Quản trị dòng tiền trong doanh nghiệp
Xin chào các bạn, lại là mình đây với series về kế toán - kiểm toán - tài chính Sau 3 bài hôm trước liên quan tới việc ghi chép, tổng...
Xin chào các bạn, lại là mình đây với series về kế toán - kiểm toán - tài chính
Sau 3 bài hôm trước liên quan tới việc ghi chép, tổng hợp các giao dịch kế toán phát sinh trong kỳ, chắc hẳn các bạn cũng đã nắm được sơ lược cách thức lập báo cáo kết quả kinh doanh (lãi lỗ) và báo cáo cân đối kế toán (thể hiện xem tài sản, công nợ có gì tại cuối năm). Hôm nay mình sẽ giới thiệu thêm với các bạn 1 báo cáo khác trong bộ báo cáo tài chính, đó là báo cáo lưu chuyển tiền tệ (cash flow statement). Các bạn có thể đọc 3 bài trước của mình ở đây nhé: Nhập môn; Ghi chép như nào; Tổng kết ra sao
Với báo cáo lưu chuyển tiền tệ, hãy bắt đầu với khái niệm của nó: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phân tích sự thay đổi của tiền trong kỳ
Tiếp theo ta đi đến nguyên nhân vì sao lại có báo cáo này:
- Thứ nhất, rõ ràng tiền là tài sản có tính thanh khoản cao nhất. Một doanh nghiêp có thể có doanh thu rất cao nhưng không thu được tiền từ người mua, sẽ không có khả năng trả các khoản nợ nhà cung cấp, trả lương, trả nợ ngân hàng...Tất cả những điều đó sẽ ảnh hưởng 1 cách trực tiếp và rất nhanh chóng đến hoạt động của doanh nghiệp như nhân viên đình công, không làm việc, nhà cung cấp không bán nguyên vật liệu cho, ngân hàng siết nợ...Khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, rất có thể dẫn vào tình trạng phá sản -> suy giảm giá trị của doanh nghiệp. Phân tích luồng tiền vào/ra, số tiền mà doanh nghiệp có...có thể đánh giá được chính xác tiềm năng, giá trị của doanh nghiệp ấy.
- Thứ hai, do chỉ phân tích dòng tiền, BCLCTT loại trừ được ảnh hưởng của việc sử dụng các phương pháp kế toán khác nhau để thao túng (manipulate) lợi nhuận. Ví dụ 1 doanh nghiệp có thể thay đổi từ việc khấu hao 1 máy móc trong 5 năm thành khấu hao trong 10 năm, qua đó giảm chi phí đi và làm tăng lợi nhuận lên. Có rất nhiều biện pháp (cả đúng và sai) để 1 doanh nghiệp có thể xử lý lợi nhuận theo hướng có lợi cho mình, tuy nhiên với BCLCTT, tất nhiên không thể "hack" 1 giao dịch thu/chi được nếu điều đó không xảy ra thực tế.

Vậy báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm những gì?
Chắc chắn báo cáo lưu chuyển tiền tệ phải bao gồm số tiền đang có đầu kỳ (A), số tiền có cuối kỳ (B), và phần thay đổi trong kỳ (B-A), ta sẽ tách ra thành 3 nhóm:
- Dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh: bao gồm dòng thu từ bán hàng, dòng chi trả lương, trả nhà cung cấp, lãi vay, nộp thuế...
- Dòng tiền từ hoạt động đầu tư: Trong doanh nghiệp, ngoài các hoạt động bình thường liên quan tới vận hành doanh nghiệp, còn có các hoạt động đầu tư như đầu tư góp vốn vào công ty khác, đầu tư mua sắm tài sản cố định, cho đơn vị khác vay...Tất cả những dòng tiền vào/ra liên quan tới việc này được nhóm vào dòng tiền từ hoạt động đầu tư
- Dòng tiền từ hoạt động tài chính: Tất cả những gì liên quan tới vay và nguồn vốn của doanh nghiệp sẽ cho vào đây. Ví dụ: vay thêm trong kỳ, trả gốc trong kỳ, phát hành thêm vốn, trả cổ tức...
(Lưu ý: đối với các doanh nghiệp có hoạt động riêng, đặc trưng như ngân hàng, bảo hiểm, công ty chứng khoán không thuộc phạm vi bài viết này)
Vậy tách thành 3 loại để làm gì? Một cách rõ ràng, 1 doanh nghiệp mà có dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh >0 chứng tỏ doanh nghiệp đó có thể tự chủ về tài chính trước khi cần đến sự tài trợ của các khoản vay. 1 doanh nghiệp, mặc dù số dư tiền tăng qua hàng năm, nhưng thực tế sống bằng những khoản đi vay và phát hành thêm trái phiếu cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khi các khoản vay đó đến hạn trả. Chính vì thế, việc xem xét BCLCTT đồng thời với bảng cân đối kế toán, kết quả kinh doanh sẽ giúp người đọc nhìn tổng quan sức khỏe tài chính của doanh nghiệp đó.
Quản trị dòng tiền trong doanh nghiệp
Khi nhìn vào dòng tiền, ta biết được khi nào thu được tiền hoặc chi tiền ra. Khi nhìn vào chi phí trên kết quả kinh doanh, ta biết được số ta có thể thu/có nghĩa vụ trả.
Ví dụ như sau:
- Công ty BĐS ký hợp đồng bán 1 căn nhà giá 10 tỷ cho khách vào 1/1/2020, dự kiến bàn giao vào 31/12/2020. 2 bên thỏa thuận với nhau sẽ đóng tiền làm 5 đợt. tháng 3, tháng 6, tháng 9 đóng 10%, khi bàn giao nhà đóng 50%. 20% còn lại sẽ đóng vào tháng 6/2021. Khi đó nhìn vào KQKD, ta ghi nhận doanh thu 10 tỷ vào năm 2020, tức là ta có quyền thu 10 tỷ đồng. Nhìn vào dòng tiền, ta thấy năm 2020 ta thu được 8 tỷ và 2021 thu được 2 tỷ. Về mặt tổng số tiền là như nhau, nhưng nhìn tại từng năm sẽ khác nhau.
- Công ty ký hợp đồng với công ty quảng cáo từ 1/4/20 -> 31/3/21, hợp đồng có giá trị 1 năm với giá 120tr, thanh toán 50% khi ký HĐ và 50% khi thanh lý HĐ. Như vậy mỗi tháng công ty phải chịu chi phí là 10tr. Năm 2020 ta dùng 9 tháng (từ tháng 4 đến 12), năm 2021 ta dùng 3 tháng, như thế ta ghi chi phí quảng cáo năm 2020 là 90tr, năm 2021 là 30tr. Tuy nhiên, ta phải trả tiền cho công ty quảng cáo ấy trong năm 2020 là 60tr (khi ký HĐ), năm 2021 là 60tr (khi thanh lý). Lại 1 lần nữa nó khác nhau về thời điểm nhưng tổng lại thì vẫn là 120tr
Thế thì công ty cần quản trị cái gì, doanh thu/chi phí hay dòng thu/dòng chi?
Đáp án là cả 2
Quản trị doanh thu/chi phí tức là quản trị số sẽ phát sinh liên quan tới lợi ích/nghĩa vụ của Công ty. Ví dụ như trong trường hợp trên, mặc dù năm 2020 chỉ phải trả 60tr nhưng rõ ràng, nghĩa vụ của Công ty là 120tr để có được sự phục vụ của Công ty quảng cáo. Giảm được bao nhiêu tiền số này, ta sẽ có lợi nhuận tăng thêm từng đó
Quản trị về dòng tiền, tức là tối ưu được nó. Tiền có giá trị thời gian (time-value), tức là thu được 1 đồng hôm nay lợi hơn thu được 1 đồng ngày mai. Chi 1 đồng ngày kia sẽ lợi hơn nếu 1 đồng đó phải bỏ ra hôm nay. Vậy tối ưu dòng tiền chính là việc thu càng nhanh, chi càng chậm. (tất nhiên, nếu mà bán thu được càng nhanh thì hoặc là giá thấp, hoặc là bán được ít hàng. Đấy là cái khó của quản trị và nhiệm vụ của 1 người làm finance là tìm ra điểm tối ưu).
Người lãnh đạo hoặc CFO phải nhìn được mối liên quan giữa 2 chỉ tiêu này. Trong 1 thời kỳ, doanh nghiệp có thể có doanh thu/chi phí thấp nhưng dòng tiền lại nhiều, hoặc ngược lại. Khi nhìn được nguyên nhân của việc đó, ta sẽ nhìn được tương lai tình hình tài chính của mình, từ 2 góc độ quan trọng bậc nhất: lợi nhuận, và dòng tiền.


Phát triển bản thân
/phat-trien-ban-than
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
Trughieu
Cảm ơn anh ạ, em đã theo dõi bài viết của anh từ mấy bài đầu tiên về kế toán với kiểm toán tài chính và em thấy rất hay ho cho sinh viên kiểm toán như em :v. Thật ra em cũng vừa hoàn thành 4 tháng thực tập tại EY và thấy vỡ ra nhiều điều nhưng cũng có nhiều khúc mắc hơn. Nhân bài viết của anh về quản trị tài chính trong doanh nghiệp, em muốn hỏi anh một số câu sau:
1. Các chuyên viên tài chính trong doanh nghiệp khi hoạch định chiến lược tài chính thì họ sẽ quan tâm yếu tố nào hơn trong 2 yếu tố sau:
(a) Quan tâm về bản chất (substance) - lợi ích kinh tế từ giao dịch.
(b) Quan tâm về hình thức (form) - độ đẹp của BCTC và các chỉ số (vì theo em hiểu thì nhà đầu tư cũng như các công ty xếp hạng như S&P rất quan tâm tới chỉ số).
Ví dụ như khi DN thực hiện nghiệp vụ bán tài sản với cam kết mua lại trong tương lai như vụ việc tại Lehman Brothers hay Eximbank thì em hiểu ở 2 trường hợp này là mối quan tâm (b) tới trước.
Em hoàn toàn hiểu mối quan tâm (a) hay (b) là phụ thuộc vào mục đích của từng giai đoạn nhưng hướng tiếp cận (approach) thông thường của các chuyên viên tài chính là gì vậy ạ?
2. Mục đích chính của hoạt động quản lý dòng tiền tập trung là gì? Theo em hiểu thì DN áp dụng chính sách này có 1 thông lệ (practice) là cuối mỗi ngày các công ty con sẽ đẩy tiền về công ty mẹ ("HO") rồi vào đêm hôm đó, HO sẽ đẩy tiền lại về các công ty con (em có đi hỏi han thêm thì được biết HO sẽ giữ lại 5% số tiền thu về như 1 loại doanh thu quản lý - thông tin này là không chắc chắn). Nếu bỏ qua thông tin về việc HO giữ lại 5% số tiền này, thì practice này có ý nghĩa gì? Nhằm ngăn chặn rủi ro gì hay mang lại lợi ích gì cho tài chính doanh nghiệp của cả Tập đoàn vậy ạ?
3. Vì cũng mới đi thực tập nên em cũng gần như chưa động tới BCLCTT, em cũng muốn hỏi 1 số điều sau:
(1) BCLCTT lập theo phương pháp gián tiếp thì nó phản ánh chính xác đến đâu dòng tiền của doanh nghiệp so với phương pháp trực tiếp? Em thấy trên các diễn đàn mọi người rất quan tâm tới độ phản ánh chính xác của BCLCTT.
(2) Khi lập báo cáo này theo phương pháp gián tiếp thì người lập có thực hiện cân số (balancing) để cho cân không anh? Vì em thấy khá nhiệm màu khi nhặt tăng giảm mấy dòng phải thu phải trả mà lại ra lưu chuyển thuần để tính ra số tiền cuối kì :v.
(3) Nếu nhiều năm liên tiếp mà DN có dòng tiền âm nhưng họ vẫn có lãi và có
lượng tiền tốt thì mình có nghi vấn về tính hoạt động liên tục (going concern) của DN không?
Em có vài thắc mắc vậy thôi ạ. Em cảm ơn anh nhiều.
- Báo cáo

Dinhvu

Hi, các thắc mắc của em khá hay và chứng tỏ là người có kiến thức nhất định cũng như có quan sát khá tốt. Điều này sẽ giúp em rất nhiều trong quá trình đi làm kiểm toán nên cố gắng phát huy nhé. Trong phạm vi kiến thức của mình, anh trả lời như sau:
1. Thực ra cần quan tâm cả (a) và (b). BCTC mà không đẹp thì lại quay trở lại ảnh hưởng đến giá cổ phiếu, giá cổ phiếu giảm lại ảnh hưởng đến khả năng đi vay, rất dễ bị vay với mức LS cao hơn, tác động lại vào lợi nhuận của DN. Ngược lại nếu cứ chăm chăm làm BCTC đẹp thì các xử lý cho nó đôi khi rất khó và trả 1 giá khá đắt (ví dụ DN cố tính làm LN cao -> đóng thuế TNDN cao -> thiệt về dòng tiền trong khi thực tế k lãi được vậy). Cấu trúc tài chính của 1 DN bị ảnh hưởng rất nhiều bởi chiến lược của DN đó, vì thế mà 1 CV tài chính cần đánh giá mục tiêu dài hạn/ngắn hạn, theo anh hướng đi đó phù hợp hơn
2. Quản lý tiền tập trung vì đơn giản nhất là sếp chẳng tin ai cả
. Tiền là yếu tố rất nhạy cảm, nên cứ quy về 1 mối đã. Cái thứ 2 là 1 tập đoàn có rất nhiều mảng kinh doanh, thường thì nó bao gồm cả mảng mạnh/yếu, mảng ở giai đoạn mature/growth/R&D/introduction..., mỗi mảng sẽ có dòng tiền khác nhau, ví dụ mảng R&D thì chủ yếu đốt tiền, mảng mature thì dòng tiền dương. Đưa về 1 đầu mối tâp trung thì mới phân tiền cho các mảng 1 cách chuẩn xác được. Ngoài ra, k phải lúc nào các cty cũng huy động vốn được nên điều tiền từ HO nhiều khi lại là kênh duy nhất để bơm được tiền vào cho DN đó sống sót.

3. Khó mà nói được cái nào chính xác hơn vì mỗi pp có góc nhìn, mục tiêu khác nhau (em cứ suy nghĩ đơn giản là nếu mà có cái nào chính xác hơn thì đã k áp dụng cái còn lại). Có lẽ em intern thì chưa được làm CF, nếu em làm staff 1 rồi thì sẽ được làm CF ngay (hồi xưa anh cũng làm CF từ staff 1, lúc đầu thấy cân khoe loạn xị lên :)), cuối cùng các anh chị bảo làm CF mà k cân thì chắc chắn sai, còn cân thì k chắc đúng). Ý nghĩa là làm CF kiểu gì cũng cân chứ k phải balancing đâu (em thử viết công thức và ngẫm nghĩ là sẽ ra).
4. Anh nghĩ là nếu nhiều năm liên tiếp mà lãi, mà dòng tiền âm thì phải xem xem, âm đó là từ hđộng nào (SXKD, tài chính, đầu tư). Nếu từ SXKD âm thì cũng nên cân nhắc đó. Khi đánh giá going concern thì 1 chỉ tiêu khá quan trọng là liquidity ratio. Lúc đó cần đánh giá các tỷ lệ Current ratio, Quick ratio, thậm chí Cash/Current liabilities thì mới có thể đánh giá kỹ hơn khả năng hoạt động liên tục được em ạ.
- Báo cáo
Trughieu
Em cảm ơn anh rất nhiều vì câu trả lời không thể xác đáng hơn
. Mong anh vẫn tiếp tục viết bài để bọn em được học hỏi thêm ạ :v

- Báo cáo
anhtl16
Cảm ơn A nhé. E thích những bài viết có nội dung chuyên môn ntn.
Ở trường e có dc học qua về kế toán nhưng khi đi làm thì đòi hỏi nhiều kiến thức hơn nên e rất vui khi kiếm dc loạt bài viết này
- Báo cáo

KΞЯUSU
Cảm ơn chủ thớt! Nhờ bài viết của chủ thớt mà mình có dịp mở rộng vốn từ vựng, đặc biệt là các thuật ngữ chuyên ngành! 👍
- Báo cáo

Hoàng Hải
Cảm ơn bạn, bài viết rất hay. Nhưng mình mong muốn đi vào chuyên sâu hơn vì những người đọc bài viết này đa số sẽ là người làm về tài chính.
- Báo cáo

Dinhvu

ý bạn là bạn cũng trong ngành này và muốn chuyên sâu hơn đúng không bạn.
- Báo cáo

Thanh Phúc Ngô
Cảm ơn anh ạ 

- Báo cáo