Lời giới thiệu.
Sách Khôn Ngoan được soạn vào khoảng từ năm 100 đến 50 trước Công lịch. Không rõ tên tác giả, nhưng thuở xưa người ta tưởng nhầm là vua Sa-lô-mông, vì tên vua xuất hiện ở nhiều chỗ trong sách, và xưng hô là “tôi”.
Người I-xra-en bấy giờ sống ngoài đất Pa-le-xtin, ở nước Ai-cập, đang bắt đầu nhận nền triết học Hy-lạp mới, nên tác giả dạy cho đồng bào của ông hiểu khôn ngoan thật, là kết hợp với Đấng Tối Cao bằng đời sống đức hạnh, dù sự chết cũng không phá nổi sự kết hợp này.
Trích đoạn:
Sợ hãi chỉ là thiếu lý luận xác đáng
để nâng đỡ tâm hồn.

Vì tâm hồn không còn hy vọng được nâng đỡ,
thì khó mà biết được vì sao mình sợ.
Ai ngã xuống đấy,
thì bị giam giữ trong một nhà tù không cửa đóng then cài.
Dù người làm ruộng hay kẻ chăn chiên,
hoặc người thợ vất vả trong sa mạc,
một khi đã sa vào đấy đều phải chịu cảnh cùng quẫn không thể tránh được,
vì tất cả đều đã bị chìm ngập trong tối tăm dày đặc.
Tiếng gió rít,
tiếng chim hót du dương trên cành lá xum xuê,
tiếng nước ào ào cuồn cuộn chảy theo dòng,
tiếng đá ầm ầm đổ vỡ,
tiếng các loài vật chạy nhảy mà không trông thấy,
tiếng thú dữ thét gào man rợ nhất,
tiếng vang dội đi dội lại trong hốc núi,
tất cả mọi thứ tiếng ấy khiến chúng bị tê liệt vì khủng khiếp.
Trong khi đó thì toàn thế giới được soi sáng rực rỡ,
say sưa làm việc không có gì cản trở.

Tìm Thiên Chúa và tránh tội.
Các người là những thẩm phán trần gian, hãy yêu mến sự công chính, đối với Chúa, phải có tâm tình hoàn hảo,
và phải lấy lòng đơn sơ mà tìm kiếm Chúa.
Vì Chúa cho người không thử thách Chúa được thấy Chúa,
và Chúa tỏ mình ra cho những ai không mất lòng tin tưởng Chúa,
vì những ý nghĩ quanh co làm cho người ta lìa xa Thiên Chúa,
nhưng quyền năng của Chúa, mặc dù có nhiều người nghi ngờ, vẫn thành công thắng thế.
Đức Khôn Ngoan không ở trong tâm hồn gian ác,
cũng không ở trong thân xác đầy tội lỗi.
Thánh Linh dạy dỗ chúng ta chê bỏ điều dối trá,
không nhìn nhận những lý luận sai nhầm,
làm thất bại mọi gian ác.
Đức Khôn Ngoan là tinh thần yêu thương nhân loại,
nhưng không dung tha kẻ nói phạm thượng,
vì Thiên Chúa thấu suốt tâm can nó,
dò xét tận đáy lòng nó và nghe những lời nó nói.
Thánh Linh Chúa tràn ngập khắp vũ trụ,
chứa đựng mọi sự, hiểu biết mọi thứ tiếng.
Kẻ nào buông lời bất chính thì không thoát khỏi tay Chúa,
và đức công chính hằng theo dõi nó, sẽ không tha nó;
Vì cả những ý định của kẻ gian ác cũng bị xét xử kĩ càng,
tiếng nó vang lên tới Chúa,
Chúa sẽ phạt tội nó.
Quả thế, đây là tai người ghen nghe hết mọi sự,
dù tiếng thì thào lầm bầm cũng không thể giấu nổi.
Vì vậy, các người đừng phàn nàn vô ích,
hãy giữ miệng lưỡi, đừng buông lời chỉ trích,
vì một lời nói, dù kín đáo cũng sẽ bị trừng phạt,
và miệng lưỡi cáo gian sẽ giết chết linh hồn.
Chớ sống lầm lạc tội lỗi để rồi phải chết,
chớ chuốc lấy sự hủy hoại bởi chính những công việc tay mình làm.

Đức Khôn Ngoan là nguồn hạnh phúc.
Hạnh phúc của tuổi già không phải là do sống lâu,
và không đo bằng số năm tháng.
Nhưng đức khôn ngoan thay cho đầu bạc,
và sống một đời trong sạch cũng kể là hưởng thọ.

Đi tìm Đức Khôn Ngoan.
Vậy, hỡi các vua, hãy nghe và hãy hiểu;
các ông là những người cai quản Trái đất, hãy chú ý!
Hãy lắng tai nghe, hỡi những người cai trị các nước,
và tự hào vì có đông dân.
Nhờ Chúa mà các ông lĩnh nhận quyền bính.
Nhờ Đấng Cao Cả các ông mới có thế lực.
Chính Chúa sẽ xem xét mọi công việc các ông làm,
và thấu suốt tư tưởng các ông!
Nếu các ông là quan chức triều đình, mà không xét xử phân minh, hoặc không tuân giữ lề luật, cũng không sống theo thánh ý Thiên Chúa,
thì Chúa sẽ đứng dậy đối địch với các ông cách khủng khiếp bất ngờ,
vì những kẻ cầm quyền cai trị sẽ bị xét xử nghiêm khắc.
Thực vậy, vì lòng thương xót, người ta có thể tha thứ cho những kẻ bé nhỏ,
nhưng những kẻ quyền thế sẽ bị xét xử không chút xót thương.
Chúa muôn loài sẽ không miễn cho một ai,
không vì quyền thế mà nhân nhượng,
vì bé hay lớn đều do Chúa dựng nên tất cả,
Chúa quan tâm đến mọi người như nhau;
nhưng đối với kẻ quyền thế, việc xét xử sẽ nghiêm khắc.
Vậy hỡi các thủ lĩnh, tôi xin ngỏ lời với các ông,
để các ông học hỏi Đức Khôn Ngoan, và không sa ngã.
Vì ai vâng giữ luật Chúa cách thánh thiện sẽ được nên thánh,
và ai học hỏi luật Chúa sẽ có thể biện hộ cho mình.
Vậy, các ông hãy khao khát lời tôi, hãy thiết tha tìm hiểu những lời ấy,
các ông sẽ trở nên thông minh.
Đức Khôn Ngoan thật sáng lạn,
vẻ đẹp của nó không bao giờ tàn:
những ai yêu mến Đức Khôn Ngoan sẽ dễ dàng tìm ra nó,
những ai đi tìm Đức Khôn Ngoan,
Đức Khôn Ngoan đón rước những kẻ ấy và tỏ mình ra cho họ.
Những ai dậy sớm tìm Đức Khôn Ngoan sẽ không vất vả,
vì họ sẽ thấy nó ngồi ngay ở cửa nhà mình.
Lấy Đức Khôn Ngoan làm đề tài suy nghĩ là khôn ngoan hoàn toàn,
ai tỉnh thức vì Đức Khôn Ngoan thì sớm muộn sẽ không phải lo âu.
Chính Đức Khôn Ngoan sẽ đi tìm những ai xứng đáng với nó,
Đức Khôn Ngoan vui mừng xuất hiện ngay trên đường họ đi,
và lo lắng ân cần cho mọi hành vi của họ.
Vì thực ra, ước ao học hỏi, là bắt đầu có Đức Khôn Ngoan,
và ước ao học hỏi, là yêu mến Đức Khôn Ngoan.
Nhưng yêu mến Đức Khôn Ngoan, là vâng giữ luật của đức ấy,
mà vâng giữ luật, là đảm bảo cho mình được sống muôn đời;
mà sống muôn đời, là ở gần Thiên Chúa,
như thế, niềm khao khát Đức Khôn Ngoan dẫn đến Nước Trời!
Vậy, hỡi các người cai trị các dân nước, nếu các ông yêu thích ngai vàng phủ việt,
hãy quý trọng Đức Khôn Ngoan, và các ông sẽ được cai trị muôn đời.

Vua Sa-lô-mông dạy Đức Khôn Ngoan.
Ta sẽ nói Đức Khôn Ngoan là gì,
và phát sinh thế nào.
Ta sẽ không giấu các ngươi những mầu nhiệm của Đức Khôn Ngoan,
ta sẽ dõi theo Đức Khôn Ngoan từ nguồn gốc của nó.
Ta sẽ đưa ra ánh sáng những gì có thể hiểu được về Đức Khôn Ngoan,
và ta sẽ không lạc xa chân lý.
Ta cũng sẽ không bắt chước kẻ đố kỵ ghen tương,
vì nó không liên quan gì đến Đức Khôn Ngoan.
Quả thật, nhờ có nhiều người khôn ngoan, mà thế gian được cứu độ,
vua khôn ngoan thì dân được thịnh vượng.
Vậy các ngươi hãy học hiểu những lời ta nói,
các ngươi sẽ được ích lợi lớn lao.
Chính ta cũng chỉ là một người hay chết như mọi người,
hết mọi người đều bước vào đời như nhau, và ra đi cũng như nhau.
Cho nên, ta đã cầu khẩn, và ta được ơn thông minh,
ta đã nài van, và tinh thần khôn ngoan đã đến với ta.
Ta lấy Đức Khôn Ngoan làm hơn phủ việt ngai vàng,
sánh với Đức Khôn Ngoan, ta coi giàu sang là không.
Ta cũng không so sánh Đức Khôn Ngoan với ngọc quí,
vì vàng đặt cạnh Đức Khôn Ngoan là cát,
và bạc đặt trước Đức Khôn Ngoan kể như bùn.
Ta yêu quí Đức Khôn Ngoan hơn sức khỏe và sắc đẹp,
vì ánh sáng của nó không bao giờ tắt.
Có Đức Khôn Ngoan, ta được mọi sự tốt lành,
và trong tay Đức Khôn Ngoan có vô vàn của cải.
Ta vui hưởng mọi của cải ấy vì Đức Khôn Ngoan đã đem đến cho ta,
nhưng ta không biết chính Đức Khôn Ngoan là mẹ những của ấy.
Ta đã chân thành học hỏi, và chia sẻ với người khác,
ta không giữ riêng cho ta sự phong phú của Đức Khôn Ngoan.
Vì Đức Khôn Ngoan là một kho tàng vô tận cho loài người,
những kẻ chiếm được nó sẽ trở thành bạn hữu Thiên Chúa,
nhờ nó, họ tập được các nhân đức và được Chúa thương yêu.
Xin Chúa ban cho ta được nói như lòng ta mong muốn,
và có những ý nghĩ xứng đáng với những ơn huệ ta đã lãnh nhận,
vì chính Chúa dẫn đường Đức Khôn Ngoan,
và uốn nắn những người khôn ngoan.
Vì chúng ta, các lời lẽ của chúng ta,
tất cả trí tuệ và tài khéo của chúng ta, đều ở trong tay Chúa.
Chính Chúa đã ban cho ta hiểu biết đúng về mọi sự,
Chúa cho ta hiểu biết trật tự trong vũ trụ, biết sự chuyển động của các tinh tú,
khởi đầu, tận cùng và khoảng giữa của các thời gian,
đông chí, hạ chí nối tiếp nhau, các mùa luân phiên thay đổi,
các chu kỳ năm tháng và vị trí của các tinh tú,
bản tính loài vật, bản năng thú dữ, tư tưởng người trần,
các loài cây cỏ khác nhau, đặc tính của rễ cây.
Tất cả những điều giấu kín và những điều trông thấy, ta đều biết,
vì Đức Khôn Ngoan đã tạo thành mọi sự, đã dạy dỗ ta.
Đức Khôn Ngoan đem sức sống mãnh liệt cho khắp thế gian,
và khôn khéo điều khiển mọi sự.

Đức Khôn Ngoan có mọi sự tốt lành.
Ta đã yêu mến Đức Khôn Ngoan và kiếm tìm nó từ khi còn trẻ,
ta đã tìm cách đón Đức Khôn Ngoan về làm vợ, và ta mê say sắc đẹp của nó.
Nếu giàu sang là sự lành đáng ước ao trên đời,
thì còn có gì giàu sang hơn Đức Khôn Ngoan đã tạo dựng mọi sự?
Nếu trí thông minh của con người làm được công kia việc nọ,
thì ai thông minh hơn Đức Khôn Ngoan là người thợ làm nên mọi vật?
Và ai yêu sự công chính,
thì Đức Khôn Ngoan sẽ dạy người ấy có các nhân đức sau đây:
tiết độ và thận trọng,
công bình và can đảm,
trên đời này, không có gì ích lợi hơn cho loài người bằng các nhân đức ấy.
Nếu ai muốn mở rộng tầm hiểu biết,
thì Đức Khôn Ngoan biết dĩ vãng và đoán trước tương lai,
biết ăn nói những lời tế nhị, và giải đáp các câu đố bí hiểm,
thấy trước các dấu lạ, điềm thiêng,
cũng như các biến cố mọi lúc mọi thời.
Vậy ta nhất định cưới Đức Khôn Ngoan làm bạn đường của đời ta,
trong tư tưởng, Đức Khôn Ngoan sẽ là cố vấn tốt cho ta,
và là niềm an ủi ta trong lúc buồn phiền lo lắng.
Nhờ Đức Khôn Ngoan, ta sẽ lĩnh nhận vinh dự của dân chúng,
và tuy còn rất trẻ, ta đã được các người già kính trọng.
Người ta sẽ thấy ta xét xử xác đáng,
và các vua chúa phải khâm phục ta.
Nếu ta im tiếng, người ta sẽ mong chờ ta nói,
nếu ta nói, tất cả sẽ chú ý lắng nghe.
Ta sẽ cai trị muôn dân,
và các nước sẽ phải phục tùng ta.
Các thủ lĩnh quyền thế khi nghe nói về ta cũng phải kinh hãi;
đối với dân, ta sẽ xử hiền lành, còn khi chiến đấu, ta sẽ dũng mãnh.
Kết tình bằng hữu với Đức Khôn Ngoan, thật là niềm vui cao thượng,
làm việc với Đức Khôn Ngoan, thì được giàu sang mãi mãi,
siêng năng học hỏi với Đức Khôn Ngoan, sẽ được sáng suốt,
đối thoại với Đức Khôn Ngoan, sẽ được danh tiếng,
ta đi khắp nơi tìm kiếm để được Đức Khôn Ngoan.
Nhờ Đức Khôn Ngoan, ta sẽ được sống mãi,
và sẽ để lại cho dòng dõi mai sau một kỷ niệm vĩnh viễn.

Thờ tà thần.
Những ai không nhận biết Thiên Chúa, là những người bản chất khờ dại,
những ai qua các vật trông thấy mà vẫn không nhận biết được Thiên Chúa,
những ai không nhận biết Đấng Tạo Hóa khi nhìn ngắm các công trình của Chúa,
tất cả đều là những người tự phụ phù phiếm.
Lửa, gió, không khí xoay vần, bầu trời đầy sao, hay mặt nước nổi sóng,
hoặc những đèn trời,
thì họ lại gọi là thần cai quản thế gian.
Nếu vì say mê vẻ đẹp của chúng mà họ nhận chúng là thần,
thì họ nên biết rằng, Chúa của chúng còn hơn chúng biết bao,
vì chính đấng tạo nên vẻ đẹp ấy đã làm ra chúng.
Nếu cảm phục sức mạnh và quyền lực của chúng,
thì họ phải hiểu rằng, Đấng Sáng Tạo còn mạnh hơn nữa;
vì suy từ sự vĩ đại và vẻ đẹp của các vật thụ tạo,
người ta biết được đấng đã tạo ra chúng.
Nhưng những người này chỉ chịu một hình phạt nhẹ,
vì có thể họ đã sai nhầm
khi đi tìm Thiên Chúa, và khi muốn tìm thấy Chúa:
Sống giữa các công trình của Chúa, họ đã xem xét cẩn thận,
nhưng vì thấy chúng đẹp, nên họ đã bị quyến dũ về vẻ bề ngoài.
Tuy vậy, một lần nữa, họ cũng không đáng được tha thứ,
vì họ đã có đủ sáng suốt để thấu hiểu sự xếp đặt trong trời đất,
có lẽ nào họ lại không tìm ra được Chúa muôn loài?
Nhưng, có những kẻ khác còn khốn nạn hơn nữa, vì đặt hy vọng vào những vật vô tri vô giác,
những đồ vật do tay người phàm làm ra,
các đồ bằng vàng, bằng bạc, được khéo léo đúc nặn,
những hình thù giống vật, do bàn tay xưa kia đã đẽo gọt từ một hòn đá vô dụng,
họ gọi tất cả những đồ vật ấy là thần.
Như một bác đốn củi cưa một cây dễ dàng sử dụng,
khéo léo tước vỏ,
rồi nhờ tài nghệ giỏi giang,
đã làm thành một đồ dùng tiện lợi.
Xong xuôi công việc,
bác lấy các mẩu thừa thổi cơm, ăn uống no nê.
Mẩu gỗ còn lại chẳng dùng được việc gì,
vì nó chỉ là một đoạn gỗ cong queo, đầy mấu mắt;
nhân lúc rỗi rãi, bác đem mẩu gỗ ấy ra đẽo gọt,
lấy hết tài nghệ chau chuốt, tạo nên hình giống một người,
hay giống một con vật xấu xa.
Rồi bác bôi một lớp son, trát một lượt phấn đỏ lèo loẹt cho nó,
cẩn thận che lấp những chỗ xấu xí.
Bác tìm một chiếc khung hợp với hình tượng này,
đóng đanh treo nó lên tường.
Sợ nó rơi nên bác mới cẩn thận chu đáo như vậy,
biết rằng hình tượng ấy tự sức không thể giúp mình được,
vì đó chỉ là hình tượng cần được nâng đỡ.
Nhưng khi bác cầu xin cho được của cải, cầu cho vợ chồng sum họp, cho con cái bác,
thì bác đã không biết xấu hổ, lại đi nói với một đồ vật không sống động,
xin cho sức khỏe dồi dào với một vật vô nghị lực,
xin sự sống với kẻ chết,
cầu cứu với đứa bất lực,
xin đi đường bằng yên với vật không đi được,
xin lợi lộc, xin việc làm, xin thành công,
xin mạnh sức, với một vật không nhấc nổi bàn tay.
Đến lượt người khác, muốn đi biển,
và sửa soạn vượt sóng gió,
cũng kêu cầu với tượng gỗ mỏng manh hơn cả chiếc tàu chở người ấy;
vì muốn kiếm lợi, nên người ấy đã sáng chế ra chiếc tàu,
nhờ trí khôn ngoan tài giỏi chỉ dẫn, người ấy đóng tàu,
nhưng lạy Cha, chính Cha đã quan phòng lái con tàu ấy,
vì nếu trên mặt nước, Cha đã mở một con đường,
một con đường chắc chắn giữa muôn lớp sóng,
chứng tỏ rằng Cha có thể cứu khỏi mọi gian nan,
dù không thạo nghề cũng có thể vượt biển được.
Cha không muốn
để sự khôn ngoan của cha ra vô ích,
vì thế nên loài người mới dám giao phó cả vận mệnh của mình cho một mảnh gỗ,
và nhờ nó vượt qua sóng nước an toàn.
Thật vậy, cũng như từ thuở ban đầu,
khi cha tiêu diệt hết những người khổng lồ kiêu ngạo,
thì hi vọng của nhân loại chỉ còn nương náu trên một con tàu,
mà chính bàn tay Cha chèo lái, giữ gìn cho nhân loại mầm mống của thế hệ tương lai.
Phúc cho mảnh gỗ mà công lý được thi hành ở đấy,
nhưng vô phúc cho tượng thờ, cho nó và kẻ làm ra nó,
vô phúc cho tượng vì là vật hay chết mà mang tên Thiên Chúa.
Đúng thế, Thiên Chúa gớm ghét kẻ gian ác cũng như điều gian ác.
Vì tượng thờ và kẻ làm ra nó đều sẽ phải chịu chung một hình phạt.
Cho nên, các tượng thờ của các dân nước, cũng sẽ phải xét xử,
vì trong mọi loài Thiên Chúa đã dựng nên,
chúng trở thành vật quái gở,
thành gương xấu cho mỗi người bắt chước,
như cạm bẫy đặt dưới chân những kẻ dại.

Nguồn gốc tà thần.
Làm ra các tượng thần để thờ,
là bắt đầu sống trụy lạc hư hỏng.
Không phải ngay từ đầu đã có tượng thần, và cũng chẳng phải chúng sẽ tồn tại mãi.
Vì loài người hám danh lợi mà có các tượng thần trong thế gian.
Cho nên Thiên Chúa đã quyết định sau này sẽ hủy bỏ chúng.
Một người cha đau khổ vì có đứa con chết non,
ông làm cho hình ảnh đứa con chết sớm ấy,
thờ nó như một Thiên Chúa,
mà nó chỉ là một người đã chết,
rồi ông truyền lại cho những người thân của mình cách thờ cúng riêng tư, những nghi thức lễ bái.
Cùng với thời gian, thói tục nghịch đạo ấy đã được giữ vững,
sau này lại được tuân theo như một lề luật.
Đàng khác, vì những sắc lệnh của các thủ lĩnh,
người ta mới thờ những bức hình chạm trổ,
vì những kẻ ở xa không đích thân tỏ lòng kính trọng vua quan được,
họ biểu lộ lòng ngưỡng một ấy,
và làm ảnh tượng để tôn kính.
Họ muốn tâng bốc, xu nịnh người vắng mặt như thể có mặt.
Thế rồi, việc tôn sùng như vậy đã lan truyền
đến cả những người chẳng biết vua là ai,
nhưng chỉ do tham vọng của nghệ sĩ.
Nghệ sĩ, vì muốn vừa lòng vua, nên đã cố gắng ra công làm cho thật giống thật đẹp;
rồi dân chúng, vì bị say mê quyến dũ bởi tác phẩm nghệ thuật,
sớm muộn sẽ nhìn nhận như thần minh,
kẻ mà mới đây chỉ được trọng kính như người phàm.
Thế là một cạm bẫy đã giăng ra cho nhân loại,
khiến loài người lệ thuộc vào một thứ luật pháp khốn khổ,
hoặc chịu khuất phục dưới cường quyền bạo lực,
và lấy tên tuyệt vời của Chúa mà đặt cho gỗ đá!

Hậu quả của việc thờ tà thần.
Sau đó, loài người vẫn không nhận biết Thiên Chúa, lầm lạc thế chưa đủ,
họ luôn luôn phải sống
hoài nghi vì bị ngu dốt giày vò,
mà coi những tai nạn khủng khiếp như cảnh thái bình.
Thật thế, họ đã giết con cái để tế thần, cử hành các lễ nghi bí ẩn,
hoặc đua nhau đổ xô vào những cuộc vui chơi điên cuồng của các thứ tôn giáo kỳ quặc,
họ không còn giữ phẩm giá trong đời sống, trong đạo vợ chồng,
kẻ này dùng mưu toan ám hại kẻ khác,
hoặc gian dâm mà làm nhục lẫn nhau.
Thế là xảy ra một cảnh tượng hoàn toàn hỗn loạn, như đổ máu, giết người, trộm cắp, lưu manh,
tham ô, thối nát, nổi loạn, nói dối, thề gian,
đảo lộn các giá trị, quên ơn bội nghĩa,
làm vẩn đục các tâm hồn, nam nữ dâm ô thác loạn,
vợ chồng bất hòa, không ổn định, rồi ngoại tình, phóng đãng, lẳng lơ,
vì thờ cúng các tà thần nhảm nhí là khởi đầu, là nguyên nhân và tận cùng của mọi điều gian ác.
Đồ đệ của chúng ra sức ăn chơi trụy lạc đến điên cuồng,
tung ra những lời sấm giả dối,
hoặc sống bất công, không ngần ngại phản bội lời thề.
Vì chúng nghĩ rằng đã tin cậy vào những tượng thần không hồn,
thì chúng có thể thề gian mà không phải trừng phạt.
Nhưng, chúng sẽ phải trừng phạt đích đáng vì hai lẽ sau đây:
một là vì chúng đã không nhận biết Thiên Chúa mà còn gắn bó với các tà thần,
hai là vì chúng đã coi thường sự thánh thiện của đạo giáo mà thề gian.
Đây không phải là các tà thần có quyền sửa phạt những kẻ thề gian,
nhưng là Chúa công minh phạt những kẻ có tội,
vì đâu có tội, đấy có phạt.

Dân I-xra-en không thờ tà thần.
Còn Chúa, lạy Thiên Chúa chúng tôi. Chúa nhân ái và chân thật,
Chúa nhẫn nại và lấy lòng thương xót cai trị chúng tôi;
thật thế, dù chúng tôi phạm tội, chúng tôi vẫn thuộc về Chúa,
vì chúng tôi nhận biết quyền năng của Chúa;
nhưng chúng tôi sẽ không phạm tội, vì chúng tôi biết chúng tôi là con cái Chúa.
Biết Chúa là đạt tới công chính hoàn toàn,
và nhận biết Chúa Toàn Năng là được đảm bảo không chết.
Cho nên, chúng tôi không bị quyến dũ bởi những nghệ thuật đồi bại do loài người nghĩ ra,
hoặc bởi công lao vô ích của các thợ vẽ:
là hình thù lem nhem màu sắc pha tạp,
mà chỉ nhìn xem cũng đủ kích thích dục vọng của những kẻ khờ dại,
và làm chúng thèm khát
hình thù vô hồn của một tượng ảnh chết.
Tất cả những kẻ tin tưởng vào các hình ảnh ấy, những kẻ làm ra, quý chuộng, sùng bái chúng,
đều là những kẻ say mê sự dữ và bị những ảo ảnh lừa dối.
Này đây, một người thợ gốm cần cù nhào nhuyễn đất mềm,
bác nặn ra các đồ vật khác nhau cho chúng ta dùng,
với một thứ đất sét ấy, bác làm ra những chiếc bình dùng vào việc sang trọng,
và những chiếc dùng vào việc khác.
Mỗi loại bình sẽ được dùng thế nào,
là do thợ gốm quyết định.
Cũng với một thứ đất sét ấy, người thợ gian tà,
lại nặn ra một tượng thần hư vô,
bản thân bác thợ từ đất sét mà ra,
rồi sớm muộn bác cũng sẽ phải trở về đất, nơi bác đã được phát sinh,
khi bác phải tính sổ cuộc đời.
Bác không lo gì đến ngày bác sẽ phải hao mòn kiệt sức,
đến cuộc đời ngắn ngủi của bác,
trái lại, bác ganh đua với những người thợ làm đồ vàng, đồ bạc,
bác bắt chước những người thợ đúc đồng,
và bác tự hào về việc chế tạo những đồ giả mạo.
Lòng bác là gio bụi, niềm hy vọng của bác hèn hơn đất,
cuộc đời của bác đáng khinh hơn đất sét,
vì bác không nhận biết đấng đã tạo thành ra mình,
đấng đã ban cho bác một tâm hồn sống động,
và thổi cho bác một luồng sinh khí.
Phần bác, bác coi cuộc đời như thể trò đùa,
cuộc sống, bác xem như hội chợ kiếm lời,
bác nói rằng: “Phải tận dụng mọi sự, kể cả điều gian ác.”
Vậy hơn các người khác, người này đã biết mình phạm tội,
khi dùng cùng một thứ đất sét làm ra
những chiếc bình mỏng manh dễ vỡ và các tượng thờ.
Mà quả thật, có những kẻ rất khờ dại và vô tâm vô tính như trẻ thơ,
đó là các địch thù của dân Chúa,
đã đàn áp dân Chúa,
vì chúng cũng coi hết mọi tượng thờ của các dân nước là thần thánh,
những tượng thờ này không thể dùng mắt mà nhìn,
dùng mũi để hít thở không khí,
cũng không thể dùng tai để nghe,
hoặc dùng ngón tay để sờ mó,
chân chúng không thể bước đi được.
Vì một người phàm đã làm ra chúng,
một người phải mượn hơi thở đã đúc nặn ra những tượng thờ ấy.
Không một người nào có thể nặn nổi một thần giống hệt như mình.
Một người phải chết, dùng bàn tay gian ác của mình làm ra một vật chết.
Quả thật, người ấy còn hơn những vật mình sùng bái,
vì ít ra người ấy có sự sống, nhưng những vật kia không có bao giờ.
Cả những con vật ghê tởm nhất cũng được sùng bái,
nếu so sánh với những vật khác,
thì chúng còn đần độn hơn,
trong các loài sinh vật,
chúng chẳng đẹp đẽ gì để quyến dũ được ai,
vì các loài đó không được Thiên Chúa khen ngợi và chúc phúc.

Tối tăm và ánh sáng.
Lạy Chúa, các lời xét xử của Chúa thật cao cả và không thể hiểu thấu,
vì thế, những linh hồn mê muội đã lầm lạc.
Những kẻ gian ác tưởng chúng có thể đàn áp được dân thánh,
thực ra, chúng chỉ là tù nhân trong bóng tối, bị xiềng xích trói buộc suốt đêm dài,
bị giam hãm khép chặt tấm thân dưới mái nhà của chúng,
bị bỏ rơi đời đời mất ơn Chúa.
Chúng tưởng tội lỗi của chúng được giấu kín,
và được quên hẳn đi;
nhưng chúng đã bị xua đuổi tan tác, kinh hoàng khiếp sợ,
bởi những ảo tưởng ma quái.
Nơi tối tăm chúng đang ẩn nấp, cũng không làm chúng thoát khỏi nỗi kinh hoàng,
xung quanh chúng vang lên những tiếng kêu hãi hùng,
và có các yêu quái rùng rợn, hình thù ảm đạm, đã hiện ra với chúng.
Lửa mạnh đến đâu cũng không sáng lên được,
và các tinh tú rực rỡ trên trời cũng không thể soi chiếu được trong đêm rùng rợn này.
Nhưng bỗng nhiên xuất hiện một khối lửa lớn gieo rắc kinh hoàng,
khi nhìn khối lửa đó biến đi, chúng khiếp sợ tưởng rằng,
cảnh tượng chúng vừa xem thấy báo trước những tai nạn ghê gớm hơn nữa.
Tà thuật của các thày phù thủy chỉ là ảo tưởng mơ hồ,
khôn ngoan tài khéo của chúng chỉ là vô dụng hão huyền.
Những kẻ hứa hẹn xua đuổi lo âu bối rối cho các linh hồn ốm yếu,
thì nay đến lượt mình, chúng lại phải chịu cực khổ vì sợ hãi vơ vẩn.
Dù khi không có gì đáng làm cho chúng sợ,
đàn súc vật đi qua, hay loài bò sát rít lên,
chúng đã chết khiếp,
không còn dám nhìn vào
cảnh rùng rợn này mà chúng không thể thoát ra được.
Vì tội ác cũng là sự hèn nhát đã đứng ra buộc tội chúng,
rồi bị lương tâm cắn rứt, nó gây nên những khó khăn khác nữa.
Sợ hãi chỉ là thiếu lý luận xác đáng
để nâng đỡ tâm hồn.
Vì tâm hồn không còn hy vọng được nâng đỡ,
thì khó mà biết được vì sao mình sợ.
Phần chúng, trong đêm tối não nùng này,
phát sinh từ chốn âm phủ khổ cực,
tất cả chúng đều khiếp sợ mê man,
phần thì bị xáo động bởi nỗi kinh hoàng ma quái,
phần thì bị tê liệt vì tâm hồn chúng đã tan rã suy nhược.
Đó là nỗi kinh hoàng đột ngột và bất ngờ
đổ ập lên chúng.
Và ai đã ngã xuống đấy,
thì bị giam giữ trong một nhà tù không cửa đóng then cài.
Dù người làm ruộng hay kẻ chăn chiên,
hoặc người thợ vất vả trong sa mạc,
một khi đã sa vào đấy đều phải chịu cảnh cùng quẫn không thể tránh được,
vì tất cả đều đã bị chìm ngập trong tối tăm dày đặc.
Tiếng gió rít,
tiếng chim hót du dương trên cành lá xum xuê,
tiếng nước ào ào cuồn cuộn chảy theo dòng,
tiếng đá ầm ầm đổ vỡ,
tiếng các loài vật chạy nhảy mà không trông thấy,
tiếng thú dữ thét gào man rợ nhất,
tiếng vang dội đi dội lại trong hốc núi,
tất cả mọi thứ tiếng ấy khiến chúng bị tê liệt vì khủng khiếp.
Trong khi đó thì toàn thế giới được soi sáng rực rỡ,
say sưa làm việc không có gì cản trở,
riêng chúng bị đêm tối dày đặc bao phủ,
đó là hình ảnh tối tăm sau này đón nhận chúng;
nhưng chính chúng còn là nỗi khổ cực hơn cảnh tối tăm ấy.

Kết luận.
Vật chất trong vũ trụ bổ túc lẫn cho nhau,
cũng như trên chiếc đàn dây, các âm thanh thay đổi tiết điệu mà vẫn giữ nguyên âm độ.

 - Trích: Kinh Thánh Ki-tô giáo