Mấy ngày nay, thông tin một nam ca sĩ Hàn Quốc tự vẫn đang lan tràn khắp các mặt báo. Thậm chí, khi google một từ khóa chung chung như "tự tử", đây là những kết quả đầu tiên tôi nhận được:
Còn nếu sử dụng từ khóa trực diện hơn, Google nhanh chóng trả về 189.000 kết quả chỉ trong 0.35s.
Rất nhiều trang báo mạng tôi biết đều đã, đang và chắc chắn sẽ tiếp tục lên bài về sự kiện này, chí ít cho tới khi xuất hiện trend khác thu hút sự chú ý hơn. Một trang tin giới trẻ cực hot đã khai thác tới gần 50 bài ăn theo chủ đề này tính tới thời điểm hiện tại. Từ chuyện "tự tử vì trầm cảm", chuyện "thư tuyệt mệnh", "nỗi chán chường trước giờ phút định mệnh" cho tới chuyện "lộ clip mua đồ trước khi tự tử", "người yêu cũ tới viếng", "fan than khóc" v.v. và v.v. - ai bảo người Việt Nam không biết nhìn vấn đề từ nhiều góc độ?
Ở chiều hướng ngược lại, trong một group Facebook chuyên cho các bạn có vấn đề về tâm lý chia sẻ và tìm nguồn động viên từ cộng đồng, các status giống như dưới đây đột nhiên xuất hiện với tần suất và cường độ cao hơn hẳn:

Không dừng lại ở đó, ngày hôm qua cũng mới rộ lên tin (lưu ý: thông tin chưa xác thực) 5 fan Chile, 1 fan Mỹ, 1 fan Hàn và 1 fan Nhật của nam ca sĩ xấu số đã tự tử sau cái chết của thần tượng:
Phải chăng mọi thứ chỉ là trùng hợp? 
Tôi không nghĩ vậy.

Đọc thêm:

Hiệu ứng Werther

Năm 1774, Johann Wolfgang von Goethe giới thiệu tới công chúng cuốn tiểu thuyết The Sorrows of Young Werther (Nỗi đau của chàng Werther). Tác phẩm này xoay quanh nỗi đau đớn và giày vò thường trực của chàng trai trẻ Werther khi không thể đến với người con gái mình yêu thương nhất Charlotte do nàng đã thuộc về một người đàn ông khác - Albert - người sau này cũng trở thành bạn của Werther. Sau rất nhiều dằn vặt, Werther quyết định rằng cách duy nhất để chấm dứt tình trạng tồi tệ này là một trong hai người - chàng hoặc Charlotte - phải chết. Chuyện tình ngang trái kết thúc sau khi Werther tự sát bằng khẩu súng của chính Albert.
Sẽ không có gì đáng nói nếu sau đó, tại Châu Âu không rộ lên thông tin cuốn tiểu thuyết của Goethe là nguyên nhân khiến một làn sóng người trẻ tự tìm đến cái chết. Trong số đó, nhiều nạn nhân được tìm thấy trong phục trang giống hệt miêu tả của Goethe về Werther, sau khi họ tự kết liễu đời mình bằng khẩu súng giống hệt như vũ khí của Albert. Một số thậm chí còn đặt cạnh mình cuốn tiểu thuyết đầy tai tiếng được mở sẵn tới đoạn Werther tự đoạt mạng chính mình. Hiện tượng kỳ lạ này sau đó nhà nghiên cứu xã hội David Philips đặt tên là hiệu ứng Werther, hay còn gọi là copycat suicide (tạm dịch: tự tử theo). 
David tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về hiệu ứng Werther khi quan sát và đưa ra bằng chứng rằng tỷ lệ các vụ tự tử tại Mỹ gia tăng đáng kể đặc biệt sau khi báo chí, truyền hình đưa tin về một vụ tự tử bất kỳ. Theo ông, các báo địa phương càng khai thác đề tài về tự vẫn nhiều thì làn sóng tự sát theo sau lại càng mạnh. Nhận định này càng được củng cố sau khi Etzersdorfer và các cộng sự đưa ra kết quả nghiên cứu của mình tại Áo - thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa số lượng báo phát hành và số vụ tự tử theo được ghi nhận tại các địa phương.
Điều này tạo ra một mối nguy hại tiềm tàng đặc biệt đáng sợ mỗi khi có một người nổi tiếng (những nhân vật thu hút rất nhiều chú ý từ giới truyền thông) ra đi:
Tháng 8 năm 1962, số lượng tự tử ở Mỹ tăng thêm 200 người so với mức trung bình sau khi Marilyn Monroe qua đời.
Năm 2009, số người tự sát bằng tàu hỏa tăng vọt sau khi cựu thủ môn Đức Robert Enke tự kết liễu chính mình bằng cách tương tự (xem biểu đồ minh họa).


Năm 2008,  tỉ lệ tự tử ở Hàn Quốc tăng 162.3% trong vòng 3 tuần sau sự ra đi của nữ diễn viên Hàn Quốc Choi Jin-sil (xem biểu đồ minh họa).

Hay gần nhất, một nghiên cứu năm 2017 được đăng trên tạp chí JAMA Internal Medicine chỉ ra rằng tỉ lệ tìm kiếm các từ khóa liên quan tới tự vẫn cũng tăng vọt sau khi series 13 Reasons Why thu hút được sự chú ý mạnh mẽ từ cộng đồng. Cụ thể, lượng tìm kiếm tăng 26% với từ khóa "how to commit suicide" (làm thế nào để tự tử), 18% với từ khóa "commit suicide" (tự tử) và 9% với từ khóa "how to kill yourself" (làm thế nào để giết chính mình).

Đọc thêm:

Đâu là nguyên nhân?

Trong quá trình tìm lời giải cho hiệu ứng đặc biệt này, rất nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng thủ phạm chính của hiện tượng này rất có thể là truyền thông. 
Theo David Philips, thông tin về các vụ tự tử khiến những người có ý định trước đó cảm thấy bản thân có thêm lý do để thực sự hành động - tương tự như việc con người có xu hướng thực hiện các hành vi trái pháp (chẳng hạn như hút thuốc phiện) nếu thấy người khác thực hiện trước. Sự đồng cảm khiến những người vốn dĩ đang gặp bế tắc cảm thấy cái chết như một lựa chọn khả dĩ có thể giải thoát họ.
Vậy là, thay vì tìm kiếm nơi chia sẻ câu chuyện, vượt qua khủng hoảng, họ lựa chọn buông xuôi giống hệt như những gì được miêu tả trên báo đài. Không phải ngẫu nhiên mà tỷ lệ tự tử theo thường gia tăng mạnh ở những nơi có cường độ đưa tin về vụ tự tử gốc cao nhất.
Cách thức đưa tin cũng là một vấn đề rất đáng lưu tâm khi tỷ lệ tự tử theo có xu hướng gia tăng khi các cơ quan truyền thông khai thác quá kỹ về hình thức tự vẫn,  hoặc cố gắng đưa ra những bài viết "mùi mẫn", "chạm vào cảm xúc người đọc", hay tệ hơn nữa là những bài viết lý giải hành động tự vẫn như một lối thoát, một hành động giải phóng nhân vật xấu số khỏi những dằn vặt, chịu đựng từ cuộc sống, từ trầm cảm . . . Những bài viết thế này khiến những người đang gặp bế tắc cảm thấy việc tự vẫn giống như một lựa chọn đầy hấp dẫn - vừa thu hút được sự chú ý, lại vừa nhận được đồng cảm sâu sắc từ những người xung quanh. Hoặc chúng có thể khiến nhiều bạn trẻ vốn đang đấu tranh mỗi ngày với vấn đề của mình lựa chọn buông xuôi vì suy nghĩ: "Nếu họ còn không chiến thắng được, có lẽ mình cũng đành từ bỏ thôi."

Chúng ta nên làm gì?

Hiệu ứng Werther không phải là không thể ngăn ngừa. Trên thực tế, "khắc tinh" của hiệu ứng này là hiệu ứng Papageno - với cái tên được lấy cảm hứng từ câu chuyện trong vở opera The Magic Flute từ thế kỷ 18. Trong câu chuyện này, nhân vật chính Papageno cũng cân nhắc về chuyện tự vẫn rất nhiều trước khi thay đổi quyết định sau khi trò chuyện với các nhân vật khác và tìm lại được ý nghĩa cuộc đời.
Hiệu ứng này cho chúng ta một gợi ý hết sức đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả: Hãy nói chuyện và chia sẻ nếu bạn gặp bế tắc hoặc thấy ai đó gặp bế tắc.
Lý do tôi viết bài này cũng vì có một người bạn tình cờ inbox tối qua chia sẻ rằng bạn ấy thấy rất nhiều người bị ảnh hưởng từ câu chuyện gần đây. Ngay chính bạn ấy cũng cảm thấy bị ám ảnh và down khá nhiều mặc dù không phải là fan của nam ca sĩ Hàn Quốc được đề cập ở đầu bài. 
Với tất cả những ai đang cảm thấy tương tự, các bạn chẳng có lỗi gì hết. Đó là một cảm xúc hết sức tự nhiên và cũng rất con người - vì vậy hãy chấp nhận và làm quen với nó. Tôi tin rằng nếu tiếp cận đúng cách, chúng ta sẽ càng thêm yêu và chú ý hơn tới cuộc sống bản thân, và cả cuộc sống của những người xung quanh mình. Đời đẹp và đáng sống mà.
Với những bạn đang cảm thấy bế tắc và cần một lối thoát, hãy lên tiếng, chúng tôi luôn lắng nghe và luôn bên các bạn. 
Với các cơ quan thông tin, hy vọng các bạn sẽ có trách nhiệm hơn khi đưa tin về những sự việc tương tự (thật ra loại tôm tép như tôi thì chắc chắn cũng khó có thể có tiếng nói về vấn đề này, nhưng biết mà không nói là có tội). 
Thay cho lời kết, cho phép tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện có thật:
Ở Áo (sau này là ở nhiều nước phát triển khác nữa), một Bộ hướng dẫn Đưa tin về các vụ tự vẫn đã được ban hành từ năm 1987, với mục đích giảm thiểu số lượng vụ tự tử và nỗ lực tự tử  tại Vienna, đặc biệt là trong các ga tàu điện ngầm. Các bạn có đoán được thay đổi sau khi tài liệu này được ban hành không?
 Tỉ lệ tự tử nói chung và tự tử ở ga tàu điện ngầm nói riêng ở Áo giảm tới 80% chỉ trong vòng 6 tháng. 
Mặc dù kể từ năm 1991, con số này lại tăng trở lại do số hành khách sử dụng tàu điện ngầm gần như tăng gấp đôi; tổng số trường hợp tự vẫn tại Vienna vẫn giảm tới 40%, so với mức giảm 33% trên toàn nước Áo.
Liệu có phải nhờ quy định chặt chẽ hơn về việc đưa tin các vụ tử vẫn? 
Hẳn các bạn đều đã tự có câu trả lời cho riêng mình rồi.

Nguồn tham khảo: