TÀU SÂN BAY MỸ vs TÀU SÂN BAY NHẬT BẢN: Mặt trận Thái Bình Dương (1941-1945) (Phần 6: Giai đoạn từ tháng 11-1942 đến tháng 5-1944)
Tình trạng và sự chuẩn bị của các lực lượng tàu sân bay hai bên từ tháng 11 năm 1942 - tháng 6 năm 1944.
CHƯƠNG 7. CHUẨN BỊ CHO TRẬN ĐÁNH TÀU SÂN BAY CUỐI CÙNG
LỰC LƯỢNG TÀU SÂN BAY MỚI CỦA MỸ
Bắt đầu từ năm 1943, một làn sóng tàu chiến mới được đưa vào lực lượng sau này được gọi là Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay tốc độ cao (Fast Carrier Task Force). Các đơn vị đóng mới bao gồm các tàu sân bay hạm đội lớp Essex, tàu sân bay hạng nhẹ lớp Independence, thiết giáp hạm cao tốc, ba lớp tàu tuần dương mới và hàng loạt tàu khu trục. Đến cuối năm 1943, đã có đủ tàu sân bay và tàu hộ tống mới để thành lập bốn nhóm đặc nhiệm, mỗi nhóm gồm một hoặc hai tàu sân bay hạm đội và một hoặc hai tàu sân bay hạng nhẹ. Mỗi nhóm được hộ tống bởi ba hoặc bốn tàu tuần dương hạng nhẹ hoặc hạng nặng và từ tám đến 13 tàu khu trục. Các thiết giáp hạm cao tốc được tổ chức thành một nhóm đặc nhiệm riêng bất cứ khi nào có khả năng xảy ra cuộc chạm trán lớn với hạm đội Nhật. Trong các trường hợp khác, thiết giáp hạm được phân bổ vào vành đai phòng thủ của các nhóm tàu sân bay. Ví dụ, tại trận chiến Biển Philippine, lực lượng thiết giáp hạm bao gồm bảy thiết giáp hạm, bốn tàu tuần dương hạng nặng và 13 tàu khu trục.
Các tàu lớp Essex là những tàu sân bay tốt nhất trong chiến tranh. Với lượng choán nước đầy tải 36.000 tấn, chúng là sự kết hợp hoàn hảo giữa tốc độ (tối đa 33 hải lý/giờ), tầm hoạt động (15.000 hải lý ở tốc độ 15 hải lý/giờ), khả năng sống sót (không chiếc nào bị mất trong chiến tranh), và hỏa lực. Mỗi tàu lớp Essex mang theo một không đoàn gồm 90–100 máy bay, được chia thành ba phi đội. Vào giữa năm 1944, thành phần gồm một phi đội tiêm kích 36 chiếc, một phi đội ném bom bổ nhào 36 chiếc, và một phi đội ném ngư lôi 18 chiếc. Mỗi tàu cũng vận hành một biên đội gồm bốn máy bay tiêm kích đêm trang bị radar. Sáu tàu lớp Essex đã tham gia trận chiến tại Biển Philippine cùng với tàu sân bay kỳ cựu Enterprise.
Tăng cường cho các tàu sân bay hạm đội là chín tàu sân bay hạng nhẹ lớp Independence, tám trong số đó tham chiến tại Biển Philippine. Đây là kết quả của sự thúc ép mạnh mẽ từ Tổng thống Roosevelt, người yêu cầu chuyển đổi nhanh chóng và đơn giản từ khung thân tàu tuần dương hạng nhẹ lớp Cleveland. Được hoán cải từ thân tàu tuần dương, các tàu này nhanh và được bảo vệ tốt. Mỗi chiếc mang theo một không đoàn gồm 25 máy bay tiêm kích và chín máy bay ném ngư lôi. Các tàu hoán cải lớp Independence vượt trội hơn hẳn so với các tàu sân bay hạng nhẹ hoán cải của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
Các tàu mới được trang bị máy bay mới. Thay thế cho chiếc Wildcat là chiếc Grumman F6F Hellcat, ra mắt chiến đấu lần đầu vào tháng 9 năm 1943. Hellcat nhanh (tốc độ tối đa 380 dặm/giờ), được bảo vệ và chế tạo chắc chắn, vũ trang mạnh (sáu súng máy cỡ nòng 0.50 inch), và dễ bảo trì. Nó vượt trội so với máy bay Zero của Nhật ở mọi khía cạnh, trừ khả năng cơ động ở tốc độ thấp. Dauntless đã chứng minh là một nền tảng ném bom đáng tin cậy trong giai đoạn đầu của chiến tranh, nhưng nó có tốc độ tối đa trung bình và chỉ mang được bom 1.000 lb. Curtiss SB2C Helldiver được kỳ vọng là một bước tiến lớn so với Dauntless, nhưng lại gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Biến thể SB2C-3 chỉ được chấp thuận đưa vào biên chế hạm đội vào đầu năm 1943 và phải đến năm sau mới giải quyết hết các vấn đề. Nhiều phi công ném bom bổ nhào vẫn ưa chuộng chiếc Dauntless dễ lái hơn, nhưng Helldiver đã chứng tỏ sức mạnh sát thương đối với tàu bè Nhật trong 18 tháng cuối của chiến tranh. Máy bay này mang được tải trọng 2.000 lb và có tốc độ tối đa gần 300 dặm/giờ. Chiếc Avenger là máy bay ném ngư lôi của các không đoàn tàu sân bay, và đến năm 1944, nó đã trở thành “sát thủ tàu chiến” đáng tin cậy sau khi người Mỹ khắc phục được vấn đề tồn đọng của ngư lôi Mark XIII. Đến năm 1944, loại ngư lôi này đủ tin cậy để được thả từ độ cao 800 feet ở tốc độ lên tới 270 dặm/giờ.
Như đã đề cập trước đó, tính liên kết trong các đợt không kích là một vấn đề nghiêm trọng đối với không quân tàu sân bay Mỹ năm 1942. Năm 1944, các cuộc không kích vẫn được tổ chức riêng lẻ theo từng tàu sân bay, nhưng việc huấn luyện liên đội nghiêm ngặt trước khi triển khai giúp các phi đội duy trì đội hình tốt hơn trên đường đến mục tiêu. Tuy vậy, điểm yếu chính của các liên đội không quân tàu sân bay Mỹ vẫn là tầm tấn công ngắn. Tùy thuộc vào tình hình chiến thuật, tầm tấn công tối đa chỉ khoảng 200 hải lý. Tầm tìm kiếm điển hình của máy bay tàu sân bay Mỹ là khoảng 325 hải lý, vẫn thấp hơn đáng kể so với máy bay Nhật.
Hải quân Mỹ đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải thiện phòng không hạm đội. Năm 1942, tuần tiễu trên không (CAP) hiệu quả là vũ khí mạnh mẽ nhất để đánh bại các cuộc không kích Nhật. Máy bay tiêm kích Hellcat mới có tiềm năng nâng cao hiệu quả của CAP, nhưng yếu tố then chốt vẫn là công tác điều phối tiêm kích hiệu quả. Trong năm 1942, nỗ lực của Mỹ trong lĩnh vực này chỉ đạt kết quả trung bình. Hệ thống điều phối tiêm kích ban đầu của Hải quân Mỹ được cải thiện nhờ thử nghiệm và điều chỉnh, nhưng đến giữa năm 1944 thì đã hình thành học thuyết vững chắc để tối ưu hóa khả năng đánh chặn. Trong trận đánh tàu sân bay quyết định năm 1944, Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay tốc độ cao (mang số hiệu TF 58 từ tháng 1 năm 1944) đã vận hành một hệ thống điều phối tiêm kích tập trung dưới quyền của sĩ quan điều phối tiêm kích TF 58 (FDO). Phối hợp với các FDO ở các nhóm đặc nhiệm khác và trên từng tàu sân bay, hệ thống này cho phép điều chuyển máy bay tiêm kích từ nhóm đặc nhiệm này sang nhóm khác, đồng thời duy trì một lực lượng dự bị trung tâm để ứng phó với các đợt tấn công sau. Trong trận Biển Philippine, việc điều phối tiêm kích được thực hiện tốt, một số đợt không kích của Nhật bị đánh chặn ở khoảng cách tới 60 hải lý tính từ đội hình tàu sân bay, với các máy bay Hellcat có ưu thế về độ cao. Dù những nỗ lực này nhìn chung thành công, CAP không thể đánh bại hoàn toàn một đợt không kích quy mô lớn của Nhật. Hỏa lực phòng không vẫn là một yếu tố quan trọng trong phòng thủ hạm đội. Việc phổ biến súng 40mm kiểu nòng đôi và bốn nòng trên các tàu từ khu trục cho đến tàu sân bay, cùng với việc trang bị đạn nổ gần (proximity-fuzed shell) cho pháo 5-inch/38 phổ biến, khiến hỏa lực phòng không Mỹ hiệu quả hơn cả năm 1942, thời điểm mà nó đã gây thiệt hại nặng cho các đội hình máy bay tấn công Nhật.
Đối với Chiến dịch Forager, tức cuộc đổ bộ quần đảo Marianas, Hải quân Mỹ đã thành lập một bộ chỉ huy có năng lực cao. Đô đốc Nimitz giữ nguyên cương vị Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Khu vực tác chiến của Nimitz được chia thành ba vùng: Bắc, Trung và Nam Thái Bình Dương. Quần đảo Marianas nằm trong Khu vực Trung Thái Bình Dương, nơi được Đô đốc Spruance tiếp nhận quyền chỉ huy từ tháng 8 năm 1943. Khi Hạm đội 5 được thành lập vào tháng 4 năm 1944, Spruance cũng được trao quyền chỉ huy hạm đội này, biến ông trở thành nhân vật chỉ huy chính trong trận đánh tàu sân bay sắp tới ngoài khơi Marianas. Spruance sở hữu nhiều phẩm chất của một vị tướng lĩnh xuất sắc. Ông có trí tuệ sắc bén và luôn bình tĩnh cân nhắc mọi phương án hành động trước khi đưa ra quyết định. Ông giao quyền đáng kể cho bộ tham mưu vì luôn tiếp cận vấn đề từ góc độ chiến lược. Nếu có một điểm yếu, đó là sự cẩn trọng quá mức – điều từng mang lại thành công cho ông trong giai đoạn cuối trận Midway, nhưng không còn là một lợi thế vào tháng 6 năm 1944.

Phó Đô đốc Marc A. Mitscher, chỉ huy TF 58 tại trận Biển Philippine, được chụp trong ảnh này (tháng 2 năm 1945) cùng Tham mưu trưởng Arleigh A. Burke trên tàu Bunker Hill. Hai người tạo nên một cặp chỉ huy ăn ý. (NHHC)
Lực lượng tàu sân bay của Hạm đội 5 (TF 58) được đặt dưới quyền Phó Đô đốc Marc Mitscher. Giống như Spruance, ông khiêm tốn và không tìm kiếm vinh quang cá nhân. Mitscher là một trong những người tiên phong trong lĩnh vực hàng không hải quân Mỹ và có nhiều kinh nghiệm chỉ huy tàu sân bay cũng như lực lượng tàu sân bay. Đến giữa năm 1944, Mitscher đã đạt đỉnh cao năng lực, nhưng đôi khi lại bị ảnh hưởng bởi khuynh hướng quản lý vi mô của Spruance đối với cấp dưới trực tiếp, khiến vai trò của ông bị thu hẹp. Nếu Mitscher có khuyết điểm, đó là ông không phải lúc nào cũng chú ý đến chi tiết. Các chỉ huy nhóm tàu sân bay của Mitscher đều là phi công: Chuẩn Đô đốc James “Jocko” Clark (TG 58.1), Chuẩn Đô đốc Alfred E. Montgomery (TG 58.2), Chuẩn Đô đốc John W. Reeves (TG 58.3), và Chuẩn Đô đốc William K. Harrill. Clark đặc biệt táo bạo và sau này tiếp tục chỉ huy tàu sân bay trong Chiến tranh Triều Tiên. Trái ngược, Harrill lại thể hiện năng lực yếu kém khi điều hành nhóm đặc nhiệm của mình cả trước và trong trận chiến sắp tới.
LỰC LƯỢNG TÀU SÂN BAY TỐC ĐỘ CAO TẤN CÔNG MÃNH LIỆT

Một trong những cuộc tấn công đầu tiên của lực lượng tàu sân bay Mỹ diễn ra vào tháng 11 năm 1943 nhằm vào Rabaul- căn cứ của quân Nhật ở Thái Bình Dương. Cũng giống như cuộc không kích ngày 5 tháng 11 trước đó, đòn đánh dự kiến tiến hành vào 11 tháng 11 này phải được tổ chức trong thời gian rất ngắn. Vào thời điểm này, Đô đốc Chester Nimitz cho phép Đô đốc William “Bull” Halsey sử dụng một lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay thứ hai để tấn công Rabaul một lần nữa. Các tàu sân bay chỉ được cho mượn tạm thời đến ngày 14 tháng 11, sau đó sẽ được điều động về khu vực Trung tâm Thái Bình Dương để yểm trợ cho cuộc xâm lược quần đảo Gilbert. Lực lượng đặc nhiệm được phái đi, TG 50.3, được gọi là “Nhóm Essex” (The Essex Group), bao gồm ba tàu sân bay: hai tàu sân bay lớp Essex là USS Essex và USS Bunker Hill, cùng tàu sân bay hạng nhẹ USS Independence, được hộ tống bởi một màn che chắn gồm 9 tàu khu trục. Đáng chú ý, cuộc không kích này đánh dấu lần ra trận đầu tiên của máy bay SB2C Helldiver, một kiểu máy bay có quá trình đưa vào trang bị gặp nhiều trục trặc. Dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Alfred Montgomery, lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay này sẽ phóng máy bay ở phía tây vịnh Empress Augusta, chỉ cách Rabaul 138 hải lý. Đây là một cuộc tấn công hai mũi; song song với đó, TF 38 của Đô đốc Forrest Sherman, gồm các tàu sân bay Princeton và Saratoga, sẽ phóng máy bay trực tiếp từ phía đông Buka, ở khoảng cách 197 hải lý so với Rabaul. Dự báo thời tiết ban đầu cho biết Rabaul bị bao phủ bởi mây dày; khi nào — và liệu mây có tan hay không thì không ai đoán trước được. Cuối cùng, một mũi tấn công bị chậm một giờ, trong khi mũi kia lại sớm hơn nửa giờ, dẫn đến một cuộc tấn công gần như đồng thời ngoài kế hoạch. Saratoga hoàn tất việc phóng máy bay từ 05 giờ 20 phút đến 05 giờ 47 phút với 36 chiếc Hellcat, 23 chiếc SBD và 17 chiếc TBF. Princeton phóng 22 chiếc Hellcat và 9 chiếc TBF. Essex phóng Không đoàn 9 lên không trung, bắt đầu lúc 06 giờ 45 phút, gồm 18 chiếc TBF của VT-9 (cộng thêm một chiếc cho chỉ huy không đoàn, Thiếu tá Paul Emrick), 28 chiếc SBD-5 của VB-9 và 29 chiếc Hellcat của VF-9. Bunker Hill phóng 27 chiếc Hellcat của VF-18, 23 chiếc Helldiver của VB-17 và 19 chiếc TBF của VT-17, bao gồm cả máy bay của chỉ huy CAG-18. Independence phóng 9 chiếc TBF của VC-22, 8 chiếc Hellcat của VF-22, và 8 chiếc nữa của VF-6. Xét về quân số, đây là một đòn không kích hết sức ấn tượng: năm tàu sân bay này đã phóng tổng cộng 274 máy bay, gồm 70 chiếc TBF Avenger, 130 chiếc F6F Hellcat, 51 chiếc SBD, và 23 chiếc SB2C Helldiver. Phía Nhật ở tại Rabaul lúc 12 giờ 16 phút đã phản công bằng cách phóng 33 máy bay tiêm kích Zero-sen do Trung úy Sato Masao chỉ huy (9 chiếc từ Zuikaku, 15 chiếc từ Shōkaku và 9 chiếc từ Zuihō). Nhóm tiêm kích hộ tống này bảo vệ một đội hình tiến công xuất phát không lâu sau đó, gồm 23 máy bay bổ nhào Val (7 chiếc từ Zuikaku và 16 chiếc từ Shōkaku), cùng 14 máy bay ném ngư lôi Kate (5 chiếc mỗi tàu từ Zuikaku và Shōkaku, cộng thêm 4 chiếc từ Zuihō). Chỉ vài phút sau khi cất cánh, 6 chiếc Val (ba từ Shōkaku và ba từ Zuikaku) phải quay về căn cứ vì sự cố động cơ, khiến chỉ còn 17 Val tiếp tục tiến về phía các tàu sân bay Mỹ. Lực lượng máy bay Val bị suy giảm này được tăng cường phần nào bởi 4 máy bay bổ nhào Judy của Không đoàn 501. Đến 13 giờ 42 phút, đội hình hợp nhất gồm 68 máy bay đang bay ở độ cao 22.000 feet; tuy nhiên, radar của Hải quân Mỹ đã phát hiện lực lượng địch từ lúc 13 giờ 13 phút, tức sớm hơn nửa giờ, khi chúng còn cách 118 hải lý. Trong khoảng thời gian này, ba tàu sân bay của Nhóm Essex đang chuẩn bị cho một đợt không kích thứ hai vào Rabaul, nhưng kế hoạch lập tức bị hủy bỏ khi phát hiện lực lượng Nhật Bản đang tiếp cận. Các tàu sân bay hành trình cách nhau khoảng 2.000 yard, được bao quanh bởi một vòng hộ tống các tàu khu trục. Trong nửa giờ tiếp theo diễn ra các trận không chiến liên tục, trên diện rộng và cực kỳ ác liệt; giai đoạn tấn công chính của Nhật nhằm vào các tàu sân bay diễn ra từ 13 giờ 58 phút đến 14 giờ 42 phút. Các máy bay Val tiếp cận trước và gây ra các cú nổ suýt trúng đối với cả ba tàu sân bay. Lúc 14 giờ 08 phút, toàn bộ một chūtai gồm 9 chiếc Val cố gắng ném bom USS Bunker Hill; sau đó, từ 14 giờ 04 phút đến 14 giờ 20 phút, một số máy bay Kate thực hiện các đợt tiếp cận thấp đơn lẻ từ phía sau, nhưng phần lớn bị hỏa lực phòng không bắn hạ trước khi kịp tiếp cận mục tiêu. Đến 14 giờ 42 phút, nhóm Kate còn lại tiến hành đợt không kích cuối cùng. Khi trận đánh kết thúc, thiệt hại đối với các tàu Mỹ là không đáng kể. Mặc dù phía Nhật đã phóng ít nhất 8 quả ngư lôi, tất cả đều trượt mục tiêu. Các đòn tấn công ngư lôi này được thực hiện từ khoảng cách xa và ở độ cao thấp, khiến chúng trở thành mục tiêu dễ bị tiêu diệt. Dù không một quả bom nào của Val trúng các tàu sân bay, cuộc chiến này đã tiến gần tới hiểm họa hơn nhiều so với những gì bề ngoài thể hiện – chắc chắn là cảm nhận của những người trên USS Essex. Tuy nhiên, nhận định hời hợt này đã làm nhẹ đi thảm họa sức mạnh không quân lớn nhất mà người Nhật phải hứng chịu tại chiến trường này cho đến thời điểm đó. Nhật Bản mất toàn bộ các máy bay Kate và Val tham gia tấn công, bị bắn hạ bởi tiêm kích Mỹ hoặc hỏa lực phòng không. Hai trong số bốn chiếc Judy cũng bị bắn rơi, được VF-9 và VF-17 tuyên bố chiến công, dù bị nhận dạng nhầm là Tony. 33 máy bay sống sót quay trở về Rabaul trong khoảng từ 15 giờ 00 giờ đến 15 giờ 30 phút. Đổi lại, Hải quân Mỹ chỉ mất bốn máy bay: 2 chiếc Hellcat bị Zero-sen bắn rơi; một chiếc Helldiver của VB-17 (#28) mất tích, nhiều khả năng cũng bị bắn hạ khi các máy bay Nhật rút lui; và một chiếc Avenger bị phá hủy do tai nạn kỹ thuật. (Tranh của John D. Shaw)
Khi Hạm đội Thái Bình Dương tiếp nhận những tàu sân bay đầu tiên thuộc lớp Essex và Independence, Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay tốc độ cao bắt đầu một loạt các cuộc tập kích nhằm thử nghiệm tàu và máy bay mới. Vào tháng 8 năm 1943, máy bay từ các tàu Essex, Yorktown và Independence tấn công đảo Marcus. Vào tháng sau, máy bay từ Lexington, Princeton và Belleau Wood tấn công đảo san hô Tarawa trong quần đảo Gilberts. Sáu tàu sân bay đã tiến hành một cuộc tập kích trở lại đảo Wake vào tháng 10. Essex, Bunker Hill và Independence sau đó di chuyển xuống Nam Thái Bình Dương để tấn công Rabaul vào tháng 11 và đánh bại một cuộc không kích lớn của Nhật. Vào tháng 11, lần đầu tiên Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay tốc độ cao có đủ số lượng tàu sân bay để hình thành bốn nhóm đặc nhiệm riêng biệt trong chiến dịch đổ bộ quần đảo Gilberts. Hạm đội tàu sân bay Nhật đã suy yếu và bị áp đảo trước sáu tàu sân bay hạm đội và năm tàu sân bay hạng nhẹ mà Hải quân Mỹ triển khai để yểm trợ cuộc đổ bộ, vì vậy phía Nhật đã không cho hạm đội rời Truk để đối đầu với cuộc tấn công dữ dội của Mỹ. Thiệt hại duy nhất mà Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay tốc độ cao phải chịu trong chiến dịch Gilberts là một quả ngư lôi thả từ máy bay đánh trúng tàu Independence trong một cuộc tấn công lúc chạng vạng. Tháng 12, sáu tàu sân bay đã tấn công đảo san hô Kwajalein, trong đó Lexington bị trúng ngư lôi từ trên không trong một cuộc tấn công ban đêm khác.

Máy bay ném ngư lôi B6N1 của Nhật Bản bị bắn rơi ngay phía sau tàu USS Lexington (CV 16) tại đảo san hô Kwajalein, thuộc quần đảo Marshall vào ngày 4 tháng 12 năm 1943.
Năm 1944, Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay tốc độ cao gia tăng nhịp độ hoạt động. Mitscher tiếp nhận quyền chỉ huy lực lượng TF 58 mới được thành lập vào tháng 1. Cùng tháng đó, TF 58 yểm trợ chiến dịch đổ bộ quần đảo Marshall với các tàu Enterprise, Saratoga, bốn tàu lớp Essex và sáu tàu lớp Independence, được tổ chức thành bốn nhóm đặc nhiệm. Một lần nữa, hạm đội Nhật từ chối can thiệp vào cuộc đổ bộ. Bắt đầu vào sáng ngày 17 tháng 2, TF 58 thể hiện rõ năng lực được nâng cấp của mình. Một lực lượng gồm chín tàu sân bay (Enterprise, bốn tàu lớp Essex và bốn tàu lớp Independence) mở một cuộc tập kích bất ngờ vào pháo đài hải quân Nhật hùng mạnh tại Truk. Phía Nhật đã đoán trước được rằng một cuộc tấn công sắp xảy ra, nên Hạm đội Liên hợp đã rút khỏi khu vực trước khi TF 58 đến. Trong hai ngày, máy bay Mỹ thực hiện hơn 1.250 phi vụ tấn công, tàn phá căn cứ, tiêu diệt 250 máy bay và chịu trách nhiệm chính cho việc đánh chìm gần như toàn bộ 39 tàu chiến và tàu vận tải bị tiêu diệt trong chiến dịch này. Một cuộc không kích của Nhật đã thành công gây hư hại cho tàu sân bay Intrepid bằng một quả ngư lôi do máy bay ném ngư lôi Type 97 phóng ra.

Bức minh họa này mô tả khoảnh khắc Oite bị trúng ngư lôi từ máy bay Avenger của tàu sân bay USS Bunker Hill, ngay sau khi vượt qua eo Bắc và tiến vào đầm phá Truk trong Chiến dịch Hailstone. Có thể thấy con tàu đang né tránh một quả ngư lôi khác chạy song song ở phía xa, trong khi một quả khác đánh trúng mạn tàu. Hai chiếc tiêm kích Hellcat xuất hiện phía trước Oite, sau khi vừa hoàn thành một lượt bắn rải xuống tàu khu trục. Cú đánh trúng đã xé toạc con tàu già nua, khiến nó gãy đôi và chìm gần như ngay lập tức. 523 người sống sót từ Agano, vốn bị nhốt dưới khoang, không có cơ hội nào thoát thân – tất cả đều thiệt mạng, cùng với hầu hết thuỷ thủ đoàn của Oite; chỉ có 20 người trong số 172 thành viên còn sống sót. (Tranh của Adam Tooby)
Những cuộc tấn công đầu tiên vào quần đảo Marianas được tiến hành bởi hai nhóm đặc nhiệm thuộc TF 58 vào ngày 22 tháng 2. Mục tiêu tiếp theo là đảo Palau, bị tấn công vào ngày 30 tháng 3 và ngày 1 tháng 4. Một lần nữa, phía Nhật nhận ra khả năng bị tập kích nên Hạm đội Liên hợp rút khỏi khu vực kịp thời. Tuy nhiên vẫn còn nhiều mục tiêu giá trị bị bỏ lại; 36 tàu buôn và tàu phụ trợ đã bị đánh chìm với tổng tải trọng lên tới 130.000 tấn. Trong các ngày 21–22 tháng 4, lực lượng tàu sân bay tốc độ cao tấn công Hollandia ở New Guinea để hỗ trợ cuộc đổ bộ của lực lượng tướng MacArthur. TF 58 quay trở lại Truk vào các ngày 29–30 tháng 4. Lần này, các tàu sân bay thực hiện 2.200 phi vụ, tiêu diệt gần 100 máy bay Nhật và vô hiệu hóa Truk với vai trò là căn cứ hạm đội. Sau các cuộc tấn công nhỏ hơn vào đảo Marcus và Wake, TF 58 trở về khu neo đậu tại Majuro thuộc quần đảo Marshall để nghỉ ngắn trước khi tiến hành chiến dịch đổ bộ Marianas.
CHIẾN DỊCH FORAGER
Hải quân Mỹ từ lâu đã xem vùng Trung tâm Thái Bình Dương là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để tiến tới Nhật Bản. Sau khi cô lập được Rabaul, Hải quân Mỹ muốn nhanh chóng đưa chiến dịch tiến công qua Trung Thái Bình Dương trở lại đúng lộ trình. Hội nghị Quebec tổ chức tại Canada vào tháng 8 năm 1943 đã khẳng định tầm quan trọng của một chiến dịch tấn công qua hướng Trung Thái Bình Dương, và Đô đốc King đã bảo đảm rằng quần đảo Mariana được đưa vào danh sách mục tiêu. Một lý do chính là máy bay ném bom chiến lược B-29 mới của Không lực Lục quân Mỹ có tầm bay đủ để tấn công các mục tiêu trên đất Nhật từ quần đảo Mariana. Với mục tiêu đó, Đại tướng Henry H. Arnold, Tư lệnh Không quân Lục quân, đã ủng hộ việc đánh chiếm quần đảo này. Việc thất bại trong nỗ lực triển khai B-29 tại Trung Quốc để đánh Nhật đã khiến Arnold nhận ra rằng nếu muốn tấn công Nhật Bản, các căn cứ tại Mariana là điều kiện bắt buộc. Ngày tiến hành cuộc đổ bộ lên Mariana chỉ được thống nhất tại một hội nghị hoạch định ở Washington, D.C. vào tháng 2 và tháng 3 năm 1944. Những người tham dự đã chấp thuận kế hoạch do Nimitz trình bày, trong đó Truk sẽ bị bỏ qua, và mục tiêu chính là cứ điểm Nhật Bản ở quần đảo Mariana – nằm trên đảo Saipan – sẽ bị tấn công trước ngày 15 tháng 6.
Thời điểm đổ bộ quần đảo Mariana chỉ được xác định sau một hội nghị hoạch định diễn ra tại Washington, D.C. vào tháng 2 và tháng 3 năm 1944. Các bên tham dự đã chấp thuận kế hoạch do Nimitz đề xuất, trong đó Truk sẽ bị bỏ qua và mục tiêu chính là căn cứ Nhật Bản mạnh nhất trong quần đảo Mariana – đảo Saipan – sẽ bị tấn công vào ngày 15 tháng 6.
Những kế hoạch của Nimitz dành cho chiến dịch Forager được ban hành vào ngày 23 tháng 4 năm 1944. Cuộc đổ bộ thực tế lên đảo Saipan được xác nhận sẽ diễn ra vào ngày 15 tháng 6. Dựa trên kế hoạch tác chiến của Nimitz, Hạm đội 5 của Spruance nhận được mệnh lệnh vào ngày 12 tháng 5. Trước khi đổ bộ, TF 58 được giao nhiệm vụ vô hiệu hóa sức mạnh không quân của Nhật Bản trên đất liền trong phạm vi có thể đe dọa khu vực đổ bộ. Điều này đưa các căn cứ không quân và những mục tiêu khác trên Saipan, Tinian, Guam, cùng các đảo nhỏ Rota và Pagan vào danh sách mục tiêu. TF 58 được kỳ vọng sẽ giành được ưu thế trên không tại khu vực Mariana trước ngày 14 tháng 6. Vào ngày D, các nhóm tác chiến TG 58.2 và 58.3 được giao nhiệm vụ duy trì quyền kiểm soát bầu trời trên quần đảo Mariana, trong khi TG 58.1 và 58.4 chuẩn bị tấn công Iwo Jima và Chichi Jima (được Nhật sử dụng làm điểm trung chuyển máy bay tới Mariana) trong hai ngày 16 và 17 tháng 6. Sau các cuộc đổ bộ ban đầu, TF 58 sẽ tiếp tục chiến dịch để duy trì quyền kiểm soát trên không, đồng thời di chuyển về phía tây Mariana để sẵn sàng đối phó với bất kỳ cuộc phản công nào của hạm đội Nhật Bản.
Người Mỹ dự đoán rằng cuộc đổ bộ lên Saipan sẽ khiến Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) đưa ra phản ứng lớn. Các cơ quan tình báo của Hải quân Mỹ đã đưa ra những bản đánh giá xuất sắc về biên chế và lực lượng của Hạm đội Cơ động thứ nhất, đồng thời cũng nắm rõ chiến thuật tấn công của đối phương – thường đánh từ những hướng không ngờ tới và thực hiện các đòn đánh vào sườn. Những hiểu biết này có được từ một nguồn đáng tin cậy nhất – chính là từ Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản. Đô đốc Koga, người đảm nhận quyền chỉ huy sau cái chết của Yamamoto vào tháng 4 năm 1943, cùng bộ tham mưu của ông đang di chuyển bằng thủy phi cơ từ Palau đến Davao ở miền nam Philippines thì ba chiếc máy bay của họ gặp bão. Chiếc chở Koga biến mất, còn chiếc thứ hai chở các sĩ quan tham mưu bị rơi, những người sống sót sau đó rơi vào tay du kích Philippines. Cùng với họ là một bản sao của Mệnh lệnh tuyệt mật số 73 của Hạm đội Liên hợp – được biết đến nhiều hơn với tên gọi “Kế hoạch Z” – trong đó phác thảo cách người Nhật dự định tiến hành trận quyết chiến ở Trung Thái Bình Dương. Bản kế hoạch này được một tàu ngầm Mỹ chuyển tới Úc, nhanh chóng được dịch ra và gửi đến các bộ chỉ huy lớn của phe Đồng minh.
LỰC LƯỢNG TÀU SÂN BAY CỦA HẢI QUÂN ĐẾ QUỐC NHẬT BẢN

Đợt không kích tập trung đầu tiên của Chiến dịch I-Go do Yamamoto phát động được tiến hành nhằm vào các tàu thuyền ngoài khơi Guadalcanal vào ngày 7 tháng 4. Tổng cộng, 157 máy bay tiêm kích Zero và 67 máy bay bổ nhào được sử dụng trong hai đợt tấn công. Đợt thứ nhất gồm các Zero và Val thuộc Hạm đội Không quân 11, cùng với máy bay từ tàu sân bay Zuikaku; đợt thứ hai bao gồm máy bay từ các tàu sân bay Hiyo và Junyo. Đáp lại, phía Mỹ tung lên 36 F4F, chín F4U, sáu P-40, 12 P-38 và 13 P-39; trong số này, 56 chiếc đã tiếp xúc với lực lượng Nhật Bản. Một trận không chiến quy mô lớn đã bùng nổ và kéo dài từ quần đảo Russell xuống đến Iron Bottom Sound. Trong khi các máy bay tiêm kích giao chiến quyết liệt, các máy bay Val tiến hành tấn công vào số lượng lớn tàu thuyền Đồng Minh ngoài khơi Guadalcanal. Các máy bay bổ nhào thuộc đợt thứ nhất đã đánh chìm tàu hộ tống (corvette) Moa của New Zealand bằng hai quả bom, và đánh trúng tàu chở dầu Kanawha bằng thêm hai quả bom nữa. Đợt thứ hai gồm các máy bay bổ nhào từ Hiyo và Junyo tập trung tấn công tàu khu trục lớp Gleaves Aaron Ward ( trong minh hoạ), khi con tàu này đang hộ tống tàu đổ bộ LST-449 đang đầy tải ngoài khơi Koli Point, Guadalcanal. Tàu khu trục bất ngờ phát hiện ba chiếc Val lao xuống từ hướng mặt trời, lập tức khai hỏa bằng các pháo 20mm, 40mm và 127mm (5 inch), đồng thời bẻ lái gấp sang mạn trái. Trong lần này, các cuộc bổ nhào của Nhật Bản có độ chính xác chết người. Chiếc Val thứ nhất gây ra một cú nổ sượt, làm ngập buồng nồi hơi phía trước; chiếc thứ hai đánh trúng trực tiếp bằng quả bom nặng 551 pound vào phòng máy; chiếc cuối cùng gây thêm một cú nổ sượt khác, tạo ra tình trạng ngập nước bổ sung ở mạn trái phía đuôi. Một tốp ba máy bay bổ nhào khác tiếp tục lao vào, nhưng không chiếc nào ghi được phát trúng. Cuộc tấn công khiến 20 người thiệt mạng, 59 người bị thương, và bảy người mất tích. Việc ngập nước trên Aaron Ward không thể khống chế được, và con tàu bị chìm vào buổi tối cùng ngày. (Tranh của Peter Dennis)
Lực lượng tàu sân bay Nhật Bản đã phải gánh chịu những tổn thất khủng khiếp trong bốn trận đánh tàu sân bay của năm 1942. Sáu tàu sân bay (bốn tàu sân bay hạm đội và hai tàu sân bay hạng nhẹ) đã bị đánh chìm trong các trận này. Quan trọng hơn, thiệt hại đối với đội ngũ phi công được huấn luyện kỹ lưỡng từ trước chiến tranh là vô cùng lớn. Trong số 765 phi công tham gia cuộc tấn công Trân Châu Cảng, ước tính có tới 409 người đã thiệt mạng trong năm 1942. Khi người Nhật rút khỏi Guadalcanal vào tháng 1 và tháng 2 năm 1943, tổn thất của lực lượng không quân hạm tàu Nhật vẫn tiếp tục. Để bảo vệ căn cứ chủ lực tại Rabaul, Nhật Bản đã quyết liệt chống trả bước tiến của người Mỹ dọc theo quần đảo Solomon. Không lực Nhật đóng trên đất liền tỏ ra bất lực trong việc ngăn chặn người Mỹ, khiến Tư lệnh Hạm đội Liên hợp liên tục chịu sức ép phải điều các nhóm không quân tàu sân bay đóng tại Truk đến hỗ trợ lực lượng không quân mặt đất ở Rabaul. Trong ba lần khác nhau, Nhật Bản đã điều các nhóm không quân tàu sân bay của mình xuống phía nam tới Rabaul. Lần đầu tiên là Chiến dịch I-Go do Yamamoto chỉ đạo – một chiến dịch được lên kế hoạch kém hiệu quả – diễn ra vào tháng 4. Trước đó, trong tháng 3, hơn 100 máy bay thuộc các không đoàn của Zuikaku, Zuiho, Hiyo và Junyo đã được điều đến Rabaul để tiến hành một loạt cuộc tấn công vào các mục tiêu ở New Guinea và Guadalcanal. Từ ngày 1 đến ngày 14 tháng 4, người Nhật đã thực hiện năm đợt tập kích nhằm cản trở việc tăng cường lực lượng của phe Đồng minh trong khu vực. Mặc dù huy động tới 350 máy bay, kết quả của chiến dịch lại rất khiêm tốn, và khoảng 50 máy bay Nhật đã bị mất. Tuy nhiên, Yamamoto lại tin vào những báo cáo thổi phồng của các phi công dưới quyền, và vào ngày 16 tháng 4, ông tuyên bố chiến dịch thành công, đồng thời ra lệnh chấm dứt các cuộc tấn công tiếp theo. Khoảng 15% số máy bay của các nhóm không quân tàu sân bay đã bị mất trong chiến dịch này.

Sự kiện nổi bật nhất trong chiến tranh ở Nam Thái Bình Dương vào tháng 4 năm 1943 là Yamato bị ám sát bởi các máy bay P-38 của Hải quân Mỹ. Sau khi Chiến dịch I-Go kết thúc, Yamamoto bày tỏ mong muốn đi thị sát các căn cứ gần tiền tuyến nhằm nâng cao tinh thần cho các binh sĩ đang đồn trú tại đó. Bất chấp các cảnh báo, ông vẫn kiên quyết tiến hành một chuyến thị sát các vị trí tiền phương của Nhật Bản tại phía bắc quần đảo Solomon. Chi tiết về chuyến đi này đã bị phía Mỹ nắm được, và do tuyến bay nằm trong tầm hoạt động của các máy bay tiêm kích P-38 xuất phát từ Guadalcanal, một chiến dịch đánh chặn mang tên Chiến dịch Vengeance đã được lên kế hoạch. Minh hoạ này mô tả thời điểm khi máy bay Mỹ phát hiện chiếc máy bay ném bom G4M1 Type 1 “Betty” của Yamamoto vào buổi sáng ngày 18 tháng 4. Chiếc máy bay ném bom này thuộc Không đoàn 705 (705th Kokutai) và mang dấu hiệu đơn vị tối thiểu. Là một máy bay còn mới, lớp ngụy trang màu xanh lá của nó gần như chưa bị mài mòn. Phía sau chiếc Betty là một máy bay tiêm kích P-38G thuộc Phi đoàn Tiêm kích 339, do Trung úy Rex Barber điều khiển. Chiếc Betty cố gắng tránh né Barber bằng cách bay sượt sát tán rừng rậm Bougainville. Barber gặp rất ít khó khăn trong việc bắn hạ chiếc Betty do máy bay này thiếu giáp bảo vệ và các thùng nhiên liệu không được che chắn. Vụ rơi máy bay đã giết chết toàn bộ những người trên khoang, trong đó có Đô đốc Yamamoto. Ngày hôm sau, thi thể của ông được tìm thấy trong rừng, và tro cốt sau khi hỏa táng cuối cùng đã được đưa về Nhật Bản. (Tranh của Ron Cole)
Sau khi Yamamoto bị giết vào tháng 4, Đô đốc Koga đảm nhận quyền chỉ huy Hạm đội Liên hợp. Suốt mùa hè, khi quân Mỹ tiếp tục tiến dọc theo quần đảo Solomon, các chỉ huy Nhật tại Rabaul liên tục yêu cầu Koga tăng cường máy bay. Nguồn viện trợ không quân đáng kể duy nhất khi đó vẫn là các nhóm không quân thuộc các tàu sân bay đóng tại Truk. Koga hiểu rằng nếu ông điều những máy bay này tham gia chiến dịch tại Solomon, chúng sẽ không còn sẵn sàng khi Hạm đội Liên hợp cần đến để đối phó với đà tiến công của Mỹ ở Trung Thái Bình Dương. Trong trận chiến tại đảo New Georgia (một đảo lớn ở khu vực trung tâm quần đảo Solomon), Koga đã điều nhóm không quân từ tàu sân bay Junyo đến căn cứ không quân Buin trên đảo Bougainville vào ngày 2 tháng 7 để ứng phó với cuộc đổ bộ của Mỹ lên đảo Rendova (cũng thuộc khu vực trung Solomon) vào ngày 30 tháng 6. Chỉ trong hai tuần, một phần ba số máy bay của nhóm không quân này đã bị mất; số còn lại quay trở về Truk mà không đạt được kết quả gì đáng kể. Đến cuối tháng 9, Koga dẫn Hạm đội Liên hợp ra khơi với ý định phục kích lực lượng tàu sân bay Mỹ ngoài khơi quần đảo san hô Eniwetok thuộc quần đảo Marshall. Tuy nhiên, tình báo hải quân Nhật đã nhận định sai về chiến dịch của Mỹ, nên Hạm đội Liên hợp buộc phải quay trở lại Truk mà không giao chiến với đối phương.
Vào tháng 10, Koga cuối cùng đã nhượng bộ và điều một phần lớn lực lượng không quân tàu sân bay của Hạm đội Liên hợp đến Rabaul trong mười ngày, nhằm chuẩn bị đối phó với cuộc đổ bộ của Mỹ lên đảo Bougainville ở miền bắc quần đảo Solomon. Chiến dịch này được đặt tên là Chiến dịch RO và huy động 173 máy bay (82 chiếc Zero, 45 máy bay ném bom bổ nhào, 40 máy bay Type 97 và 6 máy bay trinh sát) thuộc Hải đội Tàu sân bay số 1. Các máy bay này đến Rabaul vào ngày 1 tháng 11 và ngay lập tức tham chiến. Ngày hôm sau, khoảng 100 máy bay Nhật tấn công một lực lượng Mỹ gồm bốn tàu tuần dương hạng nhẹ và tám tàu khu trục. Các tàu này không có yểm trợ trên không trong giai đoạn đầu trận chiến, nhưng tất cả đều là tàu mới, được trang bị những vũ khí phòng không tiên tiến nhất và hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại nhất của Hải quân Mỹ. Lực lượng đặc nhiệm Mỹ được điều khiển rất hiệu quả, trong khi các phi công ném bom bổ nhào Nhật Bản cho thấy họ đã đánh mất phần lớn kỹ năng và tinh thần quyết chiến như trước đây. Chỉ có hai quả bom đánh trúng phần đuôi tàu tuần dương hạng nhẹ Montpelier, gây thiệt hại không đáng kể. Người Mỹ tuyên bố đã bắn hạ 17 máy bay Nhật. Ngày 11 tháng 11, người Nhật phát động một cuộc tấn công quy mô lớn nhằm vào lực lượng tàu sân bay Mỹ đã tập kích Rabaul vào buổi sáng cùng ngày. Lực lượng này gồm hai tàu sân bay hạm đội Essex và Bunker Hill, tàu sân bay hạng nhẹ Independence, cùng một lực lượng hộ tống yếu gồm chín tàu khu trục. Lực lượng tấn công của Nhật bao gồm 67 máy bay Zero hộ tống 27 máy bay ném bom bổ nhào và 14 máy bay Type 97 mang ngư lôi. Lực lượng CAP của Mỹ phản ứng quá muộn trước các máy bay ném bom bổ nhào Nhật, nên phần lớn trong số đó đã kịp tiếp cận mục tiêu, tập trung tấn công tàu sân bay Bunker Hill. Không chiếc tàu sân bay nào bị đánh trúng, nhưng tất cả đều chịu những cú suýt trúng. Trong số 20 máy bay ném bom bổ nhào tấn công, chỉ có ba chiếc sống sót. Tiếp đó, 14 chiếc Type 97 tiến vào tấn công, nhưng tất cả đều bị bắn rơi trước khi có chiếc nào phóng trúng ngư lôi của mình.

Ngay sau buổi trưa ngày 8 tháng 11 năm 1943, 26 chiếc D3A2 Val từ tàu sân bay Zuikaku và Shokaku đã ném bom bổ nhào vào các tàu ngoài khơi bãi đổ bộ tại Torokina. Mười chiếc Val của Zuikaku do phi công FPO1c Yoshitaka Ogashiwa chỉ huy; ông là một trong mười phi công ném bom bổ nhào bị bắn rơi trong cuộc tấn công này — bốn chiếc từ Zuikaku và sáu chiếc từ Shokaku. Tàu vận tải tấn công USS President Adams (APA-19) vừa hoàn tất việc dỡ quân của Sư đoàn 37 Hoa Kỳ và Quân đoàn Thủy quân Lục chiến Đổ bộ số 1 ngoài khơi Torokina thì bị các máy bay Val từ Zuikaku tấn công ngay sau buổi trưa, khi tàu bắt đầu rời đi. Các khẩu pháo phòng không 20mm của tàu không đủ tầm để bắn trúng hiệu quả vào các Val cho đến khi chúng bước vào giai đoạn cuối của đợt tấn công. Các Val đã đánh trúng hai tàu vận tải, gây nổ gần một tàu khác và một tàu khu trục gần đó, trong khi USS President Adams vẫn không bị hư hại. Hình minh họa cho thấy một chiếc Val từ phía sau, vừa thả bom của mình; USS President Adams ở ngay bên dưới, gần bờ biển. (Tranh của Jim Laurier)
Trận giao chiến ít được biết đến này là cuộc tấn công quy mô lớn đầu tiên của không quân Nhật nhằm vào một nhóm tàu sân bay Mỹ kể từ sau trận Santa Cruz. Nó cho thấy rõ sức mạnh suy yếu của các nhóm không quân tàu sân bay Nhật, đồng thời phản ánh những tiến bộ vượt bậc của người Mỹ trong khả năng phòng không hạm đội. Trong thời gian ngắn đóng quân tại Rabaul, các phi công thuộc Hải đội Tàu sân bay số 1 đã phải chịu tổn thất nghiêm trọng — mất 50% số máy bay tiêm kích, 85% máy bay ném bom bổ nhào, và 50% máy bay mang ngư lôi. Sự tiêu diệt gần như hoàn toàn của những nhóm không quân tinh nhuệ nhất trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản đồng nghĩa với việc khi người Mỹ đổ bộ lên quần đảo Gilbert vào tháng 11, lực lượng tàu sân bay Nhật không còn đủ khả năng tham chiến. Việc tái xây dựng các nhóm không quân tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật là một quá trình chậm chạp và vẫn chưa hoàn tất khi trận đánh tàu sân bay tiếp theo diễn ra.
TÌNH TRẠNG CỦA LỰC LƯỢNG TÀU SÂN BAY NHẬT BẢN THÁNG 6 NĂM 1944
Người Nhật gặp nhiều khó khăn trong việc bắt kịp năng lực ngày càng tăng của Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay tốc độ cao. Xét về số lượng và chất lượng của tàu, máy bay, cũng như phi công, Nhật Bản ngày càng tụt lại phía sau. Lực lượng tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản có vai trò then chốt trong trận chiến quyết định mà họ đã kỳ vọng và chuẩn bị cho năm 1944. Mặc dù những nỗ lực tái thiết lực lượng tàu sân bay của Nhật Bản dường như cho thấy kết quả vào tháng 6 năm 1944, nhưng trên thực tế, đó chỉ là một lực lượng trống rỗng, với rất ít khả năng giành thắng lợi trước TF 58.
Ngày 1 tháng 3 năm 1944, Hải quân Đế quốc Nhật chính thức công nhận vị trí tối quan trọng của tàu sân bay trong các chiến dịch hạm đội. Vào ngày này, Hạm đội Cơ động thứ nhất được thành lập trên cơ sở hợp nhất Hạm đội 1 và Hạm đội 2 – lực lượng nắm phần lớn thiết giáp hạm và tàu tuần dương hạng nặng – cùng Hạm đội 3, vốn là lực lượng tàu sân bay. Đến giữa năm 1944, quyền chỉ huy Hạm đội Liên hợp và Hạm đội Cơ động được trao cho một nhóm sĩ quan mới. Sau khi Koga tử nạn trong một vụ rơi máy bay, Đô đốc Toyoda Soemu tiếp nhận quyền chỉ huy Hạm đội Liên hợp vào tháng 5 năm 1944. Toyoda được đánh giá là một người có kinh nghiệm và năng lực đáng kể, nhưng cũng nổi tiếng là cứng rắn và khó hợp tác. Hạm đội Cơ động thứ nhất do Phó Đô đốc Ozawa Jisaburo – một sĩ quan rất có năng lực – chỉ huy, đồng thời ông cũng trực tiếp chỉ huy Hải đội Tàu sân bay số 1. Ozawa có nền tảng trong lĩnh vực hàng không và đã chỉ huy Hạm đội 3 từ tháng 11 năm 1942. Các chỉ huy lực lượng tác chiến của Ozawa đều là những người từng dày dạn kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh. Phó Đô đốc Kurita Takeo chỉ huy Lực lượng Tiên phong, bao gồm phần lớn các thiết giáp hạm của Hạm đội Cơ động thứ nhất. Kurita từng tham gia vào các chiến dịch xâm lược Đông Ấn Hà Lan, trận Midway, và Guadalcanal. Một phần trong Lực lượng Tiên phong của Kurita là Hải đội Tàu sân bay số 3 do Chuẩn Đô đốc Obayashi Sueo chỉ huy. Ông là một người ủng hộ mạnh mẽ hàng không hải quân, từng đảm nhiệm nhiều chức vụ trong lĩnh vực này kể từ năm 1936, bao gồm cả việc chỉ huy tàu Zuiho trong các trận Midway và Santa Cruz. Obayashi nổi tiếng là người hiếu chiến và sau này trở thành một trong những nhân vật thúc đẩy mạnh mẽ việc Hải quân Nhật áp dụng chiến thuật kamikaze. Chuẩn Đô đốc Joshima Takaji chỉ huy Hải đội Tàu sân bay số 2; ông bắt đầu chiến tranh với cương vị là thuyền trưởng của tàu Shokaku.
Ngành đóng tàu của Nhật Bản hoàn toàn không thể thay thế các tổn thất trong chiến tranh hay mở rộng quy mô hạm đội. Điều này được thể hiện rõ ràng qua việc đến trận hải chiến tàu sân bay quyết định năm 1944, Hạm đội Cơ động thứ nhất chỉ có ba tàu sân bay được thiết kế chuyên dụng và sáu tàu sân bay cải hoán từ các loại tàu khác nhau. Hai tàu sân bay hạm đội hùng mạnh Shokaku và Zuikaku tạo thành nòng cốt của lực lượng tàu sân bay. Đáng tiếc cho người Nhật, chỉ có thêm một tàu sân bay hạm đội mới được bổ sung vào giữa năm 1944. Con tàu đó là Taiho, được đặt lườn từ năm 1941. Dù Taiho là một thiết kế xuất sắc – sàn bay được bọc giáp dày 75–80mm, đủ sức chịu được bom 1.000 lb – nhưng nó lại không phù hợp để sản xuất hàng loạt, và do đó không phải là mẫu thiết kế lý tưởng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Taiho được trang bị radar, pháo phòng không Type 98 cỡ 3,9 inch rất hiệu quả, và mang theo một không đoàn lớn với 75 máy bay. Con tàu này cùng với hai chiếc lớp Shokaku hợp thành Hải đội Tàu sân bay số 1.

Hiyō được chụp cùng tàu chị em Junyō ngày 13 tháng 5, cả hai đều chuyển đổi từ tàu chở khách cỡ lớn, lượng giãn nước 27.500 tấn. Ngoài vỏ giáp tối thiểu quanh khoang máy và hầm đạn, các tàu này hầu như không được bảo vệ và chỉ đạt tốc độ 25,5 hải lý/giờ. Tuy nhiên, với khả năng mang hơn 50 máy bay, chúng vẫn là bổ sung hữu ích cho Hạm đội Liên hợp. (Yamato Museum)
Bổ sung cho ba tàu sân bay hạm đội xuất sắc đó là một loạt tàu cải hoán. Hiyo và Junyo là những tàu hữu dụng, mỗi chiếc có thể mang khoảng 50 máy bay, nhưng lại hạn chế về tốc độ và khả năng bảo vệ. Phần còn lại của lực lượng tàu sân bay gồm các tàu sân bay hạng nhẹ. Zuiho vẫn còn trong biên chế và được thủy thủ đoàn xem là một “con tàu may mắn”. Ryuho là một trong những “tàu sân bay bóng tối” được Nhật Bản chuẩn bị từ trước chiến tranh. Con tàu này được đưa vào phục vụ năm 1934 với vai trò tàu tiếp tế tàu ngầm, và được chuyển đổi thành tàu sân bay hạng nhẹ từ tháng 12 năm 1941, hoàn tất vào tháng 11 năm 1942. Tuy nhiên, Ryuho là tàu sân bay hạng nhẹ cải hoán kém thành công nhất, với tốc độ tối đa chỉ 26 hải lý/giờ, có sàn bay nhỏ, thiếu bảo vệ, và chỉ mang theo không đoàn nhỏ. Hai tàu sân bay cuối cùng được bổ sung vào hạm đội là Chitose và Chiyoda, thuộc lớp Chitose. Cả hai vốn được đóng như tàu sân bay thủy phi cơ, và từng phục vụ trong vai trò này ở giai đoạn đầu chiến tranh. Thảm họa tại Midway đã khiến người Nhật quyết định chuyển đổi cả hai thành tàu sân bay, quá trình này được hoàn tất vào đầu năm 1944. Khi hoạt động trong vai trò tàu sân bay, chúng tương đương lớp Shoho. Hải đội Tàu sân bay số 2 bao gồm Junyo, Hiyo, và Ryuho, còn Hải đội Tàu sân bay số 3 gồm Chitose, Chiyoda, và Zuiho.

Ryuho được chuyển đổi từ tàu mẹ tàu ngầm thành tàu sân bay hạng nhẹ vào tháng 11 năm 1942, nhưng là chuyển đổi kém thành công nhất của Hải quân Nhật. Trận Biển Philippine là trận duy nhất mà con tàu tham chiến; Ryuho sống sót qua chiến tranh trong tình trạng hư hại nặng (ảnh chụp tháng 10 năm 1945). (NHHC)
Việc đóng mới tàu sân bay đã khó khăn đối với Nhật Bản, nhưng việc huấn luyện các không đoàn tàu sân bay mới còn khó khăn hơn nhiều. Vào tháng 3 năm 1944, các nhà hoạch định Nhật Bản ước tính rằng lực lượng tàu sân bay sẽ chỉ vừa đủ khả năng chiến đấu cho trận chiến quyết định sắp tới. Hải đội Tàu sân bay số 1 được dự kiến sẽ đủ khả năng tác chiến ban ngày vào cuối tháng 3, với biên chế 81 tiêm kích Zero, 81 máy bay ném bom bổ nhào, 54 máy bay ném ngư lôi, và 9 máy bay trinh sát thuộc Không đoàn 601. Hải đội Tàu sân bay số 2 mang theo Không đoàn 652, với kế hoạch mạng theo gồm 81 Zero, 36 máy bay ném bom bổ nhào, và 18 máy bay ném ngư lôi. Tuy nhiên, các phi công của hải đội này có trình độ huấn luyện thấp hơn so với lực lượng trên các tàu sân bay hạm đội chủ lực. Đối với Hải đội Tàu sân bay số 3, tình hình còn tệ hơn nữa: các phi công thuộc Không đoàn 653 gặp hạn chế nghiêm trọng trong huấn luyện — 63 phi công tiêm kích chưa đủ tiêu chuẩn để cất, hạ cánh trên tàu sân bay và chỉ có thể hoạt động từ căn cứ trên đất liền, trong khi 27 máy bay cường kích chưa được huấn luyện cho nhiệm vụ tấn công phối hợp. Từ tháng 3 đến tháng 6, cơ hội huấn luyện hầu như không có, khiến trình độ tổng thể của các phi đoàn thuộc Hạm đội Cơ động thứ nhất không được cải thiện đáng kể. Đến giữa năm 1944, các phi đoàn của Hải đội Tàu sân bay số 1 chỉ có trung bình sáu tháng huấn luyện, trong khi phi công của Hải đội số 3 chỉ được ba tháng huấn luyện. Tệ hơn cả, phi công của Hải đội Tàu sân bay số 2 chỉ có trung bình 100 giờ bay huấn luyện, một con số thảm hại đối với tiêu chuẩn tác chiến trên tàu sân bay.
Vào năm 1944, các không đoàn tàu sân bay Nhật Bản có hình thức tương tự như các đơn vị cùng loại năm 1942. Các tàu sân bay hạm đội mang theo ba phi đội – một phi đội tiêm kích gồm 27 máy bay, một phi đội ném bom bổ nhào với 24 máy bay, và một phi đội ném ngư lôi với 18 máy bay. Một số ít máy bay trinh sát cũng được mang theo. Hai tàu sân bay lớp Hiyo mang theo một không đoàn nhỏ hơn gồm một phi đội tiêm kích với 27 máy bay, một phi đội ném bom bổ nhào có 18 máy bay, và một phi đội ném ngư lôi nhỏ gồm 6 máy bay. Các tàu sân bay hạng nhẹ mang theo 21 tiêm kích và 9 máy bay ném ngư lôi. Không đoàn của Ryuho được điều chỉnh để bao gồm 27 tiêm kích và 6 máy bay ném ngư lôi. Để tăng cường sức tấn công, một số tiêm kích trên mỗi tàu được chỉ định làm tiêm kích–ném bom và được trang bị để mang bom nặng 551 pound.
Dưới áp lực của chiến tranh, ngành công nghiệp hàng không Nhật Bản đã không thể thiết kế và chế tạo các loại máy bay tàu sân bay có năng lực cao hơn trong thời gian kịp thời. Kết quả là, một số kiểu máy bay từng xuất hiện tại Trân Châu Cảng vẫn còn có mặt trên boong của các tàu sân bay Nhật vào tháng 6 năm 1944. Loại tiêm kích tiêu chuẩn của tàu sân bay vẫn là Zero. Phiên bản năm 1944 là A6M5, có lực đẩy tăng cường và tốc độ cao hơn đôi chút so với các phiên bản trước đó. Tuy nhiên, nó không thể sánh được với Hellcat của Mỹ, vốn vượt trội hơn về hỏa lực, khả năng bảo vệ, hiệu suất ở độ cao lớn, và khả năng cơ động ở tốc độ cao. Người Nhật cũng gặp khó khăn trong việc đưa một loại máy bay ném bom bổ nhào mới vào phục vụ trên tàu sân bay. Cuối năm 1942, một phiên bản cải tiến của Type 99 được giới thiệu với tốc độ tối đa cao hơn một chút, nhưng điều này không làm thay đổi tính dễ bị tổn thương của máy bay trước các cuộc đánh chặn. Type 99 vẫn còn được sử dụng vào giữa năm 1944. Loại thay thế cho Type 99 là Yokosuka D4Y. Máy bay này được đưa vào sử dụng năm 1942 (ban đầu được dùng làm máy bay trinh sát tốc độ cao) và có khả năng sống sót cao hơn nhờ tốc độ tối đa 357 dặm/giờ, đồng thời mang được tải trọng bom lớn hơn một chút. Type 97 vẫn còn được sử dụng vào năm 1944 mặc dù rõ ràng đã lỗi thời. Loại thay thế cho Type 97 là máy bay ném ngư lôi trên tàu sân bay Nakajima B6N2 Model 12 (còn được gọi là B6N2). Loại máy bay này gặp nhiều trục trặc trong quá trình phát triển, khiến việc đưa vào trang bị bị trì hoãn, buộc một số lượng nhỏ Type 97 vẫn phải phục vụ ở tuyến đầu. Khi cuối cùng được đưa vào hoạt động, B6N2 vẫn không mang lại cải thiện đáng kể nào so với Type 97, ngoài tốc độ tối đa cao hơn đôi chút.
Các không đoàn tàu sân bay Nhật Bản năm 1944 có lợi thế đáng kể về tầm hoạt động so với đối thủ Mỹ, nhờ vào kết cấu nhẹ hơn của máy bay Nhật – vốn trong hầu hết các trường hợp gần như không có giáp và thiếu các thùng nhiên liệu tự bịt kín. Lợi thế về tầm hoạt động này đặc biệt rõ ràng trong tầm trinh sát (560 hải lý) của máy bay tàu sân bay Nhật. Ozawa hiểu rất rõ sự khác biệt này và xem đó là một yếu tố trung tâm trong kế hoạch tác chiến của mình. Không giống như năm 1942, khi máy bay tàu sân bay Nhật có chất lượng ngang bằng hoặc vượt trội so với đối thủ Mỹ, thì đến năm 1944 người Nhật chỉ còn vận hành một lực lượng máy bay kém hơn hẳn.
Một bất lợi lớn khác mà người Nhật phải đối mặt là thiếu sự hỗ trợ hậu cần trên biển. Lực lượng Cơ động thứ nhất chỉ có thể tiếp nhận nhiên liệu khi đang hành trình, và ngay cả nhu cầu cơ bản này cũng đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng vào năm 1944. Tổn thất nặng nề các tàu chở dầu do tàu ngầm Mỹ tấn công khiến việc tích trữ nhiên liệu ở các khu vực tiền phương trở nên bất khả thi. Tình trạng thiếu hụt các sản phẩm dầu tinh chế nghiêm trọng đến mức Lực lượng Cơ động thứ nhất không đủ tầm hoạt động để giao chiến với người Mỹ tại quần đảo Mariana nếu đó là nơi xảy ra trận quyết chiến. Vấn đề này chỉ được giải quyết bằng cách dỡ bỏ yêu cầu rằng toàn bộ nhiên liệu dùng trên tàu phải được tinh chế. Giải pháp đó trở nên khả thi khi Lực lượng Cơ động thứ nhất di chuyển đến khu neo đậu tại Tawi-Tawi, chỉ cách đảo Tarakan ngoài khơi Borneo 180 hải lý. Hòn đảo này có một trong năm trung tâm chế biến dầu lớn nhất tại Đông Ấn Hà Lan, với một nhà máy lọc dầu và bốn cầu cảng xuất dầu. Các mỏ dầu Tarakan sản xuất loại dầu thô nhẹ có thể được đốt trực tiếp trong nồi hơi của tàu mà không cần tinh chế. Tuy nhiên, dầu thô Tarakan có hàm lượng lưu huỳnh cao, có thể làm hư hại ống nồi hơi và gây nguy hiểm nghiêm trọng trong chiến đấu do hơi dễ cháy của nó. Lực lượng Cơ động thứ nhất vận hành trong tình trạng hậu cần cực kỳ eo hẹp cho trận quyết chiến sắp tới, chỉ có sáu tàu chở dầu được tổ chức thành hai nhóm tiếp tế. Trong trường hợp khó có thể xảy ra là người Nhật giành được một số thành công trong trận quyết chiến vào giữa năm 1944, họ cũng không có khả năng khai thác thắng lợi đó. Phải mất nhiều tuần để thu gom đủ nhiên liệu cho một lần xuất kích lớn khác, tìm kiếm máy bay thay thế, cũng như sửa chữa và tái tiếp tế cho các tàu. Ở giai đoạn này của chiến tranh, Hải quân Đế quốc về cơ bản đã bị thu hẹp thành một lực lượng đánh tập kích và không còn khả năng duy trì sức mạnh tác chiến lâu dài.
HUYỀN THOẠI VỀ TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH

Mineichi Koga là người kế nhiệm Yamamoto làm Tư lệnh Hạm đội Liên hợp. Ông đã cố gắng vực dậy các hoạt động hải quân Nhật Bản bằng cách tổ chức lại Hạm đội Liên hợp thành các lực lượng đặc nhiệm được xây dựng xung quanh các tàu sân bay theo mô hình Hải quân Mỹ, và tổ chức một hạm đội không quân hải quân đóng trên đất liền để phối hợp với các tàu sân bay. Ông cũng là người đề xuất Kế hoạch Z - một kế hoạch dành cho trận chiến quyết định.
Ngay cả vào năm 1944, Hải quân Đế quốc Nhật vẫn tuân thủ khái niệm trận đánh quyết định. Người Nhật đã từng tham chiến trong một số trận “quyết định” chống lại Hải quân Hoa Kỳ, nhưng không trận nào đạt được kết quả mong muốn. Tuy nhiên quan niệm rằng một trận đánh duy nhất có thể định đoạt cuộc chiến, hoặc vào năm 1944 thay đổi vận mệnh của cuộc chiến, đã được Hạm đội Liên hợp nhấn mạnh lại vào năm 1943. Việc hoạch định cho trận quyết định mới nhất này bắt đầu vào tháng 8 năm 1943 như một phần của “Chiến dịch Giai đoạn Ba của Cuộc chiến” do Koga đề xướng. Kết quả là “Kế hoạch Z” do Koga và bộ tham mưu của ông soạn thảo. Theo sơ đồ này, Hạm đội Liên hợp, hoạt động từ Truk, sẽ xuất kích để bảo vệ các khu vực chiến lược do Đại Bản doanh Đế quốc chỉ định. Hạm đội Liên hợp dự đoán khu vực có khả năng xảy ra trận quyết định nhất là vùng Trung tâm Thái Bình Dương, nhưng cũng có các phương án dự phòng cho mọi tình huống có thể xảy ra, từ một cuộc tấn công lên quần đảo Kuril ở Bắc Thái Bình Dương cho đến một cuộc tấn công của Đồng minh xuống phía nam tận miền tây New Guinea. Khi cuộc tấn công chính của Đồng minh đã được xác định, Hạm đội Liên hợp sẽ xuất kích và tìm cách tiến hành một trận đánh tập trung. Một số thành tố của các kế hoạch trận quyết định trước chiến tranh có thể nhận diện được trong phiên bản 1943–44. Người Nhật lên kế hoạch phát hiện lực lượng đổ bộ Mỹ sắp tới bằng máy bay, tàu ngầm và các chiến hạm mặt nước nhỏ hơn. Tàu ngầm và máy bay đóng ở đất liền sẽ tiến hành tiêu hao đối với hạm đội Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho trận đánh quyết định. Điểm cao trào của trận quyết định là sự can thiệp của Hạm đội Cơ động Thứ Nhất. Kế hoạch Z có bốn tiểu kế hoạch chiến thuật được ký hiệu từ A đến D; hai trong số này dự kiến chỉ tấn công mặt nước, một là tấn công kết hợp không quân và mặt nước, và tiểu kế hoạch thứ tư bao gồm các cuộc tấn công trên không do tàu sân bay và máy bay đất liền thực hiện. Các tàu sân bay của Hạm đội Cơ động thứ nhất sẽ hoạt động ngoài tầm trinh sát của đối phương và “cơ động để tấn công vào sườn của đối phương.”

Kiến trúc sư chính của Kế hoạch “A-Go” là Đô đốc Toyoda Soemu, Tư lệnh Liên hợp Hạm đội. Ảnh trên được chụp vào tháng 9 năm 1944 trên soái hạm của ông – tàu tuần dương hạng nhẹ Oyodo. Sau khi đưa Hạm đội Liên hợp đến thất bại quyết định tại trận Biển Philippine, Toyoda còn soạn thảo một kế hoạch phòng thủ Philippines còn phi thực tế và thảm họa hơn chỉ vài tháng sau đó. (NHHC)
Quyền trách nhiệm lập kế hoạch cho trận quyết định chuyển sang Toyoda sau khi Koga qua đời. Toyoda giữ Kế hoạch Z ở dạng tổng quát nhưng đã thực hiện một số điều chỉnh. Kế hoạch được sửa đổi mang tên “A-Go” và, sau các cuộc đổ bộ của Mỹ vào quần đảo Gilbert và Marshall, đã được tập trung vào quần đảo Mariana. Vào tháng 4 năm 1944, Mariana được chỉ định là khu vực có tầm quan trọng quốc gia phải được bảo vệ bằng mọi giá. Điều này bao gồm việc huy động Hạm đội Cơ động Thứ Nhất, tất cả các đơn vị không quân đóng trên đất liền sẵn có, và tất cả các tàu ngầm. Kế hoạch tác chiến thực tế của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vay mượn nhiều yếu tố từ Kế hoạch Z. Việc báo trước về bất kỳ chiến dịch lớn nào của Hải quân Mỹ sẽ do các máy bay đóng trên đất liền đảm nhiệm, chịu trách nhiệm tiến hành trinh sát các khu neo đậu và căn cứ chính của Hải quân Mỹ. Bên cạnh nhiệm vụ trinh sát then chốt, các đơn vị không quân đóng trên đất liền còn được giao nhiệm vụ vô hiệu hóa ít nhất một phần ba tàu sân bay Mỹ trước pha trận quyết định. Sau các đợt tập kích từ máy bay Nhật đóng trên đất liền, Hạm đội Cơ động thứ nhất sẽ giáng đòn quyết định. Dự định là các tàu sân bay Nhật sẽ tấn công trong khi hoạt động ngoài tầm đánh của TF 58. Cần lưu ý rằng Lực lượng Không quân Căn cứ và Hạm đội Cơ động thứ nhất nhắm vào lực lượng tàu sân bay Mỹ, chứ không phải lực lượng đổ bộ. Sau khi TF 58 bị tiêu diệt, lực lượng đổ bộ có thể bị tấn công và tiêu diệt.

Phó Đô đốc Ozawa Jisaburo, người chịu trách nhiệm thực hiện Kế hoạch “A-Go”, đã thi hành kế hoạch của Toyoda một cách tận lực, nhưng lực lượng mà ông nắm trong tay đã quá yếu, kết cục dẫn đến một thất bại nặng nề. (NHHC)
Chiến dịch A-Go đã được diễn tập qua một loạt các bài tập trên bàn và trò chơi chiến tranh. Trận đầu tiên được tổ chức trên soái hạm của Ozawa, Taiho, vào ngày 27 tháng 4. Vào ngày 2 tháng 5, Tổng tham mưu Hải quân đã giám sát một cuộc chơi chiến tranh và một nghiên cứu tham mưu trên soái hạm của Hạm đội Liên hợp, tàu tuần dương hạng nhẹ Oyodo neo trong Vịnh Tokyo, trên Taiho, và trên các soái hạm của các đơn vị trực thuộc. Kết quả được phê bình cùng ngày với sự hiện diện của Thiên hoàng Hirohito. Các bài tập trên bàn bổ sung được tiến hành trên Taiho vào ngày 6 tháng 5. Sau các đánh giá cấp cao này, phiên bản cuối cùng của A-Go được ban hành vào ngày 3 tháng 5. Kế hoạch, được đưa vào Mệnh lệnh số 373 của Đại Bản doanh Đế quốc (“Chính sách Tác chiến Khẩn cấp mà Hạm đội Liên hợp phải tuân thủ”), nhấn mạnh các hoạt động trên không và yếu tố bất ngờ. Lực lượng Không quân Căn cứ và Hạm đội Cơ động thứ nhất sẽ phối hợp để tiêu diệt kẻ thù bằng một “đòn chớp nhoáng.” Lệnh song song số 76 của Toyoda gửi Hạm đội Liên hợp dự kiến một trận quyết định tại phía tây quần đảo Caroline. Nếu người Mỹ không hành động như dự đoán và thay vào đó lại tấn công vào Mariana, họ sẽ bị Lực lượng Không quân Căn cứ tấn công rồi dụ về phía Palau, nơi sẽ trở thành chiến trường của trận quyết định diễn ra vào ban ngày. Thành công được đặt trên cơ sở phân rã liên tục của đối phương thông qua các cuộc tập kích trên không, trên mặt nước và bằng tàu ngầm, nhằm làm suy giảm lực lượng tàu sân bay Mỹ, tạo cho Hạm đội Cơ động thứ nhất một cơ hội chiến thắng thực sự.
PHẦN 5:

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất




































