Nối tiếp câu chuyện ở cuối phần 1, ở phần quan điểm cá nhân của tôi, khi tôi cho rằng: (độc giả có thể đọc P1 ở dưới để bổ trợ kiến thức cho việc đọc P2 này)
“Nhìn chung ngắn hạn thì VN INDEX đang có xu hướng chạy trước với tình hình Vĩ Mô ngắn hạn hiện tại khi mà tất cả các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết chưa công bố hết ,lãi suất liên ngân hàng đạt mức cao và vẫn chưa bước vào giai đoạn ổn định hơn thế nữa dư nợ chứng khoán thì vượt mức đỉnh năm 2022 điều này cho thấy thị trường chứng khoán đang rủi ro.”
Thì ở đây tôi muốn bàn luận thêm với các độc giả về phần lãi suất liên ngân hàng dạo gần đây đang khá cao và sẽ đưa ra lời lý giải tại sao lại xảy ra sự việc này.
Như tôi đã đề cập ở P1, lãi suất liên ngân hàng ghi nhận ở ngày 23/07/2025 là:
Tuy nhiên, nếu xem trước đó một khoản thời gian, cụ thể vào ngày 19/06/2025, thì lãi suất liên ngân hàng ghi nhận ở mức:
Vậy là ta có thể thấy lãi suất liên ngân hàng từ cuối tháng 6 đến tháng 7 bắt đầu tăng cao trở lại. 
Để giải thích tại sao lãi suất liên ngân hàng lại xuống khá sâu vào tháng 6 như vậy, cũng như một số kiến thức về vĩ mô và về CƠ CHẾ DẪN TRUYỀN CỦA NGÂN HÀNG để phục vụ cho việc hiểu hơn ở P2 này, thì mời các độc giả có thể đọc thêm bài viết P1 ở đây:
Còn ở P2 này, thì tôi sẽ tập trung giải thích tại sao lãi suất liên ngân hàng lại tăng lên mức cao như vậy ở tháng 7 và tình hình hiện tại đang diễn biến như thế nào trên TT2 (thị trường liên ngân hàng). 
Từ 2023 đến hiện tại, nếu các bạn có đam mê tìm hiểu về kinh tế chắc hẳn cũng thấy hiện tượng tín dụng tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng huy động của các ngân hàng, (khoảng gap hơn 1 triệu tỷ đồng).
Vậy một câu hỏi đơn giản đặt ra ở đây, nếu tổng tín dụng lớn hơn tổng huy động trong nền kinh tế, vậy thì tiền đâu ra để mà cho vay, tăng trưởng tín dụng???
Câu trả lời trớ trêu đó là ảnh ở trên SAI!!! nó sai ko phải vì FACT mà là vì cách thống kê tổng huy động trong nền kinh tế của Việt Nam vẫn chưa ghi nhận đầy đủ, nó bị gói gọn trong cung tiền M2, mà cung tiền M2 chỉ bao gồm tổng huy động tiền gửi từ tckt và dân cư, bỏ qua những khoản như TGKB, FI BOND (GTCG), tiền vay trên TT2.
Mà những khoản này thì chỉ được ghi nhận ở cung tiền rộng hơn đó là M3, hiện tại có nhiều khoản tác động vào cung tiền M3 nhưng lại không có ghi nhận như một phần của cung tiền M2 điều đó làm cho có sự sai lệch nhất định. 
Vậy nên M2 đang dần trở nên kém quan trọng, chỉ có ai quá bảo thủ mới còn xài M2 (điều đáng buồn là ở giáo trình Việt Nam vẫn còn chưa phổ cập thêm M3 vào chương trình).
Ví dụ ở Việt Nam thì TGKB hoàn toàn không có trong cung tiền nhưng lại là một thành tố quan trọng trong cân đối về lượng tiền. Cho tới 2023 thì SBV nâng tầm TGKB tạm thời thành cung tiền nửa trực tiếp một cách tạm thời.
PHÂN TÍCH SÂU HƠN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
Dưới đây là cấu trúc NỘI BẢNG cơ bản của một ngân hàng, độc giả chỉ cần tập trung vào bên Nguồn Vốn (NV) để thấy rõ được ở Vốn Huy Động (VHĐ), thì ngoài tiền gửi đến từ dân cư hay các tckt thì ngân hàng còn có kênh GTCG (FI BOND), cũng như họ có thể vay ở TT2.
Quay trở lại vấn đề cần bàn luận, ở đây tôi muốn cung cấp cho các bạn một chỉ số quan trọng trong khả năng cho vay của Ngân Hàng đó là LDR. 
Hiểu đơn giản LDR là tỷ lệ DƯ NỢ CHO VAY/TIỀN GỬI NH HUY ĐỘNG ĐƯỢC.
Đây là tỷ lệ giới hạn lượng tiền tối đa các ngân hàng được cho vay ra dựa trên lượng tiền ngân hàng huy động được (quy định cụ thể trong TT22/2019/TT-NHNN). Các ngân hàng phải đảm bảo tỷ lệ này không được vượt quá 85%.
Có nghĩa là các ngân hàng khi huy động được tiền gửi, đặc biệt là từ thị trường 1 và với 1 đồng huy động được, các ngân hàng chỉ cho vay ra được 0.85 đồng.
Cùng lúc đó như ta biết lãi suất huy động trên TT1 hiện tại ở các NHTM rất thấp, lý do lãi suất tiền gửi thấp như vậy một phần đền từ định hướng của Chính Phủ không muốn lãi suất nền kinh tế tăng để tăng trưởng kinh tế.
Từ đó, càng làm cho lượng tiền gửi huy động từ TT1 tăng bị chậm lại, mà trong khi đó hiện tại nền kinh tế lại ghi nhận được mức tăng trưởng tín dụng kỷ lục, hơn nữa trong giai đoạn này tài sản tăng giá vậy thì 2H25 tiền gửi từ TT1 sẽ còn kém hơn nữa.
Vậy thì nếu dựa vào công thức chỉ số LDR ở trên để tôi chứng minh cho bạn:
Thì đầu tiên ở phần TỬ SỐ là dư nợ cho vay TT1 (hiểu đơn giản là tăng trưởng tín dụng) tăng rất mạnh trong bối cảnh hiện nay.
Tuy nhiên, nếu tôi lock biến số TGTT2 ở dưới MẪU SỐ lại và TGTT1 thì như tôi nói tăng trưởng chậm hơn so với dư nợ cho vay TT1 trong thời điểm hiện tại (Delta dư nợ vay TT1>Delta TGTT1), thì ta sẽ thấy đơn giản LDR sẽ tăng và gây ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản hệ thống Ngân Hàng.
Vậy ta có thể thấy, dư nợ cho vay TT1 thì vẫn sẽ tiếp tục tăng, còn TGTT1 thì xu hướng tăng chậm hơn, do đó Ngân Hàng chỉ còn cách cứu cánh ở TGTT2 như một cách “chữa cháy” tạm thời. 
Đồng thời có thêm sự kiện mà KBNN họ rút bớt lượng TGKB về TGA hay KB họ đi giải ngân đầu tư công, điều đó càng làm giảm MẪU SỐ ở dưới làm căng thẳng lên tỷ lệ LDR.
ĐI ĐẾN KẾT LUẬN
Vì vậy, trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ như hiện tại, cộng với một biến số nội bảng bên trong đó là sự phối hợp giữa Kho bạc và NHNN có vẻ như vẫn chưa được … nhịp nhàng cho lắm. Xét đến thời điểm giữa tháng 06/2025, khi Kho bạc “lỡ tay” gửi tiền quá đà vào hệ thống, việc dư tiền đã khiến cho lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh, về mức 1-2%.
Ngay lập tức, phía Ngân hàng Nhà Nước có can thiệp và yêu cầu Kho bạc rút tiền ra bớt gửi vào TGA, điều này khiến cho lãi suất liên ngân hàng lại nhảy lên mức 5-6%, duy trì khoảng một tuần qua dù cho Ngân hàng Nhà Nước vẫn đang tích cực bơm thêm thanh khoản qua OMO. 
Tóm lại cần phải hiểu, hiện các ngân hàng thương mại đang vay chéo nhau rất nhiều qua kênh liên ngân hàng (thể hiện ở doanh số), lý do cho việc này do 2 nguyên nhân theo góc nhìn của tôi:
1. Đó là do chưa có sự thống nhất giữa SBV (NHNN) với KBNN khi mà lượng TGKB đó được các NH BIG4 đẩy lên TT2, làm cho lãi suất TT2 (ON) giảm mạnh, sau đó thì do việc khiến rủi ro tỷ giá tăng quay trở lại khi chênh lệch lãi suất liên ngân hàng VND – USD âm (SWAP âm), thì NHNN có phát hành TBill và đồng thời yêu cầu KBNN rút bớt tiền về TGA hoặc phải cb giải ngân lượng TGKB đó ra nền kinh tế. Điều đó ngay lập tức làm tăng lãi suất TT2 (ON) và duy trì đến tận bây giờ, tạo một cú giật cục trong FRAMEWORK
 2.Do việc phải đảm bảo tỷ lệ LDR nằm trong mức an toàn do SBV khuyến nghị, trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng mạnh, lãi suất TGTT1 thấp, cộng với yếu tố số (1) bên trên thì làm căng thẳng tỷ lệ LDR, ảnh hưởng đến rủi ro hệ thống, thanh khoản của ngân hàng. Từ đó, làm việc đi vay trên TT2 tăng cao để “chữa cháy” trong tình trạng căng cứng thanh khoản hiện tại.
TƯƠNG LAI SẼ RA SAO?????
Vậy thì vĩ mô sẽ phản ánh như thế nào trong tương lai với tình hình đang diễn ra như trên mà tôi đã nêu ra cho các độc giả, thú thiệt tôi thật sự không biết và cũng không chắc để đưa ra một lời dự đoán hay “phán” ở đây. Tuy nhiên, cho đến hiện tại tôi có nghĩ ra được 2 “giả định” có thể xảy ra trong tương lai có thể xảy ra cho đến hiện tại.
(LƯU Ý ĐÂY CHỈ LÀ GIẢ ĐỊNH DỰA TRÊN QUAN SÁT VÀ HIỂU BIẾT CỦA TÔI)
Nếu lãi suất huy động 5-6% kéo dài quá lâu, thì tôi nghĩ nếu ở góc độ người điều hành, quản trị Ngân Hàng sẽ phải nâng lãi suất huy động khách hàng cá nhân lên vì dù sao hiện tại mức lãi suất này chỉ quanh 3-4%, vẫn rẻ chán so với việc vay trên TT2. Từ đó, lãi suất cho vay cũng sẽ phải nâng lên theo, nhưng theo tôi việc này khó có thể xảy ra trong bối cảnh hiện tại, mà thực tế cho thấy NIM của các ngân hàng đang tiếp tục giảm, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của họ sau này. Còn trường hợp mà họ chỉ nâng lãi suất huy động, giữ nguyên lãi suất cho vay thì dường như không thể xảy ra.
 Một cách khác để cứu “LDR” mà ko cần nâng lãi suất huy động đó là các Ngân Hàng phát hành FI BOND (GTCG), một điều khá hay ở đây đó là việc phát hành FI BOND sẽ tác động lên MẪU SỐ ở dưới ct LDR, từ đó sẽ có thể “chữa cháy” LDR, tuy nhiên lại có một nhược điểm như ở giả định (1) đó là tiếp tục ảnh hưởng đến NIM, lý do đơn giản là vì lãi suất FI BOND thường cao hơn lãi suất huy động tiền gửi 12 tháng khiến cho COF tăng.
Chung quy lại, ở giả định nào của tôi thì đều thấy NIM của các ngân hàng trong tương lai đều sẽ tiếp tục suy giảm thu hẹp, tuy nhiên bảng cân đối của các ngân hàng sẽ phình to ra thêm do việc phát hành thêm FI BOND (GTCG).
Bạn có thể thấy quý 2 lượng FI BOND mà các ngân hàng huy động tăng đột biến như thế nào, điều này chứng tỏ để tiếp tục có dư địa để cho vay TT1 thì các ngân hàng đã phải phát hành FI BOND để đảm bảo tỷ số LDR nằm trong biên độ an toàn của NHNN.
Tăng trưởng tiền gửi ngân hàng đang chậm lại, đặc biệt vào năm 2025. Để bù đắp, Ngân hàng đang đẩy mạnh phát hành giấy tờ có giá (GTCG), với sự gia tăng rõ rệt từ cuối năm 2024 sang năm 2025. Điều này cho thấy chiến lược đa dạng hóa nguồn vốn của các Ngân hàng khi kênh tiền gửi truyền thống có dấu hiệu chững lại.
Vậy cho đến hiện tại, mọi thứ có vẻ đang ủng hộ cho “Giả Định” số (2) của tôi, khi ngân hàng sẽ huy động qua FI BOND để cải thiện LDR và có thể sẽ giảm được gánh nặng lên TT2
Tuy nhiên có thể sẽ đánh đổi NIM và COF ảnh hưởng đến biên lợi nhuận ngân hàng trong vòng 2H25??? Mời các bạn bàn luận thêm. 
Kết bài, tôi chỉ muốn giải thích rõ thêm ở P1 về vấn đề tại sao lãi suất TT2 (ON) lại cao trong giai đoạn hiện tại, còn quan điểm thì tôi vẫn bảo lưu như ở P1. Các bạn có thể tìm đọc P1 để rõ hơn
CẬP NHẬT: BÀI VIẾT ĐƯỢC VIẾT VÀO NGÀY 29/7/2025, NHẰM GIẢI THÍCH HIỆN TƯỢNG LÃI SUẤT Ở TT2 TẠI SAO LẠI CAO TRONG BỐI CẢNH TTCK ĐANG TRONG GIAI ĐOẠN UP TREND VÀO TRƯỚC NGÀY 29/7/2025. DO ĐÓ, NẾU LÃI SUẤT TT2 CÓ DẤU HIỆU SUY GIẢM VÀO NGÀY 30/7/2025 LÀ CHUYỆN BÌNH THƯỜNG KHI, HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ĐÃ ĐƯỢC "CHỮA CHÁY" VÀ VIỆC LÃI SUẤT TT2 TĂNG TỪ THÁNG 6 LÊN THÁNG 7 CŨNG CHỈ THỂ HIỆN THANH KHOẢN VỀ NGẮN HẠN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG.