Trong hàng tỷ năm, natri bị rửa trôi khỏi đá và đất, đọng lại ở các đại dương và có thể tồn tại ở đó trong khoảng 50,106 năm. Nước biển chứa khoảng 11.000 ppm natri. Sông chỉ chứa khoảng 9 ppm.
Nước uống thường chứa khoảng 50 mg/L natri. Giá trị này rõ ràng là cao hơn đối với nước khoáng. Ở dạng hòa tan natri luôn tồn tại dưới dạng ion Na+.
Natri phản ứng với nước bằng cách nào và ở dạng nào?
Natri cơ bản phản ứng mạnh với nước theo cơ chế phản ứng sau:
2Na(s) + 2H2O → 2NaOH(aq) + H2(g)
Một dung dịch không màu được hình thành, bao gồm natri hydroxit có tính kiềm mạnh (xút) và khí hydro. Đây là một phản ứng tỏa nhiệt. Kim loại natri được nung nóng và có thể bốc cháy và cháy với ngọn lửa màu cam đặc trưng. Khí hydro thoát ra trong quá trình đốt cháy phản ứng mạnh với oxy trong không khí.
Một số hợp chất natri không phản ứng mạnh với nước nhưng hòa tan mạnh trong nước.
Độ hòa tan của natri và hợp chất natri
Có sẵn một số ví dụ về khả năng hòa tan trong nước của natri. Hợp chất natri quen thuộc nhất là natri clorua (NaCl), hay còn gọi là muối ăn. Ở 20oC độ hòa tan là 359 g/L, nói cách khác là hòa tan tốt trong nước. Độ hòa tan gần như không phụ thuộc vào nhiệt độ. Natri cacbonat (Na2CO3) cũng hòa tan tốt trong nước. Độ hòa tan là 220 g/L ở 20oC.
Tại sao natri có trong nước?
Các hợp chất natri tự nhiên tồn tại trong nước. Như đã đề cập trước đó, natri có nguồn gốc từ đá và đất. Không chỉ biển mà cả sông hồ cũng chứa một lượng natri đáng kể. Tuy nhiên nồng độ thấp hơn nhiều, tùy thuộc vào điều kiện địa chất và ô nhiễm nước thải.
Những ảnh hưởng sức khỏe của natri trong nước là gì?
Natri có trong cơ thể con người với lượng khoảng 100 g. Nó là một khoáng chất dinh dưỡng, chịu trách nhiệm một phần cho các chức năng thần kinh. Huyết thanh chứa 3,3 g/L natri. Nó điều chỉnh lượng chất lỏng bổ sung trong tế bào, cân bằng axit-bazơ và điện thế màng, một phần cùng với kali.
Người ta có thể dùng quá liều natri từ muối ăn. Điều này gây ra tăng huyết áp, xơ cứng động mạch, phù nề, tăng thẩm thấu, lú lẫn và tăng nguy cơ nhiễm trùng do hấp thụ quá nhiều Na+. Thiếu natri có thể dẫn đến mất nước, co giật, tê liệt cơ, giảm tăng trưởng và tê liệt toàn thân.
Thông thường, con người cần khoảng 300 mg natri clorua mỗi ngày để đảm bảo mức natri cân bằng. Những người bị tiêu chảy hoặc các vấn đề sức khỏe khác làm tăng nhu cầu về muối cần lượng natri trong chế độ ăn cao hơn bình thường. Lượng muối ăn mà người lớn tiêu thụ trung bình là 9 g mỗi ngày, tương đương với khoảng 4 g natri. Những người mắc bệnh tim và thận được khuyến nghị áp dụng chế độ ăn ít natri.
Dung dịch muối ăn ngày xưa được dùng làm thuốc gây nôn. Caustic soda có thể ảnh hưởng sâu sắc đến các mô.
Nguồn: lentech.com