THIẾT GIÁP HẠM MỸ vs THIẾT GIÁP HẠM NHẬT BẢN: Mặt trận Thái Bình Dương 1942 -1944 (Phần 2)
Tiếp nối phần 1, nội dung phần 2 sẽ tập trung diễn biến của 2 cuộc đối đầu nổi tiếng của lực lượng thiết giáp hạm hai bên và những kết quả sau trận chiến.
GIAO CHIẾN
TRẬN CHIẾN NGOÀI KHƠI GUADALCANAL
Chiến dịch Guadalcanal bao gồm nhiều chiến dịch hải quân dài nhất trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Không nằm ngoài dự đoán, điều này bao gồm cả cuộc đụng độ đầu tiên giữa các thiết giáp hạm ở Thái Bình Dương giữa Hải quân Mỹ (USN) và Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN). Đến tháng 11 năm 1942, khi chiến dịch đang đến giai đoạn quyết định, cả người Mỹ và người Nhật đều buộc phải triển khai thiết giáp hạm. Cuộc đụng độ đầu tiên giữa các thiết giáp hạm diễn ra vào đêm ngày 14 - 15 tháng 11 trong Trận hải chiến Guadalcanal lần thứ hai. Chỉ huy hải quân Hoa Kỳ, Chuẩn Đô đốc Willis Lee, dự đoán sẽ bị áp đảo về số lượng, nhưng không chắc chắn về thành phần chính xác của lực lượng Nhật Bản đang tiến về Guadalcanal. Chỉ huy IJN, Phó Đô đốc Kondō Nobutake, cũng dự kiến sẽ gặp phải sự kháng cự trong quá trình thực hiện nhiệm vụ pháo kích, nhưng không hề biết rằng mình sắp sửa phải đối đầu với hai thiết giáp hạm hiện đại hơn của đối phương.
Cả hai bên đều dự kiến sẽ chạm trán với đối phương và cả hai vị chỉ huy đều đã chuẩn bị cho tình huống đó. Kondō đã nhận được báo cáo về ba lực lượng hải quân Hoa Kỳ hoạt động vào ngày 14 tháng 11 ngoài khơi Guadalcanal. Trong một trong các báo cáo này có nhắc đến sự hiện diện của hai thiết giáp hạm, nhưng vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 14 tháng 11, ông nhận được báo cáo từ thủy phi cơ của Kirishima rằng hai tàu tuần dương và bốn tàu khu trục đang ở cách ông 50 hải lý về phía nam. Trong suy nghĩ của Kondō, điều này xác nhận hoạt động quen thuộc của người Mỹ là rút thiết giáp hạm về hộ tống tàu sân bay đang hoạt động ở phía đông nam Guadalcanal. Dù sao đi nữa, rõ ràng một trận đánh ban đêm đang đến gần. Ông đã rút ra bài học từ trận đánh đêm ngày 12 - 13 tháng 11 khi lực lượng pháo kích đầu tiên của IJN bị bất ngờ bởi một lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục Mỹ. Lần này, ông lên kế hoạch điều hai nhóm tàu khu trục, mỗi nhóm do một tàu tuần dương hạng nhẹ dẫn đầu, để mở đường phía trước cho lực lượng pháo kích. Các lực lượng này được triển khai cách khoảng hơn 5 hải lý phía trước hai tàu tuần dương hạng nặng và Kirishima. Khi tuyến đường đã được dọn sạch, các tàu chiến hạng nặng sẽ áp sát hòn đảo và bắn phá sân bay cho đến khi bị xóa sổ.
Lee gặp khó khăn bởi tính chất tạm thời của Lực lượng Đặc nhiệm 64 của ông. Không có tàu nào trong số này từng hoạt động cùng nhau trước đó nên kế hoạch tác chiến của ông buộc phải đơn giản hóa. Ông dẫn lực lượng của mình di chuyển theo hướng ngược chiều kim đồng hồ quanh đảo Savo nhằm kiểm soát cả hai lối vào Vịnh Iron Bottom. Bốn tàu khu trục, chỉ có hai chiếc được trang bị radar, được triển khai cách các thiết giáp hạm 5.000 yard về phía trước. Hai thiết giáp hạm theo sau, với Washington dẫn đầu và South Dakota cách sau 2.000 yard. Thông tin tình báo tốt nhất mà Lee có được là một báo cáo vào lúc 17 giờ cho biết một lực lượng Nhật Bản gồm bốn tàu tuần dương hạng nặng, một tàu khu trục lớn và mười tàu khu trục đang tiến nhanh về phía Guadalcanal.
-----------------------------------------
TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG HẢI QUÂN HOA KỲ – TRẬN ĐẤU TÀU CHIẾN NGOÀI KHƠI GUADALCANAL
Lực lượng thiết giáp hạm (Chuẩn Đô đốc Willis A. Lee, Jr. chỉ huy trên tàu Washington):
Washington (Thuyền trưởng Glenn Davis)
South Dakota (Thuyền trưởng Thomas Gatch)
Lực lượng hộ tống (tàu khu trục): Walke, Benham, Preston, Gwin
Washington (Thuyền trưởng Glenn Davis)
South Dakota (Thuyền trưởng Thomas Gatch)
Lực lượng hộ tống (tàu khu trục): Walke, Benham, Preston, Gwin
-----------------------------------------
TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG HẢI QUÂN ĐẾ QUỐC NHẬT BẢN – TRẬN ĐẤU TÀU CHIẾN NGOÀI KHƠI GUADALCANAL
Đơn vị pháo kích (Phó Đô đốc Kondō Nobutake chỉ huy trên tàu Atago):
Thiết giáp hạm Kirishima (Thuyền trưởng Iwabuchi Sanji)
Tàu tuần dương hạng nặng: Atago, Takao
Tàu tuần dương hạng nhẹ: Nagara (có Chuẩn Đô đốc Kimura Susumu, chỉ huy Hải đoàn Tàu khu trục số 10)
Tàu khu trục: Ikazuchi, Samidare
Đơn vị hộ tống trực tiếp (Chuẩn Đô đốc Takama Tamotsu chỉ huy trên tàu Asagumo):
Tàu khu trục: Asagumo, Shirayuki, Hatsuyuki, Teruzuki
Đơn vị quét đường (Chuẩn Đô đốc Hashimoto Shintarō chỉ huy trên tàu Sendai):
Tàu tuần dương hạng nhẹ: Sendai
Tàu khu trục: Ayanami, Shikinami, Uranami
-------------------------------------------
Đơn vị pháo kích (Phó Đô đốc Kondō Nobutake chỉ huy trên tàu Atago):
Thiết giáp hạm Kirishima (Thuyền trưởng Iwabuchi Sanji)
Tàu tuần dương hạng nặng: Atago, Takao
Tàu tuần dương hạng nhẹ: Nagara (có Chuẩn Đô đốc Kimura Susumu, chỉ huy Hải đoàn Tàu khu trục số 10)
Tàu khu trục: Ikazuchi, Samidare
Đơn vị hộ tống trực tiếp (Chuẩn Đô đốc Takama Tamotsu chỉ huy trên tàu Asagumo):
Tàu khu trục: Asagumo, Shirayuki, Hatsuyuki, Teruzuki
Đơn vị quét đường (Chuẩn Đô đốc Hashimoto Shintarō chỉ huy trên tàu Sendai):
Tàu tuần dương hạng nhẹ: Sendai
Tàu khu trục: Ayanami, Shikinami, Uranami
-------------------------------------------
Diễn biến trận đánh
Không có tàu nào của Nhật được trang bị radar, nhưng chính phía Nhật lại là bên đầu tiên phát hiện đối phương. Vào lúc 23 giờ 13 phút, các quan sát viên trên tàu khu trục Shikinami, sử dụng ống nhòm đêm chuyên dụng, đã phát hiện lực lượng của Lee ở phía đông đảo Savo đang hướng về phía nam. Các tàu Nhật đi cùng hướng nên nằm trong "điểm mù radar" ở phía sau đội hình Mỹ. Chuẩn Đô đốc Hashimoto Shintarō - chỉ huy Đơn vị Quét đường, đã báo cáo với Kondō vào lúc 23 giờ 28 phút rằng đội hình Mỹ bao gồm hai tàu tuần dương hạng nặng và rằng ông vẫn đang theo dõi. Liên lạc với phía Mỹ tạm thời bị mất do mưa lớn, nhưng phía Nhật vẫn theo dõi được lực lượng Mỹ khi họ đổi hướng sang phía tây lúc 23 giờ 52 phút. Đáp lại, Kondō ra lệnh cho các tàu chiến chủ lực đổi hướng về phía đông bắc lúc 00 giờ 15 phút để tạo thời gian cho các đơn vị hộ tống xử lý lực lượng Mỹ.
Khi lực lượng Mỹ đổi hướng sang phía tây, Đơn vị Quét đường không còn nằm trong điểm mù radar của Lee nữa. Washington đã bắt được tín hiệu radar lúc 00 giờ 01 phút về lực lượng Nhật ở phía bắc, cách 18.000 yard. Tiếp theo đó là quan sát bằng mắt lúc 00 giờ 12 phút; hai phút sau, Lee cho phép các thiết giáp hạm khai hỏa vì nghĩ rằng đây là lực lượng pháo kích chính của Nhật. Mục tiêu lớn nhất, có lẽ là Sendai, bị Washington khai hỏa bằng dàn pháo chính lúc 00 giờ 17 phút ở khoảng cách 18.500 yard. Ba loạt pháo được bắn, và sau khi loạt thứ hai và thứ ba rơi gần mục tiêu, các cột nước đã khiến mục tiêu biến mất khỏi radar. South Dakota khai hỏa một phút sau đó, bắn tám loạt pháo 16 inch vào tàu khu trục Shikinami. Các pháo hạng hai trên cả hai thiết giáp hạm cũng tấn công các tàu khu trục Nhật. Trận đánh này cho thấy hạn chế của việc khai hỏa bằng radar. Mặc dù Washington đã bắn 42 quả đạn 16 inch và khoảng 100 đạn 5 inch, còn South Dakota bắn tám loạt pháo 16 inch, không có tàu Nhật nào trong ba tàu bị trúng đạn.
Giai đoạn tiếp theo của trận đánh có sự tham gia của tàu khu trục Ayanami, đã tách khỏi Đơn vị Quét đường để thực hiện một đòn đánh đơn độc theo hướng ngược chiều kim đồng hồ quanh đảo Savo. Khi Ayanami đến điểm phía nam đảo Savo, con tàu bị radar của tàu khu trục Mỹ đi đầu phát hiện và bị hai tàu khu trục cùng dàn pháo hạng hai của Washington khai hỏa. Ayanami bắt đầu một cuộc tấn công bằng ngư lôi đơn độc vào Lực lượng Đặc nhiệm 64 lúc 00 giờ 24 phút. Chiếc tàu này phóng sáu quả ngư lôi lúc 00 giờ 30 phút, vài phút sau đó đã đánh trúng các tàu khu trục Preston và Walke. Ayanami cũng bắn trúng Gwin bằng pháo 5 inch. Đòn tấn công quả cảm này khiến Ayanami trở thành mục tiêu tập trung hỏa lực, và đã trúng nhiều quả đạn 5 inch khiến tàu bốc cháy và mất điện, buộc phải dừng lại.
Ngay sau Ayanami là tàu tuần dương hạng nhẹ Nagara cùng các tàu khu trục hộ tống. Ba tàu khu trục Mỹ khai hỏa vào Nagara ngay sau khi phát hiện lúc 00 giờ 27 phút, nhưng không gây được thiệt hại nào. Nagara đáp trả bằng pháo 5,5 inch và biến Preston thành đống đổ nát. Lúc 00 giờ 35 phút, Nagara cùng một số tàu khu trục thực hiện một đòn tấn công ngư lôi vào Lực lượng Đặc nhiệm 64 rồi rút lui. Loạt ngư lôi này đã tiêu diệt toàn bộ lớp lá chắn khu trục của Mỹ. Preston khi đó đã là một xác tàu bốc cháy, và vào lúc 00 giờ 37 phút, Benham trúng ngư lôi vào mũi tàu, mất khả năng chiến đấu. Walke trúng đạn pháo rồi trúng thêm ngư lôi, nhanh chóng gãy đôi và chìm. Benham và Gwin được Lee ra lệnh rút khỏi khu vực. Điều này khiến hai thiết giáp hạm trở thành những đơn vị duy nhất của Mỹ tới thời điểm hiện tại là còn khả năng chiến đấu.
Cuộc đấu pháo giữa các thiết giáp hạm
Ngày 14 tháng 11:
1. 23 giờ 13 phút: Lực lượng của Lee bị tàu khu trục Nhật Shikinami phát hiện.
Ngày 15 tháng 11:
2. 00 giờ 01 phút: Washington phát hiện đơn vị quét mìn của Nhật bằng radar.
3. 00 giờ 17 phút: Washington khai hỏa bằng pháo chính vào đơn vị quét mìn và được South Dakota tham chiến sau một phút; không bên nào bắn trúng.
4. 00 giờ 30 phút: Tàu khu trục Nhật Ayanami phóng ngư lôi trúng hai tàu khu trục Mỹ; Ayanami bị bắn trúng bởi pháo từ thiết giáp hạm và khu trục hạm Mỹ, bốc cháy và sau đó bị đánh chìm.
5. 00 giờ 33 phút: South Dakota bắt đầu gặp sự cố về điện, gây ảnh hưởng trong suốt trận chiến.
6. 00 giờ 37 phút: Các tàu khu trục Mỹ Benham và Walke bị trúng ngư lôi; hàng rào khu trục hộ tống của Lee bị xóa sổ.
7. 00 giờ 50 phút: Tuần dương hạm hạng nặng Nhật Takao phát hiện các thiết giáp hạm của Lee.
8. 01 giờ–01 giờ 04 phút: Năm tàu Nhật, bao gồm Kirishima, nã pháo vào South Dakota, gây ít nhất 26 phát trúng.
9. 01 giờ–01 giờ 07 phút: Washington bắn trúng Kirishima bằng pháo 16 inch, gây hư hại chí mạng.
10. 01 giờ 10 phút: South Dakota rút lui.
11. 01 giờ 33 phút: Washington rút lui sau khi tránh được hàng chục quả ngư lôi Nhật.
12. 04 giờ 25 phút: Kirishima chìm.
--------------------------------------
Khi hàng rào tàu khu trục của Mỹ tan rã, hai thiết giáp hạm giờ đây phải tự xoay sở trong tình huống hỗn loạn. Từ 00 giờ 30 phút đến 00 giờ 33 phút, South Dakota khai hỏa 5 loạt đạn vào Sendai ở hướng bắc nhưng không trúng mục tiêu. Cú giật khi bắn khiến một cầu dao tự động nhảy, dẫn đến mất điện – toàn bộ hệ thống radar trên South Dakota bị tê liệt, khiến tàu gần như bị "mù". Trong phần còn lại của trận đánh, điện trên tàu chập chờn, gây khó khăn cho việc chiến đấu. Washington tiếp tục hành trình về phía tây bắc và bắt gặp hàng rào khu trục đã bị xóa sổ. Lúc 00 giờ 35 phút, radar trên tàu phát hiện bốn mục tiêu – bao gồm Kirishima, Atago, Takao, và một tàu khu trục hộ tống. Trong số đó, một mục tiêu lớn hơn các mục tiêu còn lại và được hệ thống điều khiển pháo chính khóa mục tiêu.
Kondō, nhận các báo cáo lạc quan từ Ayanami và Chuẩn Đô đốc Kimura trên tàu Nagara, tin rằng phần lớn tàu tuần dương và tàu khu trục Mỹ đã bị đánh chìm hoặc loại khỏi vòng chiến. Lúc 00 giờ 45 phút, báo cáo từ Ayanami khẳng định đã đánh chìm một tuần dương hạm và một khu trục hạm, đồng thời gây hư hại nặng cho một tàu khác, khiến bộ chỉ huy trên tàu Atago phấn khởi. Tuy nhiên, niềm vui ngắn ngủi khi vài phút sau, tàu Sendai báo cáo rằng Ayanami đang bốc cháy. Đến 00 giờ 50 phút, Kondō ra lệnh đổi hướng về tây bắc để các đơn vị hộ tống tiếp tục "quét sạch" lực lượng Mỹ. Lúc này, các quan sát viên trên Takao lần đầu tiên nhìn thấy hai thiết giáp hạm Mỹ – đã báo cáo rằng có một thiết giáp hạm và ba tàu khu trục đang ở phía nam. Lúc 00 giờ 51 phút, Chuẩn Đô đốc Kimura cảnh báo rằng hai thiết giáp hạm đang tiến về hướng tây. Tuy nhiên, Kondō bác bỏ các báo cáo này, tin rằng đối phương chỉ là tàu tuần dương – vốn đã bị tiêu diệt hoặc suy yếu. Cũng trong thời điểm này, ông vẫn ra lệnh cho lực lượng pháo kích tiếp tục tiến về phía đông nam để chuẩn bị pháo kích sân bay Henderson.
Lúc 00 giờ 55 phút, Atago – dẫn đầu đội hình gồm Takao và Kirishima tiến vào Lugna Point – đã phát hiện South Dakota ở mạn trái cách chưa đầy 6.000 yard. Atago lập tức phóng tám ngư lôi Type 93 lúc 00 giờ 59 phút, nhưng tất cả đều trượt. Đúng 01 giờ sáng, Atago bật đèn pha rọi thẳng vào South Dakota và toàn bộ năm tàu Nhật thuộc lực lượng pháo kích đồng loạt khai hỏa. Trong bốn phút, hỏa lực dữ dội từ cự ly gần của người Nhật đã tàn phá South Dakota. Mặc dù số đạn trúng đích không rõ ràng, báo cáo thiệt hại cho thấy tàu bị trúng 18 quả đạn 8 inch, 6 đạn 6 inch, 1 đạn 5 inch và 1 quả pháo 14 inch.
Tuy nhiên, trái với tuyên bố của phía Nhật rằng đã họ đánh chìm South Dakota, thực tế thiệt hại đã không thể đe dọa đến khả năng nổi của tàu. Không quả đạn nào xuyên được vào thành trì bọc thép của con tàu. Thiệt hại chủ yếu là ở phần cấu trúc thượng tầng – radar và hệ thống điều khiển hỏa lực đều bị phá hủy. South Dakota bắn trả bằng năm loạt đạn từ pháo chính, nhưng do thiết bị điều khiển chính bị hỏng, dẫn đến tất cả đều trượt. Dàn pháo 5 inch hoạt động mạnh nhưng cũng không gây được thiệt hại. Đến 01 giờ 10 phút, khi không còn radio hay hệ thống điều khiển, thuyền trưởng Gatch ra lệnh rút lui.
Trong khi South Dakota phải hứng chịu toàn bộ hỏa lực dồn dập, Washington đến giờ vẫn chưa bị phát hiện. Con tàu đã theo dõi Kirishima từ lúc 00 giờ 40 phút và sẵn sàng khai hỏa, nhưng vì chưa xác định được vị trí của South Dakota, Lee chưa cho phép bắn. Đến khi thấy rõ tình hình của South Dakota, Lee ra lệnh tấn công vào lúc 01 giờ sáng. Từ khoảng cách chỉ 8.400 yard – gần như tầm bắn thẳng cho pháo 16 inch – Washington khai hỏa bằng radar, nhưng vì không phân biệt được cột nước trên radar nên phải điều chỉnh bằng quan sát trực tiếp. Hai loạt đầu được bắn ra trước khi Kirishima kịp phản ứng khoảng một phút sau.

Ảnh chụp USS Washington khai hỏa pháo chính của mình vào Kirishima.
Trong vòng 150 giây, Washington đã bắn 39 quả pháo 16 inch vào Kirishima. Loạt đạn đầu tiên "vây quanh" mục tiêu theo quan sát của cả hai phía. Loạt đạn thứ hai trúng tháp chỉ huy ở phía trước cấu trúc thượng tằng. Loạt đạn thứ ba trúng phần giữa tàu gây nổ lớn – theo phía Nhật có thể có tới bốn cú đánh trúng, gây cháy và mất điện. Hai cú đánh khác trúng dưới mực nước gây ngập lụt. Đến loạt thứ tư, cự ly chỉ còn 7.850 yard – hai quả trúng tháp pháo trước 14 inch, làm tháp pháo bị loại khỏi vòng chiến.
Sau khi khai hỏa vào đối phương và nhận được báo cáo rằng mục tiêu đã bị đánh chìm, Lee ra lệnh tạm ngừng bắn 90 giây. Sau khi xác minh lại, ông lệnh khai hỏa tiếp trong vòng 165 giây, thêm 39 quả pháo 16 inch nữa được bắn đi. Năm cú đánh nữa có thể trúng phần trước tàu, hai trong đó trúng phần dưới mực nước. Kirishima lúc đó đang quay mũi về phía bắc, để lộ phần đuôi – nơi tiếp tục bị đánh trúng, tất cả đều vào mạn phải. Đến 01 giờ 07 phút, Washington ngừng bắn sau khi đã bắn tổng cộng 75 quả 16 inch và 107 quả 5 inch vào Kirishima, cùng với 120 đạn 5inch vào hai tàu tuần dương hạng nặng của Nhật.
Một quan sát viên Mỹ thấy ba trong bốn tháp pháo của Kirishima khai hỏa lại lúc ban đầu, nhưng những hoạt động nói trên đều không có tác dụng gì cả. Sau khi Washington bắn tiếp đợt hai, chỉ còn tháp pháo chính 14inch/45 ở phía sau của Kirishima là còn hoạt động. Phát bắn gần nhất cũng chỉ rơi cách Washington 200 yard ở phía mạn trái.
Giai đoạn cuối của trận chiến

Tàu Washington không bị hư hại tại Guadalcanal, nhưng đã chịu tổn thất nghiêm trọng sau khi va chạm với thiết giáp hạm Indiana trong chiến dịch ở quần đảo Marshall vào ngày 1 tháng 2 năm 1944. Mũi tàu bị nghiền nát và thiết giáp hạm được cho thấy bên cạnh một tàu sửa chữa để xử lý ban đầu. Sau khi được sửa chữa, Washington tái gia nhập hạm đội kịp thời để tham gia Trận Biển Philippines, Trận Vịnh Leyte cũng như các cuộc đổ bộ vào Luzon, Iwo Jima và Okinawa. Washington đã được dừng hoạt động vào tháng 6 năm 1947 và được giữ trong kho dự trữ cho đến tháng 5 năm 1961, khi tàu được đem đi tháo dỡ.
Sau khi đối đầu với Washington, thiết giáp hạm Kirishima rời đội hình và bắt đầu quay vòng. Con tàu bốc cháy dữ dội ở phần giữa và đuôi tàu, không thể cơ động vì khoang lái bị ngập một phần, bánh lái thì kẹt cứng. Thiệt hại nghiêm trọng nhất là do các cú đánh của pháo 16 inch dưới mực nước gây ra tình trạng ngập lụt và khiến tàu nghiêng về mạn phải. Đám cháy đã được khống chế vào lúc 03 giờ 49 phút, nhưng tàu vẫn không thể điều khiển được. Đến lúc này, khoang lái đã hoàn toàn ngập nước, và mọi nỗ lực điều hướng bằng động cơ đều thất bại. Đến 04 giờ 25 phút, Kirishima lật nghiêng sang mạn trái và chìm, mang theo 212 thủy thủ. Khoảng 1.218 người còn lại được các tàu khu trục đồng đội cứu vớt.
Khi Kirishima đang hấp hối, Washington vẫn may mắn một cách kỳ lạ. Con tàu đã thoát khỏi tám ngư lôi từ Atago và bốn quả khác từ tàu khu trục Asagumo. Lúc 1 giờ 13 phút, Atago và Takao mỗi tàu tiếp tục phóng tám ngư lôi ở cự ly chỉ 4.000 yard. Một lần nữa, không quả nào trúng đích, trong khi Washington thậm chí không biết mình bị tấn công bằng ngư lôi và vẫn giữ hướng đi ổn định. Ít nhất ba tàu khu trục khác và cả Nagara cũng đều phóng ngư lôi vào Washington, nhưng nhờ các thao tác tránh né đúng lúc và sự may mắn liên tiếp của Đô đốc Lee, mọi đòn tấn công đều thất bại. Đến cuối trận , Atago đã phóng tổng cộng 19 quả ngư lôi và Takao 20 quả. Kinh ngạc thay, không có bất kỳ số quả ngư lôi nhắm vào Washington đều trúng mục tiêu cả.
Lee tiếp tục đi về phía tây với mục tiêu truy tìm và tiêu diệt bốn tàu vận tải cuối cùng của đoàn vận tải Nhật. Dù ông không tiêu diệt được tại chỗ, nhưng ông đã khiến đoàn tàu phải cập bờ vào ban ngày. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Lee rút khỏi khu vực phía tây Guadalcanal lúc 1 giờ 33 phút. Đến 4 giờ sáng, bốn tàu vận tải Nhật buộc phải ủi bãi lên đảo và bắt đầu dỡ hàng. Sau khi trời sáng, máy bay Mỹ cùng một tàu khu trục đã tiêu diệt các tàu vận tải và phá hủy toàn bộ hàng hóa vừa được bốc lên bãi biển. Trận chiến kết thúc – và Lee cùng thiết giáp hạm Washington đã giành một chiến thắng vẻ vang.
TRẬN CHIẾN EO BIỂN SURIGAO
Sau chiến dịch Guadalcanal, các thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ (USN) bước vào một mô hình hoạt động ổn định. Các thiết giáp hạm hiện đại được phân công cho Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay Tốc độ cao (Fast Carrier Task Force), nơi mà khả năng phòng không mạnh mẽ của chúng được đánh giá cao. Do Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) không tiến hành một chiến dịch hạm đội đáng kể nào cho đến tháng 6 năm 1944, các thiết giáp hạm cao không có cơ hội giao chiến với mục tiêu mặt nước. Ngoại lệ duy nhất là vào ngày 17 tháng 2 năm 1944 trong cuộc không kích tàu sân bay đầu tiên vào căn cứ chính của Nhật tại đảo san hô Truk, khi Iowa và New Jersey được cử đi chặn đánh các đơn vị IJN đang cố gắng thoát khỏi cuộc không kích. Iowa đã tấn công một tàu tuần dương huấn luyện của Nhật với 46 quả đạn 16 inch và 124 quả đạn 5 inch, còn New Jersey đã tấn công một tàu khu trục bằng dàn pháo phụ của mình. Cả hai tàu IJN đều bị đánh chìm, nhưng các thiết giáp hạm không phải là yếu tố quyết định dẫn đến việc đó. Sau đó trong cùng ngày, cả hai thiết giáp hạm đã tấn công một tàu khu trục Nhật đang tháo chạy ở khoảng cách từ 32.300 yard đến 39.000 yard với tổng cộng 58 quả đạn 16 inch. Ở tầm bắn cực xa này – xa nhất từng được ghi nhận đối với một thiết giáp hạm – radar đã được sử dụng để đo tầm và hiệu chỉnh hỏa lực. Mục tiêu bị vây quanh bởi các loạt đạn nhưng không trúng phát nào, và tàu khu trục đã thoát sau khi phóng ngư lôi vào các tàu truy đuổi mình. Đây là lần duy nhất trong chiến tranh mà một thiết giáp hạm lớp Iowa tham chiến với một mục tiêu mặt nước

Musashi được cho thấy đang bị tấn công bởi máy bay của hải quân Mỹ vào ngày 24 tháng 10 năm 1944 tại biển Sibuyan. Đây là lần chạm trán thực sự đầu tiên của hải quân Mỹ với một trong những siêu thiết giáp hạm của hải quân đế quốc Nhật Bản. Đội ngũ kiểm soát thiệt hại được huấn luyện kỹ lưỡng cùng kích thước khổng lồ của tàu khiến quá trình chìm diễn ra kéo dài – máy bay từ tàu sân bay Mỹ đã đánh trúng Musashi bằng 15 ngư lôi và 16 quả bom trước khi đánh chìm con tàu. Trong suốt sự nghiệp ngắn ngủi chỉ hơn hai năm, Musashi chưa từng khai hỏa pháo chính trong chiến đấu – điều này cho thấy sự thất bại gần như hoàn toàn của lực lượng thiết giáp hạm IJN trong Thế chiến II.
Trận chiến hạm đội quy mô lớn diễn ra vào tháng 6 năm 1944, được gọi là Trận Biển Philippines, hoàn toàn là một trận không chiến giữa các tàu sân bay. 14 thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ tham chiến (bảy tàu hiện đại được phân công cho lực lượng tàu sân bay và bảy tàu cũ để bảo vệ trực tiếp cho cuộc đổ bộ tại Saipan ở quần đảo Mariana) đã không tiếp cận được 5 thiết giáp hạm IJN – tất cả đều hoạt động cùng lực lượng tàu sân bay Nhật. Các thiết giáp hạm cao tốc được tổ chức thành một nhóm tác chiến riêng biệt và hoạt động phía trước lực lượng tàu sân bay chính, với kỳ vọng sẽ có một trận hải chiến lớn, nhưng họ đã không bao giờ tiếp cận được đối phương. Tuy nhiên, cuộc đổ bộ lớn tiếp theo của Mỹ tại Thái Bình Dương đã khiến IJN dốc toàn lực để bảo vệ Philippines. Người Nhật xác định rằng nếu Philippines bị mất, tuyến vận tải sống còn từ các khu vực giàu tài nguyên ở Đông Ấn Hà Lan về Nhật sẽ bị cắt đứt, điều này đồng nghĩa với một đòn chí mạng giáng vào mọi hy vọng tiếp tục chiến tranh thành công. Để đáp trả cuộc đổ bộ tại Leyte vào tháng 10 năm 1944, mọi tàu chiến chủ lực còn lại của IJN đều được huy động, bao gồm toàn bộ chín thiết giáp hạm còn lại. Kể từ khi lực lượng tàu sân bay của IJN đã bị đánh tan trong Trận Biển Philippines, trọng tâm trong kế hoạch của Nhật giờ đây là đưa các lực lượng hạng nặng, trong đó có 7 thiết giáp hạm, vào vịnh Leyte để tiêu diệt lực lượng đổ bộ của Mỹ.
Vì nhiều lý do, kế hoạch này có những sai sót chí mạng, trong đó không thể không kể đến việc đến khi các thiết giáp hạm Nhật có thể thực sự tiến vào vịnh Leyte từ vị trí khởi hành ở khu vực neo đậu gần Singapore, lực lượng đổ bộ của Hải quân Mỹ (USN) đã hoàn tất nhiệm vụ và lực lượng đổ bộ đã yên vị trên bờ với một lượng lớn vật tư tiếp tế. Ngoài ra, kế hoạch của Nhật rất phức tạp và phụ thuộc nhiều vào thông tin liên lạc và phối hợp tốt — điều khó có thể xảy ra trong thực tế tác chiến. Trọng tâm của chiến dịch là đưa một lực lượng gồm thiết giáp hạm, 11 tàu tuần dương hạng nặng, 2 tàu tuần dương hạng nhẹ và 19 tàu khu trục vào vịnh Leyte. Lực lượng này được chia thành hai nhóm. Nhóm lớn nhất, bao gồm 5 thiết giáp hạm (Yamato, Musashi, Nagato, Kongō và Haruna), 10 tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và 15 tàu khu trục, dự kiến tiến vào vịnh Leyte bằng cách băng qua biển Sibuyan, qua eo biển San Bernardino, rồi di chuyển xuống phía nam dọc theo bờ biển đảo Samar. Chi tiết về hoạt động của lực lượng này sẽ không được trình bày vì họ không đụng độ với thiết giáp hạm của USN. Diễn biến sẽ được tóm tắt như sau: vào ngày 24 tháng 10, lực lượng này phải hứng chịu các đợt không kích dữ dội từ máy bay của tàu sân bay Mỹ khi ở biển Sibuyan, trong đó Musashi bị đánh chìm. Phải mất đến 15 quả ngư lôi và 16 quả bom để hạ được con tàu này — một con số đáng kinh ngạc. Lực lượng này đã vượt qua eo biển San Bernardino thành công vào sáng sớm ngày 25 tháng 10, di chuyển về phía nam hướng tới Leyte và đụng độ với một lực lượng lớn tàu sân bay hộ tống của USN ngoài khơi đảo Samar. Trong một trận chiến hỗn loạn, phía Nhật đánh chìm một tàu sân bay hộ tống, hai tàu khu trục và một tàu hộ tống khu trục. Đổi lại, họ mất ba tàu tuần dương hạng nặng. Bốn thiết giáp hạm IJN trong trận đánh này đều bắn kém và đóng góp rất ít. Sau cuộc đụng độ đó, quân Nhật rút lui trở lại qua eo biển San Bernardino, suýt nữa đụng độ với Lực lượng Tác chiến Tàu sân bay Tốc độ cao của USN với 6 thiết giáp hạm hiện đại.
Đọc thêm:
Các hoạt động của phần còn lại thuộc Lực lượng Tấn công thứ nhất (còn được gọi là Lực lượng “C”) đã ghi dấu ấn cho trận chiến giữa các thiết giáp hạm cuối cùng trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Lực lượng này được lệnh tiến vào vịnh Leyte từ phía nam qua eo biển Surigao vào sáng ngày 25 tháng 10. Đối đầu với họ là Hạm đội 7, lực lượng đang trực tiếp yểm trợ cho cuộc đổ bộ lên Leyte. Hai bên có sự chênh lệch lớn về tương quan lực lượng, khiến cho trận này giống một cuộc hành quyết trên biển hơn là một trận hải chiến thực sự. Ngoài ưu thế về số lượng, Hải quân Hoa Kỳ còn có lợi thế vượt trội về vị trí do đang phòng thủ tại một điểm thắt cổ chai.
Lực lượng Nhật Bản do Phó Đô đốc Nishimura Shōji chỉ huy. Kế hoạch của ông rất đơn giản – ông dự định lao thẳng vào vịnh Leyte nhằm giảm bớt áp lực cho lực lượng chủ lực đang tiến đến từ phía bắc. Kế hoạch của Kinkaid cũng đơn giản không kém. Ông bố trí 6 thiết giáp hạm án ngữ tại đầu eo biển, và ở phía nam các thiết giáp hạm này, ông triển khai 8 tàu tuần dương chia thành hai cánh tả và cánh hữu. Với eo biển tại điểm này chỉ rộng 12 hải lý, không có khả năng nào để lực lượng Nhật vượt qua mà không bị phát hiện. Phía trước các tàu chủ lực là ba hải đoàn tàu khu trục, được giao nhiệm vụ thực hiện các đòn tấn công bằng ngư lôi dẫn hướng bằng radar. 39 tàu phóng lôi (PT boats) hoạt động ở lối tiếp cận phía nam của eo biển để báo cáo mọi di chuyển của quân Nhật và tấn công bằng ngư lôi khi có cơ hội. Vấn đề tiềm tàng duy nhất đối với Kinkaid và chỉ huy chiến đấu của ông, Chuẩn Đô đốc Jesse B. Oldendorf, là tình trạng thiếu đạn xuyên giáp dành cho thiết giáp hạm và tàu tuần dương, do phần lớn cơ số đạn của các tàu này là đạn nổ mạnh dùng để bắn phá bờ biển. Để phát huy hiệu quả tối đa số đạn hiện có, người ta quyết định rằng các thiết giáp hạm sẽ không khai hỏa cho đến khi đối phương tiến vào cự ly từ 17.000 đến 20.000 yard.
------------------------------------------------
TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG HẢI QUÂN MỸ TRONG TRẬN EO BIỂN SURIGAO
Thiết giáp hạm: West Virginia, Maryland, Tennessee, California, Mississippi, Pennsylvania
Thiết giáp hạm: West Virginia, Maryland, Tennessee, California, Mississippi, Pennsylvania
Tàu tuần dương hạng nặng: Louisville, Portland, Minneapolis, Shropshire (Úc)
Tàu tuần dương hạng nhẹ: Denver, Columbia, Phoenix, Boise
Tàu khu trục: 28 chiếc
Tàu tuần tra nhanh (PT boats - tàu phóng lôi): 39 chiếc
------------------------------------------------
TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG HẢI QUÂN ĐẾ QUỐC NHẬT BẢN TRONG TRẬN EO BIỂN SURIGAO
Thiết giáp hạm: Fusō, Yamashiro
Thiết giáp hạm: Fusō, Yamashiro
Tàu tuần dương hạng nặng: Mogami
Tàu khu trục: Asagumo, Michishio, Yamagumo, Shigure
------------------------------------------------
Giai đoạn tiếp cận

Các tàu phóng lôi và tàu khu trục từ Hải đoàn tàu khu trục 54 phóng loạt ngư lôi vào Lực lượng tấn công thứ 3 của Nishimura tại eo biển Sugirao. Cả hai thiết giáp hạm Fuso và Yamashiro đều bị trúng ngư lôi.
Trận đánh bắt đầu lúc 22 giờ 36 phút ngày 24 tháng 10 khi một tàu phóng lôi (PT boat) phát hiện lực lượng của Nishimura bằng radar khi họ tiến vào eo biển. Trong một loạt các hành động kéo dài đến 02 giờ 13 phút ngày 25 tháng 10, các tàu phóng lôi tiến hành nhiều cuộc tấn công quấy rối, với nhiều quả ngư lôi được phóng đi. Quân Nhật đẩy lui mọi cuộc tấn công và vẫn giữ được đội hình khi di chuyển lên eo biển. Giai đoạn tiếp theo trong trận địa phục kích của Kinkaid sẽ còn nguy hiểm hơn nhiều.
Hải đoàn tàu khu trục số 54 tham chiến với 7 tàu khu trục lớp Fletcher cỡ lớn. Chỉ huy hải đoàn lên kế hoạch cho năm trong số này tấn công lực lượng Nhật từ hai hướng bằng cách sử dụng radar. Ba tàu khu trục đầu tiên phóng tổng cộng 27 quả ngư lôi trong đợt tấn công đầu. Lúc 03 giờ 08 phút, một quả ngư lôi — có thể là hai, dựa trên lời kể của những người sống sót — đánh trúng thiết giáp hạm Fusō. Nhóm thứ hai gồm hai tàu khu trục phóng toàn bộ 20 quả ngư lôi từ một góc bắn thuận lợi. Ba quả đánh trúng Yamagumo khiến tàu phát nổ và chìm; một quả đánh trúng Michishio khiến tàu tê liệt; quả khác đánh trúng mũi tàu Asagumo. Tất cả các phát bắn này đến từ tàu khu trục McDermut, mang lại cho con tàu vinh dự thực hiện đợt phóng ngư lôi hiệu quả nhất của một tàu khu trục USN trong toàn bộ cuộc chiến.

Tàu Yamashiro được chụp trong lúc bị không kích bởi máy bay từ tàu sân bay Enterprise vào sáng ngày 24 tháng 10 trên biển Sulu. Chỉ có các vụ gần trúng gây ra ngập nước nhẹ. Tàu Fusō chịu thiệt hại nghiêm trọng hơn, nhưng cả hai thiết giáp hạm vẫn tiếp tục hành trình đến điểm hẹn định mệnh ở eo biển Surigao với Hải quân Mỹ.
Tàu Yamashiro cũng không thoát khỏi thiệt hại. Một quả ngư lôi từ tàu khu trục Monssen đánh trúng mạn trái của tàu. Các cuộc tấn công từ Hải đội tàu khu trục số 54 hiệu quả vượt ngoài mong đợi của Kinkaid. Tất cả các tàu của Nishimura, trừ hai chiếc, đều bị trúng đạn; ba tàu đang chìm và bị loại khỏi trận đánh. Sau loạt tấn công ngư lôi ban đầu, Hải đội Khu trục số 24 với sáu tàu khu trục tiếp tục giành thêm một cú đánh ngư lôi nữa vào Yamashiro lúc 03 giờ 34 phút. Cú đánh này tạm thời làm giảm tốc độ của con tàu xuống còn 5 hải lý/giờ, nhưng chỉ trong vài phút, các kỹ sư trên tàu đã khôi phục áp suất hơi nước và đưa tốc độ trở lại 18 hải lý/giờ.
Giai đoạn đầu của trận đánh để lại cho Nishimura chỉ còn ba con tàu còn có thể tiếp tục tiến về phía bắc, đối mặt trực tiếp với hàng chiến tuyến của Kinkaid. Dù Yamashiro có thể đã vượt qua hai cú đánh ngư lôi và tiếp tục di chuyển, thiệt hại đối với Fusō lại được xem là vết thương chí mạng. Sau khi trúng hai ngư lôi, Fuso rời khỏi đội hình và quay về phía nam. Theo lời kể từ một vài người sống sót, con tàu chìm mũi vào lúc 03 giờ 45 phút. Những lời kể này mâu thuẫn với phiên bản được chấp nhận rộng rãi rằng tàu bị nổ tung thành hai mảnh, mỗi nửa nổi riêng biệt. Dù sao đi nữa, sự diệt vong của Fusō cũng đồng nghĩa với cái chết của 1.630 thủy thủ, sau cùng chỉ còn mười người sống sót trở về Nhật Bản.
Giai đoạn pháo kích

Diễn biến của giai đoạn pháo kích trong trận eo biển Sugirao
1. 03 giờ 51 phút – Các tàu tuần dương của Đô đốc Kinkaid khai hỏa vào Yamashiro.
2. 03 giờ 53 phút – Thiết giáp hạm West Virginia bắt đầu bắn vào Yamashiro.
3. 03 giờ 55 phút – California khai hỏa vào Yamashiro.
4. 03 giờ 56 phút – Tennessee khai hỏa vào Yamashiro.
5. 03 giờ 59 phút – Maryland khai hỏa vào Yamashiro.
6. 04 giờ 07 phút – Yamashiro trúng thêm một ngư lôi do tàu khu trục phóng.
8. 04 giờ 12 phút – Mississippi khai hỏa vào Yamashiro.
9. 04 giờ 19 phút – Yamashiro lật úp và chìm.
----------------------------------------
Các trắc thủ radar trên các thiết giáp hạm và tàu tuần dương Mỹ ở đầu eo biển đang theo dõi bước tiến của lực lượng Nhật đã bị tổn thất nặng nề của Nishimura. Radar đầu tiên phát hiện mục tiêu lúc 03 giờ 23 phút ở khoảng cách 33.000 yard. Chờ cho quân Nhật tiếp cận gần hơn, các tàu tuần dương Mỹ không khai hỏa cho đến 03 giờ 51 phút ở khoảng cách khoảng 16.000 yard. Hai phút sau đó, thiết giáp hạm đầu tiên nổ súng là West Virginia từ khoảng cách 22.800yard. Tất cả các tàu đều nhắm vào tín hiệu radar lớn nhất trong số ba tàu Nhật – chính là thiết giáp hạm Yamashiro.
Cuộc pháo kích từ các thiết giáp hạm Mỹ ngày càng dữ dội khi từng tàu lần lượt có được tín hiệu điều khiển hỏa lực. California khai hỏa lúc 03 giờ 55 phút từ khoảng cách 20.400 yard. Tennessee nhập cuộc một phút sau đó. Đây là ba tàu được trang bị radar điều khiển hỏa lực Mk 8. Ba thiết giáp hạm còn lại sử dụng radar Mk 3 cũ hơn và gặp khó khăn trong việc xác định mục tiêu. Lúc 03 giờ 59 phút, Maryland khai hỏa bằng cách dùng radar Mk 3 để xác định tầm bắn dựa vào cột nước từ đạn pháo của các tàu khác. Mississippi mất nhiều thời gian hơn để tham chiến, và đến 04 giờ 12 phút, mới phóng một loạt đạn đầy đủ vào Yamashiro từ khoảng cách 19.790 yard. Đây là loạt đạn cuối cùng của giai đoạn thiết giáp hạm trong trận đánh – và cũng là loạt đạn cuối cùng trong lịch sử được một thiết giáp hạm bắn vào một thiết giáp hạm khác. Pennsylvania không xác định được hướng bắn hiệu quả cho dàn pháo chính 14 inch/45 của mình nên không nổ súng phát nào.

Ảnh chụp các trận chiến ban đêm rất hiếm và thường có chất lượng kém. Bức ảnh này cho thấy thiết giáp hạm West Virginia đang khai hỏa trong trận chiến eo biển Surigao. Bức ảnh được chụp từ thiết giáp hạm Pennsylvania, vốn không hề nổ súng trong suốt trận đánh.
Yamashiro đã chiến đấu ngoan cường trong một tình thế tuyệt vọng. Hàng trăm quả đạn pháo cỡ 6 inch, 8 inch, 14 inch và 16 inch rơi xung quanh; theo nhân chứng từ cả hai phía, một số lượng lớn đạn đã trúng mục tiêu. Con tàu chìm trong biển lửa ở nhiều vị trí, nhưng vẫn phản công bằng pháo chính và pháo phụ của mình. Ngay từ lúc 03 giờ 56 phút, tàu đã nhắm vào tàu tuần dương hạng nhẹ Phoenix; đến 03 giờ 59 phút, tàu tuần dương hạng nhẹ Columbia ghi nhận nhiều loạt đạn suýt trúng. Lúc 04 giờ 01 phút, Yamashiro bắn trùm lên tàu tuần dương hạng nặng Úc Shropshire bằng nhiều loạt pháo. Tàu tuần dương hạng nhẹ Denver cũng bị bắn trả. Khả năng bắn của Yamashiro khá chính xác và có thể được hỗ trợ bởi radar, tuy nhiên không ghi nhận cú bắn trúng nào từ pháo 14 inch/45.
Tổn thất do hỏa lực dữ dội từ phía Mỹ gây ra cho Yamashiro là rất lớn, nhưng thiết giáp hạm bị thương vẫn tiếp tục di chuyển và bắn trả. West Virginia đã ghi điểm ngay trong loạt bắn đầu tiên, đánh trúng cấu trúc thượng tầng của Yamashiro. Đô đốc Nishimura không bị thương và vẫn ở trên tháp chỉ huy cho đến khi con tàu lật úp. Những cú đánh cuối cùng khiến Yamashiro bị hạ được thực hiện bởi Hải đội tàu khu trục 56, là hải đội tàu khu trục cuối cùng của Mỹ tấn công. Giữa cơn bão đạn, 9 tàu khu trục tiến lại gần để thực hiện tấn công bằng ngư lôi và pháo binh. Tổ cuối cùng đã phóng ngư lôi trúng phòng máy mạn phải của Yamashiro vào lúc 04 giờ 07 phút. Trong khi lệnh ngừng bắn được Đô đốc Oldendorf ban hành lúc 04 giờ 09 phút, Yamashiro quay đầu về phía nam. Lúc 04 giờ 11 phút, hai quả ngư lôi từ tàu khu trục Newcomb đánh trúng mạn phải con tàu. Ở chiều hướng ngược lại, tàu khu trục Albert W. Grant bị rơi vào làn đạn chéo giữa hai phía, trúng 19 quả đạn – phần lớn là pháo 6 inch của Mỹ và ít nhất sáu quả từ pháo phụ của Yamashiro – khiến 34 người thiệt mạng và 94 người bị thương.
Cuộc chiến dũng cảm nhưng vô ích của Yamashiro kết thúc lúc 04 giờ 19 phút khi tàu lật úp về bên trái. Chỉ ba người sống sót đã chịu để tàu Mỹ cứu vớt sau . Tổng cộng có 1.636 thủy thủ thiệt mạng – chỉ có mười người sống sót.
Tàu tuần dương hạng nặng Mogami cũng không thoát khỏi hỏa lực dữ dội của Mỹ. Sau khi bắn bốn quả ngư lôi Type 93, con tàu bị tàu tuần dương hạng nặng Portland bắn trúng. Hai quả đạn pháo 8 inch đánh trúng boong của Mogami lúc 04 giờ 02 phút, giết chết hạm trưởng. Trong trận đánh sau đó, Mogami bị trúng từ 10 đến 20 quả đạn pháo cỡ 6 inch và 8 inch khi đang rút khỏi eo biển, nhưng vẫn nổi và dường như có thể sống sót. Tuy nhiên, sau đó tàu lại bị trúng bom 500 pound từ máy bay của các tàu sân bay hộ tống Mỹ và cuối cùng bị thủy thủ đoàn đánh đắm. Trong toàn bộ lực lượng của Nishimura, chỉ có tàu khu trục Shigure là còn sống sót.
Giai đoạn cuối của trận đánh kết thúc một cách không kịch tính cho lắm. Điều này lại cho thấy tình trạng hỗn loạn trong công tác kế hoạch của Nhật. Một lực lượng dưới quyền Phó Đô đốc Shima Kiyohide gồm hai tàu tuần dương hạng nặng, một tàu tuần dương hạng nhẹ và bốn tàu khu trục được lệnh tiến công vào Vịnh Leyte qua eo biển Surigao. Hoạt động của lực lượng này không phối hợp được với lực lượng của Nishimura. Lực lượng thứ hai này xuất hiện trong eo biển sau khi Nishimura đã bị tiêu diệt – một thực tế mà thật đáng kinh ngạc, Shima lại không hề hay biết vì Nishimura đã không báo cáo tình hình trận đánh cho ông ta. Sau khi đến eo biển và chứng kiến tàn tích đang cháy của lực lượng Nishimura, lại còn bị Mogami (đã bị thương) tông trúng khi đang rút về phía nam, Shima quyết định hủy bỏ nhiệm vụ. Đóng góp duy nhất của ông ta cho trận đánh là phóng 16 quả ngư lôi Type 93 vào eo biển – nhưng không quả nào trúng mục tiêu. Trận chiến thiết giáp hạm cuối cùng trong lịch sử đã kết thúc bằng một chiến thắng hoàn toàn của người Mỹ.
THỐNG KÊ VÀ PHÂN TÍCH

Tàu West Virginia đang trong ụ nổi tại Espiritu Santo, New Hebrides vào tháng 11 năm 1944, sau trận chiến ở eo biển Surigao. Lưu ý sự đa dạng của các thiết bị điện tử và vũ khí phòng không là một phần trong quá trình tái thiết của tàu. Các lớp blister chống ngư lôi lớn cũng được nhìn thấy rất rõ ràng.

Bức ảnh này cho thấy tàu Tennessee tại vịnh Buckner, Okinawa, vào ngày 17 tháng 7 năm 1945. Đây là cấu hình của tàu trong trận chiến eo biển Surigao và cho thấy rõ mức độ tái thiết của tàu. Lưu ý các tháp pháo ba nòng 14 inch/50 và các ụ pháo đôi 5 inch/38 đa năng. Các bộ chỉ huy pháo chính Mk 34 hiện rõ cùng với rađar Mk 8 được gắn trên đỉnh.
CUỘC ĐẤU PHÁO GIỮA CÁC THIẾT GIÁP HẠM Ở TRẬN HẢI CHIẾN ĐẢO GUADALCANAL

Trích từ báo cáo hư hại của Hải quân Mỹ, đây là kết quả của một phát đạn pháo 6 inch hoặc 8 inch bắn trúng thân tàu South Dakota. Quả đạn bắn trúng phần giữa thân tàu, vào một khoang chứa nhiên liệu và dằn nước, và phát nổ ngay khi tiếp xúc. Lưu ý các đinh tán bị cắt đứt và các lỗ do mảnh đạn gây ra trên lớp thép bên trong.

Một bức ảnh khác về hư hại của tàu South Dakota. Thiệt hại này do một quả đạn pháo 8 inch bắn trúng phần mũi tàu, tạo ra một lỗ thủng kích thước 4×5 feet.
Chiến thắng của Lee trong Trận hải chiến lần thứ hai tại Guadalcanal là điều khó xảy ra theo nhiều phương diện. Trong một trận chiến ban đêm, ông không thể khai thác triệt để ưu thế lớn nhất của mình – tầm bắn xa của pháo 16 inch. Các hệ thống radar còn chưa hoàn thiện của Mỹ thời kỳ đó khiến trận đánh nhiều khả năng phải diễn ra ở ở cự ly tương đối gần. Nếu đúng như vậy, chiến thuật phóng ngư lôi của Nhật Bản và loại ngư lôi Type 93 xuất sắc của họ – với đầu đạn nặng 1.078 lb và tầm bắn đáng kinh ngạc lên đến 43.700 yard ở tốc độ 36 hải lý/giờ – có thể đã trở thành yếu tố quyết định kết quả trận chiến.
Giai đoạn đầu của trận đánh hoàn toàn nghiêng về phía Kondō. Cũng như nhiều lần khác trong chiến dịch Guadalcanal, hệ thống quang học của Nhật vượt trội hơn thiết bị điện tử của Mỹ, cho phép Hải quân Đế quốc Nhật Bản phát hiện lực lượng của Lee trước. Khi Lee tung các thiết giáp hạm của mình tấn công Đơn vị quét đường ở cự ly 18.500 yard vào lúc 00 giờ 17 phút, đó là lần đầu tiên trong chiến tranh Thái Bình Dương mà Hải quân Mỹ khai hỏa pháo 16 inch trong chiến đấu thực sự. Dù các báo cáo từ trạm điều khiển pháo chính đầy lạc quan rằng mục tiêu đã bị tiêu diệt, không có tàu Nhật nào bị trúng đạn. Khi trận đánh tiếp diễn, phía Nhật – với chiến thuật quyết đoán – đã tiêu diệt toàn hàng rào tàu khu trục của Mỹ bằng ngư lôi và pháo binh. Trong khi đó, không có tàu khu trục Mỹ nào phóng được dù chỉ một quả ngư lôi. Mất mát duy nhất của Nhật là tàu khu trục Ayanami, bị bắn chìm – có lẽ do pháo hạng hai của tàu South Dakota sử dụng radar điều khiển – và đó cũng là phát bắn trúng đích duy nhất của South Dakota trong suốt trận chiến.
Chiến thắng của Lee hoàn toàn nhờ vào radar, như chính ông thừa nhận sau trận đánh. Khi được cung cấp một mục tiêu lớn ở cự ly tương đối gần, tàu Washington bắn rất hiệu quả. Khoảng cách khai hỏa đầu tiên với tàu Kirishima là 8.400 yard – một cự ly chết người. Kíp pháo thủ trên Washington nã pháo liên tục, tập trung vào Kirishima. Radar Mk 3 cung cấp thông tin khoảng cách tuyệt vời, giúp phía Mỹ không cần bắn dò để điều chỉnh mục tiêu. mặc dù có radar, việc bắn trúng mục tiêu đang di chuyển ở khoảng cách xa vẫn rất khó, như bảng dữ liệu dưới đây minh họa rõ. Trong trận đánh này, chỉ có Washington là đạt được thành công thực sự khi đấu với Kirishima ở khoảng cách tương đối gần.

Không thể phục dựng một cách rõ ràng những thiệt hại mà Kirishima phải chịu. Điều rõ ràng là toàn bộ thiệt hại đều do Washington gây ra trong khoảng thời gian từ 01 giờ đến 01 giờ 07 phút. Báo cáo chuẩn về thiệt hại của Kirishima được cung cấp bởi Trung tá Hải quân Horishi Tokuno, người sau chiến tranh khai rằng Kirishima bị trúng 9 quả đạn 16 inch và 40 quả đạn 5 inch. Báo cáo sau trận của Lee ghi nhận rằng Kirishima trúng 8 quả đạn 16 inch. Tuy nhiên, con số đạn 16 inch này có vẻ quá thấp so với các nguồn khác, còn con số 40 quả đạn 5 inch trong tổng số 107 viên bắn ra thì lại có vẻ quá cao.
Một bản báo cáo thực tế hơn được cung cấp bởi Trung tá Hải quân Hayashi Shiro, sĩ quan trưởng phòng kiểm soát thiệt hại của Kirishima. Trước khi tàu chìm, ông đã vẽ lại sơ đồ thiệt hại trên tàu. Sơ đồ này ghi nhận tổng cộng 20 quả đạn 16 inch và 17 quả đạn 5 inch, được sử dụng trong bảng số liệu. Dù con số trúng đạn 16 inch cuối cùng là bao nhiêu, hệ thống bảo vệ của Kirishima không đủ sức chống đỡ ở cự ly như vậy. Tổn thất bao gồm nhiều phát bắn trúng dưới mặt nước, gây ngập lụt nghiêm trọng và dẫn đến việc Kirishima chìm chỉ vài giờ sau đó.
Đây là một trong chỉ hai trường hợp trong Thế chiến 2 mà một thiết giáp hạm bị đánh chìm khi đang di chuyển, hoàn toàn do hỏa lực từ một thiết giáp hạm khác (trường hợp còn lại là vụ Hood bị Bismarck đánh chìm vào tháng 5 năm 1941). Điều này cho thấy sức hủy diệt khủng khiếp của đầu đạn nặng 2.700 pound được bắn từ pháo hạm 16 inch, cùng khả năng xuyên thủng lớp giáp yếu của thiết giáp hạm lớp Kongō. Khi trận chiến trở thành cuộc đối đầu giữa Kirishima – một thiết kế có từ năm 1911 và không có radar – so với Washington, được đưa vào hoạt động chỉ một năm trước đó vào năm 1941 và được trang bị hệ thống radar điều khiển hỏa lực hiện đại nhất trên biển, thì kết cục không bao giờ là điều đáng nghi ngờ.
So sánh với Washington, Kirishima đấu với South Dakota cũng không khá hơn. Theo một nguồn Nhật Bản, Kirishima đã bắn 117 quả đạn 14 inch vào thiết giáp hạm Mỹ này. Ngoài ra, Atago bắn 61 quả đạn 8 inch và Takao bắn 36 quả vào cùng mục tiêu. Báo cáo thiệt hại chính thức của Hải quân Mỹ cho biết South Dakota trúng 26 phát đạn, trong đó chỉ có một quả là đạn 14 inch. Phát đạn này trúng vào tháp pháo số 3, không xuyên giáp nhưng gây thủng sàn chính quanh tháp pháo. Phần lớn thiệt hại của South Dakota là nằm ở cấu trúc thượng tầng, tuy nhiên một quả đạn trúng dưới mực nước và hai quả trúng gần mực nước đã gây ngập nhẹ. Con tàu không bao giờ có nguy cơ bị chìm và không có vụ cháy nghiêm trọng nào xảy ra. Báo cáo cho rằng 18 trong số các phát bắn trúng là đạn 8 inch. Hai tàu tuần dương hạng nặng Nhật Bản đã bắn tổng cộng 97 quả đạn 8 inch – nếu đúng, đây là một tỷ lệ chính xác đáng kinh ngạc. Có khả năng một hư hại được nhận diện là do đạn 8 inch thực ra là từ đạn 14 inch, bởi trong số 117 quả đạn Kirishima bắn ra chỉ có 27 là đạn xuyên giáp; đạn nổ mạnh và đạn cháy có thể gây hư hại giống như đạn cỡ nhỏ hơn. Các nguồn Nhật cho rằng có đến mười phát trúng South Dakota từ Kirishima, nhưng điều này cũng khó có khả năng.
Dù trận đánh được định đoạt bởi cuộc đối đầu không cân sức giữa Washington và Kirishima, kết cục có thể đã khác. Với màn trình diễn xuất sắc của Washington – gần như đơn thương độc mã giành chiến thắng – Lee còn nhận được rất nhiều may mắn. Lực lượng hộ tống của ông hoàn toàn thất bại, và chỉ ít lâu sau khi các tàu khu trục bị tiêu diệt, South Dakota cũng bị loại khỏi vòng chiến do hỏng hóc thiết bị và chịu nhiều hỏa lực đối phương. Không hoàn toàn nhận thức được mối đe dọa từ ngư lôi tầm xa Type 93 của Nhật, Lee vẫn cho Washington giữ lộ trình ổn định trong phần lớn trận đánh. Trong các trận trước và sau đó, đây thường là công thức cho thảm họa. Nhưng lần này, dù phía Nhật bắn hàng chục quả ngư lôi vào Washington, nhiều quả ở cự ly gần và góc tấn công thuận lợi, không quả nào trúng đích. Nếu chỉ một trong số đó trúng tàu, gần như chắc chắn cục diện trận đánh đã khác. Nếu điều đó xảy ra ngay từ đầu trận, Kondō có thể đã có cơ hội tiếp tục nhiệm vụ pháo kích, có thể dẫn đến việc vô hiệu hóa sân bay Henderson.
Khi đưa ra giả định về một chiến thắng có thể xảy ra của Nhật Bản trong Trận hải chiến lần thứ hai tại Guadalcanal, cần bàn đến tình hình tổng thể. Câu hỏi đặt ra là liệu vai trò của các thiết giáp hạm của Lee có thực sự mang tính quyết định hay không. Cần lưu ý rằng toàn bộ nỗ lực do Đô đốc Yamamoto Isoruku, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản giám sát đã bị quản lý một cách tồi tệ. Phần lớn đoàn vận tải lớn đang tiến đến Guadalcanal đã bị tiêu diệt vào ngày trước trận đấu thiết giáp hạm xảy ra vào đêm ngày 14 - 15 tháng 11. Vì vậy, ngay cả khi Kondō có thể pháo kích và vô hiệu hóa thành công sân bay, thì phần còn lại của đoàn vận tải đến được Guadalcanal cũng không đủ để mang lại ưu thế quyết định cho quân Nhật trên đảo. Tuy nhiên, việc gần như toàn bộ đoàn vận tải bị tiêu diệt trong hai ngày 14–15 tháng 11 và việc Nhật mất hai thiết giáp hạm trong vòng ba ngày đã chấm dứt mọi nỗ lực tăng viện cho hòn đảo này. Theo nghĩa đó, các trận hải chiến tại Guadalcanal từ ngày 12 đến 15 tháng 11 là mang tính quyết định, và vai trò của các thiết giáp hạm Mỹ cũng vậy. Câu hỏi đặt ra: nếu thiết giáp hạm Mỹ đóng vai trò then chốt, tại sao Yamamoto không điều các thiết giáp hạm mạnh hơn của mình tham chiến? Dù chỉ có thể là giả định, sự xuất hiện của Yamato ngoài khơi mũi Lunga có thể đã mang lại cho Hải quân Đế quốc Nhật sức mạnh hỏa lực để đảm bảo phá hủy sân bay. Trong khi Halsey liều lĩnh tung Washington và South Dakota vào trận trong điều kiện bất lợi nhất có thể, Yamamoto lại giữ những thiết giáp hạm hiện đại nhất của mình tại quần đảo Truk – nơi chúng không hề tham gia trận chiến.
TRẬN EO BIỂN SURIGAO
Đến năm 1944, Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) không còn cơ hội xoay chuyển cục diện chiến tranh. Tuy vậy, họ vẫn thực hiện một nỗ lực tối đa tại Vịnh Leyte vào tháng Mười. Trong chuỗi trận đấu cấu thành nên trận đánh này, trận chiến tuyệt vọng nhất từ góc nhìn của người Nhật chính là Trận eo biển Surigao. Tại đây, IJN thể hiện kém cỏi, hoàn toàn khác với hiệu suất chiến đấu trong các trận đánh đêm trước đó. Dù đến thời điểm này mọi tàu chiến lớn của Nhật đều đã được trang bị radar, không có bằng chứng nào cho thấy radar của họ đã được sử dụng hiệu quả tại eo biển Surigao. Khả năng quan sát ban đêm vốn là thế mạnh truyền thống của người Nhật cũng không được thể hiện; trong nhiều tình huống, tàu khu trục Mỹ áp sát để tấn công bằng ngư lôi mà phía Nhật thậm chí không hề thực hiện bất kỳ động tác né tránh nào.
Người Nhật cũng thiếu sự quyết đoán và tinh thần tấn công. Tàu khu trục Shigure rút khỏi trận đánh mà không bắn một quả ngư lôi nào, điều tương tự cũng xảy ra với bốn tàu khu trục trong lực lượng của Shima. Hiệu suất chiến đấu của hai thiết giáp hạm cũ của Nishimura cũng khác nhau. Fusō chìm sau khi trúng hai quả ngư lôi, nhưng Yamashiro đã trụ vững dù trúng khoảng bốn quả ngư lôi và hứng chịu một trận bão hỏa lực gồm đủ các loại đạn pháo từ 16 inch đến 5 inch, và vẫn tiếp tục bắn trả với mức độ chính xác nhất định.
Cuối cùng, triển vọng thành công của Nishimura – cũng như toàn bộ kế hoạch của IJN tại Vịnh Leyte – hoàn toàn phi thực tế. Tương quan lực lượng bất lợi và sự thiếu phối hợp với lực lượng của Shima khiến khả năng giành chiến thắng là vô cùng mong manh. Nhưng việc toàn bộ lực lượng của Nishimura bị tiêu diệt – ngoại trừ một tàu khu trục – để đổi lấy việc chỉ gây thiệt hại cho một tàu khu trục Mỹ, cho thấy rằng đến năm 1944, năng lực chiến đấu của IJN đã suy giảm nghiêm trọng và không còn là lực lượng như những ngày đầu chiến tranh.
Phía Mỹ đã xây dựng một kế hoạch đơn giản nhưng hiệu quả để tận dụng ưu thế lực lượng áp đảo. Kinkaid đã hiện thực hóa giấc mơ của mọi sĩ quan tác chiến hải quân: vượt mặt và cắt ngang đội hình của đối phương, hay còn gọi là “cắt chữ T”. Một lần nữa, radar lại đóng vai trò then chốt cho người Mỹ. Việc sử dụng rộng rãi radar đã mang lại cho họ lợi thế to lớn về nhận thức chiến trường và dữ liệu ngắm bắn quan trọng cho cả ngư lôi lẫn pháo binh.
Dù ngư lôi của Mỹ là loại vũ khí hiệu quả nhất trong trận này, các khẩu pháo lớn của thiết giáp hạm cũng phát huy tốt vai trò của mình. Năng lực của các hệ thống điều khiển hỏa lực tiên tiến của Hải quân Mỹ đã được thể hiện rõ nét. West Virginia, California và Tennessee đều được trang bị radar điều khiển hỏa lực Mk 8. West Virginia khởi động giai đoạn pháo kích bằng pháo lớn bằng cách bắn trúng trực tiếp Yamashiro ngay trong loạt đạn đầu tiên. Ba thiết giáp hạm trang bị Mk 8 này đã bắn phần lớn số đạn cỡ lớn của phía Mỹ trong trận đánh: West Virginia 93 viên, Tennessee 69 viên và California 63 viên. Ngoài phát bắn trúng mục tiêu đầu tiên của West Virginia, không thể xác định có bao nhiêu đạn pháo cỡ lớn khác đã trúng Yamashiro. Những thiết giáp hạm được trang bị radar điều khiển hỏa lực cũ hơn Mk 3 thì kém hiệu quả hơn nhiều. Maryland chỉ bắn 48 phát và có lẽ độ chính xác rất thấp vì phải dựa vào các cột nước từ loạt đạn của các tàu khác để ước lượng mục tiêu; Mississippi chỉ bắn một loạt gồm 12 phát và Pennsylvania thì không bắn phát nào. Việc phân bổ hỏa lực cũng là một vấn đề, vì tất cả các thiết giáp hạm Mỹ và ban đầu là cả các tàu tuần dương đều tập trung hỏa lực vào Yamashiro mà thôi.
KẾT QUẢ

Ba thiết giáp hạm thuộc lớp New Mexico không bao giờ được hiện đại hóa toàn diện trong suốt cuộc chiến ở Thái Bình Dương do phải liên tục tham gia hỗ trợ các chiến dịch đổ bộ. Bức ảnh này chụp tàu Mississippi vào tháng 1 năm 1945, trong chiến dịch đổ bộ tại vịnh Lingayen, đang bắn phá một mục tiêu trên bờ. Theo sau là thiết giáp hạm West Virginia và tuần dương hạm hạng nặng Shropshire của Hải quân Úc.
Thật đáng chú ý là trong gần bốn năm chiến tranh ở Thái Bình Dương, thiết giáp hạm của Mỹ và Nhật chỉ đối đầu trực tiếp đúng có hai lần. Đáng tiếc cho phía Nhật, trong cả hai lần, họ đều phải tung vào trận các lớp thiết giáp hạm cũ nhất của mình. Và cũng trong cả hai trận, việc sử dụng radar đã mang tính quyết định, làm nổi bật một trong những điểm yếu cốt lõi của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) trong chiến tranh. Bên cạnh đó, thiết kế của các con tàu cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả các trận đấu pháo giữa thiết giáp hạm. Dù đã được hiện đại hóa đáng kể, Kirishima vẫn bị vượt mặt hoàn toàn vào năm 1942 và không có cơ hội đối đầu với các thiết giáp hạm hiện đại hơn của Mỹ ngoài khơi Guadalcanal. Hai tàu thuộc lớp Fusō cũng bị áp đảo tại eo biển Surigao năm 1944, khi lớp giáp bảo vệ yếu kém đã không thể bảo vệ chúng.

Thiết giáp hạm tồn tại lâu nhất trong lớp Kongō của Hải quân Đế quốc Nhật Bản là Haruna, được chụp sau chiến tranh gần Kure, Nhật Bản. Sau một chặng đường phục vụ dài trong thời chiến, Haruna bị trúng tổng cộng 12 quả bom từ máy bay của Hải quân Hoa Kỳ vào các ngày 24 và 28 tháng 7 năm 1945, và cuối cùng chìm trong vùng nước nông.
Hai trận chiến giữa thiết giáp hạm là biểu tượng cho sự thiếu thành công của lực lượng thiết giáp hạm Nhật trong suốt cuộc chiến. Trong khi lớp Kongō tham chiến tương đối nhiều, phần lớn các thiết giáp hạm khác của IJN hiếm khi được sử dụng. Điều cho thấy rõ nhất hiệu suất kém cỏi của lực lượng này là việc chiến công nổi bật nhất của các thiết giáp hạm Nhật trong toàn bộ chiến tranh chỉ là cuộc pháo kích sân bay trên đảo Guadalcanal vào tháng 10 năm 1942 – và đó còn không phải là một trận hải chiến. Tại Vịnh Leyte, Nhật Bản đã dốc toàn bộ sức mạnh còn lại của mình, bao gồm cả 9 thiết giáp hạm cuối cùng. Trong số này, ba chiếc bị đánh chìm, một chiếc không bao giờ quay trở về Nhật, và 5 chiếc còn lại bị truy sát vào năm 1945. Yamato đã kết thúc số phận của mình trong một nhiệm vụ hoàn toàn vô vọng nhằm tấn công lực lượng đổ bộ của Mỹ ngoài khơi Okinawa vào tháng 4 năm 1945, và ba chiếc khác bị đánh chìm ngay trong cảng. Chỉ có Nagato sống sót sau các đợt không kích của tàu sân bay Mỹ và được đầu hàng khi chiến tranh kết thúc.

Một cột khói khổng lồ vươn cao đánh dấu cái kết của thiết giáp hạm Yamato vào ngày 7 tháng 4 năm 1945. Con tàu được phái đi trong một nhiệm vụ vô vọng nhằm tấn công lực lượng đổ bộ của Mỹ ngoài khơi Okinawa, nhưng đã bị đánh chìm khi còn cách mục tiêu 200 hải lý. Phải đến bảy quả bom và từ 9 đến 12 ngư lôi mới có thể đánh chìm Yamato, cho thấy rằng không một thiết giáp hạm nào có thể được bọc giáp đủ mạnh để chống chọi hiệu quả với sức mạnh không kích.
Trái lại, các thiết giáp hạm của Hải quân Mỹ đóng vai trò tích cực và hiệu quả xuyên suốt cuộc chiến. 10 tàu hiện đại được đưa vào biên chế đã trở thành một phần không thể thiếu của Lực lượng Tác chiến Tàu sân bay Tốc độ cao (Fast Carrier Task Force), dù chúng chủ yếu được coi trọng nhờ khả năng phòng không hơn là hỏa lực pháo chính – vốn hiếm khi được sử dụng. Những thiết giáp hạm cũ không đủ tốc độ để tham gia các trận đánh hạm đội, nhưng lại được tích hợp hoàn toàn vào lực lượng đổ bộ của Hải quân Mỹ – lực lượng đã tiến hành một chuỗi chiến dịch không thể ngăn cản khắp Thái Bình Dương từ năm 1943 cho đến hết chiến tranh. Trong vai trò hỏa lực yểm trợ, các thiết giáp hạm cũ tỏ ra không gì có thể sánh bằng, và chúng phần lớn miễn nhiễm trước làn sóng kamikaze (thần phong) đang tràn ngập Hải quân Mỹ từ tháng 10 năm 1944 trở đi. Khoản đầu tư của Hải quân Mỹ vào lực lượng thiết giáp hạm đã mang lại hiệu quả vượt trội so với những gì phía Nhật Bản nhận được.
Đơn vị đo lường: 1 hải lý = 1.85km; 1yard = 0.9m; 1 feet = 0.3m; 1inch = 2.54cm/25.4mm; 1 hải lý/giờ= 1.85km/h; 1lb = 0.45kg.
Link phần 1:

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này