THIẾT GIÁP HẠM DREADNOUGHT ANH vs THIẾT GIÁP HẠM DREADNOUGHT ĐỨC: Jutland 1916 (Phần 2)
Nối tiêp phần 1, phần 2 sẽ mô tả diễn biến, đánh giá, kết quả của các dreadnought của Anh và Đức trong Trận hải chiến Jutland 1916 - trận chiến giữa các thiết giáp hạm lớn nhất trong lịch sử.
GIAO CHIẾN
CHIẾN THUẬT CỦA ANH VÀ ĐỨC
Điều quan trọng là cần xem xét tổng thể chiến thuật của mỗi bên trước khi đi vào trình bày diễn biến cụ thể của trận đánh. Chiến thuật của Đại Hạm đội được Jellicoe xây dựng hoàn toàn và dựa trên ba nguyên tắc. Nguyên tắc đầu tiên, và quan trọng nhất, là nhấn mạnh phòng thủ. Jellicoe kiên quyết không mạo hiểm các thiết giáp hạm dreadnought của mình trước các mối đe dọa dưới mặt nước. Ông tin chắc rằng người Đức sẽ vận hành tàu ngầm phối hợp cùng hạm đội tác chiến của họ, và rằng một chiến thuật của Đức sẽ là rải thủy lôi rồi cố gắng nhử người Anh lao qua khu vực đó. Jellicoe cũng ghi nhận lực lượng tàu khu trục của Đức là đáng gờm, khi chúng được trang bị ngư lôi vượt trội. Do đó, ông dự định sẽ giao chiến với người Đức bằng hỏa lực pháo ở cự ly xa, vượt ngoài tầm hiệu quả của ngư lôi.
Để giữ đội hình hạm đội thống nhất và huy động được số lượng pháo hạng nặng lớn nhất nhắm vào đối phương, Jellicoe cũng quyết tâm giao chiến trong đội hình hàng dọc (line-ahead) trên hướng song song với địch. Ông bác bỏ các chiến thuật linh hoạt hơn do lo ngại rằng một chi hạm đội của Đại Hạm đội có thể bị cô lập và tiêu diệt, và do nghi ngờ rằng chiến thuật “phân tán” có thể được thực hiện thành công. Bởi vì mối đe dọa từ ngư lôi khiến việc hành tiến trong đội hình hàng dọc trong giai đoạn tiếp cận là quá nguy hiểm, Jellicoe ra lệnh cho Đại Hạm đội tiếp cận đối phương theo đội hình cột. Ông sẽ ra lệnh cho hạm đội triển khai thành đội hình hàng dọc ngay trước khi bước vào trận đánh. Ông mong muốn trận đánh bắt đầu ở cự ly xa (18.000 yard), và trong giai đoạn đầu sẽ không tiến sát dưới 14.000 yard. Một khi hỏa lực pháo binh đã làm suy yếu sức mạnh của Đức, ông sẽ tiến đến 10.000 yard để tiêu diệt đối phương. Các khu trục hạm Anh sẽ được triển khai hoàn toàn trong vai trò phòng thủ. Nguyên tắc thứ ba của Jellicoe rất đơn giản – Đại Hạm đội sẽ dựa vào chỉ huy tập trung vào chính bản thân ông.

Đô đốc Jellicoe đang đứng trên tàu HMS Iron Duke - soái hạm của Đại Hạm đội trong trận Jutland.

Một tàu khu trục Đức lớp G-37 đang lướt qua đội hình các thiết giáp hạm của Hạm đội Biển khơi (High Seas Fleet). Trong suốt cuộc chiến, người Anh đã đánh giá quá cao mối đe dọa từ ngư lôi do các đơn vị tàu nhẹ Đức gây ra – và quan niệm này đã ảnh hưởng đến chiến thuật của họ tại trận Jutland. Tuy nhiên, trong trận đánh ấy, các tàu phóng lôi của Đức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Bất chấp những lo ngại của Jellicoe, chiến thuật của phía Đức cũng hướng đến một trận đánh quyết định bằng pháo binh. Tuy nhiên, Scheer – vốn là một chuyên gia về ngư lôi – lại nhìn thấy vai trò của một cuộc tấn công quy mô lớn bằng khu trục hạm trong một số tình huống nhất định. Scheer lên kế hoạch cô lập và tiêu diệt một bộ phận nhỏ của Đại Hạm đội; trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ông cũng không muốn bị cuốn vào một cuộc đụng độ quyết định với phần chủ lực của hạm đội đối phương. Nếu điều đó có nguy cơ xảy ra, Scheer dự định sẽ quay đầu cơ động né tránh dưới sự yểm trợ của khói và một đợt tấn công bằng ngư lôi.
Chiến thuật của Scheer trong trận đánh thực tế bị chi phối bởi thực tế rằng ông bị áp đảo về quân số; về thiết giáp hạm dreadnought, tỉ lệ là 28 chọi 16, và 9 chọi 5 ở thiết giáp tuần dương hạm – tất cả lợi thế quân số đều nghiêng về phía Anh. Điều này cũng dẫn đến ưu thế vượt trội về hỏa lực cho phía Anh. Các dreadnought của Anh mang tổng cộng 272 khẩu pháo hạng nặng, trong khi dreadnought của Đức chỉ có 200 khẩu. Hỏa lực của các thiết giáp tuần dương hạm cũng nghiêng về phía Anh, với 72 khẩu pháo hạng nặng so với 44 khẩu của Đức. Thách thức của Scheer càng lớn hơn khi phía Anh còn nắm lợi thế về tốc độ. Vì Scheer đã nhân nhượng và quyết định đưa cả các thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc Hải đoàn thiết giáp hạm số II đi cùng Hạm đội Biển khơi, ông bị giới hạn ở tốc độ tối đa 18 hải lý/giờ – chậm hơn Đại Hạm đội từ 2 đến 3 hải lý. Tương tự, các thiết giáp tuần dương hạm mới nhất của Beatty có lợi thế 3 hải lý so với đội hình của Hipper.
------------------------------------------^^^^^^^-------------------------------------------
TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG THAM CHIẾN TRONG TRẬN JUTLAND 1916
1. ĐẠI HẠM ĐỘI ANH (THE GRAND FLEET) (151 tàu chiến)
a. Hạm đội thiết giáp hạm
Hải đoàn thiết giáp hạm số 1
Hải đội 5: Colossus, Collingwood, Neptune, St Vincent
Hải đội 6: Marlborough, Revenge, Hercules, Agincourt
Hải đoàn thiết giáp hạm số 2
Hải đội 1: King George V, Ajax, Centurion, Erin
Hải đội 2: Orion, Monarch, Conqueror, Thunderer
Hải đoàn thiết giáp hạm số 4
Hải đội 3: Iron Duke, Royal Oak, Superb, Canada
Hải đội 4: Benbow, Bellerophon, Temeraire, Vanguard
Hải đoàn thiết giáp tuần dương hạm số 3 (tạm thời trực thuộc): Invincible, Inflexible, Indomitable
Tàu tuần dương bọc thép: 8 chiếc
Tàu tuần dương: 8 chiếc
Tàu khu trục: 51 chiếc
Tàu rải mìn: 1 chiếc
b. Hạm đội thiết giáp tuần dương hạm
Soái hạm thiết giáp tuần dương hạm: Lion
Hải đoàn thiết giáp tuần dương hạm số 1: Princess Royal, Queen Mary, Tiger
Hải đoàn thiết giáp tuần dương hạm số 2: New Zealand, Indefatigable
Hải đoàn thiết giáp tuần dương hạm số 5 (tạm thời trực thuộc): Barham, Valiant, Warspite, Malaya
Tàu tuần dương nhẹ: 14 chiếc
Tàu khu trục: 28 chiếc
Tàu sân bay thủy phi cơ: 1 chiếc
2. HẠM ĐỘI BIỂN KHƠI ĐỨC (HOCHSEEFLOTTE) (99 tàu chiến)
a. Hạm đội thiết giáp hạm
Hải đoàn thiết giáp hạm số I
Hải đội I: Ostfriesland, Thüringen, Helgoland, Oldenburg
Hải đội II: Posen, Rheinland, Nassau, Westfalen
Hải đoàn thiết giáp hạm số II (gồm 6 thiết giáp hạm tiền-dreadnought)
Hải đoàn thiết giáp hạm số III
Hải đội V: König, Grosser Kurfürst, Kronprinz, Markgraf
Hải đội VI: Kaiser, Kaiserin, Prinzregent Luitpold, Friedrich der Grosse
Tàu tuần dương nhẹ: 6 chiếc
Tàu phóng lôi: 32 chiếc
b. Lực lượng trinh sát
Hải đoàn trinh sát số I
Các thiết giáp tuần dương hạm: Lützow, Derfflinger, Seydlitz, Moltke, Von der Tann
Tàu tuần dương: 5 chiếc
Tàu phóng lôi: 30 chiếc
--------------------------------------^^^^^^^^-----------------------------------------
CUỘC ĐỤNG ĐỘ ĐẦU TIÊN
Đến ngày 28 tháng 5 năm 1916, Phòng 40 (Room 40) đã cung cấp đầy đủ bằng chứng cho thấy có điều gì đó bất thường đang diễn ra ở Biển Bắc. Vào ngày 30 tháng 5, có vẻ như một chiến dịch lớn của Hạm đội Biển khơi Đức sắp sửa xảy ra. Để đối phó, Bộ Hải quân Anh đã đưa Đại Hạm đội vào trạng thái sẵn sàng trong chiều hôm đó. Tối hôm ấy, Jellicoe dẫn phần lớn Đại Hạm đội (16 thiết giáp hạm và 3 thiết giáp tuần dương hạm) rời khỏi Scapa Flow, sau đó được tám thiết giáp hạm khác từ Cromarty gia nhập. Hạm đội thiết giáp tuần dương hạm của Beatty rời vịnh Firth of Forth với 6 thiết giáp tuần dương hạm và 4 thiết giáp hạm cao tốc thuộc Hải đoàn thiết giáp hạm số 5.
Vì Hạm đội Biển khơi Đức không rời cảng cho tận đến sáng sớm ngày 31 tháng 5, người Anh đã ra khơi trước người Đức, nhưng cuộc xuất phát đó không hoàn toàn diễn ra suôn sẻ. Khi Đại Hạm đội hành tiến ở chế độ tốc độ tiết kiệm 15 hải lý/giờ, di chuyển theo hình zigzag do lo ngại tàu ngầm, Jellicoe nhận được một điện tín từ Bộ Hải quân lúc 12 giờ 48 phút trưa, đã sai lầm khi báo cáo rằng người Đức vẫn chưa rời cảng. Sai sót nghiêm trọng này là hậu quả của sự đánh giá kém từ Cục trưởng Cục Tác chiến của Bộ Hải quân. Đây cũng là một lỗi trọng yếu; nếu Jellicoe được thông báo rằng người Đức đã ra khơi, có lẽ ông đã có thể tăng tốc để chạm trán người Đức sớm hơn trong ngày. Quan trọng hơn, khi Jellicoe nhận được các thông tin sau đó từ Bộ Hải quân về vị trí của người Đức, ông thường có xu hướng phớt lờ chúng.
Cuộc đối đầu lớn nhất giữa các thiết giáp hạm trong lịch sử đã bắt đầu một cách khá ngẫu nhiên. Tàu tuần dương hạng nhẹ Galatea ở cánh trái của Beatty phát hiện một cột khói cách 8 hải lý – đó là một tàu buôn Đan Mạch đang xả khói. Khi tiếp cận điều tra, Galatea phát hiện hai tàu chiến Đức cũng đang kiểm tra cột khói ấy và gửi báo cáo cho Beatty lúc 14 giờ 20 phút. Beatty phản ứng nhanh chóng, ra lệnh toàn bộ hạm đội vào vị trí chiến đấu, tăng tốc độ lên 22 hải lý/giờ và chuyển hướng về phía đông nam để cắt đường lui về căn cứ của người Đức. Tuy nhiên, một trục trặc trong liên lạc đã khiến bốn thiết giáp hạm thuộc Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 bị tách khỏi các thiết giáp tuần dương hạm của Beatty.
Khi các hạm đội thiết giáp tuần dương hạm của hai bên tiến vào giao chiến, lực lượng thiết giáp hạm của hai bên vẫn còn cách nhau vài giờ hành trình. Jellicoe đang ở cách đó khoảng 65 hải lý về phía bắc, ít nhất là ba giờ di chuyển. Đáp lại các thông báo từ Galatea rằng lực lượng Đức có bao gồm cả thiết giáp tuần dương hạm, ông đã tăng tốc lên 19 hải lý/giờ. Scheer thì đang ở cách đó khoảng 50 hải lý về phía nam.
GIAI ĐOẠN GIAO TRANH CỦA CÁC THIẾT GIÁP TUẦN DƯƠNG HẠM

Giai đoạn hai hạm đội thiết giáp tuần dương Anh (màu xanh) và Đức (màu đỏ) di chuyển xuống phía nam, từ 15 giờ 45 phút đến 16 giờ 40 phút
Hipper là người đầu tiên phát hiện các thiết giáp tuần dương của Anh. Ông lập tức quay đầu về phía nam để dụ lực lượng Anh thiếu cảnh giác tiến thẳng vào đội hình thiết giáp hạm của Scheer. Beatty sẵn lòng truy đuổi theo. Theo quan sát của ông, lực lượng của mình chỉ phải đối mặt với 5 thiết giáp tuần dương hạm Đức. Với ưu thế 10–5 về tàu chiến hạng nặng và tốc độ vượt trội, ông tin chắc rằng một chiến thắng quyết định đang nằm trong tầm tay. Trong suốt một giờ tiếp theo, từ 15 giờ 45 phút đến 16 giờ 40 phút, các thiết giáp tuần dương sẽ giao tranh quyết liệt, được yểm trợ bởi bốn thiết giáp hạm siêu - dreadnought của Hải đoàn thiết giáp hạm số 5.

Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 bao gồm 4 thiết giáp hạm cao tốc lớp Queen Elizabeth (Barham, Valiant, Warspite, Malaya) trang bị pháo 15inch là hải đoàn thiết giáp hạm mạnh nhất của Đại hạm đội Anh được giao nhiệm vụ tham chiến cùng hạm đội thiết giáp tuần dương của Betty. Do gặp phải sự cố liên lạc nên Hải đoàn đều bị tụt lại phía sau và không hỗ trợ hỏa lực kịp thời cho Betty.
Khi khoảng cách rút xuống còn 16.500 yard, Beatty cho 6 thiết giáp tuần dương hạm vào đội hình để tấn công quân Đức. Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 lúc này đang cách đó khoảng 7 dặm về phía sau. Các thiết giáp tuần dương hạm của Hipper đang di chuyển song song về phía đông nam, và họ khai hỏa gần như cùng lúc. Ngay từ đầu, pháo binh Đức đã thể hiện những kỹ năng xuất sắc. Loạt pháo đầu tiên cách mục tiêu 200 yard, nhưng loạt tiếp theo đã ngày càng gần trúng mục tiêu hơn, ghi được những cú bắn chính xác sớm. Chỉ trong vài phút, ba trong số các thiết giáp tuần dương hạm Anh đã bị trúng đạn nhiều lần. Người Anh, vốn phải đối mặt với điều kiện ánh sáng bất lợi và bị cản trở bởi khói, liên tục bắn vượt qua mục tiêu. Đến 15 giờ 55 phút, khoảng cách đã giảm xuống còn 13.000 yard.

Seydlitz là điển hình cho cách tiếp cận thiết kế thiết giáp tuần dương hạm của người Đức, với trọng tâm là khả năng bảo vệ. Với lớp giáp chính dày 11 inch, cô được bảo vệ tương đương với phần lớn thiết giáp hạm của Anh. Do đó, người Đức không bao giờ cảm thấy cần thiết phải thiết kế một hải đội thiết giáp hạm tốc độ cao như lớp Queen Elizabeth của Hải quân Hoàng gia Anh.
Khả năng bắn chính xác của Đức đã sớm được đền đáp. Lúc 16 giờ 03 phút, sau khi trúng hai loạt đạn từ thiết giáp tuần dương hạm Von der Tann, Indefatigable đã phát nổ, khiến toàn bộ 1.017 người thủy thủ đoàn thiệt mạng. Soái hạm của Beatty là Lion bị trúng đạn nhiều lần và chỉ tránh được số phận như Indefatigable nhờ việc làm ngập kho đạn của tháp pháo 13,5 inch giữa thân tàu. Hỏa lực chính xác của Đức buộc Beatty phải kéo giãn khoảng cách lên 18.000 yard.

Malaya được biên chế vào Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 và tham gia ác liệt vào trận đánh tại Jutland. Còn tàu đã bắn 215 phát đạn vào quân Đức, đạt hiệu quả tốt. Đổi lại, Malaya trúng tám phát đạn pháo hạng nặng, nhưng không chịu thiệt hại nghiêm trọng. Tuy nhiên, 63 thủy thủ của cô đã thiệt mạng và 68 người khác bị thương.
Di chuyển với tốc độ 24,5 hải lý/giờ, bốn tàu thuộc Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 đang cố gắng tiếp cận tầm bắn. Cuối cùng, vào lúc 16 giờ 10 phút, họ đưa được các khẩu pháo 15 inch vào vị trí và lập tức giáng những đòn trúng đích vào hai thiết giáp tuần dương hạm Đức. Tuy nhiên, điều đó vẫn không ngăn được Derfflinger và Seydlitz tập trung hỏa lực vào thiết giáp tuần dương hạm Queen Mary. Bị trúng vào kho đạn giữa thân tàu, Queen Mary phát nổ lúc 16 giờ 26 phút, chỉ có tám người sống sót trong số toàn bộ 1.274 thủy thủ đoàn. Sự hủy diệt của con tàu được sĩ quan hoa tiêu trên thiết giáp tuần dương hạm New Zealand chứng kiến kể lại:
… đột nhiên tôi thấy một loạt đạn trúng Queen Mary bên mạn trái. Một đám mây nhỏ giống như bụi than xuất hiện tại nơi trúng đạn, rồi không có gì nữa trong vài giây, cho đến khi một ngọn lửa vàng khủng khiếp bùng lên cùng với một khối khói đen dày đặc phía trước – và Queen Mary đã không còn được nhìn thấy nữa.
Để giảm bớt áp lực cho các tàu hạng nặng, Beatty đã ra lệnh cho 12 tàu khu trục thực hiện tấn công bằng ngư lôi vào các thiết giáp tuần dương Đức. Hipper đáp trả bằng cách cử một tàu tuần dương hạng nhẹ và 15 tàu khu trục tấn công vào lực lượng hạng nặng của Anh. Trong cuộc hỗn chiến sau đó, hai tàu khu trục mỗi bên bị đánh chìm, và một ngư lôi của Anh đánh trúng Seydlitz, nhưng nhờ hệ thống phòng thủ chống ngư lôi hiệu quả của tàu này đã giúp nó giữ được tốc độ và duy trì vị trí trong đội hình.

Giai đoạn rút lui về phía bắc từ 16 giờ 40 phút đến 17 giờ 45 phút, khi hạm đội thiết giáp tuần dương Anh đối đầu với toàn bộ Hạm đội Biển khơi của Đức đang đi lên từ phía nam
Tình hình vốn đã tồi tệ đối với Beatty giờ còn tồi tệ hơn nữa vào lúc 16 giờ 38 phút, khi ông nhận được tín hiệu từ một trong các hải đội tàu tuần dương nhẹ của mình rằng họ đã phát hiện Hạm đội Biển khơi. Giờ đây Beatty phải đối mặt với cả lực lượng của Hipper lẫn Scheer, trong khi các thiết giáp hạm của Jellicoe vẫn còn cách đó 50 dặm. Lúc 16 giờ 40 phút, ông đổi hướng về phía bắc để dẫn dụ người Đức tiến vào đội hình của Đại Hạm đội. Tại thời điểm này, các vấn đề về liên lạc tiếp tục gây rắc rối cho người Anh. Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 đã bỏ lỡ mệnh lệnh quay về phía bắc ban đầu, và lệnh đó không được lặp lại hay xác nhận cho đến 14 phút sau. Trong suốt thời gian ấy, Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 tiếp tục tiến thẳng về phía 16 thiết giáp hạm của Hạm đội Biển khơi. Một sĩ quan tháp pháo trên tàu Malaya kể lại cảnh tượng:
“Tôi nhìn thấy, mờ mờ trong làn sương, một chiến hạm nào đó đang tới từ hướng đông nam… Chúng tôi không phải chờ lâu để biết đó là tàu gì, bởi ngay sau khi phát hiện ra nó, tôi thấy theo sau là một hàng dài tàu khác – chúng tôi nhanh chóng nhận ra đó là các thiết giáp hạm Đức thuộc lớp König và Kaiser.”

Hải đoàn thiết giáp hạm số 5, dẫn đầu bởi soái hạm Barham đã quay ngược về hướng bắc để hỗ trợ cho hạm đội thiết giáp tuần dương của Betty (dẫn đầu bời Lion) rút lui vào lúc 17 giờ sau khi phát hiện toàn bộ hạm dội Đức ở phía trước, đồng thời cũng phải chịu toàn bộ hỏa lực dội vào từ phía Đức.

Toàn bộ hạm đội thiết giáp hạm của Hạm đội Biển khơi Đức với 6 hàng thiết giáp hạm vào lúc 17 giờ đã đến hỗ trợ lực lượng thiết giáp tuần dương của Hipper, đồng thời cũng tiến hành truy kích lực lượng Anh. và dội hỏa lực vào Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 của Anh.

GÓC NHÌN PHÁO BINH CỦA ĐỨC: Trong khoảng thời gian từ 17 giờ 10 phút đến 17 giờ 35 phút, hỏa lực tập trung của các thiết giáp tuần dương Đức và các thiết giáp hạm tiên phong của Đức đã được dồn vào Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 khi đơn vị này đang cơ động theo hướng bắc.Cảnh tượng này được nhìn từ đài chỉ huy tàu của König khi đang khai hỏa vào tàu cuối cùng trong bốn tàu thuộc Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 – Malaya. Trong phần lớn khoảng thời gian này, ít nhất sáu quả đạn pháo mỗi phút đã bắn trùm lên Malaya, nhưng dù bị hư hại, con tàu không trúng phát đạn chí mạng nào và vẫn tiếp tục giữ tốc độ, đồng thời đáp trả hỏa lực về phía các tàu truy kích.
Khi quay đầu trước mắt toàn bộ hạm đội tác chiến của Đức, cả Barham và Warspite đều trúng đạn. Các thiết giáp tuần dương của Beatty đã bị thiệt hại nặng nề, nhưng không tàu nào bị tổn hại ở hệ thống động lực nên vẫn có thể sử dụng tốc độ vượt trội để thoát khỏi trận địa. Bị bỏ lại phía sau, bốn tàu của Hải đoàn thiết giáp hạm 5 phải hứng chịu hỏa lực tập trung từ 5 thiết giáp tuần dương hạm của Hipper và các tàu dẫn đầu thuộc Hạm đội Biển khơi – 4 thiết giáp hạm lớp König. Cả Malaya và Barham đều trúng thêm năm phát đạn nữa. Đây là thời khắc nguy hiểm nhất đối với những thiết giáp hạm tinh nhuệ nhất của Hải quân Hoàng gia, như lời của sĩ quan điều hành trên tàu Warspite kể lại:
“Chẳng bao lâu sau khi quay đầu, tôi bất ngờ thấy ở phía mạn phải toàn bộ Hạm đội Biển khơi – ít nhất thì tôi thấy cột buồm, ống khói, và một làn chớp lửa màu cam nối dài vô tận dọc đội hình. Tôi không cố đếm bao nhiêu chiếc, vì lúc đó chúng tôi đang bị pháo kích dữ dội, nhưng tôi nhớ đã đếm đến tám. Tiếng rít của đạn pháo bay ngang đầu và rơi xung quanh thật chói tai…”
Scheer lúc này vẫn chưa biết rằng Đại Hạm đội đang ở ngoài khơi, và chỉ cách đó một đường chân trời. Trước viễn cảnh người Anh rút lui và với mong muốn củng cố chiến thắng tưởng như chắc chắn, ông ra lệnh truy kích vào lúc 17 giờ 20 phút. Cuộc truy kích này đã khiến đội hình của Hạm đội Biển khơi bị kéo giãn. "Cuộc truy kích về phía Bắc" kết thúc lúc 17 giờ 45 phút, khi Beatty phát hiện các đơn vị tiên phong của Đại Hạm đội. Beatty đổi hướng sang phía đông để che giấu sự xuất hiện của lực lượng Jellicoe càng lâu càng tốt. Tuy nhiên, đến 17 giờ 55 phút, một tàu tuần dương hạng nhẹ của Đức báo cáo đã phát hiện các thiết giáp hạm Anh ở phía đông. Chỉ vài phút sau, các thiết giáp hạm Đức dẫn đầu đã trông thấy 24 thiết giáp hạm Anh trải dài trên đường chân trời phía bắc. Cơn ác mộng tồi tệ nhất của Scheer giờ đây đã trở thành hiện thực – toàn bộ lực lượng của Đại Hạm đội Anh chỉ còn cách 16.000 yard và đang áp sát.
Đọc thêm về bài viết mô tả rõ hơn giai đoạn này của trận Jutland:
CUỘC GIAO CHIẾN GIỮA CÁC HÀNG THIẾT GIÁP HẠM

Giao tranh giữa các hạm đội từ 18 giờ 30 phút đến 18 giờ 35 phút
Sau khi Jellicoe điều động Hải đoàn thiết giáp tuần dương số 3 của Chuẩn Đô đốc Sir Horace Hood tới hỗ trợ Beatty lúc 16 giờ 05 phút, ông rơi vào trạng thái thiếu thông tin nghiêm trọng. Ông biết rằng Beatty đang giao chiến với Hạm đội Biển khơi và trận đánh đang di chuyển về phía bắc, gần vị trí của mình, nhưng Beatty hoàn toàn không báo cáo chi tiết về trận chiến giữa các thiết giáp tuần dương, cũng như không thông tin cho Jellicoe về vị trí và di chuyển của hạm đội Đức. Từ 16 giờ 45 phút đến sau 18 giờ, Beatty không gửi bất kỳ tín hiệu liên lạc nào cho Jellicoe. Jellicoe buộc phải dựa vào những gì ít ỏi mà ông có thể quan sát từ soái hạm Iron Duke. Một lớp sương mù gián đoạn kéo dài suốt ngày đã gây ra tình trạng tầm nhìn thay đổi, lúc lên tới 16.000 yard, lúc chỉ còn 2.000 yard.
Tới 18 giờ, Jellicoe cuối cùng đã nhìn thấy soái hạm của Beatty, nhưng rõ ràng các lực lượng Đức truy kích gần hơn ông dự đoán. Giờ đây ông phải đưa ra một quyết định khó khăn về cách triển khai lực lượng. Đại Hạm đội đang hành tiến về phía nam theo sáu cột, mỗi cột gồm bốn thiết giáp hạm. Jellicoe cần chỉ huy hạm đội triển khai thành đội hình hàng dọc để có thể khai hỏa toàn bộ hỏa lực hạng nặng về phía Đức. Việc triển khai này mất 20 phút và một khi đã bắt đầu thì không thể dừng lại. Nếu Jellicoe triển khai sang mạn phải (phía tây), ông sẽ đưa các thiết giáp hạm lại gần vị trí ông cho rằng đối phương đang ở, giúp khai hỏa sớm hơn. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc có nguy cơ rơi ngay vào tầm phóng ngư lôi của Đức. Nếu triển khai sang mạn trái (phía đông), ông sẽ cách đối phương xa hơn khoảng 4.000 yard. Nhưng động thái này cũng giúp "cắt ngang chữ T" của Scheer và đưa hạm đội Anh vào vị trí thuận lợi về ánh sáng: phía Đức sẽ bị nổi bật trên nền trời hoàng hôn phía tây, trong khi hạm đội Anh ẩn mình trong sương mù phía đông. Các nhà sử học vẫn tranh luận về lựa chọn này, nhưng Jellicoe chỉ có vài phút để quyết định. Ông quyết định chọn rẽ về bên trái.

Barham được chụp tại Scapa Flow. Con tàu đã tham chiến ác liệt tại trận Jutland và là thiết giáp hạm Anh khai hỏa nhiều đạn pháo hạng nặng nhất (337 quả), đồng thời góp phần gây thiệt hại cho một số tàu tuần dương chiến đấu của Đức. Barham trúng sáu quả đạn pháo hạng nặng từ phía Đức, nhưng không quả nào làm ảnh hưởng đến khả năng chiến đấu của con tàu. Tuy nhiên, những đòn tấn công này đã khiến 26 thủy thủ thiệt mạng và 46 người khác bị thương.
Trong khi 24 thiết giáp hạm của Jellicoe bắt đầu triển khai vào đội hình chiến đấu, lực lượng của Beatty băng qua phía trước hạm đội của Jellicoe để chiếm vị trí ở đầu đội hình. Tư lệnh Hải đoàn thiết giáp hạm số 5 quyết định đưa các tàu của mình về phía sau đội hình Anh. Trong quá trình cơ động này, Warspite gặp sự cố kẹt bánh lái, buộc con tàu phải quay hai vòng tròn đầy đủ trong phạm vi 8.000 yard của các thiết giáp hạm Đức. Quân Đức tập trung hỏa lực dữ dội vào Warspite; tuy nhiên, nhờ lớp giáp dày và cả sự may mắn, không có phát bắn nào trong số 13 phát trúng đích gây thiệt hại nghiêm trọng cho con tàu. Tuy vậy còn tàu giờ không thể cơ động được nữa, Warspite bị loại khỏi trận chiến và được lệnh quay về Rosyth.
Dẫn đầu đội hình của Đại hạm đội là hai hải đoàn tàu tuần dương bọc thép. Giờ đây, một nửa Hải đoàn thiết giáp tuần dương số 1 lọt vào trong phạm vi 8.000 yard của các thiết giáp hạm Đức. Đức nhanh chóng tiêu diệt tàu tuần dương bọc thép Defence, con tàu phát nổ và chìm lúc 18 giờ 20 cùng với 900 thành viên thủy thủ đoàn; một tàu tuần dương bọc thép thứ hai, Warrior, cũng bị trúng đạn nghiêm trọng và bị đánh chìm vào sáng hôm sau. Một quan sát viên trên tàu Colossus mô tả cảnh tượng Defence bị tiêu diệt:
Vào khoảng 6 giờ 15 phút tối, chúng tôi đã chứng kiến hành động của Hải đoàn Tuần dương số 1 và việc Defence nổ tung. Chúng tôi tưởng rằng con tàu đã bị đánh chìm khoảng một phút trước khi thực sự phát nổ, vì nó hoàn toàn biến mất trong làn sóng nước, khói và lửa. Nhưng sau đó nó vẫn hiện lên dường như còn nguyên vẹn, chỉ để rồi biến mất trong một cột lửa rực rỡ và khói đen đặc, từ đó một vật thể tối màu – có thể là một chiếc xuồng hoặc ống khói – bị hất tung lên trời, xoay tít như bánh pháo xoay khổng lồ.
Khi các thiết giáp hạm Đức đang nã đạn vào các tàu tuần dương bọc thép, Hải đoàn thiết giáp tuần dương hạm số 3 gia nhập trận chiến. Ba thiết giáp tuần dương hạm Anh tiến theo hướng song song với các thiết giáp tuần dương hạm của Hipper ở khoảng cách khoảng 9.000 yard. Vừa mới trở về từ buổi huấn luyện pháo binh tại Scapa Flow, các tàu Anh khai hỏa dữ dội vào hai thiết giáp tuần dương hạm Đức đi đầu. Sau khi gây tổn thất nặng nề cho Lützow, Invincible bị Derfflinger phản pháo. Ở loạt bắn thứ ba, thiết giáp tuần dương Anh trúng đạn giữa thân và lần thứ ba trong ngày, cảnh tượng kinh hoàng về một thiết giáp tuần dương Anh phát nổ lại tái diễn. Quả đạn 12 inch của Đức đã kích nổ thuốc phóng trong thang đạn, lan xuống hầm đạn. Invincible phát nổ; chỉ sáu người trong tổng số 1.032 thủy thủ sống sót.

Bức ảnh đầy kịch tính này ghi lại khoảnh khắc vụ nổ trên tàu Invincible sau khi một quả đạn pháo của Đức bắn trúng tháp pháo giữa tàu (tháp pháo ‘Q’). Vụ nổ tạo ra ngọn lửa cao tới 400 feet, và khi khói tan sau khoảng 20 phút, chỉ còn lại phần mũi và đuôi tàu.

Một trong những cảnh tượng đáng chú ý nhất của trận chiến là phần mũi và phần đuôi của thiết giáp tuần dương hạm Invincible dựng đứng, vẫn còn nhìn thấy rõ sau khi con tàu phát nổ lúc 18 giờ 33 phút. Hai phần này tiếp tục nổi trên mặt nước trong suốt trận chiến và cuối cùng chìm xuống trong đêm.
Được Hải đoàn thiết giáp tuần dương số 3 che chắn, Đại hạm đội đang triển khai vào đội hình hàng dọc, cắt ngang chữ “T” của đội hình thiết giáp hạm Đức. Vị trí này cho phép các thiết giáp hạm Anh sử dụng toàn bộ pháo vào một hướng bên mạn tàu, trong khi Đức chỉ có thể bắn bằng những khẩu pháo hạng nặng có thể xoay về phía trước. Đây chính là khoảnh khắc mà Hải quân Hoàng gia đã chuẩn bị từ đầu cuộc chiến. Nhưng kết quả lại không mang tính quyết định như người Anh mong đợi.
Khi các tàu bắt đầu vào đội hình hàng dọc, không có điều phối hỏa lực có tổ chức nào được thực hiện. Thiết giáp hạm đầu tiên, Marlborough, khai hỏa lúc 18 giờ 17 phút, nhưng phần lớn các tàu còn lại không khai hỏa cho đến tận 18 giờ 30 phút. Ngay cả lúc đó, chỉ khoảng 10 hoặc 12 trong số 24 thiết giáp hạm nhắm bắn vào Đức. Tầm nhìn kém khiến việc hiệu chỉnh hỏa lực trở nên khó khăn. Mục tiêu của đợt công kích này là các thiết giáp tuần dương của Hipper và các thiết giáp hạm thuộc Hải đoàn III. König bị trúng nặng nhất với tám quả đạn hạng nặng.
Khi hỏa lực Anh gia tăng, quân Đức không thể xác định mục tiêu trong điều kiện ánh sáng yếu để phản pháo hiệu quả. Scheer giờ đây rơi vào tình thế nguy cấp. Jellicoe đã cắt ngang chữ “T” của ông và các thiết giáp hạm Anh đang xả đạn dữ dội. Ông đang cách cảng nhà 150 dặm, bị hạm đội Anh chặn đường rút, và tốc độ của hạm đội ông thấp hơn người Anh. Nếu ở lại và giao chiến với Đại hạm đội thì đồng nghĩa với tự sát. Thuyền trưởng thiết giáp tuần dương hạm Seydlitz đã mô tả tình hình như sau:
Tầm nhìn ngày càng bất lợi. Có một lớp sương mù dày đặc, thường chỉ có thể thấy ánh chớp từ pháo địch mà không thấy được tàu. Từ tây bắc đến đông bắc trước mặt chúng tôi là một hàng dài hỏa lực địch, nhưng trong làn sương mù, chỉ có thể lác đác nhìn thấy ánh chớp. Đó quả là một cảnh tượng hùng vĩ và đáng sợ.
Lúc 18 giờ 33 phút, Scheer ra lệnh thực hiện một thao tác đã được luyện tập cho tình huống như vậy – thao tác “ cơ động vòng quay tác chiến” (battle turn-away hoặc Gefechtskehrtwendung). Mỗi con tàu thực hiện quay 180 độ cùng một lúc. Lần này, Hạm đội Biển khơi thực hiện động tác một cách thuần thục; toàn bộ 22 thiết giáp hạm drednought và tiền-dreadnought quay lưng về phía Đại hạm đội và biến mất nhờ màn khói do các tàu khu trục Đức thả ra cùng với hướng gió thuận lợi.
Scheer đã ra lệnh quay trước cả khi Đại hạm đội Anh hoàn tất triển khai đội hình hàng dọc. Như vậy, trận đánh chính được chờ đợi từ lâu chỉ kéo dài khoảng 20 phút – từ 18 giờ 15 phút đến 18 giờ 35 phút. Jellicoe quyết định không truy đuổi quân Đức vào sương mù, và đến 18 giờ 55 phút ông vẫn chưa rõ chuyện gì đã xảy ra. Lúc 18 giờ 57 phút, một quả ngư lôi đánh trúng Marlborough, sự kiện này có lẽ càng khiến Jellicoe do dự không muốn truy kích địch. Ông tiếp tục giữ hướng đi về đông nam rồi chuyển về phía nam để giữ Đại hạm đội ở giữa quân Đức và các căn cứ của họ. Cuối cùng, người Đức sẽ buộc phải quay lại đối đầu với ông.
CUỘC GIAO CHIẾN GIỮA CÁC HÀNG THIẾT GIÁP HẠM LẦN THỨ HAI
Lúc 18 giờ 55 phút, Scheer một cách khó hiểu đã ra lệnh quay vòng tác chiến lần thứ hai. Mặc dù ông đã cắt được đuôi với phía Anh, ông lại ra lệnh cho Hạm đội Biển khơi quay trở lại đối đầu với hỏa lực dày đặc của Đại Hạm đội. Cho đến nay, lý do của mệnh lệnh này chưa bao giờ được giải thích một cách thỏa đáng, kể cả bởi chính bản thân Scheer. Có lẽ ông hy vọng sẽ gây bất ngờ cho người Anh hoặc phá vỡ vòng vây để tiến về phía đông và trở về căn cứ. Nhưng không điều nào trong số đó xảy ra. Khi hạm đội Đức lại hiện ra từ làn sương mù, phía Anh đã ngay lập tức phản ứng.
Đến 19 giờ 15 phút, toàn bộ Đại Hạm đội đã nã pháo vào Hạm đội Biển khơi từ khoảng cách 11.000 đến 14.000 yard. Một lần nữa, mũi tiến hạm đội của Scheer bị giáng đòn nặng nề và không thể đáp trả hiệu quả. Thiệt hại duy nhất mà phía Anh phải gánh chịu là hai phát bắn trúng vào thiết giáp hạm Colossus, gây hư hại nhẹ và làm năm người bị thương. Đáng chú ý, đây là những thương vong duy nhất do hỏa lực pháo mà bất kỳ thiết giáp hạm nào của Đại Hạm đội phải chịu trong toàn bộ trận đánh. Trái lại, trong giai đoạn này, phía Anh đã bắn trúng phía Đức bằng 37 quả đạn cỡ lớn.

Đại hạm đội Anh trong giai đoạn 19 giờ đến 19 giờ 15 phút. Lúc này, Jellicoe tiếp tục thực hiện "cắt chữ T" lần thứ 2 với hạm đội Đức. Đại hạm đội lúc này được chia theo từng hàng hải đoàn thiết giáp hạm.

Cột buồm thứ năm của Hạm đội Grand đang tiến về phía nam khi hoàng hôn dần chuyển sang đêm. Hải đội thiết giáp hạm số 5 nhìn từ gần đến xa: HMS Collingwood, Neptune và St. Vincent – như có thể thấy từ HMS Colossus
Lần thứ hai, Scheer lại đối mặt với quyết định sống còn để cứu lấy hạm đội của mình. Ông ra lệnh cho hạm đội chuẩn bị thực hiện thêm một cuộc cơ động vòng quay tác chiến lần nữa. Để che chắn cho cuộc rút lui, các thiết giáp tuần dương hạm của Hipper sẽ tiến lên đánh chặn, kèm theo đó là một đợt tấn công ồ ạt của các tàu khu trục. Lúc 19 giờ 13 phút, các thiết giáp tuần dương hạm đã bị tổn thất nặng nề của Hipper bắt đầu cuộc xung phong vào Đại Hạm đội. Dù chỉ kéo dài bốn phút, nhưng cuộc "xung phong tử thần" này là một trong những khoảnh khắc kịch tính và gây tranh cãi nhất của toàn bộ trận đánh. Ngay sau đó là cuộc tấn công của 14 tàu khu trục, nhắm vào hàng thiết giáp hạm của Đại Hạm đội. Các khu trục hạm tiến gần tới trong vòng 8.000 yard trước khi phóng 31 ngư lôi. Một người quan sát trên tàu Conqueror mô tả trận đánh như sau:
“Lúc 7 giờ 14 phút (tối), quan sát thấy các tàu khu trục địch đang tấn công và khai hỏa vào chúng trong vòng tám phút. Chúng tạo màn khói rất dày và không bao giờ giữ nguyên một hướng trong hơn một phút, cứ liên tục quay, rẽ, luồn lách và biến mất vào màn khói của chính mình, chỉ để lại xuất hiện gần như ngay lập tức ở một vị trí khác.”
Giờ đây Jellicoe buộc phải đưa ra quyết định ngay lập tức, một quyết định có thể ảnh hưởng lớn đến cục diện trận đánh. Để giảm thiểu diện tích bề mặt hạm đội phơi ra trước các ngư lôi đang tới gần, ông có thể cho các thiết giáp hạm quay mũi vào hoặc quay lưng lại với hướng tấn công. Nếu quay mũi vào, tốc độ tiến đến của ngư lôi cộng với tốc độ của chính các tàu sẽ khiến việc cơ động tránh né cực kỳ khó khăn. Tuy nhiên, điều đó sẽ đặt ông vào vị trí thuận lợi để tiếp tục truy đuổi hạm đội Đức đang rối loạn. Nếu quay lưng lại, tốc độ tiến gần của ngư lôi sẽ giảm nhiều và phần lớn có thể hết nhiên liệu trước khi đến được mục tiêu. Dù có thể bảo vệ được các thiết giáp hạm khỏi tổn thất dưới nước – điều Jellicoe lo ngại nhất – nhưng điều này cũng sẽ cho phép hạm đội Đức thoát thân.

GÓC NHÌN PHÁO BINH CỦA ANH: Quang cảnh này được nhìn từ cầu tàu của Marlborough vào lúc 19 giờ, khi hạm đội Đức tình cờ đụng độ Đại hạm đội lần thứ hai. Marlborough đang dẫn đầu đội hình phía tây gần nhất của các thiết giáp hạm trong Đại hạm dội và ở vị trí gần nhất với quân Đức. Tuy nhiên, vì tầm nhìn kém khiến họ chỉ có thể nhìn thấy một phần nhỏ của Hạm đội Biển khơi.

Hạm đội Biển khơi Đức trong giai đoạn 19 giờ đến 19 giờ 15 phút. Scheer ban đầu đã kêu gọi hạm đội quay đầu lại để tấn công bất ngờ cho người Anh nhưng vô tình để người Anh tiếp tục "cắt chữ T" và bị đáp trả bằng hoả lực kinh hoàng, Scheer cuối cùng đã phải ra lệnh toàn hạm đội tiếp tục cơ động quay vòng tác chiến lần 2, đồng thời cũng sử dụng khói và tàu phóng lôi để rút lui. Tuy vậy, khác lần thứ 1 thì lần quay đầu lần hai thực hiện vội vàng dẫn đến rối loạn đội hình tác chiến.
Trong quyết định gây tranh cãi nhất toàn bộ trận Jutland, Jellicoe đã chọn quay lưng lại phía Đức. Việc cơ động này đã thành công trong việc đánh bại đợt tấn công bằng ngư lôi – chỉ có 21 quả ngư lôi tiếp cận được các thiết giáp hạm Anh, và dù có vài tình huống suýt trúng, không quả nào trong số này đánh trúng mục tiêu. Tuy nhiên, cái giá chiến thuật phải trả là rất lớn; các đòn phản công tuyệt vọng của Scheer đã giúp ông thoát ly đúng lúc, khi mà Hạm đội Biển khơi tưởng chừng sắp bị nghiền nát bởi hỏa lực áp đảo của Đại Hạm đội. Một lần nữa, sau khi quay đầu, Jellicoe lại mất dấu Scheer. Thực tế là Scheer đã rút lui và ở cách đó 15 dặm. Tuy vậy, khi màn đêm buông xuống, người Anh vẫn nằm giữa Hạm đội Biển khơi và đường về nhà của họ. Jellicoe tin chắc rằng sáng hôm sau sẽ là lúc hạm đội Đức bị tiêu diệt.
HẠM ĐỘI BIỂN KHƠI PHÁ VỠ VÒNG VÂY
Với nhận định rằng người Đức có ưu thế về huấn luyện và trang thiết bị trong tác chiến ban đêm, Đô đốc Jellicoe không hề mong muốn một cuộc chạm trán với họ cho đến khi trời sáng. Sau lúc 21 giờ, ông cho Đại hạm đội Anh quay trở lại đội hình hành quân. Vì vẫn tin rằng hạm đội Đức đang ở phía tây bắc, Jellicoe triển khai toàn bộ lực lượng khu trục phía sau các thiết giáp hạm nhằm đối phó với bất kỳ cuộc tấn công ngư lôi nào vào các tàu chiến nặng nề đang dễ bị tổn thương.
Jellicoe có lý do chính đáng để lo ngại về giao tranh ban đêm. Ngoài ưu thế về ngư lôi, người Đức còn được huấn luyện bài bản cho chiến đấu ban đêm. Họ sở hữu các loại đèn pha lớn và tốt hơn, đồng thời đã tích hợp chúng vào kỹ thuật pháo kích trong bóng tối. Tuy vẫn tin tưởng vào năng lực chiến đấu ban đêm của hạm đội mình, nhưng Đô đốc Scheer chỉ có một mục tiêu – đó là thoát thân. Ông phải hành động nhanh chóng, vì bình minh sẽ đến vào lúc 2 giờ sáng và ánh sáng ban ngày đầy đủ chỉ còn cách một giờ sau đó.
Có vài tuyến đường để Scheer chọn nhằm xuyên qua các bãi mìn của Đức và Anh để trở về. Một trong số đó là vòng qua Đan Mạch đến biển Baltic – phương án này bị loại ngay lập tức do đường về quá dài và hiện nhiều tàu Đức bị hư hại. Tuyến gần nhất là đi về phía đông nam đến ngọn hải đăng Horns Reef, rồi vòng xuống phía nam sau các bãi mìn ở Amrum Bank – chính là tuyến đường mà Scheer đã đi khi ra trận ngày 31 tháng 5. Những khả năng khác gồm: đi về tây nam đến sông Ems rồi vòng về Wilhelmshaven, hoặc đi về nam đến Heligoland rồi trở về. Về phần mình, Jellicoe nghi ngờ rằng người Đức sẽ tìm cách quay lại để đi qua Horns Reef, nên ông quyết định di chuyển về phía nam.

Hoạt động của hai hạm đội Đức (màu xanh) và Anh (màu đỏ) trong giai đoạn từ 22 giờ 10 phút đến 22 giờ 50 phút vào đêm ngày 31/5/1916
Nhưng Scheer biết Đại hạm đội đang ở phía đông nam, nên đường về phía nam là điều không thể. Ông quyết định chọn tuyến đường ngắn nhất về nhà qua Horns Reef – chỉ còn 85 hải lý – bằng cách đi vòng phía sau Đại hạm đội. Lúc 21 giờ 10 phút, ông ra lệnh chuyển hướng về đông nam với tốc độ 16 hải lý/giờ, không dừng lại cho đến khi đến được Horns Reef. Ông cũng yêu cầu được trinh sát bằng khinh khí cầu vào lúc bình minh tại khu vực đó. Các thiết giáp hạm còn nguyên vẹn gồm Westfalen, Nassau, Rheinland và Posen dẫn đầu đợt đột phá.
Những gì diễn ra trong đêm 31 tháng 5 đến 1 tháng 6 là chuỗi những trận đánh hỗn loạn và khốc liệt giữa các đội khu trục Anh với lực lượng hạng nặng của Hạm đội Biển khơi. Điều đáng nói là các tàu khu trục Đức – vốn bị Jellicoe lo sợ – lại không tham chiến. Điều đáng chú ý nhất trong cuộc chiến đêm này là sự thiếu chủ động của các thiết giáp hạm Anh và sự yếu kém nghiêm trọng của Bộ Hải quân trong việc chuyển giao tin tình báo cho Jellicoe – điều lẽ ra đã có thể thay đổi cục diện trận chiến.
Khi hai hạm đội hội tụ – Đại hạm đội đi về phía nam với 17 hải lý/giờ và Hạm đội Đức đi đông nam với 16 hải lý/giờ – lực lượng trinh sát gồm các tàu tuần dương hạng nhẹ là những đơn vị đầu tiên chạm trán nhau. Trong cuộc đấu pháo dưới 1.000 yard, một tàu tuần dương cũ của Đức bị đánh chìm và một tàu tuần dương Anh bị hư hỏng nặng.
Jellicoe vẫn không có lý do để tin rằng người Đức không đi về phía nam. Ông nghĩ rằng tiếng pháo phía sau là từ các cuộc đụng độ giữa các tàu khu trục. Ngay cả lúc 22 giờ 41 phút, một bức điện từ Bộ Hải quân – trong đó có nội dung mệnh lệnh 21 giờ 10 phút của Scheer – cũng không làm thay đổi kế hoạch của ông. Đến lúc này, sau hàng loạt thông tin sai lệch hoặc nhầm lẫn, niềm tin của Jellicoe vào tình báo từ Bộ Hải quân đã xuống đến mức thấp nhất. Một điều không thể tha thứ là việc Bộ Hải quân không chuyển tiếp yêu cầu trinh sát bằng khí cầu của Scheer – điều mà nếu được biết, Jellicoe sẽ không còn nghi ngờ về ý định rút lui của người Đức. Tệ hơn nữa, đây chỉ là một trong bảy bức điện được Phòng 40 chặn và giải mã, cung cấp tọa độ hoặc hướng đi của Hạm đội Đức trong khoảng 10 giờ 43 phút đến 01 giờ sáng – nhưng không cái nào được gửi đến cho Jellicoe.

Hạm đội Đức (màu xanh) trốn thoát thành công Đại hạm đội của Anh về đến cảng nhà trong giai đoạn từ 00 giờ đến 04 giờ sáng ngày 1/6/1916
Lúc 22 giờ 30 phút, các thiết giáp hạm Đức bắt đầu chạm trán các tàu khu trục Anh ở phía sau đội hình của Đại hạm đội. Trong các trận đấu pháo ở cự ly gần, Hải đội Khu trục số 4 bị đánh tơi tả: bốn tàu bị đánh chìm hoặc sắp chìm, ba chiếc khác hư hại nặng. Một chiếc bị thiết giáp hạm Nassau đâm phải, nhưng vẫn về đến nhà dù mất 60 foot vỏ tàu. Đổi lại, các tàu khu trục Anh đã đánh trúng một tàu tuần dương Đức – sau đó bị bỏ lại – và một chiếc khác đâm vào Posen rồi cũng bị bỏ. Tuy nhiên, hy sinh này là vô ích – không chiếc nào gửi báo cáo phát hiện địch cho Jellicoe. Khó hiểu hơn nữa, một số thiết giáp hạm Anh đã thấy hạm đội Đức di chuyển về phía đông nhưng không nổ súng hay gửi báo cáo nào.
Sau đó, tàu tuần dương bọc thép Black Prince đụng độ ba thiết giáp hạm thuộc Hải đoàn I của Scheer, trong đó có cả soái hạm Friedrich der Grosse. Các thiết giáp hạm này nã pháo ở cự ly gần khiến Black Prince nổ tung, toàn bộ 900 thủy thủ thiệt mạng.
Lúc khoảng 01 giờ 45 phút, người Đức gặp một nhóm tàu khu trục khác thuộc Hải đội số 12 của Anh. Họ bắn 17 ngư lôi ở khoảng cách chỉ 2.000–3.000 yard. Không thiết giáp hạm nào trúng ngư lôi, nhưng thiết giáp hạm tiền-dreadnought Pommern bị trúng một quả và phát nổ dữ dội, khiến toàn bộ 844 người trên tàu thiệt mạng. Từ góc nhìn của một tàu khu trục Anh, trận đánh đã diễn ra như sau:
Lúc 2 giờ 2 phút, Faulknor phóng quả ngư lôi đầu tiên – có lẽ nó lướt qua mũi chiếc địch thứ hai… Khoảng hai phút sau, quả thứ hai được phóng, nhưng gần như cùng lúc, phía Đức phát hiện đội khu trục của ta, và toàn bộ thiết giáp hạm của họ nổ súng, cùng với các tuần dương hạng nhẹ phía sau đội hình – dội một làn đạn cực mạnh vào chúng tôi. Biển như sống dậy với tiếng nổ, còn không khí thì vang lên tiếng rít của đạn pháo. Khoảng cách dưới 1.500 yard, phần lớn đạn rơi quá tầm. Bất ngờ, một vụ nổ khổng lồ xảy ra trên chiếc tàu thứ ba của Đức – với tiếng động và chấn động kinh hoàng, nó như bị tách làm đôi, sau đó co lại, rồi biến mất.
Với hành động cuối cùng này, Scheer đã phá vây thành công. Trong suốt thời gian đó, Jellicoe không hề nhận được báo cáo nào về việc các thiết giáp hạm Đức bị tấn công. Trên boong Iron Duke, tất cả vẫn tin rằng ánh sáng và tiếng súng phía bắc chỉ là đụng độ của các tàu khu trục. Cuối cùng lúc 2 giờ 30, Jellicoe cho Đại Hạm đội chuyển hướng về phía Horns Reef, nhưng đã quá muộn để ngăn người Đức thoát khỏi các bãi mìn bảo vệ.
Đến 13 giờ ngày 1 tháng 6, các đơn vị đi đầu của Hạm đội Biển khơi đã đến cửa sông Jade và Elbe. Thiết giáp hạm Ostfriesland trúng thủy lôi lúc 05 giờ 20 phút nhưng vẫn tiếp tục đi về phía nam và về được căn cứ. Ngay cả bốn thiết giáp tuần dương hạm của Hipper cũng đã vượt qua đội hình Anh và thoát thân – ngoại lệ là Lützow, cuối cùng bị bỏ lại và đánh đắm. Seydlitz bị phát hiện bởi ít nhất bốn thiết giáp hạm Anh nhưng không chiếc nào khai hỏa, dù chiếc thiết giáp tuần dương hạm này gần như không còn sức chiến đấu và phải được kéo ngược vào cảng trong tình trạng ngập hàng ngàn tấn nước.
Khoảng 4 giờ sáng, Jellicoe nhận được một bức điện từ Bộ Hải quân – cung cấp tọa độ lúc 2 giờ 30 của Scheer, chỉ cách ngọn hải đăng Horns Reef 16 hải lý. Tin nhắn này xác nhận điều Jellicoe đã nghi ngờ – ông đã để tuột mất cơ hội tiêu diệt Hạm đội Đức. Tất cả những gì còn lại là truy lùng các tàu bị lạc (nhưng không tìm thấy) rồi quay về Scapa Flow, nơi Đại hạm đội cập cảng vào trưa ngày 2 tháng 6.
THỐNG KÊ VÀ PHÂN TÍCH

König là thiết giáp hạm Đức bị hư hại nặng nhất trong trận chiến. Hình ảnh này cho thấy thiệt hại do một quả đạn pháo hạng nặng của Anh gây ra, đã xuyên qua lớp giáp boong ở khu vực gần tháp pháo phía trước.
Phần lớn các phân tích về trận Jutland thường bắt đầu bằng số liệu về tàu và binh lính tổn thất của mỗi bên. Tuy nhiên, xét về mặt chiến lược, cách tiếp cận này lại bỏ qua điều cốt lõi. Trận đánh không làm thay đổi gì đối với cục diện tổng thể trên biển. Dù người Đức có thể tuyên bố một vài thắng lợi mang tính chiến thuật, nhưng cuộc phong tỏa nước Đức vẫn tiếp tục nguyên vẹn. Nhận định ngắn gọn và súc tích nhất về trận đánh được cho là xuất phát từ một nhà báo, người đã viết: “Hạm đội Đức đã tấn công cai ngục của mình – và rồi lại bị tống trở vào tù.” Kết quả chiến lược đó không qua mắt được Scheer, người đã đệ trình báo cáo lên Hoàng đế Đức vào ngày 4 tháng 7 năm 1916. Dù ca ngợi thành tích của Hạm đội Biển khơi, bản báo cáo vẫn khẳng định một điều cốt lõi: chiến thắng trên biển trước Đại hạm đội là điều không thể. Theo ông, xét tới ưu thế tuyệt đối về số lượng thiết giáp hạm của Anh cùng vị trí địa lý bất lợi của Đức, cách duy nhất để giành chiến thắng là nối lại chiến dịch tàu ngầm chống lại hoạt động vận tải hàng hải của Anh.

Tờ báo của Đức tuyên truyền về chiến thắng của mình trong trận Jutland thông qua việc thiệt hại của phía Anh cao hơn so với Đức (120410 tấn tàu bị chìm của Anh so với 60300 tấn của Đức). Tuy vậy, nếu để ý sẽ thấy rằng thiệt hại của hai bên phần lớn đều nằm ở thiết giáp tuần dương hạm và tàu tuần dương, còn thiết giáp hạm dreadnought hai bên thì không có chiếc nào bị đánh chìm.

Một bức tranh minh hoạ của người Anh về thiệt hại trong trận Jutland được số sánh với các trận hải chiến nổi tiếng trong thời đại cánh buồm bảo gồm trận Camperdown năm 1979, trận sông Nile năm 1978 và trận Trafalgar năm 1805.
Tuy nhiên, xét trên bình diện chiến thuật, kết quả trận đánh lại mang sắc thái khác biệt. Người Đức không những trụ vững, mà nếu chỉ đơn thuần thống kê thiệt hại, họ còn có thể tự cho rằng mình đã giành chiến thắng.
Nhưng một lần nữa, việc chỉ đếm số tổn thất vẫn là chưa đủ. Hạm đội Biển khơi không giành được chiến thắng, mà đúng hơn là đã thoát khỏi sự tiêu diệt hoàn toàn. Trong khi Đại hạm đội báo cáo sẵn sàng ra khơi vào tối ngày 2 tháng 6 với 22 trên 24 thiết giáp hạm sẵn sàng chiến đấu, thì Hạm đội Biển khơi chỉ vừa lê lết về tới Wilhelmshaven. Trong số 16 thiết giáp hạm tham chiến, chỉ có tám chiếc còn có thể tiếp tục tác chiến sau trận đánh. Trong năm thiết giáp tuần dương hạm, chỉ có hai chiếc sẵn sàng chiến đấu vào hai tháng sau đó. Phần lớn thiệt hại mà Đại hạm đội phải gánh chịu là từ lực lượng thiết giáp tuần dương hạm và Hải đoàn thiết giáp hạm 5 trực thuộc. Hơn nữa, mọi tổn thất mà Đại hạm đội hứng chịu đều nhanh chóng được bù đắp bằng sự trở lại sau bảo trì của hai thiết giáp hạm Queen Elizabeth và Emperor of India, cùng với việc đưa vào biên chế ba con tàu cuối cùng thuộc lớp Revenge.
Mức độ thiệt hại mà các đơn vị chủ lực của cả hai bên gánh chịu – ở mức cần đưa vào ụ tàu để sửa chữa – có thể được đánh giá thông qua bảng số liệu dưới đây. Ngoài ra, một số thiết giáp hạm Đức khác cũng bị hư hại nhưng không cần đưa vào ụ. Những chiếc này bao gồm Rheinland (hoàn tất sửa chữa ngày 10/6), Westfalen (17/6) và Nassau (10/7).
Xét về độ chính xác hỏa lực, người Đức có phần nhỉnh hơn. Tổng cộng khoảng 85 quả đạn pháo hạng nặng do thiết giáp hạm và thiết giáp tuần dương Đức bắn ra đã trúng tàu đối phương. Ngược lại, có 102 quả đạn pháo hạng nặng của Anh bắn trúng thiết giáp hạm hoặc thiết giáp tuần dương Đức.


Tuy nhiên, phân tích toàn diện nhất về trận đánh cho thấy trình độ tác xạ của cả hai phía đều không xuất sắc. Khi tính thêm các phát bắn trúng tàu nhỏ, tổng tỷ lệ chính xác của pháo hạng nặng Anh đạt 2,75% (123 phát trúng trong 4.480 phát bắn). Phía Đức nhỉnh hơn chút ít với tỷ lệ 3,39% (122 phát trúng trong 3.597 phát bắn). Nếu loại bỏ 12 phát trúng tàu tuần dương bọc thép Black Prince (trúng ở cự ly gần), tỷ lệ này giảm còn 3,08%. Trong Hạm đội Biển khơi, lực lượng thiết giáp tuần dương hạm đạt tỷ lệ chính xác cao nhất – 3,89% (65 phát trúng/1.670 phát bắn), trong khi thiết giáp hạm đạt thấp hơn – 2,96% (57 phát trúng/1.927 phát bắn), ngay cả khi tính cả 12 phát trúng Black Prince. Nguyên nhân là vì các thiết giáp tuần dương hạm của Đức tham chiến từ đầu trận chiến, khi điều kiện ánh sáng và tầm nhìn còn thuận lợi.
Về phía Anh, các thiết giáp tuần dương hạm thuộc Hải đoàn 1 và 2 có tỷ lệ chính xác tệ hại – chỉ 1,43% trong tổng số 1.469 phát. Hải đoàn thiết giáp tuần dương 3, vốn được huấn luyện bắn pháo ngay trước trận đánh, đạt kết quả khả quan hơn – 4,29%. Hỏa lực từ các thiết giáp hạm Anh cũng chỉ ở mức trung bình. Hải đoàn thiết giáp hạm 5, là đơn vị tham chiến dữ dội nhất, có tỷ lệ chính xác đạt 2,64% (29 trên 1.099 phát bắn), trong khi các thiết giáp hạm còn lại của Đại hạm đội đạt 3,70% (57 trên 1.593 phát bắn). Đáng chú ý là một số hải đoàn thiết giáp hạm Anh hầu như không có cơ hội nổ súng. Hải đội gồm các tàu King George V, Ajax, Centurion và Erin chỉ bắn tổng cộng 34 phát trong toàn trận, trong đó Erin không bắn phát nào. Một hải đội khác gồm bốn tàu lớp Orion bắn chưa tới 200 phát.
Hệ thống chỉ huy hỏa lực tập trung của Anh thể hiện được giá trị của nó, nhưng loại kính ngắm 9ft tiêu chuẩn lại thường không đủ khả năng đáp ứng. Những thay đổi khoảng cách quá nhanh, cộng với điều kiện tầm nhìn kém, đã làm hệ thống bàn tính Dreyer không theo kịp. Ngược lại, hệ thống điều khiển hỏa lực đơn giản hơn của Đức lại hoạt động tốt trong điều kiện này, và loại ống ngắm lập thể của họ tỏ ra vượt trội hơn so với kính ngắm so trùng của Anh.

Mặc dù trúng mười quả đạn pháo hạng nặng của Anh, König chưa bao giờ rơi vào tình trạng nguy cơ bị chìm. Việc sửa chữa kéo dài đến ngày 21 tháng 7 năm 1916 mới hoàn tất. Một phần thiệt hại bên trong được thể hiện ở đây, nhưng thương vong tương đối nhẹ, với 45 người thiệt mạng và 27 người bị thương.
Bài học thực sự rút ra từ trận đánh là: việc đánh chìm một thiết giáp hạm bằng hỏa lực pháo binh là vô cùng khó khăn. Ngay cả với các thiết giáp tuần dương hạm vốn có giáp mỏng hơn, cũng có khả năng chịu đòn đáng kể. Các tàu thiết giáp tuần dương hạm Đức thậm chí được bọc giáp ngang bằng với một số thiết giáp hạm của Anh. Điều khiến ba thiết giáp tuần dương hạm Anh bị đánh chìm ở Jutland không phải do lớp giáp yếu, mà là do tính chất của thuốc nổ mà Anh sử dụng. Khác với thuốc nổ của Đức, khi bị bắt cháy, thuốc của Anh cháy rất nhanh và sinh áp suất cực lớn. Thêm vào đó, các cửa ngăn lửa dùng để bảo vệ kho thuốc và ống dẫn đạn lên tháp pháo chưa từng được thử nghiệm đầy đủ trước chiến tranh, và không thể chống chọi lại áp suất sinh ra khi thuốc nổ bị bắt cháy. Khi lửa lan tới hầm đạn, hậu quả là sự phá hủy hoàn toàn của cả con tàu.
Cả ba thiết giáp tuần dương hạm Anh và hai tàu tuần dương bọc thép bị nổ tung đều bị phá hủy theo cách đó. Đúng là việc các pháo thủ Anh thường để sẵn nhiều liều thuốc ngoài kho đạn nhằm tăng tốc độ bắn góp phần tạo điều kiện cho các vụ tai nạn trên, nhưng đó chỉ là một yếu tố phụ.

Seydlitz trúng tổng cộng 21 quả đạn pháo hạng nặng và một ngư lôi trong trận Jutland, nhưng vẫn sống sót và trở về căn cứ — mặc dù như hình ảnh cho thấy, con tàu gần như đã chìm. Con tàu sống sót qua chiến tranh nhưng cuối cùng bị đánh đắm vào tháng 6 năm 1919.
Năm 1914, người Đức nói chung không chú trọng đến biện pháp phòng cháy lan bằng Anh. Điều này từng thể hiện rõ tại trận Dogger Bank, khi một quả đạn 13,5 inch xuyên thủng tháp pháo phía sau của Seydlitz. Có tới 62 liều thuốc (tổng cộng hơn 6 tấn) bị bắt cháy, nhưng không phát nổ như thuốc của Anh. Mặc dù vậy, người Đức vẫn không áp dụng các biện pháp phòng cháy lan sau sự cố đó, trước khi diễn ra Jutland. Họ chỉ giới hạn số lượng liều thuốc được lấy ra khỏi kho đạn tại một thời điểm nhất định, còn các hầm đạn thì nhìn chung không cách ly hoàn toàn với lửa. Yếu tố cứu cánh duy nhất của họ là thuốc nổ cháy chậm, không tạo áp suất đột biến nguy hiểm như thuốc của Anh.
Một yếu tố nữa làm giảm hiệu quả pháo binh của Anh là chất lượng đạn pháo. Đạn Anh thường bị vỡ khi va vào lớp giáp dày ở góc xiên và phát nổ trước khi xuyên sâu vào lớp giáp. Những nhược điểm của đạn xuyên giáp Anh bao gồm việc sử dụng lyddite làm thuốc nổ, thân đạn quá giòn và ngòi nổ không có độ trễ (tức là người Anh vẫn sử dụng ngòi nổ tức thì). Trong số 13 quả đạn nặng trúng lớp giáp dày từ 10 inch trở lên của Đức, chỉ có sáu quả đạt hiệu quả. Đạn Anh cũng hoạt động kém khi va vào lớp giáp mỏng hơn, chỉ từ 6–9 inch.
KẾT QUẢ

Soái hạm của Đại hạm đội, Queen Elizabeth, được chụp vào ngày 21 tháng 11 năm 1918, đang rẽ sóng ngoài khơi Scapa Flow khi Hạm đội Biển khơi của Đức chuẩn bị giải giáp.
Sau trận hải chiến lớn, bộ máy tuyên truyền Đức lập tức hoạt động hết công suất nhằm tuyên bố đây là một chiến thắng cho phía Đức. Vào ngày 5 tháng 6, chỉ bốn ngày sau khi Hạm đội Biển khơi trở về Wilhelmshaven, Hoàng đế Đức đã đến thăm căn cứ hải quân để trao huân chương và thăng chức cho đô đốc Scheer lên làm Tổng tư lệnh hạm đội. Với những kỳ vọng cao được đặt vào thành tích của Hạm đội Biển khơi, người Đức không thể từ bỏ các chiến dịch tương lai tại Biển Bắc. Trái với quan điểm phổ biến, Hạm đội Biển khơi vẫn tiếp tục thách thức Hải quân Hoàng gia Anh ở Biển Bắc sau trận Jutland.
Ngay khi hạm đội sẵn sàng tái triển khai, Scheer đã lên kế hoạch cho một cuộc pháo kích mới vào bờ biển nước Anh. Rút kinh nghiệm từ trận Jutland, ông đặc biệt chú trọng đến việc phối hợp giữa khí cầu Zeppelin và lực lượng tàu ngầm U-boat để tránh bị bất ngờ như trước. Các thiết giáp hạm tiền-dreadnought chậm chạp bị bỏ lại phía sau, và lực lượng thiết giáp tuần dương của Hipper được tăng cường thêm ba thiết giáp hạm.
Hạm đội Biển khơi xuất kích vào đêm 18 tháng 8. Cũng giống như trước trận Jutland, tình báo Anh đã cảnh báo Jellicoe về cuộc xuất kích của Đức và Đại hạm đội lập tức lên đường ngăn chặn. Tuy nhiên, sự kiện này đã kết thúc một cách nhạt nhòa. Thiết giáp hạm dreadnought Westfalen của Đức bị một tàu ngầm Anh đánh trúng ngư lôi vào ngày 19 tháng 8 và một loạt báo cáo từ các tàu ngầm, khí cầu Zeppelin cùng với tình báo vô tuyến đã xác nhận với Scheer rằng Đại hạm đội đã ra khơi. Một chiến dịch tương tự được lên kế hoạch cho tháng 9 đã bị hủy bỏ do thời tiết xấu.
Đến tháng 10, các tàu U-boat được rút khỏi Biển Bắc để tham gia vào một đợt tấn công thương mại mới, vốn thường xuyên bị gián đoạn. Sự vắng mặt của lực lượng tàu ngầm khiến Scheer càng thêm thận trọng và chỉ giới hạn hoạt động trong khu vực trung và đông Biển Bắc. Khi Hạm đội Biển khơi xuất kích vào ngày 10 và 19 tháng 10, người Anh thậm chí còn không phản ứng với điều đó.
Trớ trêu thay, thành công lớn nhất của Hạm đội Biển khơi sau trận Jutland lại diễn ra ở biển Baltic – một khu vực vốn bị xem là sân sau hải quân. Đến cuối năm 1917, quân đội Nga bắt đầu sụp đổ và quân Đức tiến dọc bờ biển Baltic. Để sử dụng cảng Riga như một căn cứ tiếp vận, quân Đức buộc phải chiếm giữ các đảo do Nga kiểm soát trong vịnh Riga. Để đạt được mục tiêu này, một thiết giáp tuần dương hạm và mười thiết giáp hạm của Hạm đội Biển khơi đã được huy động hỗ trợ chiến dịch. Từ ngày 12 đến 20 tháng 10, quân Đức đã đánh bật lực lượng Nga khỏi vịnh Riga và thiết lập quyền kiểm soát trên biển tại khu vực này.
Chiến dịch lớn cuối cùng của lực lượng mặt nước Đức trong Thế chiến I diễn ra vào tháng 4 năm 1918, khi Hipper chỉ huy lực lượng thiết giáp tuần dương hạm cùng các thiết giáp hạm hộ tống tiến hành một cuộc tập kích nhằm vào đoàn vận tải từ Na Uy đến Anh. Tuy nhiên, chiến dịch này kết thúc trong thất bại khi một thiết giáp tuần dương hạm Đức – vốn đã gặp sự cố kỹ thuật – bị tàu ngầm Anh đánh trúng ngư lôi.
Trong những tuần cuối cùng của chiến tranh, Hipper – lúc này là chỉ huy Hạm đội Biển khơi – chuẩn bị một đợt xuất kích quy mô lớn ra Biển Bắc, mang đầy đủ dấu hiệu của một "chuyến đi cảm tử". Ngày 27 tháng 10, các đơn vị trong hạm đội – vốn đã chịu đựng tinh thần suy sụp do tình trạng bất động kéo dài – từ chối chấp hành mệnh lệnh. Chỉ trong vài ngày, cuộc binh biến đã lan rộng khắp toàn hạm đội.

Lớp Bayern là phiên bản lớn hơn của lớp König, và được trang bị pháo 15 inch. Thiếu tốc độ khiến nó tương đương với lớp Revenge của Anh. Bayern đã sẵn sàng chiến đấu vào thời điểm diễn ra trận Jutland, nhưng bị bỏ lại phía sau vì thủy thủ đoàn không được xem là đã huấn luyện đầy đủ. Trong ảnh, tàu đang chìm về phía đuôi vào ngày 21 tháng 6 năm 1919, khi người Đức đánh đắm các đơn vị đã đầu hàng tại Scapa Flow.
Theo các điều khoản của Hiệp định đình chiến có hiệu lực từ ngày 11 tháng 11 năm 1918, lực lượng tinh nhuệ của Hạm đội Biển khơi phải bị giam giữ tại Scapa Flow. Ngày 21 tháng 11, chín thiết giáp hạm hiện đại nhất, năm thiết giáp tuần dương, bảy tàu tuần dương hạng nhẹ và 49 tàu khu trục của Đức được Đại hạm đội hộ tống đến nơi giam giữ. Đến tháng 5 năm 1919, các thiết giáp hạm từng một thời oai phong của Đức cùng phần còn lại của hạm đội đã tự đánh chìm mình tại Scapa Flow, đánh dấu sự kết thúc của Hạm đội Biển khơi Đức.
Link phần 1:

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất








































