Cứ mỗi lần cô bé 8 tuổi Haruyo Nihei ngoảnh đầu lại, mọi thứ cô nhìn thấy đều đang cháy. Bom cháy của Mỹ dội xuống đã biến thành một cơn lốc lửa dữ dội đến mức đủ sức hút đồ đạc, thậm chí là con người, từ nhà dân rồi ném xuống đường.
Không ảnh chụp quận Ningyōchō của Nihonbashi, Tokyo, bị thiêu rụi sau đợt ném bom cháy ngày 10/3/1945 (Chiến dịch Meetinghouse)
Không ảnh chụp quận Ningyōchō của Nihonbashi, Tokyo, bị thiêu rụi sau đợt ném bom cháy ngày 10/3/1945 (Chiến dịch Meetinghouse)
Một bản đồ cho thấy những phần của Tokyo bị phá huy sau WWII. Phần bị cháy được tô đen
Một bản đồ cho thấy những phần của Tokyo bị phá huy sau WWII. Phần bị cháy được tô đen
Cô bé Nihei ấy, giờ đã 83 tuổi, nhớ lại: “Ngọn lửa thiêu rụi mọi thứ, biến chúng thành những quả cầu lửa”. Nihei đang say giấc ngủ khi cơn mưa bom bắt đầu dội xuống Tokyo, lúc đó là thành phố chủ yếu với những căn nhà bằng gỗ, khiến cô phải chạy trốn khỏi ngôi nhà cùng với cha mẹ, anh em.
Khi cô bé chạy xuống đường, những cơn gió nóng đến nỗi chiếc áo chống lửa của cô bé cũng cháy. Cô nhanh chóng buông tay cha để ném chiếc áo đi. Ngay lúc đó, anh cô bị cuốn vào dòng người đang cố gắng trốn thoát. Khi ngọn lửa đến gần, Nihei đang ở giữa một ngã tư của Tokyo, hét lên trong hoảng loạn cố gắng tìm cha. Một người lạ mặt cố gắng ôm lấy cô bé để tránh ngọn lửa. Ngày càng nhiều người dồn đến ngã tư, cô bé đị xô ngã xuống đất.
Cô bé cứ ngất đi rồi tỉnh lại trong dòng người đó, cô nhỡ như in những giọng nói như bị bóp nghẹt: “Chúng ta là người Nhật. Chúng ta phải sống”. Cuối cùng, những tiếng nói đó nhỏ dần rồi tan biến.
Khi Nihei được lôi ra khỏi đống người đó, cô thấy cơ thể mình lấm lem. Người lạ che chở cho cô chính là người cha. Sauk hi bị ngã xuống đất, họ lại may mắn được những người ở trên che chở khỏi ngọn lửa, những người đã trở thành tro bụi.
Đó là ký ức kinh hoàng của bà Nihei về buổi sáng 10/3/1945, và bà là một trong những người hiếm hoi sống sót trong trận đánh bom kinh hoàng nhất lịch sử nhân loại.
Khoảng 80 nghìn đến 130 nghìn người Nhật đã thiệt mạng và hơn một triệu người khác bị thương, hầu hết là dân thường, khi 325 máy bay ném bom B-29 (279 đến được mục tiêu) của Mỹ đã thả 1.500 tấn bom vào thủ đô Nhật Bản vào tối hôm đó. hơn 267 nghìn ngôi nhà đã bị thiêu rụi.
Hỏa ngục do cơn mưa bom gây ra biến 16 dặm vuông (41 km2) (10 nghìn mẫu Anh) thủ đô Tokyo biến thành tro bụi. Theo ước tính, một triệu người trở thành vô gia cư. Theo báo cáo của Bộ Năng lượng Mỹ, số người thiệt mạng trong vụ đánh bom này thậm chí còn vượt qua vụ đánh bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki cuối năm 1945, lần lượt là 70.000 và 46.000 người.
Tokyo đang bốc cháy ngày 26/5/1945 sau khi bị B-29 ném bom
Tokyo đang bốc cháy ngày 26/5/1945 sau khi bị B-29 ném bom
So sánh Tokyo trước và sau Vụ Không Kích
So sánh Tokyo trước và sau Vụ Không Kích

Màn chào sân của B-29

Nỗi kinh hoàng mà Nihei nhìn thấy đêm hôm đó là kết quả của Chiến dịch Meetinghouse, vụ kinh hoàng nhất trong một loạt các cuộc không kích nhằm vào Tokyo của Không quân Mỹ, giữa tháng 2 và tháng 5/1945. Tướng Curtis LeMay, chỉ huy lực lượng máy bay ném bom Mỹ ở Thái Bình Dương, đóng vai trò đầu tàu trong những vụ tấn công này. LeMay sau đó đã phát động cuộc không kích vào Triều Tiên và Việt Nam và ủng hộ ý tưởng về một cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu chống lại Nga trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba vào tháng 10-1962.
Vụ tấn công là màn chào sân của siêu pháo đài bay B-29 của Mỹ, thứ vũ khí được coi là vượt trội hơn bất kỳ loại máy bay ném bom nào thời bấy giờ
Vụ tấn công là màn chào sân của siêu pháo đài bay B-29 của Mỹ, thứ vũ khí được coi là vượt trội hơn bất kỳ loại máy bay ném bom nào thời bấy giờ
Mặc dù Tổng thống Mỹ đương thời Franklin Roosevelt đã gửi thông điệp tới tất cả các nước tham chiến cảnh báo kêu gọi họ kiềm chế “sự man rợ vô nhân đạo” của việc đánh bom nhằm vào dân chúng khi chiến tranh bùng nổ ở châu Âu vào năm 1939, và đến năm 1945, chính sách này đã thay đổi.
Sau cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng vào ngày 7/12/1941, Mỹ đã quyết tâm trả đũa. Đến năm 1942, đế chế Nhật Bản ở Thái Bình Dương đang ở thời kỳ mạnh nhất. Các nhà hoạch định chiến tranh Mỹ đã đưa ra một danh sách mục tiêu có lợi cho Tokyo cần xóa sạch, từ căn cứ máy bay đến các nhà máy sản xuất ổ bi.
Nhưng để thực hiện kế hoạch của mình, Mỹ cần các căn cứ không quân trong phạm vi các đảo chính của Nhật Bản. Với cuộc xâm chiếm đảo Guadalcanal ở Nam Thái Bình Dương vào tháng 8/1942, Mỹ bắt đầu giành được đất cho mục đích đó, tiếp tục sứ mệnh đó bằng cách chọn các đảo Saipan, Tinian và đảo Guam vào năm 1944.
Với cú hattrick trong tay, Mỹ có các lãnh thổ cần thiết để xây dựng sân bay cho máy bay ném bom hạng nặng mới, hiện đại nhất của họ, B-29.
Ban đầu được thiết kế để tấn công Đức Quốc xã từ lục địa Mỹ trong trường hợp Anh rơi vào tay lực lượng của Hitler, B-29 với khả năng bay nhanh và cao và với lượng bom lớn, là vũ khí lý tưởng để gây chiến với Nhật Bản.
Máy bay ném bom này là đỉnh cao của 20 năm tiến bộ hàng không dẫn đến Thế chiến II và là chiếc đầu tiên có thân máy bay được điều áp, làm nóng, cho phép chúng hoạt động trên 5,4 km mà phi hành đoàn không cần phải trang bị đặc biệt hoặc sử dụng mặt nạ oxy. Điều này khiến B-29 vượt qua khỏi tầm bắn của hầu hết các loại súng phòng không và có đủ thời gian trước khi các máy bay chiến đấu có thể vươn đến chúng, theo Jeremy Kinney, chuyên gia tại bảo tàng Không quân và Vũ trụ Smithsonian, tại Virginia, Mỹ. 
“Siêu pháo đài bay B-29 là công nghệ tiên tiến nhất thế giới thời bấy giờ và các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ đã sẵn sàng để tấn công Nhật Bản với máy bay này”, Kinney cho biết.
Tuy vậy, các cuộc tấn công sớm của B-29 nhằm vào Nhật Bản bị coi là thất bại. Các máy bay đã rải bom từ độ cao lớn - khoảng 9,1 km – độ cao máy bay có thể hoạt động, nhưng chỉ có 20% trúng mục tiêu. Các phi hành đoàn Mỹ đổ lỗi cho tầm nhìn kém trong thời tiết xấu và cho biết những cơn gió mạnh do máy bay phản lực thường đẩy bom ra khỏi mục tiêu khi chúng rơi xuống.
LeMay được giao nhiệm vụ tìm cách để khắc phục. Câu trả lời của LeMay quyết liệt đến nỗi nó thậm chí còn gây sốc cho các phi hành đoàn sẽ thực hiện các cuộc không kích.
Những chiếc B-29 sẽ bay thấp - ở mức 1,5 đến 2,4 km - vào ban đêm. Đáng chú ý nhất, họ sẽ sử dụng bom cháy, được thiết kế để thiêu rụi thành phố Tokyo với hàng nghìn ngôi nhà bằng gỗ. Bom cháy sẽ có hiệu quả hơn khi biến người và cả công trình thành tro bụi trong khi bom bình thường thả vào không có mấy tác dụng
Khi được thông báo về nhiệm vụ, nhiều trong số hơn 3.000 phi công của Quân đội đã phản ứng với sự hoài nghi.
Tướng LeMay thậm chí còn ra lệnh cho gỡ bỏ hết những vũ khí phòng thủ để B-29 mang được nhiều bom napalm hơn. Tướng LeMay sau đó đã thừa nhận sự tàn bạo của trận bom napalm.
Lúc đó, giết chết nhiều người Nhật không khiến tôi cảm thấy hối hận... Tôi còn nghĩ rằng nếu thua trận, cùng lắm tôi sẽ bị đem ra xét xử như một tội phạm chiến tranh
James Bowman, con trai của một binh sĩ tham gia cuộc đột kích B-29, viết trong một tạp chí được tổng hợp từ hồ sơ của các đơn vị liên quan:
Hầu hết những người rời khỏi phòng họp ngày hôm đó đã bị thuyết phục bởi hai điều: một, LeMay thực sự là một kẻ điên, và hai, nhiều người trong số họ sẽ không thể sống để biết được ngày hôm sau thế nào

Khi lửa đến từ bầu trời

Vào tối 9-3-1945, từ các sân bay trên đảo Saipan, Tinian và Guam, những chiếc B-29 bắt đầu rời khỏi căn cứ cho chuyến đi kéo dài 7 tiếng, dài 2.400 km đến Nhật Bản.
Sáng sớm 10-3, khi người dân Nhật Bản vẫn còn say giấc ngủ trong những ngôi nhà gỗ, những chiếc máy bay ném bom đầu tiên ở Tokyo đã bắt đầu dội bom lửa xuống Tokyo, theo Robert Bigelow, một phi công B-29 kể lại về cuộc đột kích trong Dự án Lịch sử Hàng không Virginia.
Trong khoảng thời gian từ 1:30 sáng đến 3:00 sáng, lực lượng chủ lực của B-29 của Mỹ đã thả ra 500.000 quả bom M-69. Xăng đông đặc, hay còn gọi là napalm, bên trong vỏ kim loại sẽ cháy trong vài giây sau khi va vào vật rắn và bắn các chất dễ cháy lên các bề mặt xung quanh.
bom cháy đang rơi từ những chiếc B-29 xuống
bom cháy đang rơi từ những chiếc B-29 xuống
Bom cháy M69, được sử dụng trong vụ đánh bom Nagaoka năm 1945. Triển lãm tại Bảo tàng Lịch sử Tỉnh Niigata.
Bom cháy M69, được sử dụng trong vụ đánh bom Nagaoka năm 1945. Triển lãm tại Bảo tàng Lịch sử Tỉnh Niigata.
Haruyo Nihei đã từng chứng kiến các cuộc tấn công ném bom của Mỹ vào Tokyo trước đó, nhưng khi cha cô đánh thức cô dậy trong bóng tối sáng sớm ngày 10/3, ông hét lên khiến bà cảm thấy đây là một vụ hoàn toàn khác biệt. Họ cần phải ra khỏi nhà và đến một nơi trú ẩn dưới lòng đất, không được chậm một giây nào.
Nihei nhớ lại việc vội vàng mặc quần áo, giày dép và ba lô khẩn cấp, giữ chiếc gối của mình và chạy ra khỏi nhà cùng với mẹ, em gái và anh trai. Gia đình của Nihei sở hữu một cửa hàng gia vị, sống ở quận Kameido trung tâm thành phố Tokyo. Họ vội vã đi qua cửa hàng bán cá địa phương và các cửa hàng tạp hóa nhỏ nằm dọc các con phố.
Trong những khoảnh khắc đầu tiên, cô nhớ không có nhiều lửa, vì không khí bị hút vào cơn hỏa ngục sau đó bùng phát. Ngọn lửa chưa vươn đến nơi họ đang chạy trốn. Gia đình cô đã đến một nơi trú ẩn dưới lòng đất, nhưng nơi ẩn náu của họ không trụ được lâu.
 “Chúng tôi đã chui vào trong - chúng tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân người ta chạy trốn, những giọng nói thất thanh, những đứa trẻ hét lên ‘mẹ, mẹ’. Người lớn hét lên tìm con của mình”, bà Nihei kể lại. Chẳng mấy chốc, cha bà bảo họ ra ngoài.
“Con sẽ bị thiêu sống (ở đây)”, cha bà nói. Ông nghĩ ngọn lửa và khói sẽ dễ dàng áp ập qua cánh cửa hầm. Nhưng khi chạy ra bên ngoài, nỗi kinh hoàng thật không thể tưởng tượng được. Mọi thứ đã bị thiêu cháy. Con đường giờ là một dòng sông lửa. “Các em bé bị bỏng trên lưng của cha mẹ. Họ đang chạy với những em bé bị bỏng trên lưng”, Nihei kể lại.
Những con thú cũng bị cháy. Nihei nhớ lại một con ngựa kéo một chiếc xe gỗ chở đầy hành lý. “Nó đột nhiên dang rộng chan chân và đứng yên - sau đó hành lý cũng cháy - sau đó lửa bắt vào đuôi ngựa và nuốt chửng nó”, bà Nihei nói. Người điều khiển ngựa không chịu bỏ những hành lý của mình. “Anh ta bám lấy con ngựa và bị thiêu cháy cùng với nó”.

Hậu quả

Những người may mắn sống sót sau trận bom napalm của Mỹ trút xuống Tokyo tháng 3/1945. Ảnh: Bảo tàng chứng tích về những trận không kích nhắm vào Tokyo
Những người may mắn sống sót sau trận bom napalm của Mỹ trút xuống Tokyo tháng 3/1945. Ảnh: Bảo tàng chứng tích về những trận không kích nhắm vào Tokyo
Thủ đô Tokyo chìm trong biển lửa sau trận bom napalm của Mỹ ngày 10.3.1945. Ảnh: Bảo tàng chứng tích về những trận không kích nhắm vào Tokyo
Thủ đô Tokyo chìm trong biển lửa sau trận bom napalm của Mỹ ngày 10.3.1945. Ảnh: Bảo tàng chứng tích về những trận không kích nhắm vào Tokyo
Các thi thể cháy đen của người dân Nhật Bản nằm ngổn ngang trên đường sau chiến dịch Meetinghouse
Các thi thể cháy đen của người dân Nhật Bản nằm ngổn ngang trên đường sau chiến dịch Meetinghouse
Thi thể chị cháy thành than của một người mẹ đang cõng đứa con nhỏ trên lưng
Thi thể chị cháy thành than của một người mẹ đang cõng đứa con nhỏ trên lưng
Các đám cháy lan rộng nhanh chóng phát triển khắp vùng đông bắc Tokyo. Trong vòng nửa tiếng kể từ khi bắt đầu cuộc đột kích, tình hình đã vượt quá tầm kiểm soát (của sở cứu hỏa). Một giờ sau cuộc đột kích, sở cứu hỏa đã từ bỏ nỗ lực ngăn chặn đám cháy. Thay vào đó, lính cứu hỏa tập trung vào việc hướng dẫn người dân đến nơi an toàn và giải cứu những người mắc kẹt trong các tòa nhà đang cháy. Hơn 125 lính cứu hỏa và 500 nhân viên bảo vệ dân sự được giao nhiệm vụ giúp đỡ họ đã thiệt mạng và 96 xe cứu hỏa bị phá hủy.
Được thúc đẩy bởi những cơn gió mạnh, số lượng lớn các đám cháy nhỏ do bom cháy gây ra nhanh chóng bùng phát thành những đám cháy lớn. Những cơn bão lửa này hình thành và nhanh chóng di chuyển theo hướng Tây Bắc và phá hủy hoặc làm hư hại hầu hết các tòa nhà trên đường đi của chúng. Những tòa nhà duy nhất sống sót sau trận hỏa hoạn được xây bằng đá. Khoảng một giờ sau khi cuộc tấn công bắt đầu, phần lớn phía đông Tokyo đã bị phá hủy hoặc bị ảnh hưởng bởi hỏa hoạn. Nhiệt độ ở một số khu vực được cho là đã lên tới 1.800 độ C (Celsius)
Những thường dân ở lại nhà hoặc cố gắng chữa cháy hầu như không có cơ hội sống sót. Nhà sử học Richard B. Frank đã viết rằng "chìa khóa để sống sót là nhanh chóng nắm bắt được tình thế vô vọng và chạy trốn". Ngay sau khi cuộc đột kích bắt đầu, các chương trình tin tức bắt đầu khuyên dân thường sơ tán càng nhanh càng tốt, nhưng không phải tất cả đều làm như vậy ngay lập tức. Những chiếc hố cá nhân được đào gần hầu hết các ngôi nhà không có tác dụng bảo vệ trước cơn bão lửa, và những người dân trú ẩn trong đó thường bị chết cháy hoặc chết ngạt (do oxy bị lửa hút hết).
Khi cơn bão lửa lan rộng, dân thường chạy tán loạn trên đường phố, tuyệt vọng thoát khỏi cơn bão lửa. Hàng nghìn thường dân sơ tán đã thiệt mạng do hỏa hoạn và ngạt thở sau khi cơn bão lửa hút hết oxy trong không khí. Sức nóng dữ dội đến mức khiến quần áo của mọi người bốc cháy dù chưa thực sự chạm vào lửa (cotton tự cháy khi nhiệt đọ khoảng 400 đọ C). Nó cũng khiến kính ở các cửa sổ bị hóa lỏng, không khí quá nóng và gió lốc từ cơn bão lửa đã thổi thủy tinh hóa lỏng nóng vào không khí, khiến nó rơi xuống và tan vào da người. Các gia đình thường tìm cách ở lại với các hiệp hội khu phố địa phương của họ, nhưng điều đó rất dễ khiến họ bị chia cắt. Rất ít gia đình có thể ở bên nhau suốt đêm. Việc trốn thoát thường được chứng minh là không thể, vì khói làm giảm tầm nhìn xuống chỉ còn vài feet và các con đường nhanh chóng bị cắt đứt do đám cháy. Đám đông dân thường thường hoảng sợ khi họ lao về phía những con kênh được coi là an toàn, và những người rơi xuống sẽ bị đè chết.[105] Phần lớn những người thiệt mạng trong cuộc đột kích đều chết trong khi cố gắng sơ tán. Trong nhiều trường hợp cả gia đình đều bị giết. Một trong những sự cố thảm khốc nhất xảy ra khi toàn bộ lượng bom cháy của một chiếc B-29 rơi trúng một đám đông dân thường đang băng qua cầu Kototoi bắc qua sông Sumida khiến hàng trăm người bị thiêu chết.
Rất ít nơi trong khu vực mục tiêu mang lại sự an toàn. Nhiều người trong số những người cố gắng sơ tán đến các công viên lớn được tạo ra làm nơi trú ẩn chống lại hỏa hoạn sau trận đại địa chấn Kantō năm 1923 đã thiệt mạng khi đám cháy di chuyển qua những không gian rộng mở này. Tương tự, hàng nghìn người tụ tập trong khuôn viên chùa Sensō-ji ở Asakusa đều thiệt mạng. Những người khác trú ẩn trong các tòa nhà kiên cố, chẳng hạn như trường học, nhà hát và kênh rạch. Đây không phải là một ý tưởng hay chống lại cơn bão lửa, với việc hít phải khói và hơi nóng đã giết chết một số lượng lớn người trong trường học. Trong một trường hợp, hơn một nghìn người đã thiệt mạng sau khi họ trú ẩn trong một bể bơi khổng lồ của trường học và sau đó bị luộc sống khi nước bị đun lên. Nhiều người cố gắng trú ẩn trong các con kênh đã thiệt mạng do khói hoặc khi cơn bão lửa đi qua hút hết oxy ra khỏi khu vực. Tuy nhiên, những vùng nước này mang lại sự an toàn cho hàng nghìn người khác. Ngọn lửa cuối cùng đã tắt vào giữa buổi sáng ngày 10 tháng 3 và dừng lại khi lan đến các khu vực rộng lớn hoặc kênh đào Nakagawa. Hàng nghìn người bị thương trong cuộc oanh tạc đã chết trong những ngày tiếp theo.
Đống tàn tích của phố <a href="https://en.wikipedia.org/wiki/Sens%C5%8D-ji#Nakamise-d%C5%8Dri">Nakamise-dōri</a> nhìn từ siêu thị <i>Asakusa Matsuya xuống</i>
Đống tàn tích của phố Nakamise-dōri nhìn từ siêu thị Asakusa Matsuya xuống
Sau cuộc đột kích, người dân khắp Tokyo đề nghị hỗ trợ người tị nạn. Lính cứu hỏa, cảnh sát và binh lính cũng cố gắng giải cứu những người sống sót bị mắc kẹt dưới những tòa nhà bị sập. Nhiều người tị nạn trước đây sống trong khu ổ chuột đã được chuyển đến những khu vực thịnh vượng của thành phố. Một số người tị nạn này phẫn nộ trước sự khác biệt về điều kiện sống, gây ra bạo loạn và cướp bóc. Các trung tâm tị nạn cũng được thành lập tại các công viên và các khu vực mở khác. Hơn một triệu người rời thành phố trong những tuần tiếp theo, trong đó hơn 90% cư trú tại các quận lân cận. Do mức độ thiệt hại và cuộc di cư khỏi Tokyo, không có nỗ lực nào được thực hiện để khôi phục dịch vụ cho các khu vực rộng lớn của thành phố.
Những xác chết được đưa từ Shimoya và Asakusa đến Ryō-Taishi-Waki ở Công viên Ueno
Những xác chết được đưa từ Shimoya và Asakusa đến Ryō-Taishi-Waki ở Công viên Ueno
Những xác chết trôi nổi gần cầu Kikukawa ở Honjo
Những xác chết trôi nổi gần cầu Kikukawa ở Honjo