[Dịch] Thiên Đỉnh Máu - Cormac McCarthy (Chương 4)
Lên đường với cướp viễn chinh - Sang miền đất lạ - Săn linh dương - Bệnh tả hoành hành - Bầy sói - Sửa xe ngựa - Sa mạc hoang vu -...

Nguồn: Wikipedia
IV
Lên đường với cướp viễn chinh - Sang miền đất lạ - Săn linh dương - Bệnh tả hoành hành - Bầy sói - Sửa xe ngựa - Sa mạc hoang vu - Bão đêm - Bọn hồn ma - Cầu nguyện mưa rơi - Căn nhà sa mạc - Lão già - Lãnh thổ mới - Ngôi làng bỏ không - Lũ chăn thú ở bình nguyên - Bị người Cô-măng-chê tấn công.
Năm ngày sau trên lưng ngựa của người chết cậu theo đoàn kị binh và đoàn xe ngựa qua quảng trường và rời xa thị trấn trên con lộ thoải về miền xuôi. Họ đi qua Castroville nơi linh cẩu đã đào lên xác chết và rải xương đây đó và họ băng qua sông Frio và họ băng qua Nueces và họ rời con lộ Presidio và đi về phía nam cùng đội trinh sát được điều động phía trước và phía sau. Họ băng qua del Norte khi đêm đến và lội ra khỏi đoạn sông cạn đầy cát vào nơi hoang dã đầy thú.
Rạng đông thấy họ bài binh thành dãy dài khắp thảo nguyên, đoàn xe gỗ khô đã rền rĩ, bầy ngựa khụt khịt. Tiếng thùi thụi của móng guốc và lách cách của đồ đạc và tiếng lẻng kẻng khẽ đều của yên cương. Ngoài việc thớt thưa bụi hoa trắng và cụm lê gai và mảng cỏ xoắn nhỏ thì nền đất thật trơ trọi và có non núi thấp phía nam và nó cũng trơ trọi. Sang phía tây chân trời nằm ngang và chuẩn như thước thuỷ bình.
Những ngày đầu họ không thấy thú, không thấy chim trừ kền kền. Họ thấy phía xa đàn cừu hay dê men dọc đường trời trong dải bụi và họ ăn thịt lừa hoang bị bắn ở bình nguyên. Gã trung sĩ mang theo trong bao bên yên ngựa súng trường Uết-xông nặng nề có đầu nòng giả và giấy quấn và dùng đạn hình nón. Bằng nó gã giết heo rừng nhỏ nơi sa mạc và rồi khi họ bắt đầu thấy đàn linh dương gã sẽ ngưng dưới ánh xế chiều với mặt trời xa lìa miền đất và vặn giá súng vào ren trong bên dưới nòng gã sẽ giết bầy thú nơi chúng gặm cỏ đằng xa cách nửa dặm. Khẩu súng mang thước ngắm véc-nê trên cổ báng và gã sẽ dõi nhìn phía xa và đo sức gió và chỉnh khe thước như một người dùng trắc vi kế. Gã binh nhất sẽ nằm chống khuỷu tay với ống nhòm và hô phát đạn cao hay thấp khi bắn trượt và xe ngựa sẽ đợi chờ đến khi gã bắn xong một bầy gồm ba hay bốn và rồi chạy rầm rập trên nền đất lạnh với toán lột da hích lẫn nhau và cười tươi rói trong sàn xe. Gã trung sĩ vẫn chưa nhấc súng lên song gã vẫn lau sạch và tra mỡ rãnh nòng.

Họ đi với quân cụ đầy đủ, mỗi người với cây súng trường và nhiều người với súng ngắn Côn họng nhỏ năm phát bắn. Viên đại uý mang cặp súng rồng trong bao đựng ở núm yên để cho chúng nằm bên mỗi đầu gối. Cặp súng ấy là mẫu Hợp chúng quốc, do Côn sáng chế, và ông đã mua chúng từ một đào binh tại chuồng ngựa thuê ở Soledad và trả lượng vàng tám mươi đô-la cho chúng và bao đựng và bộ khuôn đạn và bình thuốc súng đi kèm.
Súng trường đứa trẻ mang theo đã được cưa nòng và khoét rãnh đến khi nó thật sự nhẹ hơn và khuôn đạn cho nó quá nhỏ nên cậu đành bọc viên đạn bằng da hoẵng. Cậu đã khai hoả đôi lần và nó bắn trúng nơi nhắm tới. Nó đung đưa trước cậu trên đầu yên ngựa, vì không có bao súng. Nó từng được mang như vậy, qua biết bao năm tháng, và bên dưới báng trước đã mòn đi nhiều.
Khi chập tối xe ngựa quay về cùng mẻ thịt. Toán lột da đã chất lên sàn xe bụi đậu gai và gốc cây họ đã bứng khỏi lòng đất bằng sức ngựa và họ dỡ củi và tiến hành xẻ ra bầy linh dương bụng rỗng ở sàn xe bằng dao bu-qui và rìu nhỏ, cười lảnh và chặt mạnh trong đống máu me, cảnh tượng hôi hám dưới ánh đèn lồng cầm tay. Khi mịt trời những bẹ sườn ngả đen được hun trong lửa khói và có cuộc đấu thương trên đống than bằng que gọt nhọn xiên đầy thịt và bi-đông lách cách và lời giễu không ngơi. Và ngủ đêm đó trên bình nguyên giá lạnh xứ người, bốn mươi tư người đắp chăn dưới những vì sao như hệt, sói đồng cỏ giống nhau trong tiếng rên rỉ, vậy mà bốn phương lại quá đỗi khác xa và kì lạ.

Họ ngủ bù và lên đường mỗi ngày trong đêm trước khi ánh mai ló rạng và họ ăn thịt lạnh và bánh quy và không nhóm lửa. Mặt trời dâng trên đội quân một hàng đã bệ rạc sáu ngày qua. Trên y phục có chút tương đồng và trên nón mũ thì ít hơn. Bầy ngựa sơn nhỏ bước nhanh nhẹn và hùng hổ và lũ ruồi đáng sợ vo vo không dứt trong sàn xe chở thịt. Làn bụi đội quân tung lên chóng tan đi và biến mất giữa vẻ bao la của quang cảnh ấy và không còn làn bụi nào nữa vì một người da tái cấp nhu phẩm đuổi theo sau đánh xe trong vô hình với con ngựa thon và xe ngựa thon không in vết trên nơi ấy hay bất cứ nơi đâu. Bên ngàn ngọn lửa trong cảnh chiều lam sắt hắn mở cửa hàng và hắn là nhà buôn hay cười nhăn nhở có tài dõi theo mọi chiến dịch hoặc lùng bắt kẻ từ hang ổ chúng ngay trong các miền trắng mà chúng ẩn mình khỏi Chúa. Vào hôm ấy hai người ngã bệnh và một người chết trước khi trời tối. Đến sáng có thêm một người bệnh thế chỗ. Hai người ấy nằm giữa những bao đậu và gạo và cà phê trong xe ngựa tiếp hàng với tấm chăn phủ lên thân nhằm che nắng cho họ và họ đi với tiếng sầm và tiếng rít của xe ngựa dần làm thịt trên xương họ co rút khiến họ hét xin được bỏ mặc và rồi họ chết. Toán nam tập hợp khi trời còn tảng sáng để đào huyệt bằng xương vai của linh dương và vun đá lên xác người và lại đi tiếp.
Họ đi tiếp và mặt trời đằng đông ửng vệt sáng lờ mờ và rồi một mạch màu đậm hơn như máu rỉ lên chợt thành dải rộng bừng theo mặt phẳng và nơi nền đất bị hút lên cao tại bờ rìa kiến tạo thì đỉnh mặt trời dâng khỏi hư vô như đầu đại dương vật đỏ đến khi nó vượt qua mép cạnh vô hình và nằm bệt và đập rung và lộ vẻ hiểm ác sau lưng họ. Cái bóng những hòn đá con con trải như vạch bút chì trên mặt cát và dáng người dáng ngựa đi tới dài thêm trước mặt họ như sợi dây của màn đêm mà từ đó họ đã thoát thân, như xúc tu trói buộc họ vào cảnh tối tăm cận kề. Họ đi với mái đầu gục, khuất mặt sau chiếc mũ, như đoàn quân vừa ngủ say vừa tiến bước. Vào giữa sáng một người nữa đã ra đi và họ nhấc y khỏi xe ngựa nơi y vấy bẩn đống bao mà y đã nằm cạnh và cũng chôn cất y và đi tiếp.

Nay bầy sói đã bám theo họ, những con lớn lông xám nhạt với mắt vàng chạy lả lướt và ngồi bệt giữa hơi nóng ảo mờ để dõi nhìn họ ở nơi họ nghỉ trưa. Lại nhấc chân đi. Sải bước, lẻn bước, dạo bước với chiếc mũi dài gần chạm đất. Vào ban tối mắt chúng láo liên và chơm chớp đằng xa trên rìa ánh lửa và vào ban sáng khi đoàn kị binh rời nơi râm mát họ nghe được tiếng gầm gừ và côm cốp từ miệng chúng sau lưng họ đoạn họ lùng sục căn lều để tìm thịt dư.
Xe ngựa khô quắt đến nỗi chúng trượt bên nọ bên kia như chó và cát bụi đang bào mòn chúng. Bánh xe lún và căm bánh lay trong ổ trục và lạch cạch như khung cửi và về đêm họ dùng căm giả đóng vào mộng gỗ và buộc chặt chúng bằng mảnh da úa màu và họ chèn nêm vào giữa viền sắt vỏ bánh và vành bánh nứt nẻ. Chúng đi lảo đảo, in dấu những nỗ lực viển vông như vết rắn chuông bò trên cát. Chốt bánh long dần và rơi lại phía sau. Bánh xe bắt đầu gãy vỡ.
Mười ngày trôi qua với bốn người chết họ tiến bước qua bình nguyên chỉ toàn đá nổi mà không có bụi cây, không có bụi cỏ, xa ngút tầm nhìn. Viên đại uý lệnh dừng bước và gọi gã Mễ có vai trò dẫn lối. Họ nói và gã Mễ chỉ tay và viên đại uý chỉ tay và một hồi sau họ lại đi tiếp.
Chỗ này trông như đường dẫn về cõi chết, là lời một người trong hàng ngũ.
Ông ấy tính cho bầy ngựa ăn gì đây?
Dám chắc chúng buộc phải nuốt đống cát này như gà và sẵn sàng ăn hạt ngô không sớm thì muộn.
Trong hai ngày họ bắt đầu trông thấy cốt hài và y phục vất vơ. Họ thấy bộ xương những con la bị vùi phân nửa với xương trắng và sạch đến nỗi chúng dường như sáng rỡ ngay cả trong hơi nóng rừng rực và họ thấy túi đựng và yên thồ và cốt hài người chết và họ thấy con la toàn thây, xác khô héo và thâm đen cứng như khối sắt. Họ đi tiếp. Ánh trưa trắng thấy họ qua bãi trống như đội quân ma, bệch ra do lớp bụi dày, như hình người bị xoá trên nền bảng. Bầy sói bệch hơn khi sải bước và tụm lại và rảo chân và vểnh mõm thon lên bầu trời. Về đêm đàn ngựa được cho ăn từ bao thực phẩm và cho uống nước từ xô. Không còn ai ngã bệnh. Toán sống sót nằm im ở lòng chảo rỗng ấy và ngắm vì sao hừng trắng vụt xoáy trong đêm. Hay ngủ với con tim xa lạ đập rung trong cát như kẻ hành hương kiệt sức trên bề mặt thiên thể Anareta, bấu vào một vật vô danh quay tròn trong cõi tối. Họ đi tiếp và khung sắt bánh xe ngựa dần nhẵn bóng sáng như crom trong đá nổi. Sang phía nam mạch núi màu lam vững chãi trút ảnh mờ hơn lên mặt cát như hình phản xạ trong hồ nước và nay không còn sói nữa.

Họ bắt đầu quen việc cưỡi ngựa về đêm, lặng im trên lộ trình gian khổ ngoại trừ tiếng bánh lăn của xe và tiếng mũi nghẹt của thú. Dưới ánh trăng một nhóm già nua kì quái với bụi trắng rợp râu mép và đôi mày. Họ đi tiếp và chòm sao lấn nhau và vẽ cung khắp trên vòm trời và lịm tắt bên kia non núi màu đen mực. Họ dần biết rõ bầu trời đêm. Con mắt phương tây am hiểu các phép dựng hình hơn tên gọi được người cổ đại ban cho. Ràng buộc vào Bắc Đẩu họ đi quanh Đại Hùng còn Lạp Hộ dâng ở miền tây nam như cánh diều điện to lớn. Cát ngả màu lam dưới ánh trăng và vỏ bánh sắt xe ngựa lăn giữa dáng hình đoàn kị binh thành những vòng lấp loé đi chếch và xoay tròn vẻ tổn hại và khó tả điều hướng như trắc tinh kế mỏng manh và móng ngựa ánh kim cứ mãi nhịp đều như ngàn ánh mắt nhay nháy khắp nền sa mạc. Họ ngắm cơn dông quá đỗi xa vời nên không ai nghe được chúng, tia sét lặng yên rực lên thành mảng và sống mỏng đen của rặng núi run rẩy và lại bị hút vào trong cõi tối. Họ thấy ngựa hoang vụt chạy ở bình nguyên, dậm bóng đen xuống cảnh khuya vắng và để lại dưới ánh trăng làn bụi hư ảo như vết nhơ mờ nhất khi chúng lướt qua.
Cả đêm cơn gió thổi và bụi mịn khiến họ cắn răng cam chịu. Cát ở trong mọi vật, bám vào thứ họ ăn. Lúc tinh sương mặt trời màu nước tiểu uể oải dâng qua làn bụi trên một thế gian mơ hồ và phẳng lặng. Bầy thú đang gục ngã. Họ dừng bước và lập trại hoang không gỗ hay nước và bầy ngựa tơ tội nghiệp túm tụm và ư ử như chó.
Đêm ấy họ đi qua một vùng điện toả và hoang vu mà hình kì lạ của lửa lam dịu ran khắp phần ánh kim trên trang sức ngựa và bánh xe lăn thành vòng lửa và hình bé nhỏ của ánh lam mờ hắt lên tai bầy ngựa và râu toán lính. Về đêm sét nhiệt rung chuyển ở nơi vô định phía tây bên kia tầng mây vũ tích đêm khuya, nhuộm sắc lam ban ngày lên miền sa mạc xa xôi, núi non trên đường trời chợt hiện thì bệ vệ và tối tăm và hung hãn như vùng đất theo trật tự nào đấy với địa chất thực không phải đá tự nhiên mà là sự sợ hãi. Cơn sấm lại gần từ phía tây nam và tia sét thắp sáng miền sa mạc vây quanh họ, xanh lam và xơ xác, dải rộng rền vang lộ diện từ màn đêm thăm thẳm như xứ ác quỉ được triệu lên hay chốn tiểu yêu mà mai đây sẽ không còn dấu vết hay khói mờ hay tàn tích nào hơn bất kì phiền mộng dành cho họ.
Họ dừng bước giữa trời đêm để chăm lo bầy thú và vài người lính xếp vũ khí gọn gàng trong xe ngựa vì sợ sét đánh và người có tên Hayward cầu nguyện mưa rơi.
Hắn cầu nguyện: Thưa Chúa Toàn năng, nếu mọi sự không vượt quá kế hoạch vĩnh cửu của ngài thì ngài có nghĩ chúng con nên được ban ít mưa không.
Cầu nguyện to lên, ai đó kêu, và vừa khuỵu gối hắn hô vang giữa cơn sấm và cơn gió: Chúa ơi dưới đây chúng con như thịt khô rồi. Xin ngài hãy ban ít mưa vì những cậu bạn nơi dây và xa cách quê hương.
A-men, họ nói, và trèo lên ngựa rồi họ đi tiếp.
Chưa đầy một tiếng cơn gió lạnh dần và những hạt mưa to như đạn chùm rơi trên người họ từ bóng tối hoang dã nơi ấy. Họ ngửi được mùi đá ướt và mùi hăng của bầy ngựa ướt và dạ thuộc ướt. Họ đi tiếp.
Họ đi trong hơi nóng ban ngày cùng với thùng nước rỗng không và bầy ngựa kiệt sức và trong đêm tối những kẻ được chọn, tiều tuỵ và trắng vì bụi như đại đội thợ xay cưỡi ngựa cầm súng đang vật vờ vì mất trí, đi lên khỏi miền sa mạc qua khe hở giữa những đồi đá thấp và xuống một ha-can biệt lập, căn chòi thô kệch bằng bùn và liếp và một chuồng ngựa đơn sơ và những bãi quây.

Các cọc xương cắm ranh trên khu lân cận nhỏ bé và đầy bụi và sự chết dường như là đặc điểm bao trùm quang cảnh ấy. Hàng rào kì quái mà gió cát đã bào mòn và ánh nắng gột màu và gây nứt như đồ sứ cổ mang vết nứt nâu khô do tiết trời và ở nơi vắng sự sống. Hình gợn sóng của đoàn kị binh đi leng keng qua miền đất khô nâu thẫm và qua mặt tiền bùn của ha-can, bầy ngựa run run, ngửi ngửi dòng nước. Viên đại uý giơ tay lên và gã trung sĩ cất lời và hai người xuống ngựa và đi tới căn chòi với súng trường trên tay. Họ đẩy cánh cửa da sống và tiến vào. Một vài phút sau họ lại hiện ra.
Có người ở quanh đây. Than còn nóng.
Viên đại uý quan sát phương xa với vẻ ngoài thận trọng. Ông bước xuống kèm vẻ điềm đạm của người đã quen đương đầu với nỗi bất lực và băng qua phía ha-can. Khi ông bước ra ông quan sát địa hình lần nữa. Bầy ngựa cựa thân và leng keng và giậm guốc và quân binh kéo hàm chúng xuống và rầy la chúng.
Trung sĩ.
Dạ.
Đám người này không ở xa đâu. Thử đi tìm xem sao. Và thử tìm xem nơi đây có thức ăn cho gia súc hay không.
Thức ăn gia súc?
Thức ăn gia súc.
Gã trung sĩ đặt một tay lên đuôi yên và nhìn quanh nơi họ đang đứng và lắc đầu và xuống ngựa.
Họ đi qua ha-can và vào trong đất rào ở đằng sau và ra chuồng ngựa. Nơi ấy không có thú vật và chẳng gì ngoài một ngăn chuồng với cỏ xô-tôi nửa đầy trong máng ăn. Họ bước ra sau chuồng về phía một hốc nhiều đá đắp quanh mà nước đọng lại và một dòng nhỏ chảy qua mặt cát. Có dấu móng guốc quanh cái bể và bãi phân khô và bầy chim nhỏ cắm đầu chạy dọc theo rìa con lạch ti tí.
Gã trung sĩ vẫn đang ngồi chồm hỗm và nay gã đứng lên và nhổ nước bọt. Sao rồi, gã nói. Có hướng nào các anh không thấy được hai mươi dặm?
Toán tân binh ngắm nhìn tứ bề hiu quạnh.
Tôi chẳng nghĩ mấy người sống ở đây đi lâu đến thế.
Họ uống nước và quay về phía ha-can. Bầy ngựa được dắt dọc theo con đường hẹp.
Viên đại uý vừa đứng vừa móc ngón cái vào thắt lưng.
Tôi không biết họ đã đi đâu, là lời của gã trung sĩ.
Trong nhà có gì.
Cỏ khô để lâu ngày.
Viên đại uý cau mày. Đáng lẽ là phải có dê hay heo chứ. Phải có gì chứ. Gà qué.
Một vài phút sau có hai người vừa đi vừa kéo một lão già khỏi chuồng ngựa. Lão dính đầy bụi và trấu khô và lão lấy một tay chắn ngang mắt. Lão rên rỉ trên đường lại gần chân viên đại uý nơi lão nằm bẹp trên thứ trông như guồng bông vải trắng. Lão lấy tay che lỗ tai và để khuỷu tay trước mặt lão như một kẻ được yêu cầu chứng kiến cảnh hãi kinh nào đấy. Viên đại uý quay đi vì thấy tởm. Gã trung sĩ nhấn mũi ủng vào lão. Lão bị sao vậy? gã nói.
Lão đang vãi ra kìa, Trung sĩ. Lão đang vãi ra kìa. Viên đại uý dùng tay đeo găng ra hiệu cho gã.
Dạ.
Thì đem lão rời đây ngay.
Ngài muốn Candelario nói chuyện với lão?
Lão còn tỉnh đâu. Đem lão đi khuất mắt tôi.
Họ lôi lão đi. Lão bắt đầu lẩm bẩm nhưng không ai nghe và khi trời sáng lão đã biến mất.
Họ dựng trại không lều bên cái bể và thợ đóng móng săn sóc bầy la và ngựa tơ đã mất đi bộ móng và họ làm trên xe ngựa bên ánh lửa đến tận đêm khuya. Họ khởi hành dưới ánh rạng đông đỏ thắm ở nơi bầu trời và mặt đất ráp thành nền phẳng sắc cạnh. Đằng xa quần đảo mây mù nho nhỏ và thế gian lớn rộng gồm cát và cỏ rạch lên cõi không vô bờ nơi những hòn đảo lam run rẩy và mặt đất hoá bấp bênh, nghiêng lệch nặng nề và chếch qua từng lớp hồng phơn phớt và bóng tối phía sau ánh rạng đông đến ranh giới xa xăm nơi vũ trụ.
Họ đi qua những vùng gồm đá muôn sắc nhô lên từ vết cưa lởm chởm và tầng đá tráp trồi ra từ các phay đứt gãy và những nếp lồi cuộn lên nhau và bị vỡ rời như gốc cây đá đại thụ và hòn đá mà tia sét đã chia tách, mạch thấm bùng lên hơi nước do cơn bão xa xưa. Họ đi qua dải đá tráp trên lớp đá nâu chạy dài xuống đỉnh hẹp của rặng núi và tới bình nguyên như tàn tích của bức tường xưa cổ, điềm báo hiện hữu khắp nơi về dấu tay con người thuở vắng con người hay dạng sống khác.

Họ băng qua một ngôi làng ngày ấy và nay hoá tan hoang và họ dựng trại sau vách nhà thờ cao đắp bùn và ném vào ngọn lửa mẩu gỗ rơi khỏi mái nhà khi chim cú đang kêu vang ở khung vòm tăm tối.
Ngày tiếp theo trên đường trời phía nam họ thấy làn mây bụi trải dài khắp mặt đất hàng dặm. Họ đi tiếp, ngắm nhìn làn bụi đến khi nó lại gần và viên đại uý giơ tay lệnh dừng bước và lấy ra khỏi túi yên ống nhòm kị binh bằng đồng cũ và tháo đoạn thừa và lia chầm chậm qua miền đất. Gã trung sĩ cho ngựa mình đứng bên ông ấy và sau một thời gian viên đại uý đưa gã ống nhòm.
Đàn thú trông ghê đấy.
Tôi tin chúng là ngựa.
Từ đây tới đó thì bao xa?
Khó biết lắm ngài.
Gọi Candelario lại đây.
Gã trung sĩ xoay thân và ngoắt ngoắt tên Mễ. Khi hắn lại gần gã đưa hắn ống nhòm và tên Mễ đưa nó lên mắt và nheo lại. Rồi hắn hạ ống nhòm và quan sát bằng mắt trần và rồi hắn đưa nó lên và nhìn lần nữa. Rồi hắn lên ngựa với ống nhòm trước ngực như cây thập tự.
Sao rồi? là lời của viên đại uý.
Hắn lắc đầu.
Như thế nghĩa là sao? Có phải bò hay không?
Thưa không. Tôi nghĩ chắc là ngựa.
Đưa tôi ống nhòm.
Tên Mễ đưa ông ấy ống nhòm và ông soi chân trời lần nữa và xếp ống lại bằng gót bàn tay và cất nó vào trong túi và giơ tay lên và họ đi tiếp.
Chúng là gia súc, la và ngựa. Có vài ngàn con và chúng đang di chuyển theo góc vuông về phía đại đội. Lúc xế chiều đoàn kị binh hiện ra trước mắt trần, một đám da đỏ tả tơi đang chăn dắt mạn ngoài cùng của đàn thú bằng ngựa tơ lanh lẹ. Vài tên đội nón, chắc là dân Mễ. Gã trung sĩ theo sau còn viên đại uý thì tiến tới.
Ông nghĩ bọn chúng là ai, thưa Đại uý?
Hẳn là lũ nghịch đạo chuyên trộm gia súc. Còn anh thì sao?
Tôi cũng thấy giống vậy.
Viên đại uý dõi nhìn qua ống nhòm. Tôi cho rằng chúng đã thấy quân ta, ông ấy nói.
Chúng đã thấy quân ta.
Có bao nhiêu kẻ trên lưng ngựa?
Chắc là một tá.
Viên đại uý vỗ lên món vật trong bàn tay đeo găng. Có vẻ chúng chả quan tâm nhỉ?
Thưa ngài, đúng vậy.
Viên đại uý mỉm cười khinh bỉ. Biết đâu ta sẽ có trò vui nho nhỏ trước khi ngày tàn.
Con đầu đàn bắt đầu chạy ngang qua tạo nên một lớp bụi vàng, gia súc ốm trơ xương với cặp sừng mọc xiêu vẹo và chúng đều khác biệt và những con la nhỏ gầy màu than hích vai nhau và tựa mái đầu vồ lên tấm lưng con khác và rồi thêm gia súc và rốt cuộc kẻ đầu tiên trong lũ chăn dắt đi tới phía ngoài cùng và đang để đàn thú chắn ngang chúng và đại đội kị binh. Đằng sau chúng là một đàn ngựa tơ vài trăm con. Gã trung sĩ ngó tìm Candelario. Gã vẫn lùi dần dọc theo hàng ngũ nhưng gã không tìm ra hắn. Gã thúc ngựa đi qua đội hình hàng dọc và về phía xa. Kẻ cuối cùng lùa gia súc nay đang tiến qua làn bụi và viên đại uý đang ra hiệu và hét lớn. Bầy ngựa tơ đã lần lần rời bỏ đàn thú và lũ lùa gia súc đang mở đường thẳng tới đại đội vũ trang gặp ở bình nguyên. Ta đã có thể nhìn thấy qua lớp bụi trên da ngựa tơ hình sơn dích dắc và dấu tay và mặt trời dâng và chim chóc và cá theo mọi kiểu tượng trưng như hoạ phẩm phai màu trên nền vải bạt và nay ta cũng có thể nghe thấy bên trên tiếng nện guốc trần và tiếng thổi quê-na, ống sáo từ xương người, và một số trong đại đội đã bắt đầu giật ngược dây cương và một số đi trong hỗn loạn khi ở bên sườn phải ngựa tơ rồi trèo lên ngồi thẳng là lũ người tưởng tượng cầm giáo và cung mang tấm khiên khảm kính vỡ chiếu vạn tia nắng rời rạc trước đôi mắt kẻ thù. Một đám quân khủng khiếp, trăm kẻ trong đội hình, bán loã thân hay vận y phục cổ đại hay đầy thánh tính hay vá khâu từ trong quái mộng với lớp da thú và lụa đắt tiền và mẫu đồng phục còn dính máu người chủ cũ, bành tô của kị binh rồng tử trận, áo khoác dây bện trang trí của lính ngựa, một kẻ đội mũ chóp cao và một kẻ cầm chiếc ô và một kẻ mang vớ trắng và mạng voan nhuộm máu và vài kẻ đội mũ đính lông sếu hay mũ giáp da thuộc gắn sừng bò hay trâu và một kẻ vận ngược áo đuôi chim và loã thân dưới lớp áo và một kẻ mang giáp của Chinh phục Tướng công, giáp ngực và giáp vai lõm sâu do nhát đánh xưa của chuỳ hay kiếm từ xứ sở khác bởi người mà cốt xương đã biến thành bụi và nhiều kẻ tết bím tóc cùng chòm lông loài thú khác đến khi chúng lê trên mặt đất và cưỡi ngựa tai và đuôi mang mẩu vải sáng màu và một kẻ cưỡi ngựa đầu rực nước sơn đỏ và thảy gương mặt chúng bật vẻ loè loẹt và gớm ghiếc với màu bôi như đại đội hề trên lưng thú, cái chết trông nực cười, thảy đều hú lên thứ tiếng man rợ và rầm rập lao tới như một lũ từ địa ngục còn khủng khiếp hơn cái xứ diêm sinh mà con người đền tội, rít vang và hét vang và khoác lên làn khói như sinh vật hư ảo trong những cõi vượt quá sự am tường nơi mà đôi mắt đảo quanh và cái môi giật run và nhỏ dãi.

Chúa ơi, là lời của gã trung sĩ.
Một trận bão tên lao vút qua đại đội và quân lính lảo đảo và ngã khỏi thú cưỡi. Ngựa đang chồm lên và nhào xuống và lũ người Mông Cổ vung cao bên mạn sườn họ và quay sang và cầm giáo phi nước đại thẳng vào họ.
Đại đội nay đã chững bước và phát súng đầu vọng lên và khói súng xám cuộn qua bụi mù đoạn bọn cầm giáo chọc xuyên hàng ngũ họ. Con ngựa đứa trẻ sụp xuống kèm tiếng thở hồng hộc. Cậu đã khai hoả súng trường và nay cậu ngồi trên mặt đất và lần mò túi đạn. Một người gần cậu ngồi với mũi tên thòi ra cổ. Hắn khẽ gập thân như đang khẩn cầu. Lẽ ra đứa trẻ đã vươn tới đầu tên sắt rướm máu nhưng rồi cậu thấy hắn bị mũi tên khác cắm xuyên qua ngực và hắn đã chết. Khắp nơi có ngựa gục ngã và người bò lết và cậu thấy người ngồi nạp đạn súng trường khi máu đang chảy khỏi tai và cậu thấy người với súng lục tháo rời cố lắp ổ đạn dư mà họ mang theo và cậu thấy người khuỵu gối đang ngả nghiêng và nằm rạp trên đất và cậu thấy người bị xiên và bị nắm tóc và bị lột da đầu trong thế đứng và cậu thấy đàn chiến mã giày xéo người tử trận và con ngựa tơ nhỏ mặt trắng với con mắt mờ đục ngả ra khỏi chốn âm u và táp hắn như con chó và biến mất. Giữa nhóm bị thương vài người trông đờ đẫn và ngẩn ngơ và vài người tái xanh qua lớp mặt nạ bụi và một số đã bĩnh ra quần hay đi loạng choạng trước đầu giáo của những kẻ bạo tàn. Nay trong bức phù điêu hỗn loạn về bầy ngựa chạy ào ạt với mắt mở và răng chờm và những kẻ loã thân cắn bó tên và mang tấm khiên lấp loá trong làn bụi và ở tận góc xa của hàng ngũ tan tác giữa tiếng sáo bằng xương và thả mình bên sườn ngựa với một gót chân mắc vào dây nịt yên và cây cung ngắn căng ra bên dưới phần cổ rướn của bầy ngựa tơ đến khi chúng vây quanh đại đội và xẻ hàng ngũ họ làm hai và rồi lại trèo lên như quái nhân nhà hề, những kẻ với bộ mặt kinh hãi vẽ trên ngực, phi thẳng vào toán Xắc-xông mất ngựa và xiên và đập họ và cầm dao bật khỏi lưng thú cưỡi và chạy trên nền đất bằng kiểu nhón chân vòng kiềng dị hợm như sinh vật bị ép mang dáng đi lạ lẫm và lột hết áo quần xác chết và túm tóc và cứa dao quanh hộp sọ người sống lẫn người chết và giật lên bộ tóc giả đẫm máu và chém và chặt đứt cơ thể loã lồ, kéo ra tứ chi, cái đầu, moi móc thân trắng kì lạ và cầm lấy cái đống ruột gan, cơ quan sinh dục, vài kẻ bạo tàn bết máu đến nỗi có khi chúng đã lăn lộn như loài chó và vài kẻ sà vào người hấp hối và làm trò kê gian với tiếng reo hò về phía đồng loại. Và nay bầy ngựa của người chết bước ra từ làn khói và làn bụi và vòng quanh với da thuộc phấp phới và bờm rối tung và mắt trắng ra vì sợ như mắt kẻ mù loà và vài con đầy dẫy mũi tên và vài con bị xiên và vấp chân và hộc máu đoạn chúng ngã lăn qua bãi tàn sát và lại khuất khỏi tầm nhìn. Bụi đắp lên đầu trần ướt đẫm của người bị lột còn tóc mái bên dưới nhát dao và bị cứa đến xương nay nằm như tu sĩ tàn tật và loã lồ trong lớp bụi đẫm máu và ở muôn nơi người giãy chết rên rỉ và lắp bắp và bầy ngựa nằm kêu thét.
(hết chương 4)

Sáng tác
/sang-tac
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất