Theo dòng chảy của lịch sử, kể từ khi có sự tư hữu của một người hay một nhóm người thì lúc bấy giờ quyền lực được tất yếu sinh ra để trấn áp giai cấp thấp hơn, và nó sinh ra hai giai cấp cơ bản của xã hội là giai cấp thống trị - bị trị. Theo Mác, các xung đột không thể điều hòa được sẽ dẫn tới sự hình thành của nhà nước. Một thể chế hay mô hình nhà nước sinh ra bản chất để điều hòa mối quan hệ lợi ích của các giai cấp lại với nhau thông qua các chính sách hoặc đàm phán cùng có lợi. Hoặc theo Rousseau, xã hội ngày càng phát tiển, tiếng nói của công dân trong nhà nước đó cần phải bảo vệ quyền lợi của mình bằng một bản “khế ước xã hội” ra đời. Đó là một số học thuyết về sự đời của nhà nước, nhưng thứ chúng ta đặt sự quan tâm nhất đó là quyền lực nhà nước được sử dụng, vận hành như thế nào? Đã bao giờ bạn hỏi tại sao tổng thống Donal Trump – người có quyền lực cao nhất đất nước - xin ngân sách để xây tường chặn người nhập cư lại không được chấp nhận? Hay tại sao mọi quyết định của ông Kim Jong Un lại được thi ngay lập tức? Và, ở Việt Nam, cương vị của nhà lãnh đạo nào nắm vai trò quan trọng và hơn nữa cơ quan nào là mạnh mẽ nhất trong việc thực hiện quyền lực?
<i>nguồn ảnh: thanhtra.com.vn</i>
nguồn ảnh: thanhtra.com.vn

Khái niệm quyền lực:

Quyền lực là năng lực (hay khả năng) của một chủ thể buộc chủ thể khác (đối tượng) phải hành động theo ý chí của mình, bất kể sự kháng cự .
trích [1]
            Phân loại quyền lực thì có rất nhiều quan niệm khác về quyền lực cứng hay quyền lực mềm (Joshep Nye), quyền lực thông minh, quyền lực điện tử,… Nhưng ở đây khi chủ thể là nhà nước thì phải bàn tới quyền lực nhà nước hay quyền lực chính trị và quyền lực công cộng. Có thể nói, nhà nước là một tổ chức nắm tất cả những quyền lực quan trọng nhất và đều hợp pháp, quyền lực nhà nước được sử dụng có thể định đoạt mọi suy nghĩ, lối sống, sinh mệnh của một đất nước và công dân trong nước. Vậy quyền lực nhà nước được thực thi như thế nào?           
Phương thức sử dụng quyền lực nhà nước trong lịch sử thời kỳ phong kiến ở phương Tây và phương Đông có sự đối lập và khác biệt rõ rệt. Nhà vua ở các nước phương Tây, thường có quyền lực ít hơn và chỉ mang tính hình thức do việc phân định lãnh chúa tư hữu tại các vùng đất tại vương quốc của mình, đó là việc sử dụng quyền lực theo phương thức phân quyền. Còn ở phương Đông, tồn tại phương thức phân quyền ở những thời kỳ “phong vương, kiến ấp”, “chia để trị” nhưng đều dẫn đến tình trạng “loạn các phiên”. Vì vậy, nhà nước ở phương Đông kể từ khi vua Tần ở Trung Quốc thống nhất và sử dụng xu hướng tập trung quyền lực chủ lực vào nhà vua. Hai phương thức sử dụng quyền lực cơ bản đó vẫn tồn tại cho đến hiện nay, và làm nền móng cho việc thành công hay thất bại tại mỗi thể chế đất nước.

Vận hành của Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ???

            Theo sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh, của toàn Đảng toàn dân và toàn quân, Việt giành được độc lập và thiết lập thể chế theo mô hình xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ngay từ khi nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập, quyền lực nhà nước đã luôn được thống nhất trong việc thực thi. Được nêu rõ nhất thông qua Nghị Quyết Quốc hội năm 2001 về việc sửa đổi, bổ sung của hiến pháp năm 1992 tại điều 2 khoản 3 như sau và cho đến Hiến pháp 2013 (hiện hành) cũng đề cập giá trị này tương tự:
            “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
trích [2]
            Vì sao quyền lực nhà nước thống nhất? Quyền lực nhà nước thống nhất ở cơ quan nào? Phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước như thế nào? Và có ưu, nhược điểm gì từ quyền lực thống nhất? Sau đây ta đi vào phân tích:

Về quyền lực nhà nước thống nhất:

            Theo lý thuyết, các công dân Việt Nam đều tin tưởng và ủy quyền cho Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, và nhà nước quản lý thực thi quyền lực mà nhân dân giao phó. Nhân dân là yếu tổ cốt lõi của quyền lực nhà nước thống nhất ở Việt Nam, cũng theo điều tại khoản 2 ghi: “ … tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức”. Nghĩa là, quyền lợi của các giai cấp trong xã hội mà đặc biệt là toàn thể nhân dân đều thực thể hiện chung và giao phó quyền lực này cho đảng và nhà nước. Vì vậy, quyền lực nhà nước buộc phải thống nhất. Và mọi nguyện vọng thay đổi của nhân dân về vấn đề sử dụng quyền lực nhà nước thông qua cơ chế bầu cử các đại biểu quốc hội, và thực hiện các quyền kiến nghị, khuyến nghị thông qua các cơ quan như hội đồng nhân dân và các tổ chức đoàn thể hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông, cổng thông tin chính phủ điện tử.
  Tựu trung lại, quyền lực nhà nước được thông nhất là do quyền lực nhân dân thống nhất, nhân dân chuyển quyền lực sang cơ quan đại diện đó là nhà nước để thực hiện sức mạnh của mình và cũng có thể khước bỏ quyền lực của nhà nước thông qua các cơ chế kiểm soát quyền lực.

Về cơ quan tập trung quyền lực:

            Quyền lực này được vận hành theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Vì vậy, cơ quan cao nhất tập trung quyền lực nhà nước đó là Đảng, cụ thể là Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng đóng vai trò lãnh đạo “làm việc đúng” (doing things right). Đảng chỉ đạo và hướng dẫn cơ quan quyền lực tại chính quyền nhà nước đó là Quốc hội, đóng vai trò quản lý “làm đúng việc” (doing right things). Không hẳn mọi vấn đề đều được phụ thuộc vào cơ quan có quyền lực cao nhất là Quốc hội, hai cơ quan quyền lực thực thi quyền lực đó là hành pháp – tư pháp luôn có sự độc lập tương đối, nhưng vẫn phải liên quan hữu cơ với nhau, được Quốc hội phân công nhiệm vụ, đó được gọi là phân quyền yếu.
Ở Mỹ, một quốc gia mà mọi người đều nghĩ là ba cơ quan lập pháp – hành pháp – tư pháp phải kìm chế và đối trọng nhau, mỗi cơ quan có quyền lực và một cơ quan quyết định một vấn đề sẽ không phụ thuộc vào hai cơ quan còn lại. Nhưng sự thật là không, ở Mỹ Đảng nào lên nắm quyền thì ắt hẳn sẽ chi phối toàn bộ ba cơ quan, đó là phương thức phân quyền cứng. Giờ bạn đã hiểu tại sao, ông Donal Trump xin ngân sách từ Quốc hội dù bị phản đối gay gắt nhưng vẫn Quốc hội liên bang vẫn phải chi tiền. Bởi vì, Đảng Cộng Hòa của Donal Trump chiếm đa số ghê tại Quốc hội và Quốc hội dù cho có phản đối, đưa ra luật gì đi nữa đều bị tổng thống phủ quyết hay đóng cửa chính phủ, đó đều chỉ là chiêu trò chính trị. Và nhánh tư pháp hiển nhiên sẽ chẳng quan tâm gì tới hai nhánh còn lại, việc của tòa án sự xét xử các vụ án trong nước mà thôi và người đứng đầu tòa án cũng được tuyển chọn kỹ lưỡng từ các đời Tổng thống (dù là cộng hòa hay dân chủ) đều chọn những vị chánh án có quan điểm ôn hòa. Nhưng ở Mỹ còn có đảng đối lập đều đó thể hiện rõ phương thức phân quyền cứng này.
Tóm lại, cơ quan tập trung quyền lực ở Việt Nam đó là Đảng và tại chính quyền nhà nước là Quốc hội, cả hai cơ quan luôn là “của dân, do dân, vì dân”. Vì vậy, nhân dân ủy quyền cho Đảng và Quốc hội để dẫn dắt đất nước đưa đất nước phát triển nhưng mọi hoạt động đều chịu sự kiểm soát của nhân dân.

Về phân công, phối hợp:

            Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo Hiến pháp năm 2013, bao gồm bộ " Tứ quyền" bao gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và các cơ quan tư pháp (Tòa án và Viện Kiểm sát nhân dân). Và quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
<i>nguồn ảnh: luat.tuvantinhoc.com</i>
nguồn ảnh: luat.tuvantinhoc.com
            Quốc hội có các chức năng cơ bản là lập pháp, lập hiến, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao với hoạt động của Nhà nước. Quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội, các cơ quan khác như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đều do Quốc hội lập ra, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội.
            “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.” (Điều 94 Hiến pháp năm 2013). Ta thấy, Quốc hội và Chính phủ gắn bó mật thiết với nhau để xây dựng, phát huy tối đa tiềm lực quốc gia.
            Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 1 Điều 104 Hiến pháp năm 2013). Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp (khoản 1,2 Điều 107 Hiến pháp 2013). Sự phân công, phối hợp hoạt động giữa hai cơ quan tư pháp này với Quốc hội giúp pháp luật phát huy quyền lực của nó trên thực tế.
            “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 86 Hiến pháp năm 2013). Chủ tịch nước là cơ quan đặc biệt, giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước. Quốc hội phải gắn kết chặt chẽ với Chủ tịch nước để thực hiện quyền lực của mình.
            Sự phân công, phối hợp thể hiện qua việc Quốc hội làm luật, làm hiến pháp và Chủ tịch nước công bố văn kiện, Chính phủ tổ chức thực thi, Tòa án và Viện Kiểm sát đảm bảo việc thực thi. Sau đây là dẫn chứng cụ thể của Quốc hội đối với từng cơ quan:
Quốc hội đối với Chính phủ:
Trong hoạt động tổ chức Chính phủ: Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định. Quốc hội có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chính phủ, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Nhiệm kì của Chính phủ theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì Chính phủ tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Trong hoạt động xây dựng pháp lập:  Chính phủ có nhiệm vụ trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Chính phủ có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, UBND, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Trong hoạt động kiểm tra giám sát: Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ, người bị chất vấn phải trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau hoặc gửi văn bản trả lời.
Trong hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước: Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công, phụ trách. Về hoạt động đối nội: Chính phủ có quyền trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt; trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Về hoạt động đối ngoại: Theo sự phê chuẩn của Quốc hội và sự uỷ quyền của Chủ tịch nước, Chính phủ tổ chức đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước; quyết định việc kí, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực các điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ.
Quốc hội đối với Chủ tịch nước:
Về tổ chức: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Nhiệm kỳ Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch nước (Điều 87 Hiến pháp năm 2013). Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội, các Đại biểu Quốc hội bầu ra Ủy ban thường vụ Quốc hội mới. Sau đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới, người trúng cử chức danh này phải được 2/3 tổng số Đại biểu Quốc hội bỏ phiếu tán thành. Quốc hội bãi, miễn nhiệm đối với Chủ tịch nước trong các trường hợp không còn đủ năng lực đảm nhiệm trọng trách của mình như mắc sai phạm làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia căn cứ vào các kết quả giám sát hay vì lý do sức khỏe mà không thể tại nhiệm (khoản 7 Điều 70 Hiến pháp năm 2013).
            Về hoạt động: Quốc hội quy định hoạt động của Chủ tịch nước. Quốc hội và Chủ tịch nước có quan hệ mật thiết trong lĩnh vực lập pháp. Mọi hoạt động của Chủ tịch nước phải tuân theo những điều, khoản được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan do Quốc hội ban hành. Theo khoản 1 Điều 88 Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước có nhiệm vụ công bố các văn bản Quốc hội  thông qua như Hiến pháp, luật, pháp lệnh… Chủ tịch nước phải công bố chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày văn bản pháp luật ấy được Quốc hội thông qua (Điều 91 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001). Với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Còn với pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua, Chủ tịch nước có quyền “đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước sẽ trình Quốc hội vào kỳ họp gần nhất” (theo khoản 1 Ðiều 88 Hiến pháp 2013). Trong trường hợp này nếu Quốc hội đồng ý nó sẽ được thông qua, còn không sẽ bị hủy bỏ. Đồng thời Quốc hội cũng có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (khoản 10 Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Khoản 2,3 Điều 88 Hiến pháp năm 2013). Chủ tịch nước có quyền trình các dự án luật trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 71 Tổ chức Quốc hội năm 2001) khi xét thấy cần thiết. Theo khoản 3, 5 Điều 88 Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội (hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội ở khoản 5) công bố quyết định đại xá; công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương. 
Quốc hội với hệ thống tư pháp:
Về tổ chức: Quốc hội quy định tổ chức, hoạt động và nhiệm vụ quyền hạn của 2 cơ quan. Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra, nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm; việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm 2 chức danh này cũng do Quốc hội quyết định (khoản 7 Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Sau khi được bầu, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp (khoản 7 Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Khi có đề nghị bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao của Chủ tịch nước thì Quốc hội sẽ xem xét phê chuẩn đề nghị đó (khoản 3 Điều 88 Hiến pháp năm 2013). Các quy định về bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Một số Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tổng số thành viên không được quá 17 người (Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002).
Về hoạt động: Để công tác xét xử có hiệu quả, Tòa án nhân dân tối cao trình Quốc hội dự án luật và Ủy ban thường vụ Quốc hội dự án pháp lệnh (khoản 1 Điều 84 Hiến pháp năm 2013) ví dụ như Luật tổ chức tòa án nhân dân, Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân… để Quốc hội kịp thời sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội (khoản 2 Điều 105 Hiến pháp năm 2013). Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải trả lời chất vấn, đáp ứng yêu cầu của đại biểu Quốc hội (khoản 1,2,3 Điều 80 Hiến pháp năm 2013). Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đưa một số kiểm sát viên vào Ủy ban kiểm sát viện kiểm sát nhân dân tối cao (điểm c khoản 1 Điều 32 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước (khoản 2 Điều 108 Hiến pháp năm 2013); trả lời chất vấn, đáp ứng yêu cầu của các đại biểu Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội (khoản 1,2,3 Điều 80 và khoản 1 Điều 77 Hiến pháp năm 2013). Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát hoạt động, đình chỉ việc thi hành văn bản của 2 cơ quan trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất (khoản 3, 4 Điều 74 Hiến pháp năm 2013). Theo khoản 10 Điều 70 và khoản 3, 4 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đăng Dung, (2017): Chính trị học đại cương, nxb ĐHQGHN.
[2] Hiến pháp nước Việt Nam (2013-1992-1959-1946), (2020), NXB Lao động.