Anh ra ải đốc quân.
Quân Pháp phá tỉnh Sơn Tây của Việt Nam, tình thế Quảng Đông càng cấp bách. Triều đình lấy Bành Ngọc Lân làm Khâm sai đại thần đốc quân Quảng Đông. Bành Ngọc Lân tâu rằng: “Người Pháp bức Việt Nam ký hòa ước, muốn Trung quốc không tham dự vào khu vực sông Hồng từ phía nam biên giới, và cho phép được thông thương ở huyện Mông Tự, Vân Nam, rõ ràng là có mưu đồ ở biên giới Vân Nam của ta, để hòng thu lợi từ các mỏ kim loại. Chẳng riêng khu vực biên cảnh Vân Nam, Quảng Đông không được lơ là, mà ngay cả toàn bộ Quảng Đông, Thiên Tân cũng cần nghiêm ngặt phòng bị.”
Khi ấy, Việt Nam vương Nguyễn Phúc Thì qua đời, không có con trai, lấy em họ nối ngôi. Người Pháp thừa cơ Việt Nam mới có việc tang, đưa tàu chiến đánh cửa Thuận Hóa, vào chiếm đô thành. Vua nối của Việt Nam tại vị một tháng (tức là vua Dục Đức, thực chất không phải em họ mà là cháu họ của vua Tự Đức), phụ chính Nguyễn Thuyết (tức là Tôn Thất Thuyết) tâu với Thái phi phế đi, đổi lập Nguyễn Phúc Thăng (tức vua Hiệp Hòa, nguyên có tên là Nguyễn Phúc Hồng Dật, sau khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thăng). Đến đây thì xin hàng Pháp. Lập hòa ước 27 điều (Hòa ước Quý Mùi), trong đó điều thứ nhất là nói Trung quốc không được can dự vào việc của Việt Nam, ngoài điều ấy ra chính quyền, lợi quyền đều quy vào tay người Pháp, bức quốc vương dụ chư tướng thoái binh, và quan trọng nhất là đuổi Lưu Vĩnh Phúc.
Tuần phủ Vân Nam Đường Quýnh nhiều lần giục Vĩnh Phúc thoái binh, Vĩnh Phúc muốn lui về giữ Bảo Thắng, nhưng các tướng sĩ quân Cờ Đen đều phẫn nộ. Phó tướng Hoàng Thủ Trung nói: “Ngài có thể lui về Bảo Thắng, nhưng xin đem toàn quân giao cho mạt tướng để giữ Sơn Tây. Có công thì ngài được nhận, còn nếu là tội thì cứ quy cho mạt tướng.” Vĩnh Phúc bèn không nói đến việc lui nữa [...]
Lưỡng Giang Tổng đốc Tả Tông Đường xin sức cho quan Phiên ty trước đây là Vương Đức Bảng mộ lính dõng đến biên giới Quảng Tây đóng chặn. Tháng Mười một, người Pháp phá tỉnh Hưng Yên, bắt giữ Tuần phủ, Bố chính, Án sát đem đến Hà Nội bắn chết. Lại tiến công Sơn Tây, phá được. Lưu Đoàn tan vỡ, Vĩnh Phúc lui về giữ thành Hưng Hóa. Tháng Mười hai, tự vương Nguyễn Phúc Thăng đột ngột qua đời, có người nói là vì sợ Pháp nên bị bức tự tử. Người trong nước lập con kế tử thứ ba của vua trước Nguyễn Phúc Thì lên làm vua (tức là vua Kiến Phúc). Từ Diên Húc báo Sơn Tây thất thủ, Bắc Ninh nhất định cũng không có gì hơn. Hoàng đế trách là nói quá.
Binh lính nhà Nguyễn, ảnh của Ấm Chè
Binh lính nhà Nguyễn, ảnh của Ấm Chè
Năm Quang Tự thứ 10 (1884) [...] Lưu Vĩnh Phúc đến gặp Sầm Dục Anh ở Gia Dụ quan, Dục Anh tiếp đãi rất hậu, biên chế quân của Vĩnh Phúc làm 12 doanh. Quân Pháp sắp đánh Bắc Ninh, Dục Anh sai Cảnh Tung đem toàn bộ quân của Vĩnh Phúc đến cứu viện. Quân Quảng Tây của Hoàng Quế Lan, Triệu Ốc đang giữ Bắc Ninh, nên Sơn Tây bị vây, bọn Quế Lan chỉ ngồi nhìn không ra cứu, vì vậy Vĩnh Phúc lấy làm oán hận lắm, Cảnh Tung phải ra sức hòa giải đi, Vĩnh Phúc mới đến cứu viện. Cảnh Tung khuyên Quế Lan rời thành, chọn nơi hiểm yếu mà trấn giữ, nhưng Quế Lan không nghe. Tháng Hai, quân Pháp đánh Phù Lương, Tổng binh Trần Đắc Quý xin cứu viện, quân Bắc Ninh đến, thì Phù Lương đã vỡ rồi. Quân Pháp tiến bức Bắc Ninh, Hoàng Quế Lan, Triệu Ốc thua chạy về Thái Nguyên, Lưu Vĩnh Phúc cũng ngồi nhìn không cứu [...] Sau khi Bắc Ninh bại, Từ Diên Húc lấy Đường Cảnh Tung làm Hộ quân thu thập tàn binh, nghiêm lệnh ước thúc. Khi ấy Đường Nhân Liêm tạm làm Quảng Tây Đề đốc. Quân Pháp từ Bắc Ninh tiến chiếm Hưng Hóa, lại đem tám tàu chiến đi vào vùng biển của Trung quốc, nhòm ngó Hạ Môn cùng cửa Ngô Tùng ở Thượng Hải. Các nơi ven biển đều giới nghiêm, từ đây bắt đầu hòa nghị Trung - Pháp [...]
Tháng Tám, có chỉ dụ Sầm Dục Anh đốc sức Lưu Vĩnh Phúc cùng các doanh trú phòng thu phục lại Bắc kỳ [...] Tô Nguyên Xuân đánh nhau với người Pháp ở xã Chỉ Tác, trong trận chém đầu bốn binh quan Pháp. Tháng Mười một, quân của Vương Đức Bảng đại bại ở Phong Cốc, Tô Nguyên Xuân không tới cứu viện. Quân của Đường Cảnh Tung, Lưu Vĩnh Phúc và Đình Hòe đánh Tuyên Quang, dốc sức giao chiến giành thắng lợi, triều đình đặc biệt có chiếu khen ngợi. Ngày 19 tháng Mười hai, quân Pháp đánh Cốc Tùng, Vương Đức Bảng vì trận bại ở Phong Cốc oán quân của Tô Nguyên Xuân không cứu viện, đến đây cũng không tới cứu viện. Quân Tô thua, lui về Uy Pha, Lạng Sơn cảnh giới nghiêm ngặt [...]
Năm Quang Tự thứ 11 (1885), tháng Giêng, ngày mồng chín, quân Pháp đánh Trấn Nam quan, bắn phá cửa quan rồi đi [...] Quân Pháp đánh Lưu Vĩnh Phúc ở Tuyên Quang, quân Vĩnh Phúc vỡ [...] Pháp đem hết quân Lạng Sơn đánh Trấn Nam quan. Phùng Tử Tài thề với quân sĩ rằng: “Pháp lại vào ải, thì ta còn mặt mũi nào mà gặp người Quảng Đông nữa? Tất liều chết chống đánh!” Quân sĩ ai nấy đều phẫn uất. Pháp tấn công bức tường dài mới xây, pháo bắn mãnh liệt. Tử Tài huy động các tướng thuộc quyền thống lĩnh, đứng thẳng mà tiếp chiến, kẻ nào lui lại sau tất tự tay đâm chết. Đánh đang hăng, Tử Tài tự mình phá tường dẫn hai con là Tương Vinh, Tương Hoa xông thẳng vào quân địch. Các quân thấy Tử Tài tuổi đã bảy mươi, còn hăng hái giết giặc, thì đều cảm kích phẫn nộ, một mực tử chiến. Vương Hiếu Kỳ, Trần Gia dẫn bộ tướng là bọn Phan Doanh, Trương Xuân Phát theo sau. Quân Vương Đức Bảng cũng ở bên cạnh tới nơi cùng giáp kích, giết quân Pháp nhiều không kể xiết. Đánh nhau dữ dội hai ngày, quân Pháp hết đạn, đại bại tan chạy. Tử Tài dẫn quân đánh vào Văn Uyên, quân Pháp bỏ thành chạy. Các quân từ ba lộ tấn công Lạng Sơn; Hiếu Kỳ, Đức Bảng càng ra sức đánh, thắng liền mấy trận. Ngày 13 tháng Hai, bèn hạ Lạng Sơn, Pháp đem hết quân tháo chạy. Tử Tài tiến quân hạ Lạp Mộc, bức đánh Lang Giáp. Vương Hiếu Kỳ tiến quân đến Quý Môn quan, thu lại hết những đất vùng biên từng đóng quân trước đây. Dân Việt Nam lập năm đại đoàn Trung Nghĩa, gồm hơn hai vạn người, đều dựng cờ của quân phùng, Tây Cống cũng nghe tiếng mà thông khoản liên lạc. Từ khi mở thông đường biển đến nay, Trung quốc giao chiến với nước ngoài, chỉ có chiến dịch này là đại thắng, nhờ công của Tử Tài vậy.
Quân Pháp sáu ngàn người xâm phạm phủ Lâm Thao, rồi lại chia làm hai đội: Một đội lên phía bắc đến Kha Lĩnh, An Bình; Một đội xuống phía nam, đến Miến Vượng, Mãnh La. Tổng đốc Vân Nam Sầm Dục Anh sai bọn Sầm Dục Bảo, Lý Ứng Trân chặn đường phía bắc, rồi hồi quân giáp công, chém tại trận năm tướng Pháp, quân Pháp tan vỡ.
Bấy giờ tàu chiến của Pháp chiếm cứ Bành Hồ ở Đài Loan. Sau chiến thắng lớn ở Lạng Sơn, người Pháp ra sức nhờ người Anh là Hách Đức (tức Robert Hart) đứng ra điều đình với Lý Hồng Chương để nghị hòa, nói người Pháp sẽ trao trả Cơ Long, Bành Hồ, hai bên cùng rút quân, không đòi binh phí lẫn nhau. Hồng Chương tâu rằng: “Bành Hồ đã mất, thì Đài Loan tất không thể bảo toàn được, nên mượn uy thế của chiến thắng ở Lạng Sơn, cùng ký kết hòa ước, thì Pháp không đến gây sự đòi hỏi nữa.” Triều đình theo lời bàn ấy, lập tức ra lệnh đình chiến. Trận chiến ở Lâm Thao, đã nổ ra trước khi có điện dụ đình chiến tới nơi vậy. Hồng Chương vội xin ký hòa ước, lệnh cho chư tướng cùng lui về biên giới. Tướng sĩ đều nắm tay tức giận, không chịu lui. Bành Ngọc Lân, Trương Chi Động nhiều lần đánh điện ra sức tranh biện. Hoàng đế cho rằng Hòa ước Thiên Tân đã quyết, không thể thất tín được, nghiêm dụ tuân theo thi hành. Người Pháp yêu cầu đuổi Lưu Vĩnh Phúc khỏi Việt Nam, Trương Chi Động bèn tính sai Vĩnh Phúc đóng ở hai châu Tư, Khâm. Vĩnh Phúc kiên quyết không chịu đi, Đường Cảnh Tung phải dùng lời lẽ đe dọa, cùng với chỉ dụ triều đình nghiêm khắc, Vĩnh Phúc mới miễn cưỡng quay về Quảng Đông, được trao chức Tổng binh. Phùng Tử Tài phụng mệnh đôn đốc lo liệu việc biên phòng ở hai châu Khâm, Liêm. Hòa ước đã xong, Việt Nam bèn thuộc về nước Pháp bảo hộ vậy.

KẾT

Đến đây cũng kết thúc những ghi chép về Việt Nam trong các bộ chính sử của Trung Quốc. Tất nhiên là rất dài, nhưng đây lại chỉ là một phần trong toàn bộ các ghi chép mà thôi. Mặc dù viết trên quan điểm của Trung Quốc, nên chắc chắn từ ngữ và quan điểm của sử gia Trung Quốc sẽ sai khác với quan điểm sử gia nước ta. Nhưng dù vậy, những ghi chép này vẫn đem lại những thông tin đáng giá và cho chúng ta biết được góc nhìn của Trung Quốc về các triều đình và nhân vật lịch sử của Việt Nam.