(2021) Đọc Quiet SỨC MẠNH CỦA NGƯỜI HƯỚNG NỘI SUSAN CAIN🕮 Tổng số sách đã đọc được: 234 quyển
Trong Nền Văn Hóa Của Đức Tính, con người lý tưởng là kẻ nghiêm túc, có kỷ luật, ngay thẳng và chính trực. Thứ được quan tâm không phải là ấn tượng một người có thể tạo ra với đám đông, mà là cách một người cư xử thế nào khi chỉ có một mình. Thậm chí từ ngữ “tính cách” (personality) vẫn còn chưa tồn tại trong tiếng Anh cho đến tận thế kỷ thứ 18, và ý tưởng về việc “có một tính cách tốt” (“having a good personality”) chưa bao giờ được phổ biến rộng rãi trước thế kỷ thứ 20. Nhưng khi chúng ta đã đi theo Nền Văn Hóa Của Tính Cách, người Mỹ bắt đầu dần quan tâm nhiều hơn đến cách những người khác nhìn nhận mình như thế nào. Họ bị tuyệt đối thu hút bởi những người bạo dạn và có phong cách nói chuyện hấp dẫn, lôi cuốn. “Vai trò mới mà xã hội đòi hỏi ở tất cả trong Nền Văn Hóa Của Tính Cách là vai trò của một người biểu diễn”, như một lời viết nổi tiếng của Susman. “Mỗi người Mỹ đều phải trở thành một cá nhân biểu diễn”.
Nhưng với sự xuất hiện của Nền Văn Hóa Tính Cách, những giá trị của sự mực thước bắt đầu sụp đổ dần, với cả nam và nữ. Thay vì dùng những kính ngữ trang trọng khi giao tiếp với phụ nữ và nghiêm túc tuyên bố sự chú ý của mình tới đối phương, nam giới giờ đây được kỳ vọng là phải biết chinh phục cuộc hẹn hò bằng nghệ thuật của ngôn từ, mà ở đó họ tung ra một lời “tán” đã được cân nhắc kỹ lưỡng. Những người đàn ông quá kín tiếng trước mặt phụ nữ sẽ phải chịu nguy cơ bị tưởng là “pê-đê”; như một cuốn hướng dẫn chuyện yêu đương năm 1926 đã quan sát thấy: “những người đồng tính luyến ái luôn luôn rất kín đáo, nhút nhát, rụt rè, không thích đám đông”. Phụ nữ nữa, cũng vậy, được kỳ vọng là phải biết cân bằng giữa đứng đắn và bạo dạn. Nếu phản ứng quá rụt rè trước những động thái lãng mạn, họ có thể bị coi là “lạnh nhạt”.
Một phần trong sự thiên tài của Tony đến từ lời hứa ngầm của ông với khán giả rằng họ cũng có thể như ông, trải qua quá trình biến đổi từ kẻ tự ti nhỏ bé thành người vượt trội siêu phàm. Ông không phải từ trước đến giờ đã luôn luôn lớn, luôn luôn vượt trội thế này đâu, ông bảo với chúng tôi. Khi còn bé, ông chỉ là một đứa nhóc nhỏ xíu. Trước khi có được một thể hình đẹp, ông đã từng béo phì nặng. Và trước khi làm chủ cả một tòa lâu đài tại Del Mar, California; ông đã ở trong một căn hộ cho thuê nhỏ đến mức ông phải giữ bát đĩa bẩn trong bồn tắm. Điều ngầm ám chỉ ở đây là tất cả chúng ta đều có thể vượt qua bất kể những thứ gì đang ghìm chân mình xuống, và rằng kể cả những người hướng nội nhất cũng có thể học cách vừa bước được trên than nóng vừa hô to một tiếng lớn khỏe mạnh: “CÓ!”
Vào buổi đầu của Nền Văn Hóa Tính Cách, chúng ta bị thúc giục phải phát triển một tính cách hướng ngoại, nhưng hoàn toàn thuần túy chỉ vì những lý do đem lại lợi ích cá nhân—như một cách để vượt trội hơn đám đông xung quanh trong một xã hội mới phát triển, ngày càng ẩn danh và cạnh tranh quyết liệt hơn. Nhưng ngày nay chúng ta dường như có xu hướng cho rằng làm một người hướng ngoại không chỉ giúp chúng ta thành công hơn, mà còn khiến chúng ta trở thành những con người tốt hơn. Chúng ta coi kỹ năng bán hàng như một cách để chia sẻ tài năng của một người với thế giới. Chính bởi vậy nên sự hăng hái bán hàng tới, và được ngưỡng mộ bởi, hàng nghìn người một lúc của Tony không được nhìn nhận như là một sự ái kỷ hay bản tính gian thương, mà được coi là khả năng lãnh đạo ở mức độ cao nhất. Nếu Abraham Lincoln là biểu tượng của đức hạnh trong thời kỳ Nền Văn Hóa Của Đức Tính, thì Tony Robbins cũng là bản đối chiếu tương xứng của ông trong Nền Văn Hóa Của Tính Cách. Quả thực vậy, khi Tony Robbins đề cập rằng ông đã từng có ý định ra tranh cử chức Tổng thống Mỹ, cả đám đông đã vỡ òa với những tiếng hò reo ủng hộ tưng bừng
Grant kể với tôi về một vị sĩ quan (commander) trong Không Quân Mỹ— một cấp bên dưới tướng, lãnh đạo cả hàng nghìn người, chịu trách nhiệm bảo vệ một bệ phóng tên lửa tối quan trọng của quốc gia— vốn là một trong những người hướng nội điển hình nhất thế giới, và cũng là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc nhất mà Grant từng được gặp. Con người này mất tập trung rất nhanh khi phải tương tác với quá nhiều người, nên ông thường dành ra những khoảng thời gian một mình để suy nghĩ và nạp lại năng lượng. Ông có chất giọng nhỏ nhẹ, không mấy khi thay đổi cao độ giọng nói hay biểu hiện trên gương mặt. Ông có nhiều hứng thú với việc lắng nghe và thu thập thông tin hơn là nêu to ý kiến của mình và áp đảo cuộc nói chuyện. Grant nói, mọi người kính trọng ông không chỉ bởi quyền hạn chính thức của ông, mà còn bởi cả cách ông lãnh đạo nữa: ông luôn luôn khuyến khích các nhân viên mình chiếm thế chủ động. Ông đưa góp ý của cấp dưới vào cân nhắc khi đưa ra những quyết định quan trọng, sử dụng những ý tưởng hợp lý, trong khi vẫn thể hiện rõ ràng rằng ông là người có quyết định cuối cùng. Ông không bận tâm đến việc được ghi nhận công lao cho các ý tưởng, thậm chí là cả việc đảm nhiệm các công việc quan trọng; ông chỉ đơn giản giao từng công việc cho những ai có thể làm nó một cách tốt nhất. Điều này có nghĩa là ủy thác phần lớn trong số những công việc thú vị nhất, nhiều ý nghĩa nhất, và quan trọng trọng nhất của ông cho cấp dưới—những công việc mà các lãnh đạo khác sẽ thường giữ cho riêng mình.
Grant nói rằng cũng hợp lý khi những lãnh đạo hướng nội lại xuất sắc đến đặc biệt trong việc điều hành những nhân viên chiếm-thế-chủ-động. Bởi họ có thiên hướng lắng nghe người khác nói, và không hứng thú với việc tỏ ra áp đảo trong các tình huống giao tiếp xã hội, những người hướng nội sẽ có xu hướng lắng nghe và áp dụng những lời gợi ý của cấp dưới hơn nhiều. Được hưởng lợi từ tài năng của những người theo mình, họ vì thế lại có xu hướng động viên, khích lệ cấp dưới càng thêm chủ động hơn nữa. Nói một cách khác, các nhà lãnh đạo hướng nội tạo nên một vòng tuần hoàn của sự chủ động sáng tạo. Trong thí nghiệm về cuộc thi gấp áo, các thành viên trong nhóm đều báo cáo lại, họ thấy những lãnh đạo hướng nội của mình cởi mở và dễ tiếp thu các ý tưởng của họ hơn, điều này giúp thúc đẩy họ làm việc nhiều hơn để gấp được nhiều áo phông hơn nữa. Những người hướng ngoại, ngược lại, có thể rất quyết tâm phải đặt dấu ấn của mình lên tất cả mọi sự kiện, đến mức họ mạo hiểm bỏ qua các ý tưởng tốt của những người khác trên đường đi, và khiến các nhân viên của mình dần rơi vào trạng thái bị động. “Thường thì kết cục lại, người lãnh đạo nói nhiều nhất”, giáo sư Francesca Gino nói, “và không chú tâm đến bất kể ý kiến nào các cấp dưới của mình đang cố đề xuất”. Nhưng với khả năng khơi truyền cảm hứng tự nhiên của họ, những người hướng ngoại làm tốt hơn trong việc có được kết quả tốt từ những nhân viên thụ động hơn mình
Rất nhiều người hướng nội có vẻ biết những điều này một cách bản năng, và luôn cố gắng chống lại việc bị lùa vào thành nhóm. Backbone Entertainment, một hãng thiết kế game tại Oakland, California lúc đầu sử dụng văn phòng mở, nhưng rồi nhận ra rằng những nhà phát triển game của họ, rất nhiều trong số đó là người hướng nội, không hài lòng với điều này. “Nó là một cái nhà kho khổng lồ, chỉ có mỗi bàn, không có tường, và tất cả mọi người đều có thể nhìn thấy nhau”, Mike Mika, cựu điều hành sáng tạo (creative director) nhớ lại. “Chúng tôi liền đổi sang các ô làm việc cubicles, và ban đầu chúng tôi rất lo lắng—thường thì bạn sẽ nghĩ trong một môi trường sáng tạo, người ta sẽ ghét điều đó. Nhưng hóa ra họ lại thích những góc tối và xó xỉnh mà người ta có thể lỉnh vào và tách biệt hẳn khỏi mọi người khác được hơn”.
Các nhà tâm lý học thường tranh luận về sự khác biệt giữa “tính khí” (temperament) và “tính cách” (personality). Tính khí đề cập đến những quy tắc về hành vi và cảm xúc mang tính bản năng, sinh học, có thể quan sát được từ giai đoạn sơ sinh và khi còn nhỏ; còn tính cách lại là tập hợp phức tạp xuất hiện sau khi đã cho thêm cả ảnh hưởng văn hóa và những trải nghiệm cá nhân vào. Một số người nói rằng tính khí là nền móng, còn tính cách là tòa nhà xây lên từ nền móng đó.
Trẻ em có mức độ phản ứng cao thể hiện một thứ mà các nhà tâm lý học gọi là “sự chú tâm đề phòng” (alert attention) với con người cũng như mọi vật. Chúng thực sự chuyển động mắt nhiều hơn người khác để so sánh các lựa chọn trước khi đưa ra quyết định. Như thể chúng xử lý ở một mức độ sâu hơn—đôi lúc có ý thức, đôi lúc vô thức—những thông tin mà chúng thu nhận được về thế giới. Các trẻ em có mức độ phản ứng cao cũng đồng thời có xu hướng suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc hơn về những thứ mà chúng để ý thấy, và chúng thường mang đến thêm một tầng sắc thái nữa vào mọi trải nghiệm hàng ngày. Điều này có thể được thể hiện theo rất nhiều cách
Rất nhiều người thuộc loại có-mức-độ-phản- ứng-cao trở thành tác giả sách hoặc chọn những ngành nghề trí óc khác, nơi “bạn được quyền làm chủ: bạn đóng chặt cửa lại, kéo rèm cửa sổ và bắt đầu làm việc”. (Những người có ít trình độ học vấn hơn thường sẽ chọn trở thành thư ký hoặc lái xe tải, ông nói, cũng vì những lý do tương tự).
Những đứa trẻ có mức độ phản ứng thấp nhất, ví dụ, đã tìm kiếm nguy hiểm từ khi bắt đầu mới chập chững biết đi, để đến khi lớn lên chúng đã chẳng còn biết sợ gì kể cả những mối nguy của-người-lớn nữa. Chúng “leo qua hàng rào, quen dần, rồi dần dần leo lên cả mái nhà”, nhà tâm lý học quá cố David Lykken từng giải thích trong một bài viết. “Chúng sẽ có đủ các kiểu trải nghiệm mà những đứa trẻ khác không có. Chuck Yeager (người phi công đầu tiên vượt thành công ngưỡng rào cản âm thanh) có thể bước từ chiếc máy bay ném bom sang chiếc phi cơ hỏa tiễn và bấm nút, không phải vì ông được sinh ra với sự khác biệt giữa ông ấy và tôi, mà bởi vì trong suốt ba mươi năm trước đó, tính cách của ông ấy đã không ngừng bắt ông phải tiến dần lên từ leo trèo cây cho đến những mức độ nguy hiểm và phấn khích cao hơn nữa. Trái ngược lại, những đứa trẻ có mức độ nhạy cảm cao sẽ có xu hướng cao hơn trong việc lớn lên trở thành các nghệ sĩ, nhà văn, nhà khoa học hoặc những người ham tư duy, bởi sự e sợ những thứ mới lạ sẽ khiến họ dành nhiều thời gian hơn trong môi trường quen thuộc—và màu mỡ hơn cho trí tuệ—của tâm trí mình. “Trường đại học luôn đầy những người hướng nội”. “Định kiến chúng ta vẫn có về các giáo sư đại học là rất đúng với vô số những người trong trường học này. Họ thích đọc; với họ không có gì phấn khích hơn những ý tưởng. Và một phần trong chuyện này có liên quan tới cách họ đã dùng thời gian thế nào khi lớn lên. Nếu bạn dành phần lớn thời gian chơi và hoạt động, vậy thì bạn sẽ có ít thời gian hơn để học và đọc sách. Cũng chỉ có chừng đấy thời gian trong cuộc đời bạn mà thôi”.
bởi David Dobbs, đăng trên tờ “The Atlantic”. Lý thuyết này cho rằng có nhiều trẻ em như hoa bồ công anh vậy, có thể sinh trưởng dễ dàng ở gần như bất cứ mọi môi trường sống. Nhưng có những đứa trẻ khác, bao gồm cả loại có-mức-độ- phản-ứng-cao mà Kagan đã nghiên cứu, thì giống hoa phong lan hơn: chúng héo tàn rất dễ dàng, nhưng đồng thời, dưới đúng điều kiện thích hợp lại có thể lớn mạnh và trở nên rất tuyệt vời. thì mức độ phản ứng của hệ thần kinh ở những đứa trẻ này khiến chúng rất dễ bị ảnh hưởng nặng nề bởi những bất hạnh khi còn nhỏ (như bị đối xử tàn tệ, tiếp xúc sớm với bạo lực gia đình, vv—chú thích của người dịch); nhưng cũng đồng thời giúp chúng có thể thu được nhiều lợi ích từ một môi trường nuôi dưỡng cẩn thận hơn nhiều so với những đứa trẻ khác. Nói một cách khác, những đứa trẻ hoa phong lan có thể dễ dàng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi mọi loại trải nghiệm, bất kể là tích cực hay tiêu cực. Các nhà khoa học từ lâu đã biết rằng những tính cách có-mức-độ-phản-ứng- cao thường đi kèm với những mối nguy tiềm tàng. Những người này đặc biệt dễ thương tổn hơn rất nhiều trước những thử thách như căng thẳng trong hôn nhân, cái chết của cha mẹ, hay bị lạm dụng. Họ có xu hướng cao hơn các đồng bạn của mình trong việc trở nên tuyệt vọng, lo lắng, và sợ sệt trước những tình huống như vậy. Quả thực thế, một phần tư trong số những đứa trẻ có-mức-độ-phản-ứng-cao của Kagan đã phải chịu đựng đến mức độ nào đó một chứng bệnh có tên “chứng rối loạn lo lắng xã hội” (social anxiety disorder), một dạng sợ sệt, nhút nhát mãn tính và có khả năng tàn phá kinh hoàng.
Số phận của những đứa trẻ có mức độ phản ứng cao nhất còn đồng thời bị ảnh hưởng bởi thế giới xung quanh chúng—có lẽ thậm chí còn nhiều hơn so với một đứa trẻ trung bình, dựa theo một lý thuyết có tính đột phá mới mang tên “Lý Thuyết Hoa Phong Lan” (“the orchid hypothesis”)
Những đứa trẻ có-mức-độ-phản-ứng-cao mà được dạy bảo tốt, được cha mẹ quan tâm, và có một môi trường gia đình ổn định thì thường có ít rắc rối về mặt cảm xúc, cũng như có nhiều kỹ năng xã hội hơn so với những đồng bạn có-mức-độ-phản-ứng-cao của mình. Thông thường chúng sẽ cực kỳ giàu lòng cảm thông, tính thích chu đáo quan tâm, và rất có tinh thần hợp tác. Chúng tốt bụng, tận tình và cẩn thận; rất dễ cảm thấy khó chịu bởi sự tàn ác, bất công và vô trách nhiệm. Chúng dễ thành công ở những thứ quan trọng với chúng. Chúng không nhất thiết sẽ trở thành những lớp trưởng, khối trưởng, hay các ngôi sao chính trong những vở diễn ở trường. “Với một số đứa, đó sẽ là trở thành lãnh đạo của cả lớp. Với những đứa khác, nó sẽ ở dưới dạng học rất giỏi ở trường lớp, và được mọi người yêu mến”.
Ở những cá thể khỉ này, cũng như ở con người, có một loại gen được biết đến với cái tên gen vận chuyển serotonin (SERT), hay 5-HTTLPR, giúp điều khiến quá trình xử lý serotonin, một chất dẫn truyền thần kinh có tác dụng ảnh hưởng tới cảm xúc. Một biến thể cụ thể của nó, hay còn gọi là một alen (gen đẳng vị), của gen này, đôi lúc được gọi là alen ngắn, được tin rằng có liên kết với mức độ phản ứng cao và tính cách hướng nội, cũng như nguy cơ cao dễ rơi vào trầm cảm ở những người có cuộc sống khó khăn. Khi những cá thể con với loại alen này tiếp xúc với stress—như trong một thí nghiệm, chúng bị tách khỏi mẹ mình và được nuôi lớn như một con khỉ mồ côi— chúng xử lý serotonin kém hiệu quả hơn hẳn (một yếu tố dễ tạo nên trầm cảm và lo sợ) so với những con khỉ có alen dài cùng chịu sự thiếu thốn tương tự. Nhưng những con khỉ con với cùng bộ mã gen dễ tổn thương đó, khi được nuôi lớn bởi những con mẹ chăm sóc chúng cẩn thận, lại có thể làm tốt ngang bằng hoặc thậm chí tốt hơn những đồng bạn có alen dài của chúng— kể cả những con cũng được sống trong môi trường an toàn tương tự—trong những hoạt động xã hội quan trọng như tìm kiếm bạn chơi cùng, xây dựng liên minh, và giải quyết xung đột. Chúng thường trở thành thủ lĩnh trong nhóm của mình. Chúng cũng đồng thời xử lý serotonin hiệu quả hơn nhiều.
chúng ta có thể tác động làm thay đổi tính cách của mình, nhưng chỉ đến được một mức độ nhất định mà thôi. Bản tính bẩm sinh của chúng ta có tác động tới chúng ta, bất kể chúng ta có sống cuộc sống của mình như thế nào. Một phần đáng kể trong việc chúng ta là ai được định đoạt bởi các gen của chúng ta, bởi bộ não của chúng ta, bởi hệ thần kinh của chúng ta. Chúng ta có thể gọi điều này là “Lý Thuyết Dây Thun” (rubber band theory) về tính cách. Chúng ta như là dây thun khi ở trạng thái nghỉ. Chúng ta đàn hồi, và có thể kéo dãn dài mình ra được, nhưng cũng chỉ đến một mức độ có hạn mà thôi.
Nếu bạn từng là một đứa bé có-mức-độ-phản-ứng-cao, vậy thì thùy hạnh nhân của bạn có thể, cho đến hết phần đời của bạn, sẽ luôn hoạt động có một chút quá mạnh so với cần thiết mỗi khi bạn phải tự giới thiệu bản thân mình với người lạ tại một bữa tiệc. Nhưng nếu bạn cảm thấy mình vẫn khá là có kỹ năng trong giao tiếp, thì đấy một phần là vì phần vỏ não trước trán của bạn đang có mặt ở đó để bảo bạn hãy bình tĩnh lại, giơ một tay ra để bắt đi, và cười lên.
những người đặc biệt nhạy cảm thường là những kẻ quan sát rất chăm chú, luôn “nhìn trước khi họ nhảy”. Họ sắp xếp cuộc sống của mình theo cách giới hạn ít nhất những sự bất ngờ. Họ thường nhạy cảm với các hình ảnh, âm thanh, mùi hương, cảm giác đau đớn, và cả cà phê. Họ gặp khó khăn với việc bị theo dõi (ví dụ, ở chỗ làm chẳng hạn, hay khi biểu diễn ở một buổi biếu diễn âm nhạc), hoặc với việc bị đánh giá mức độ xứng đáng (ví dụ hẹn hò, phỏng vấn xin việc, vv...)
Họ phát hiện ra rằng những người nhạy cảm dành nhiều thời gian hơn những người khác khi nhìn các bức ảnh với sự khác biệt nhỏ. Não của họ cũng đồng thời thể hiện nhiều hoạt động hơn tại những vùng giúp liên kết các hình ảnh này với các thông tin được lưu trữ khác. Nói một cách khác, những người nhạy cảm xử lý những bức ảnh này ở một mức độ phức tạp cao hơn nhiều so với các đồng bạn của họ, suy ngẫm nhiều hơn về những cột hàng rào hay những đống rơm này.
những người nhạy cảm đôi lúc đặc biệt cảm thông. Như thể họ có rào cản mỏng hơn nhiều ngăn cách giữa họ với cảm xúc của những người khác và với những bi kịch và sự tàn nhẫn của thế giới này. Họ thường có một lương tâm mạnh mẽ khác thường. Họ tránh những bộ phim và chương trình tivi nhiều bạo lực; họ có nhận thức rất mạnh về hậu quả của mỗi lỗi lầm nhỏ trong hành động của họ. Trong những bối cảnh giao tiếp, họ thường chú trọng mạnh vào những chủ đề như các rắc rối cá nhân, những thứ mà những người khác sẽ thường coi là “quá nặng nề”.
Những động vật “rụt rè nhút nhát” đi kiếm thức ăn kém thường xuyên hơn, và ít đi xa hơn, tiết kiệm năng lượng, quan sát nhiều, và thường sống sót khi thú ăn thịt xuất hiện. Những động vật bạo dạn thường xông xáo xa hơn, dễ bị xơi tái bởi những loài động vật ở cấp độ cao hơn trong chuỗi thức ăn, nhưng lại sinh tồn tốt hơn khi nguồn thức ăn trở nên khan hiếm và chúng cần phải chấp nhận nhiều mạo hiểm hơn
Các nhà khoa học đã khám phá ra trong những cộng đồng du canh du cư, những người được thừa hưởng gen có liên quan tới tính hướng ngoại (mà cụ thể hơn là tới việc tìm kiếm những thứ mới lạ) thường phát triển tốt hơn so với những người không có dạng gen này. Nhưng trong những cộng đồng dân cư ổn định, chính những người có kiểu gen hướng ngoại này lại là những người khó phát triển hơn. Chính những đặc điểm có thể giúp cho một người du cư đủ dũng cảm để săn bắn và bảo vệ gia súc của cải khỏi giặc cướp, lại cũng là thứ có thể cản trở họ làm tốt trong những công việc thứ cấp hơn như trồng trọt, buôn bán chợ búa, hay tập trung vào chuyện học tập.
Hoặc hãy xem xét sự bù-trừ này: những con người hướng ngoại có nhiều bạn tình hơn so với những người hướng nội—một lợi thế tuyệt vời cho bất cứ giống loài nào muốn gia tăng tỷ lệ sinh sản—nhưng họ đồng thời lại cũng ngoại tình và li dị nhiều hơn, thường xuyên hơn, một điều không hề tốt chút nào cho con cái của những cặp đôi này. Người hướng ngoại tập thể dục thể thao nhiều hơn, nhưng người hướng nội lại ít gặp tai nạn hoặc những chấn thương nghiêm trọng hơn. Người hướng ngoại có những mạng lưới quan hệ rất rộng và thường tận hưởng rất nhiều sự trợ giúp đắc lực từ các mối quan hệ này, nhưng họ lại cũng có xu hướng phạm tội nhiều hơn. Như Jung đã suy đoán từ gần một thế kỷ trước đây về hai dạng tính cách: “một bên [hướng ngoại] thì có tỷ lệ sinh sản cao, nhưng khả năng tự đề kháng thì thấp và tuổi thọ mỗi cá nhân lại thường ngắn; trong khi một bên [hướng nội] thì trang bị cho mỗi cá nhân vô vàn phương pháp tự-bảo-vệ, nhưng lại đi cùng với một tỷ lệ sinh sản thấp hơn nhiều”
“sự nhạy cảm về phần thưởng” (reward sensitivity). Một người nhạy-cảm-về-phần-thưởng sẽ có ham muốn rất mạnh mẽ trong việc tìm kiếm phần thưởng—từ việc được thăng cấp cho đến trúng số, cho đến một buổi tối chơi bời thật thỏa thích với bạn bè. Sự nhạy cảm về phần thưởng tạo động lực để chúng ta theo đuổi những mục tiêu như tiền bạc hay tình dục, địa vị hay quyền lực xã hội. Nó thúc giục chúng ta leo lên các bậc thang và với tới những nhánh cây ở xa hơn nữa, để thu gom được những trái ngon nhất của cuộc sống. Nhưng đôi lúc chúng ta lại quá nhạy cảm với các phần thưởng. Sự nhạy cảm với phần thưởng, khi quá độ, có thể lôi con người ta vào đủ loại rắc rối. Chúng ta có thể trở nên hết sức hào hứng trước viễn cảnh của những phần thưởng hấp dẫn, như thắng lớn trên thị trường chứng khoán, đến mức chúng ta dám chấp nhận những sự mạo hiểm lớn khổng lồ và tảng lờ đi những cảnh báo nguy hiểm rất hiển nhiên ngay trước mắt.
Các khách hàng hướng ngoại của bà thường có xu hướng cao là người nhạy-cảm-cao- với-phần-thưởng, trong khi những người hướng nội thường có xu hướng để tâm nhiều hơn đến các dấu hiệu nguy hiểm. Họ thành công hơn trong việc điều hòa tham vọng hoặc cảm giác phấn khích của mình. Họ tự bảo vệ bản thân mình tốt hơn trước những hậu quả xấu. “Những nhà giao dịch hướng nội tôi từng làm việc với thường sẽ rất hay nói ‘OK, Janice, tôi có cảm thấy niềm hưng phấn đang trào dâng đây, nhưng tôi hiểu rằng tôi không thể hành động dựa vào chúng được’. Những người hướng nội giỏi hơn nhiều trong việc vạch ra một kế hoạch, theo sát một kế hoạch, và rất giữ kỷ luật”.
Trên thực tế, một số nhà khoa học đã bắt đầu khám phá ý tưởng cho rằng sự nhạy cảm với phần thưởng không chỉ là một đặc tính thú vị của sự hướng ngoại; nó còn là thứ khiến người hướng ngoại là người hướng ngoại. Người hướng ngoại, nói cách khác, được định nghĩa bởi xu hướng của họ trong việc tìm kiếm phần thưởng, từ danh hiệu đứng đầu cho đến cảm giác thăng hoa về tình dục, cho đến tiền bạc. Họ đã được chứng minh là có tham vọng kinh tế, chính trị, và khoái lạc chủ nghĩa (hedonistic) lớn hơn nhiều so với người hướng nội; kể cả sự quảng giao của họ cũng chỉ là một sản phẩm phụ của sự nhạy-cảm-với-phần- thưởng của họ, nếu dựa trên góc nhìn này— người hướng ngoại giao tiếp nhiều, bởi vì tận hưởng những mối quan hệ giữa người với người là cảm giác đặc biệt tuyệt vời.
Người hướng nội đồng thời cũng hay so sánh những thông tin mới với kỳ vọng ban đầu của họ, ông nói. Họ sẽ tự vấn bản thân: “Đây có phải là điều mà ban đầu mình nghĩ sẽ xảy ra không? Đây có là điều nên xảy ra hay không?”. Và khi tình huống vượt ra khỏi dự tính, họ kết hợp cảm giác thất vọng trong khoảnh khắc đó (khi mất điểm) với bất cứ thứ gì đang diễn ra trong môi trường xung quanh họ vào thời điểm họ thất vọng (bấm nhầm số chín). Sự liên kết này cho phép họ có thể có những dự đoán chính xác hơn về việc phải phản ứng thế nào với những dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm tương tự trong tương lai
Tình cảm mới là thứ thực sự quan trọng, bạn không cần bắt buộc phải hòa đồng với tất cả. Trân trọng những người bạn gắn bó và thương yêu; cộng tác với những đồng nghiệp mà bạn yêu mến và tôn trọng. Kiếm tìm trong tất cả những người mới quen biết, ai là người bạn yêu quý, và ai là người làm bạn thấy thích thú mỗi khi ở bên. Và đừng bận tâm đến việc phải làm thân với tất cả mọi người. Có thêm những mối quan hệ quả thực đem lại cho ta nhiều hạnh phúc, điều này đúng với cả những người hướng nội; nhưng hãy nhớ rằng, chất luôn cao hơn lượng. Bí quyết của cuộc sống là bạn phải biết đặt mình dưới đúng loại ánh sáng thích hợp. Với một số người, đó là ánh hào quang của sân khấu; với một số khác, đó lại là ánh đèn học bên một chiếc bàn giấy. Hãy tận dụng sức mạnh bẩm sinh của chính mình—sức mạnh của sự nhẫn nại và chuyên cần, của khả năng tập trung cao độ, của cái nhìn thấu hiểu bản chất, và của sự nhạy cảm, tinh tế—và dùng chúng để làm những việc mà bạn ưa thích, những công việc thực sự có ý nghĩa: giải quyết vấn đề; đào sâu tư duy; hay sáng tạo nghệ thuật. Hãy cố tìm ra và làm điều phù hợp nhất với năng lực của bản thân mà bạn có thể cống hiến cho xã hội. Hãy cứ làm, kể cả khi nếu việc đó đòi hỏi bạn phải diễn thuyết trước đông người, gặp gỡ và tạo dựng các mối quan hệ, hay bất kỳ một hoạt động nào khác khiến bạn cảm thấy không thoải mái. Nhưng hãy chấp nhận rằng chúng sẽ rất khó khăn; vậy nên hãy tìm cách rèn luyện và phát triển những kỹ năng để khiến chúng dễ dàng hơn, và hãy tự tưởng thưởng cho mình khi công việc khó khăn đó đã hoàn tất.
Hãy dùng thời gian rảnh của mình làm những thứ mà bạn thích, chứ không phải những thứ mà bạn nghĩ mình nên làm. Hãy cứ ở nhà vào dịp Năm mới, nếu đó là điều làm bạn thấy thoải mái. Dẹp hết những cuộc họp hội đồng. Băng qua đường thật nhanh để khỏi phải tán gẫu những câu chuyện vô nghĩa với một người quen nào đấy có thể tình cờ bắt gặp bạn. Đọc sách đi. Nấu ăn. Hoặc chạy bộ. Viết một cuốn sách. Hãy tự đặt ra một thỏa thuận với bản thân về một số lượng tối thiểu những sự kiện xã hội bạn phải tham gia, để đổi lại không phải cảm thấy tội lỗi khi rút lui khỏi các sự kiện khác
Nếu bạn là một nhà quản lý, hãy nhớ rằng, một phần hai tới một phần ba trong số nhân lực của bạn rất có thể là những người hướng nội, bất kể là họ có thể hiện ra ngoài điều đó hay không. Hãy nghĩ thật kỹ trước khi bạn quyết định không gian làm việc của văn phòng công ty mình. Đừng mong chờ việc những người hướng nội sẽ hào hứng về những “văn phòng mở” hoàn toàn không có biên giới, hay, cũng như thế, về những bữa tiệc, hay những hoạt động xây dựng nhóm (team-building). Hãy biết dùng đúng sức mạnh của những người hướng nội—đây là những người sẽ giúp bạn trong những hoạt động phải đào sâu suy nghĩ: tư duy và phân tích, xây dựng chiến lược kinh doanh, giải quyết những vấn đề phức tạp, và tìm thấy mỏ vàng ở những nơi bạn ít ngờ tới nhất.