Dẫn nhập

Những ngày tháng 8, tháng 9 hàng năm, người dân Việt Nam lại tràn ngập với cảm xúc tự hào về những dấu mốc son trong lịch sử dân tộc. Đó là Cách mạng Tháng Tám 19/8 và Quốc khánh 2/9.
Nhân dịp 02/09/2024, kỷ niệm 79 năm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, hãy cùng mình ôn lại kỳ tích lịch sử mùa thu năm ấy, hòa chung nhịp đập tự hào dân tộc với một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà: Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám!

1. Bối cảnh lịch sử cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám

Dưới sự thống trị của thực dân Pháp từ cuối thế kỷ 19, Việt Nam đã bị chia cắt thành ba khu vực với ba thể chế chính trị khác nhau: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam Kỳ. Mỗi khu vực chịu sự cai trị trực tiếp hoặc gián tiếp của Pháp với những cơ chế hành chính riêng biệt. Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ, nơi triều đình nhà Nguyễn vẫn tồn tại nhưng chỉ có quyền lực hình thức, trong khi Nam Kỳ là thuộc địa trực tiếp của Pháp, với chính quyền thuộc địa nắm quyền kiểm soát toàn diện. 
Bằng cách phân chia Việt Nam thành ba khu vực riêng biệt, Pháp đã tạo ra sự khác biệt và chia rẽ giữa các vùng miền, làm suy yếu sự đoàn kết dân tộc.  Sự phân chia này cũng nhằm ngăn chặn một cuộc nổi dậy toàn diện trên toàn quốc. Nếu một vùng khởi nghĩa, các vùng khác vẫn nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ nhằm giúp Pháp dễ dàng dập tắt các phong trào độc lập.
Trong suốt hơn 56 năm cai trị, thực dân Pháp đã để lại những hậu quả nặng nề trên mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam. Chế độ thuộc địa đã biến Việt Nam thành một xã hội nghèo nàn, lạc hậu và hoàn toàn lệ thuộc. Nền kinh tế kiệt quệ bởi hệ thống thuế má nặng nề và bất công, trong khi nông dân bị tước đoạt ruộng đất để lập đồn điền, đẩy cuộc sống của họ vào cảnh khốn cùng. Xã hội bị phân hóa sâu sắc, khi người Pháp được hưởng mọi đặc quyền, còn người Việt bị coi thường và không được đối xử như những con người bình đẳng. 
Trong giai đoạn lầm than Pháp thuộc, có rất nhiều phong trào đấu tranh giành độc lập tự phát mà nổi bật nhất có thể kể đến là đường lối nổi dậy của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Hai vị sĩ phu yêu nước này đã có những đóng góp quan trọng  cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam, tạo ra những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đường lối Hồ Chí Minh và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sau này.
Nhưng như chúng ta đã biết, dẫu cho đường lối của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh dù mang tính chất toàn diện hơn, nguồn lực dồi dào hơn nhưng đều mang về thất bại. Lý do cho những sự thất bại này là gì? 
Đầu tiên là đường lối phong trào của Phan Bội Châu vào cuối thế kỷ thứ 19. Ông chủ trương bạo động dùng vũ lực để đánh đuổi thực dân Pháp. Ông thành lập Hội Duy Tân. tổ chức phong trào Đông Du vận động thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập, chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa vũ trang (mà không ngờ rằng mai này Nhật Bản sẽ là nước cai trị tiếp theo). Dẫu mang tinh thần quyết liệt, sẵn sàng hy sinh vì Tổ Quốc nhưng sự thiếu chuẩn bị cặn kẽ, bị phụ thuộc vào lực lượng Nhật Bản quá nhiều đã khiến các phong trào khởi nghĩa sau đó đều bị dập tắt. 
Không lâu sau vào đầu thế kỷ thứ 20, Phan Châu Trinh đã vạch ra một đường lối khác để mở ra con đường giành độc lập cho dân tộc Việt Nam. Chủ trương của Phan Châu Trinh là đấu tranh theo con đường ôn hòa, tập trung vào cải cách văn hóa - xã hội, sử dụng nguồn lực chính là quần chúng nhân dân. Ông dẫn đầu phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục với mục tiêu khai trí cho dân, truyền bá những kiến thức mới nhằm giúp người dân nâng cao nhận thức về xã hội và đất nước. Phan Châu Trinh tin rằng bên cạnh đấu tranh vũ trang, con đường nâng cao dân trí, cải cách xã hội cũng là một con đường quan trọng để giành độc lập. Mặc dù có ý thức cách mạng sâu sắc, Phan Châu Trinh và các đồng sự chưa có sự tổ chức chặt chẽ và thiếu vũ khí để đấu tranh, do đó lực lượng của ông chưa đủ sức mạnh để chống lại sự đàn áp của thực dân Pháp.
Sự thất bại của cả hai đường lối Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh dẫn ta đến sự thành công của Đường lối Hồ Chí Minh sau này. Đường lối của Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khắc phục được những hạn chế của những phong trào trước đó với những quan điểm mới mẻ và chiến lược sáng tạo. Chúng ta sẽ đi sâu vào phần này hơn trong đoạn tiếp theo. 
Vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật Bản đã tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp tại Đông Dương trong bối cảnh Thế chiến II đang diễn ra ác liệt. Trước đó, từ năm 1940, Nhật đã chiếm đóng Đông Dương nhưng vẫn duy trì bộ máy cai trị của thực dân Pháp để tránh đối đầu trực tiếp. Tuy nhiên, đến đầu năm 1945, trước nguy cơ thất bại của phe Phát xít trên toàn cầu và lo sợ sự phản công của lực lượng Đồng Minh tại Đông Dương, Nhật quyết định đảo chính nhằm loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Pháp và thiết lập quyền kiểm soát trực tiếp. Cuộc đảo chính diễn ra nhanh chóng, quân Nhật tấn công các cơ sở quân sự và hành chính của Pháp, bắt giữ và tiêu diệt các quan chức, sĩ quan Pháp. Sau khi giành quyền kiểm soát, Nhật tuyên bố trao trả "độc lập" cho các nước Đông Dương, nhưng thực chất chỉ là để hợp thức hóa sự cai trị của mình.
Đúng như dự đoán, sau khi lật đổ chính quyền thực dân Pháp, Nhật Bản tiếp tục áp dụng các biện pháp đàn áp, tra tấn nhân dân ta bằng những chính sách vô cùng tàn bạo. Điều này khiến nhân dân ta phải chịu cảnh khốn khổ  "thân một cổ hai tròng nô lệ". Nạn đói năm 1945 chính là một hồi ức vô cùng đau thương của nhân dân ta trong giai đoạn này, khi ước tính có hơn 2 triệu người Việt Nam đã chết đói trong sự tuyệt vọng mà Tô Hoài từng miêu tả rằng “Người ta chết như ngả rạ”.
Trong những thời khắc đen tối nhất của đất nước, đường lối cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn đuốc cháy rực, soi sáng cho cách mạng Việt Nam. Khác với phong trào Đông Du vốn chủ trương bạo động vũ trang nhưng bị phụ thuộc quá nhiều vào lực lượng bên ngoài, hay phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục tập trung vào cải cách văn hóa xã hội mà chưa có đường lối thống nhất, đường lối Hồ Chí Minh đã khắc phục được hết những hạn chế đó. Người đã vạch ra một con đường cách mạng tài tình, kết hợp giữa đấu tranh chính trị, vũ trang và ngoại giao. Bật mí cho các bạn, đường lối Hồ Chí Minh lúc bấy giờ dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Chính chủ nghĩa Mác-Lênin đã cung cấp cho chủ tịch Hồ Chí Minh những vũ khí lý luận sắc bén để phân tích tình hình Việt Nam, giúp Người nhìn thấy rõ bản chất của xã hội thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam và tìm ra đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn. 
Chủ trương đường lối Hồ Chí Minh có thể giản lược trong ba câu nói nổi tiếng của Người trong suốt thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc như sau: 
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” - Thứ nhất, tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc để cùng nhau đứng lên đấu tranh. 
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc” - Thứ hai, lấy nhân dân quần chúng làm sức mạnh vũ trang để chiến đấu.
“Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại” - Thứ ba, phải kết hợp đấu tranh vũ trang và chính trị, sử dụng vũ trang nhân dân để tấn công vào các cơ sở của địch, song song với đó là vận động quần chúng tham gia cách mạng để xây dựng một mặt trận dân tộc thống nhất. 
Đường lối Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc đã thông suốt rõ ràng, kết hợp với tinh thần đấu tranh sôi sục của nhân dân Việt Nam ta đã mở đường cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám giành chính quyền.

2. Diễn biến chi tiết Cách mạng tháng 08 

2.1.1. Giai đoạn chuẩn bị và phát động khởi nghĩa

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, chính quyền thực dân Pháp tại Đông Dương đã bị tê liệt hoàn toàn. Nhân cơ hội này, Đảng Cộng Sản Đông Dương do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đặc biệt là Việt Minh đã nhanh chóng họp bàn, chỉ đạo tích cực các tổ chức cách mạng, để chuẩn bị cho một cuộc Tổng khởi nghĩa. Phong trào cách mạng được đẩy mạnh, các cuộc mít tinh, biểu tình và hoạt động vũ trang cục bộ diễn ra khắp nơi nhằm huy động quần chúng đứng lên đấu tranh, đồng thời thăm dò thái độ của quân Nhật. 
Trong khoảng thời gian đó, hội nghị quân sự Bắc Kỳ cũng được tổ chức để đưa ra quyết định thành lập các Uỷ ban ở các địa phương nhằm huy động toàn lực lượng cho cuộc khởi nghĩa. Việt Minh đẩy mạnh việc tổ chức lực lượng vũ trang, tuyên truyền và phát triển phong trào quần chúng. Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, trở thành căn cứ địa cách mạng lớn nhất của cả nước. 
Nơi diễn ra Đại hội Quốc dân do Việt Minh triệu tập, ngày 16/8/1945, quyết định Tổng khởi nghĩa, bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch
Nơi diễn ra Đại hội Quốc dân do Việt Minh triệu tập, ngày 16/8/1945, quyết định Tổng khởi nghĩa, bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch
Tuy vậy, Đảng Cộng Sản Đông Dương và Việt Minh cũng phải đối  mặt với rất nhiều thách thức và khó khăn phía trước. Đầu tiên là các tầng lớp nhân dân đã bị chia rẽ sâu sắc kể từ chính sách chia để trị của thực dân Pháp, khiến việc huy động lực lượng toàn dân thành một mặt trận thống nhất để đấu tranh vẫn còn gặp rất nhiều trở ngại. Tiếp theo là sự thiếu thốn về vũ khí và sự non trẻ của lực lượng, khi mà quân đội Nhật sở hữu vũ trang tân tiến với kinh nghiệm chiến đấu dày dặn thì lực lượng của ta chủ yếu là quần chúng cách mạng, lực lượng vũ trang tập trung còn mỏng (hơn 700 người), với trang bị phần lớn là vũ khí thô sơ (chỉ có hơn 40 khẩu súng trường và một số súng ngắn), mới qua một vài lớp huấn luyện quân sự cấp tốc. Quan ngại hơn cả là mạng lưới được thành lập ở các địa phương còn chưa đủ mạnh để phát động khởi nghĩa, nếu không có sự điều phối chặt chẽ và chiến lược thống nhất thì sẽ dẫn đến thất bại cục bộ ngay trong phút chốc. 
Vào tháng 8 năm 1945, tin tức về thất bại của Nhật tại mặt trận Thái Bình Dương lan truyền khắp nơi, và việc Nhật chính thức tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh đã khơi dậy quyết tâm mạnh mẽ trong lòng lực lượng cách mạng Việt Nam.
Ngay sau đó, tại Hội nghị toàn quốc Tân Trào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới. Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Bắt tay ngay vào hành động, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc đã được thành lập bao gồm các lãnh đạo chủ chốt như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị và Chu Văn Tấn. Cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã chính thức được phát động trên toàn quốc.
Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi đồng bào cả nước được truyền đi khắp nơi trước ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi đồng bào cả nước được truyền đi khắp nơi trước ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám

2.1.2. Hà Nội dẫn lối cách mạng, giương cao ngọn cờ đầu Tổng khởi nghĩa 

Ngày 18/8/1945, không khí sửa soạn khởi nghĩa bao trùm khắp Hà Nội, cả Thủ đô tràn ngập khí thế cách mạng. Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, công nhân nhà máy, công nhân cứu quốc đã tập hợp thành đội ngũ trước cổng xí nghiệp, giương cao cờ đỏ sao vàng, tay cầm vũ khí thô sơ, rầm rập tiến về quảng trường Nhà hát Lớn, vừa đi vừa hô những khẩu hiệu cách mạng và hát bài Tiến quân ca. 
Mít tinh tổng khởi nghĩa tại Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội
Mít tinh tổng khởi nghĩa tại Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội
Từ ngoại thành, trên các ngả đường dẫn vào trung tâm thành phố, hàng vạn bà con nông dân, già trẻ gái trai, các đội tự vệ mang theo đủ các loại vũ khí, từ súng trường đến gươm, đao, mã tấu, câu liêm, hùng dũng tiến bước, tiếng hô khẩu hiệu từng đợt vang lên như sóng triều. Nhân dân các phố nội thành, xếp hàng mười theo từng khối lớn, như phụ nữ, thanh niên, viên chức, học sinh, trí thức,... lần lượt tiến vào quảng trường, vừa đi vừa đồng thanh hô to khẩu hiệu, giương cao biểu ngữ và cờ đỏ sao vàng kéo về Nhà hát Lớn. Cuộc mít-tinh gồm 30 vạn người, bắt đầu trong không khí hào hùng chưa từng thấy.
 Các đội quân du kích từ các chiến khu tiến vào Hà Nội, tập trung trước Nhà hát Lớn
Các đội quân du kích từ các chiến khu tiến vào Hà Nội, tập trung trước Nhà hát Lớn
Sau đó, theo kế hoạch đã định, cuộc mít-tinh lớn biến thành cuộc tuần hành thị uy; quần chúng có lực lượng vũ trang làm nòng cốt chia làm hai mũi lớn chiếm hai cơ quan đầu não quan trọng nhất của địch: Phủ Khâm Sai, Trại Bảo an binh. Tòa Thị chính, Sở mật thám liên bang Ðông Dương, Hỏa Lò... đều bị ta đều đánh chiếm nhanh chóng. Quân lính Nhật đã hạ vũ khí mà không có bất kỳ hành động kháng cự nào trước sự sục sôi của nhân dân Hà thành.
 Nhân dân chiếm Phủ Khâm sai, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội tháng 8/1945
Nhân dân chiếm Phủ Khâm sai, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội tháng 8/1945
Khởi nghĩa thành công ở Hà Nội là một đòn chí mạng giáng vào chính quyền tay sai Nhật ở hầu khắp cả nước, đẩy chúng đến chỗ hoàn toàn tuyệt vọng, tan rã và đầu hàng cách mạng. 
Thắng lợi ở Hà Nội đã mở ra thời kỳ khởi nghĩa dồn dập trên toàn cả nước, khơi dậy một khí thế cách mạng như “triều dâng, thác đổ”.

2.1.3. Huế: Ngọn lửa cách mạng bùng cháy rực rỡ

Sau khi Hà Nội giành thắng lợi, không khí cách mạng càng thêm sôi sục trên khắp cả nước. Ở Thừa Thiên - Huế, Trung ương Đảng và Đảng bộ tỉnh đã nhanh chóng triển khai các công tác cần thiết để đảm bảo cho cuộc khởi nghĩa sẽ diễn ra thành công.
Chiều ngày 21/8/1945, Đảng bộ và Việt Minh Thừa Thiên - Huế đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình nhằm thể hiện sức mạnh và tinh thần quyết tâm của quần chúng. Đội tự vệ Phú Bình bắt đầu bao vây đồn Mang Cá, một trong những cứ điểm quan trọng của địch. Đến ngày 22/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa, quần chúng cách mạng tiếp tục tổ chức biểu tình và tiến tới chiếm một số cơ sở của chính quyền bù nhìn. Lúc này, lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh đã phấp phới tung bay trên kỳ đài, thay thế cho cờ quẻ ly.
Tối hôm đó, một lá thư tối hậu thư được gửi đến vua Bảo Đại. Trước sức ép của quần chúng, nhà vua đành phải chấp nhận thoái vị. Cả đêm đó, Huế không ngủ. Tiếng hô "Việt Nam độc lập muôn năm!" vang vọng khắp các con phố. Không khí khởi nghĩa sôi động khắp thành phố Huế, các đội tự vệ ráo riết truy bắt những tên Việt gian đầu sỏ và theo dõi chặt chẽ các phần tử phản động. Nhân dân Huế sục sôi chờ đợi giờ phút quyết định.
Vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam, vào chiều 30/8/1945 thoái vị, mở ra một trang sử mới của dân tộc.
Vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam, vào chiều 30/8/1945 thoái vị, mở ra một trang sử mới của dân tộc.
Sáng ngày 23/8/1945, cả thành phố Huế rực rỡ trong màu đỏ của cờ sao vàng. Hàng nghìn người dân Huế cùng nhân dân từ các phủ, huyện theo kế hoạch đã tiến vào thành phố, tràn ngập các con đường và khu phố.
Hàng vạn người dân Thừa Thiên Huế và các Đội Cứu quốc quân tiến về sân vận động Huế Mùa thu Tháng 8/1945
Hàng vạn người dân Thừa Thiên Huế và các Đội Cứu quốc quân tiến về sân vận động Huế Mùa thu Tháng 8/1945
Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa, quần chúng đã chiếm nốt các cơ sở còn lại của chính quyền bù nhìn, rồi tập trung tại sân vận động thành phố để dự cuộc mít tinh mừng chiến thắng. Trong không khí nghiêm trang, cờ quẻ ly bị hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên, đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam tuyên bố xóa bỏ chính thể quân chủ ở Huế cũng như trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, công bố chính sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đồng thời, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Thừa Thiên Huế chính thức được thành lập. Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng hô vang của nhân dân như muốn làm rung chuyển mảnh đất cố đô. 
Nhân dân Thừa Thiên Huế tham gia giành chính quyền và kéo vào cửa Thượng Tứ Huế
Nhân dân Thừa Thiên Huế tham gia giành chính quyền và kéo vào cửa Thượng Tứ Huế
Khởi nghĩa ở Huế đánh dấu một bước chuyển biến mới của Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, thúc đẩy các địa phương tiếp tục nổi dậy giành chính quyền.

2.1.4. Lửa cách mạng Sài Gòn đã thổi bùng khởi nghĩa lên tới đỉnh cao

Tin Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi truyền vào như luồng điện gây chấn động cả thành phố Sài Gòn. Ngay lập tức, cơn bão táp cách mạng bùng lên mạnh mẽ tại Sài Gòn - một địa bàn chiến lược trọng yếu của đất nước.
Chiều ngày 24/8/1945, khắp nơi trong thành phố đều hừng hực khí thế khởi nghĩa. Những khẩu hiệu như “Việt Nam hoàn toàn độc lập”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm” tràn ngập trên các báo, truyền đơn và áp phích, tinh thần khởi nghĩa lan rộng khắp thành phố bùng lên ngọn lửa cách mạng thiêu đốt lòng người.
Đúng 18 giờ ngày 24/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa chính thức phát lệnh, kêu gọi toàn thể nhân dân tham gia cuộc mít tinh lịch sử. Chấp hành lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, hàng nghìn đội viên Thanh niên Tiền Phong xung kích, phần lớn là đoàn viên Tổng Công đoàn và những đảng viên cộng sản kiên trung, đã được vũ trang và triển khai lực lượng chiếm lĩnh và nắm quyền kiểm soát các cơ sở trọng yếu trong thành phố như: Kho bạc, Nhà máy đèn, Nhà máy nước, Sở Bưu điện, Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Sở Chữa cháy, Sở Công an….
Tất cả bộ máy cai trị của chính quyền bù nhìn trong thành phố đã về tay cách mạng, trừ dinh Toàn quyền, cảng Hải quân, Đông Dương Ngân hàng, sân bay Tân Sơn Nhất vì quân phát xít Nhật không chịu nhượng bộ. 
Vậy là từ nửa đêm cùng ngày, hàng chục vạn quần chúng nhân dân từ các vùng ngoại thành Bà Điểm, Hóc Môn, Bình Đông, Bình Xuyên, Chợ Đệm..., từ các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Biên Hòa, với băng cờ, gậy gộc, dao găm, giáo, mác, súng,... ồ ạt tiến vào thành phố Sài Gòn. Cả thành phố vang lên những tiếng hát, tiếng hô khẩu hiệu: “Chính quyền về tay Việt Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm”,...
Tại Sài Gòn, ngày 25/8, hơn một triệu quần chúng nội thành và ven đô cùng một số tỉnh lân cận tiến hành mít tinh, tuần hành vũ trang khổng lồ, lật đổ chính quyền phát xít Nhật.
Tại Sài Gòn, ngày 25/8, hơn một triệu quần chúng nội thành và ven đô cùng một số tỉnh lân cận tiến hành mít tinh, tuần hành vũ trang khổng lồ, lật đổ chính quyền phát xít Nhật.
Rạng sáng ngày 25/8/1945, Sài Gòn bừng dậy trong không khí cách mạng hào hùng. Các đường phố tràn ngập cờ, biểu ngữ. Tiếng hô khẩu hiệu quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vang dội trong thành phố.
Trong không khí hào hùng, đồng chí Nguyễn Lưu, đại diện Tổng Công đoàn Nam Bộ, đọc lời hứa của giai cấp công nhân, nhân dân lao động cùng toàn thể nông dân sát cánh bên nhau quyết giữ vững chính quyền cách mạng.
Cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn đã diễn ra thành công rực rỡ, đưa Cách mạng Tháng Tám lên một đỉnh cao mới
Dinh Khâm Sai (nay là Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, số 65 Lý Tự Trọng, Quận 1), là nơi cờ đỏ sao vàng được cắm lên vào đêm ngày 24/8/1945.
Dinh Khâm Sai (nay là Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, số 65 Lý Tự Trọng, Quận 1), là nơi cờ đỏ sao vàng được cắm lên vào đêm ngày 24/8/1945.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người dân của một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Đất nước ta đã chính thức chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, kết thúc 80 năm nhân dân dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít để trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. 
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã khẳng định tầm cao trí tuệ của đường lối Hồ Chí Minh, chứng tỏ sự sáng tạo và phù hợp với điều kiện của Việt Nam, đồng thời cho thấy đường lối có tính phổ quát, có thể áp dụng cho nhiều quốc gia khác. Không chỉ giúp nhân dân Việt Nam giành độc lập, Cách mạng tháng 8 còn là cuộc cách mạng giải phóng đầu tiên tại các nước thuộc địa lúc bấy giờ. Nó đã khơi lên ngọn lửa đấu tranh, làm bùng nổ phong trào giành độc lập tại nhiều nước châu Phi và châu Á khác như Indonesia (8/1945), Lào (10/1945), Philippines (7/1946), Ấn Độ (8/1947) và Ai Cập (7/1952).

3. Ngày 2/9/1945: Ngọn lửa cách mạng khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 2/9/1945, trong một buổi sáng thu se lạnh, hàng vạn người dân từ khắp nơi đã đổ về Quảng trường Ba Đình để chứng kiến một thời khắc lịch sử không thể nào quên. Trên một bục gỗ đơn sơ, giữa lá cờ đỏ sao vàng tung bay kiêu hãnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh với dáng vóc giản dị, khoan thai bước lên trước hàng ngàn cặp mắt hướng về Người.
Giọng nói ấm áp, trầm hùng của Bác vang lên, bắt đầu với câu hỏi mà sau này đã trở thành biểu tượng: "Đồng bào có nghe tôi nói rõ không?" Đám đông đồng thanh đáp lại "Rõ!" một cách vang dội. 
Bản Tuyên ngôn Độc lập được Bác Hồ tuyên đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 02/9/1945 được khởi đầu bằng câu trích từ bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tiếp sau câu dẫn luận ấy là một câu khác trích từ Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng năm 1791 của Cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn độc lập", khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh tư liệu
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn độc lập", khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh tư liệu
Với tầm nhìn xa trông rộng, sự nhạy cảm về chính trị, Người thấu hiểu một điều hiển nhiên rằng giành được nền độc lập đã khó, để giữ được nền độc lập còn khó hơn. Hơn nữa làm sao để nền độc lập đó được tất cả các nước thừa nhận và tôn trọng còn khó hơn gấp trăm nghìn lần. Có lẽ vì thế mà ngay khi đặt bút, Bác Hồ đã trích dẫn những lời bất hủ từ Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền của Cách mạng Pháp để khẳng định rằng mọi con người đều sinh ra bình đẳng, có quyền sống, tự do và hạnh phúc. Bác nhìn nhận rất rõ bản chất của kẻ thù và vận mệnh của dân tộc, lấy hai câu được coi là “bất hủ”, là “khuôn thước” mà Nhân dân Pháp, Mỹ phải đổ bao xương máu để làm luận điểm sắc bén để đối đầu với kẻ thù.
Nhân dân ta đã không cầm được nước mắt khi nghe Bác tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ra đời. Đối với những người từng chịu đựng cảnh nô lệ, đói khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, từng câu chữ trong Tuyên ngôn Độc lập như một lời khẳng định rằng những hy sinh, đấu tranh của họ đã được đền đáp. Không khí quảng trường lúc đó như vỡ òa trong những tiếng hô vang “Việt Nam độc lập muôn năm!” và “Hồ Chí Minh muôn năm!”, thể hiện sự đồng lòng và quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Hội đồng Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra mắt sau phiên họp đầu tiên, sáng 3/9/1945. Tại phiên họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề về sự cần thiết phải có một bản Hiến pháp dân chủ cho nước Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Hội đồng Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra mắt sau phiên họp đầu tiên, sáng 3/9/1945. Tại phiên họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề về sự cần thiết phải có một bản Hiến pháp dân chủ cho nước Việt Nam.
Thành công trong việc khai sinh ra Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là vậy, nhưng đất nước ta khi ấy cũng đã đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách hiểm nghèo: Ngân quỹ nhà nước chỉ còn vỏn vẹn vài đồng, nhân dân chết đói, mù chữ, "thù trong, giặc ngoài". Trong bối cảnh này, Đảng và chính phủ đã có những thành tựu to lớn, góp phần đưa đất nước vượt qua giai đoạn nguy nan để từng bước ổn định và phát triển.
Một trong những thành tựu đáng kể đầu tiên và quan trọng nhất của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khi ấy là cuộc chiến chống nạn đói, khi mà vào cuối 1944 đầu năm 1945, nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu người dân miền Bắc. Để cứu vãn tình hình, chính phủ đã phát động phong trào “nhường cơm, sẻ áo”, kêu gọi nhân dân cả nước đóng góp lương thực, giúp đỡ đồng bào bị đói. Song song với đó, chính phủ cũng tổ chức lại sản xuất, mở rộng diện tích canh tác và cải cách nông nghiệp để đẩy lùi nạn đói. 
Nhân dân Hà Nội mít tinh tại Nhà Hát Lớn trong tuần lễ cứu đói, tháng 11/1945.(Nguồn internet)
Nhân dân Hà Nội mít tinh tại Nhà Hát Lớn trong tuần lễ cứu đói, tháng 11/1945.(Nguồn internet)
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hợp tác xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gặt mùa (năm 1954). Ảnh: hochiminh.vn
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hợp tác xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gặt mùa (năm 1954). Ảnh: hochiminh.vn
Cùng với việc giải quyết nạn đói, chỉnh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa còn quyết tâm chống lại “giặc dốt”. Tại thời điểm mới khai sinh đất nước, hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục trong việc xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “Bình dân học vụ” với mục tiêu xóa mù chữ cho toàn dân. Nhờ sự nỗ lực của cả chính phu và nhân dân mà hàng triệu người dân đã được học chữ, góp phần nâng cao trình độ dân trí và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
Một lớp bình dân học vụ ở Hà Nội năm 1945. Nhiều chị em đi làm đồng về muộn, đành nhịn đói vào lớp với mong muốn học để biết viết tên mình.  (Nguồn: vnexpress)
Một lớp bình dân học vụ ở Hà Nội năm 1945. Nhiều chị em đi làm đồng về muộn, đành nhịn đói vào lớp với mong muốn học để biết viết tên mình. (Nguồn: vnexpress)
Lớp bình dân học vụ đặc biệt của bộ đội khi đi hành quân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ba lô của mỗi người đều được dán bảng chữ cái và các cụm từ dễ học, khi hành quân, người đi sau nhìn ba lô người trước để học chữ. (Nguồn: vnexpress)
Lớp bình dân học vụ đặc biệt của bộ đội khi đi hành quân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ba lô của mỗi người đều được dán bảng chữ cái và các cụm từ dễ học, khi hành quân, người đi sau nhìn ba lô người trước để học chữ. (Nguồn: vnexpress)
Khó khăn chồng chất khó khăn, khi mà ngân quỹ nhà nước gần như đã cạn kiệt sau chiến tranh. Trong giai đoạn này, sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam gần như trở thành tài sản vốn quý nhất của đất nước. Đảng và Chính Phủ đã kêu gọi người dân khắp cả nước quyên góp tiền bạc, lương thực và cả sức người, sức của để đóng góp ngân sách quốc gia . Phong trào “Tuần lễ vàng” do đích thân chủ tịch Hồ Chí Minh phát động đã thu về hàng tấn vàng, bạc từ sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân, giúp cho cách mạng vượt qua được khoảng thời gian khốn khó trong giai đoạn đầu gây dựng đất nước. 
Đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng "Tuần lễ vàng". Ảnh tư liệu
Đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng "Tuần lễ vàng". Ảnh tư liệu
Trong bối cảnh quốc tế, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng phải đối mặt với tình trạng “tứ bề thọ địch”. Ở phía Bắc, Trung Quốc với quân đội Tưởng Giới Thạch đang lăm le tiến quân vào Việt Nam. Ở miền Nam, quân Đồng Minh, với danh nghĩa giải giáp quân Nhật cũng có ý định can thiệp vào tình hình đất nước ta. Trong khi đó, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm quay trở lại xâm lược mà còn tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định trong nước. Trước tình hình này, chính phủ ta đã linh hoạt áp dụng sách lược ngoại giao khôn khéo, vừa tranh thủ tận dụng sự ủng hộ quốc tế để tuyên truyền kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, vừa áp dụng phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến" để đối phó với tình hình quốc tế phức tạp. Đặc biệt, việc ký kết Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 với Pháp là một bước đi chiến lược, giúp chính phủ cách mạng có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng, củng cố vị thế, và từng bước đẩy lùi các thế lực xâm lược.

Lời nói cuối

Chúng ta đang sống trong không khí ngày kỷ niệm thiêng liêng của ngày Lễ độc lập và ngày kỷ niệm Quốc khánh 2/9 - ngày mà các đây 79 năm, lịch sử đất nước bước sang trang mới, là ngày đầu tiên nhân dân Việt Nam sống trong tự do dân chủ, sau ngàn năm dưới đô hộ. Có nhìn lại những ngày tháng ấy, mới hiểu được giá trị thiêng liêng của ba chữ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà ông cha ta đã dành cả đời để dâng hiến quý giá đến thế nào. 
Việt Nam muôn năm!
Việt Nam muôn năm!
Khi đứng trước lá cờ Tổ quốc tung bay phấp phới tại Quảng trường Ba Đình, tôi thấy lòng mình tràn đầy niềm tự hào. Niềm tự hào đó không chỉ là về những chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, mà còn là về sự kiên cường và bất khuất của một dân tộc nhỏ bé nhưng phi thường đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều đất nước khác trên thế giới.