— Trích pháp đàm Melbourne 27 Nov. 2024 —
I. “Mình” là gì?
T. B. Bây giờ anh nghĩ có cái gì là anh C. từ 10 năm trước đây không? 
C. Mình nghĩ “mình” vẫn còn 
T.B. Còn cái gì ạ? 
C. Mình nghĩ thịt da là tất cả những gì của mình thì vẫn còn ở đó nhưng mà nó bị già đi 10 tuổi thôi. Tâm hồn của mình … 
T. B. Bây giờ từng thứ một nhé. Da của anh 10 năm trước với da của anh bây giờ có là cùng là một thứ không? 
C. Mình nghĩ nó có thể vẫn là một thứ đó, nhưng mà thật sự nó cằn cỗi hơn, nó xấu xí hơn
T.B. Thật ra là ngay kể cả về phương diện khoa học thì cũng không còn cái gì là của anh C. từ 10 năm trước cả. Kể cả về mặt khoa học thì các tế bào đều thay thế hết rồi, thời gian tồn tại của tế bào cũng vô cùng ngắn ngủi 
C. Dạ 
T.B. Tất nhiên khoa học thì không phải là Đạo Phật, không phải là pháp chân đế. Nhưng hiện giờ chúng ta không thấy được sự sinh và diệt của các pháp nên vẫn phải dùng đến ví dụ 10 năm 20 năm để ít nhất mọi người liên hệ đến thực tế hiện giờ. Da của anh, những chất liệu da hiện giờ đâu có còn là những gì trước đó đâu. 
C. Coi như thật sự là nó có thay đổi, da có thay đổi, những tế bào trong cơ thể của mình có thay đổi. Nhưng mà đời thường thì chắc là con người ta không nhận ra được đâu. Mình nghĩ đó là sự biến chuyển thôi …
T.B. Bởi vì mình đã có sẵn ý niệm: đây là da của mình và nó là một cái gì đó kéo dài nên nghĩ 10 năm trước thì đây vẫn là da của mình. Nhưng thực ra đó chỉ là một ý niệm, ý niệm về “da của mình” thôi. Cái gọi là “da của mình” nếu nói theo khoa học thì những tế bào khi đó bây giờ không còn nữa, hoàn toàn đã biến mất rồi, đã được thay thế bởi những tế bào khác rồi. Còn nói về phương diện của Phật Pháp thì nó còn thay đổi nhanh hơn thế nữa.
Thời gian tồn tại của mỗi sắc để tạo nên cái mà anh gọi là “da anh” thì ngắn vô cùng, ngắn hơn cả thời gian mình chớp mắt. Bởi vì bây giờ anh chưa có kinh nghiệm đó, không ai ở đây có kinh nghiệm trực tiếp đó, thế nên ta tạm dùng ví dụ này để có thể thấy được rằng những gì gọi là “mình” hiện giờ không còn là “mình” trước đây 10 năm. Chỉ là ý niệm về thứ này thứ kia “của mình”. Ý niệm này đã trở nên quá quen thuộc nên ta nghĩ đó là “mình”, nhưng thực sự thì đâu có tìm được cái gì là anh C. trước đây đâu! Vốn dĩ nó không phải là anh C. rồi. Vốn không có gì là anh C. cả. 
II. Liệu “tưởng” có kéo dài ?
C. Nếu nói về môn học pháp học thì chắc có lẽ coi như mình chấp nhận điều này. Nhưng mà nếu nói đời thường tục đế thì mặc dù lúc nãy mình nói về da và thịt và những tế bào của cơ thể, nhưng nếu đề cập tới trí nhớ đi thì mình nghĩ một câu chuyện đã xảy ra 10 năm về trước, tới nay trí nhớ vẫn còn ở đó chứ. Mình đâu có thể nói là nó sanh và nó diệt mất đi hoàn toàn hẳn được. 
T.B. Tức là anh nghĩ những gì anh biết 10 năm trước thì bây giờ cái biết đó vẫn có ở đó ?
C. Đúng
T.B. Nhưng có phải lúc nào nó cũng có đó đâu. Ví dụ bây giờ anh nhớ đến điều gì ?
C. Mình muốn nói là giả sử năm 79 đi thì bất cứ lúc nào mình muốn gợi lại trí nhớ của thời năm 79 đó của mình nó vẫn còn ở đó chứ 
T.B. Ở thời điểm này khi anh nghĩ đến năm 79 thì cái đang nghĩ đến năm 79 được gọi là “tưởng” và nó nhớ về năm 79. Nhưng ngay hiện giờ cũng đang có cái tưởng mà nó nhớ những lời được nói ở đây. Vậy tại thời điểm mà anh nhớ những lời nói ở đây thì không có cái tưởng nhớ về năm 79, đúng không? Tức là “tưởng”  không phải là một thứ gì đó kéo dài suốt từ thời đó đến giờ 
C. Dạ rồi ok. Chị nói thế em hiểu rồi.
T.B. Tức là mỗi một thời điểm thì cái mà mình gọi là “trí nhớ” đó thực chất nhớ về một thứ gì đó cụ thể ở thời điểm đó thôi, chứ không có một trí nhớ nào tồn tại liên tục từ hồi đó đến giờ cả.
C. Bây giờ chị nói thì em hiểu rồi. Có nghĩa là trong một khoảnh khắc nhỏ khi mình tưởng mình nhớ tới là có nó rồi nó diệt đi liền. Nó nghĩ tới rồi diệt đi liền. Rồi, em đồng ý ạ 
T.B. Vâng, nên thực ra từng khoảnh khắc hiện giờ, những gì mà anh nghĩ là anh C. thực chất cũng không phải là anh C. Bởi vì cái mà anh nói là “trí nhớ” hay “tưởng” nhớ đến một cái gì đó thì không có gì là đặc trưng của anh C. cả. Ai cũng nhớ. Bác B. cũng nhớ lại những gì bác học. Thời điểm mà “trí nhớ” nhớ về một nội dung nào đó thì có tính chất “nhớ về”, đó cũng chỉ đơn thuần là cái mà ta gọi là “tưởng”. Nó không khác biệt ở nơi bác B., không khác biệt ở nơi anh C. … 
Nói về tưởng – cái ghi nhớ, đó là một pháp chân đế bởi vì nó là một tính chất có thực và bản chất của nó không phải là ai cả. Đó chính là những gì mà Đức Phật đã giác ngộ. Đó chỉ là một khía cạnh của những gì mà ta vẫn cho là “mình” thôi. Khi không học thì ta nghĩ nó là một cái gì đó cứ tồn tại từ đó đến giờ. Nhưng khi ta học, ta bắt đầu hiểu bản chất thực sự của nó chỉ là một thứ tồn tại rất ngắn ngủi và không phải là mình. Anh có quyết định nhớ được điều gì không? Ví dụ năm 79 có những thứ anh nhớ nhưng có những thứ anh cũng không nhớ được.
C. Đúng rồi 
T.B. Anh có nhớ được hết những gì xảy ra ngày hôm qua không?
C. Đúng rồi rất là khó chị. Tại ngày hôm qua nó có tới 24 tiếng đồng hồ. Hôm nay lúc mình nhớ hiện giờ mình chỉ nhớ tích tắc, tức là chỉ có một giây,  một vài giây thôi. Thành ra đâu có thể nhớ hết được 24 tiếng đồng hồ của hôm qua 
T.B. Không ai quyết định được sẽ nhớ cái gì. Mình cứ tưởng đó là “mình” nhớ, nhưng thực ra đó không phải là mình. Đủ duyên thì cái nhớ về một chủ đề nào đó nó sinh khởi, mà không đủ duyên thì anh vò đầu bứt tai cũng không thể nhớ nổi. Dần dần khi học Giáo pháp của Đức Phật, ta sẽ nhận thấy mọi khoảnh khắc của cuộc sống này bản chất của nó đều chỉ là như vậy. Đây chính là nền tảng. Nền tảng chính là học về những tính chất có thực ngay bây giờ. 
III. Hai ý nghĩa của “cõi”
C. Đúng rồi chị. Dạ. Hồi nãy chị có hỏi bác B. mình học Phật pháp với mục đích gì. Và mình hiểu biết cái cảnh Ta bà này thì lúc đó em có ý muốn trả lời là Sanh và Tử là cõi Ta Bà này. Có phải Đức Phật muốn cho tất cả mọi người đều học Phật Pháp để hiểu biết cái khổ của sanh và tử, để đi về cõi Niết Bàn? Một khi thực sự hiểu biết, thật sự học cao đến giống như một Đức Phật để thực sự vượt qua, để đi lên cái không còn sanh và tử nữa có phải không ạ?
T.B. Ở đây có nhiều thứ mình phải làm rõ về mặt ý nghĩa. Ví dụ như là từ “cõi”. Trong Phật Pháp từ “cõi” có thể được dùng với hai ý nghĩa khác nhau.
Ý nghĩa thứ nhất là cõi mà nơi chúng sinh tái sinh vào. Đức Phật giảng là có 31 cõi. Có những cõi là quả của nghiệp bất thiện mà sinh vào như cõi địa ngục, cõi a-tu-la, cõi ngạ quỷ, cõi súc sinh. Các nghiệp bất thiện sẽ cho quả để tái sinh vào những cõi như thế, và khi mà đã tái sinh vào các cõi đó thì sẽ có duyên cho rất nhiều quả của nghiệp bất thiện và vì thế chúng được gọi là những cõi khổ. Quả của nghiệp bất thiện ví dụ như chịu nhiều đau đớn ở trên thân hơn … rồi từ đó có nhiều tâm sân, những trạng thái khổ sở nhiều hơn.
Ta có thể thấy đối với đa phần những loài súc sinh thì thọ khổ rất nhiều và trạng thái mù mịt mê mờ của tâm và sân do lo sợ về sự an toàn, tìm cách kiếm sống để sinh tồn là chủ đạo … Có thể thấy cuộc sống trong những cõi là quả của nghiệp bất thiện rất là bất hạnh.
Và có những cõi là cõi an lành, trong đó có cõi người, bởi vì ở mức độ tương đối nơi đó không phải chịu những cảnh khổ như những cõi dưới, và cũng có nhiều cơ hội để tạo thiện pháp, có cơ hội để phát triển hiểu biết.
Ngoài ra có những cõi là quả của những loại nghiệp tốt đẹp hơn nữa. Ví dụ như các cõi trời của Chư Thiên, Phạm Thiên sắc giới và Phạm Thiên vô sắc giới.
Nếu nói về cõi để tái sinh thì tùy vào mức độ của nghiệp mà sẽ cho quả tái sinh vào một cõi tương ứng. Trong những cõi đó thì cõi súc sinh là có thể được biết rõ rệt, còn các cõi khác thì đa phần mọi người không thấy. Vậy có tất cả 31 cõi. Niết bàn không được tính như là một cõi theo nghĩa này, không phải là một cõi nào đó, nơi chúng ta vẫn tiếp tục tồn tại. Thế nên, khi dùng từ “cõi” mà mọi người nghĩ Ta bà là 31 cõi đó, còn niết bàn là một cõi khác thì không phải như vậy. 
Trong 31 cõi này, dù đó là cõi khổ hay cõi an lành thì bản chất vẫn chỉ là sự tồn tại của hai yếu tố: yếu tố kinh nghiệm nhận biết và yếu tố không kinh nghiệm nhận biết.
Ví dụ hiện giờ chúng ta nghĩ là có anh C. có bác B, có chị A, chị T… Nhưng thực tế thì chỉ là những sự nhận biết, ví dụ như thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, vui, buồn, hay cái không nhận biết gì cả, ví dụ như cứng, mềm, nóng, lạnh …  Bản chất của những gì ở trong 31 cõi bao giờ cũng chỉ là thế.
Ví dụ ở trong cõi địa ngục vẫn có cái thấy, trong địa ngục vẫn có thọ, vẫn có thọ khổ… Hay ở cõi súc sinh thì cũng có cái nghe, cũng có thọ khổ, cũng có thọ lạc, cũng có các loại kinh nghiệm khác nhau. Không phải chỉ là ở những cõi đó mà ở những cõi trời thì cũng có thấy, cũng có nghe… Cũng có cõi thì không có thấy, không có nghe nhưng vẫn có suy nghĩ, vẫn có vui vẫn có buồn…
Điểm chung của tất cả các cõi là chỉ bao gồm hai yếu tố kinh nghiệm và không kinh nghiệm, tức là danh và sắc. Cái thấy thì không thuộc về cõi người hay là cõi địa ngục hay là cõi trời. Thấy vẫn chỉ là thấy dù là sinh khởi ở cõi nào. Đặc tính cứng thì dù ở cõi Phạm Thiên hay ở cõi người hay là cõi súc sinh hay địa ngục thì đặc tính cứng vẫn là đặc tính cứng. Thọ khổ cũng như vậy, chỉ đơn thuần là thọ.
Mặc dù chia làm nhiều cõi khác nhau như vậy nhưng bản chất vẫn là danh và sắc, cái kinh nghiệm và cái không kinh nghiệm. Danh là một thuật ngữ chuyên môn để chỉ tính chất kinh nghiệm và sắc chỉ yếu tố không kinh nghiệm.
Như vậy, đã gọi là cõi mà là nơi tái sinh vào thì ta hiểu đó là nơi mà có danh và sắc sinh khởi, còn niết bàn thì không được gọi là một cõi mà chỉ đơn thuần là nơi không có danh và sắc sinh khởi, không có sự tồn tại nào cả. Mình cho rằng một lúc nào đấy giác ngộ thì là tái sinh vào cõi niết bàn, tôi về cõi niết bàn, nhưng không phải như thế bởi vì nơi đó không có sự sinh khởi nào của danh và sắc cả. 
Còn một nghĩa thứ hai của từ ”cõi” đó là cõi giới của tâm.
Tất cả mọi người ở đây đều có tâm đúng không? Tâm thấy, tâm nghe, tâm ngửi, tâm nếm, tâm xúc chạm, tâm tham, tâm sân … Hiện giờ những gì đang thực sự tồn tại chỉ là các khoảnh khắc tâm tiếp nối nhau.
Bản thân tâm cũng được chia thành những mức độ khác nhau. Những tâm mà tất cả chúng ta hiện giờ đang có đều là tâm dục giới. Nói nôm na để dễ hiểu là đó là những tâm kinh nghiệm các đối tượng qua mắt tai mũi lưỡi thân… Còn có những tâm khác ở những mức độ khác như các tâm thiền; những tâm đó không kinh nghiệm đối tượng qua năm căn và cũng không kinh nghiệm đối tượng qua ý như hiện giờ khi chúng ta nghĩ đến đủ thứ khác nhau.
Tâm ở cõi sắc giới chỉ kinh nghiệm một thứ thôi, đó là đề mục thiền, và đó là một mức độ tâm vô cùng an tịnh. Hiện giờ tâm của chúng ta rất trộn rộn, thỉnh thoảng có thiện pháp thì có một chút an tịnh nhưng rất ngắn ngủi. Khi có từ tâm, khi sẵn sàng cho đi, khi có sự hiểu biết…tâm lúc đó rất an tịnh nhưng không kéo dài.
Trong khi đó, tâm ở cõi sắc giới thì không kinh nghiệm các đối tượng qua ngũ quan và ở một mức độ an tịnh rất là cao. Và còn cao hơn như thế nữa, vi tế hơn như thế nữa thì gọi là tâm vô sắc giới. 
Như vậy nói đến từ “cõi” thì có hai nghĩa. Một là nơi mà chúng sinh tái sinh vào và hai là mức độ của tâm. Khi nói đến mức độ của tâm thì có ba cõi là cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Mức độ cuối cùng được gọi là siêu thế tức là vượt ra khỏi thế gian, hoàn toàn không phải là những tâm dục giới, không phải tâm sắc giới, cũng không phải tâm vô sắc giới, mà là tâm siêu thế, là những tâm kinh nghiệm niết bàn. Đây là một chút kiến thức để mình hiểu về những ngôn từ vẫn được dùng và khi đa phần mọi người giải thích về niết bàn như một cõi mà để tái sinh vào thì đó không phải là lời giải thích đúng với Giáo pháp của Đức Phật
IV. Mục đích của Con đường là để cải thiện cuộc sống?
C.: Những gì chị nói giờ em hiểu. Nhưng mà em có cái thắc mắc thêm. Thường xuyên trong cuộc sống khi mà người ta nghĩ tới Đạo Phật là nghĩ tới đi chùa và nghĩ tới một hình thức nào đó để cải thiện tốt hơn, lành mạnh hơn để cho cuộc sống hạnh phúc hơn, thiện hơn để biết đâu có sự an ủi cho tuổi già hoặc cho đời sau. Đó là cái mà nhiều người nghĩ tới trong Đạo Phật. Còn ở đây thì đang nói về chân đế thì thật sự nó rất là xa. Cái nhìn của tất cả những người mà em biết khi nghĩ tới đạo Phật thì đó là mình muốn học Phật pháp và mình muốn hiểu Phật Pháp để mình cải thiện sao cho tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn cho nó hạnh phúc hơn.. Đó là cái mà em muốn chia sẻ thêm. 
T.B.: Vừa nãy anh có nghe bác B. nói đến 10 hồng danh của Đức Phật đó, trong đó thì có Hồng danh là Thiên nhân sư. Thiên Nhân sư – sư có nghĩa là thầy, thiên là trời, nhân là người. Điều đó có nghĩa là Đức Phật là bậc thầy của chư thiên và loài người, hay nói một cách khác nữa là Đức Phật là bậc thầy của tam giới.
Chư thiên là những ai? Là những người mà do quả của những nghiệp thiện vô cùng thù thắng mà được tái sinh vào những cõi Chư thiên, cõi Phạm Thiên sắc giới và Phạm Thiên vô sắc giới. Chúng ta có thể tái sinh vào những cõi đó không? Chư thiên dục giới thì có thể nhưng mà sắc giới và vô sắc giới thì không thể bởi vì chúng ta không chứng đắc thiền ở kiếp sống này.
Nói như vậy để hiểu là những người tái sinh ở cõi Phạm Thiên sắc giới và vô sắc giới là những người có mức độ trí tuệ vô cùng cao, nhưng mà Đức Phật được gọi là bậc thầy của Chư thiên và loài người.
Tại sao Ngài có được danh xưng như vậy, là bởi vì những điều mà ngài dạy vượt xa tất cả những gì mà những vị thầy khác có thể hiểu và thuyết giảng.
Thế gian này ai cũng tầm cầu hạnh phúc và có rất nhiều vị thầy dạy cách để có thể hạnh phúc hơn hiện tại. Có những vị thầy dạy cách làm thế nào có sự an bình hơn trong cuộc sống, có thể điều hòa được các mối quan hệ, bớt đi sự giận dữ, cảm thấy dễ dàng hài lòng hơn… Rồi có những vị thầy giảng để cho không chỉ là những mức độ an tịnh bình thường mà có những mức độ tâm an tịnh cao hơn.
Tất cả những vị thầy đó vẫn phải tôn xưng Đức Phật là vị thầy là bởi vì Đức Phật đã chỉ ra một sự thật là dù hạnh phúc ở mức độ nào đi nữa thì bản chất của nó vẫn là vô cùng ngắn ngủi, không mang lại sự toại nguyện thực sự. 
Anh và chị so với rất nhiều người là có một đời sống thuận lợi. Không phải lúc nào cũng thuận lợi nhưng mà được như bây giờ cũng là ước mơ của rất nhiều người. Nhưng mà anh và chị cũng biết rằng sự thuận lợi ấy không mang lại hạnh phúc thực sự, đúng không? Bởi vì từng giây từng phút ta vẫn phải đối mặt với những gì sinh khởi ở nơi tâm. Khi không hài lòng – anh không hài lòng về chị, chị không hài lòng về anh…, khi đó không có sự an tịnh. Và kể cả khi có sự yêu thương, có sự cho đi, có sự tha thứ, tất cả cũng không kéo dài, mà cũng vô cùng ngắn ngủi.
Cho nên sự thật là: không phải chỉ anh chị, mà tất cả mọi người trên thế gian này, kể cả những người có điều kiện tốt nhất, cũng không bao giờ thoát khỏi sự thật của các pháp là vô thường, các pháp là khổ và các pháp là vô ngã. Đức Phật dạy về sự thật đó, và nếu ai đó bắt đầu hiểu được sự thật ấy thì họ bắt đầu hiểu được tại sao Đức Phật là người duy nhất có thể giảng Con Đường Giác Ngộ.
Tìm kiếm để có thêm một chút hạnh phúc, thêm một chút dễ chịu, thêm một chút thoải mái hay là cải thiện bản thân thì thực ra không có ý nghĩa, bởi vì mọi thứ sẽ đều sẽ như vậy thôi, không thể thoát khỏi được quy luật các pháp là vô thường, các pháp là khổ, các pháp là vô ngã. Rõ ràng là giữa thiện pháp và bất thiện pháp thì thiện pháp vẫn thù thắng hơn, nhưng khi có cái hiểu thì bớt đi sự dính mắc, bớt đi những xu hướng khiến cho mọi việc trở nên trầm trọng và nặng nề hơn bình thường.
Và cuối cùng, quan trọng nhất là tích lũy hiểu biết này sẽ có thể đi tới điểm mà chính Đức Phật đã tới đó là sự giác ngộ và chấm dứt hoàn toàn vòng sinh tử luân hồi.
Chính vì thế trong các pháp đàm chúng ta vẫn thường nhắc nhở chúng ta nghe pháp là để hiểu, là để vun bồi sự hiểu biết đó để nó lớn mạnh cho đến mục đích cuối cùng, chứ không phải chỉ để được thấy thoải mái hơn, dễ chịu hơn hay là cải thiện bản thân. Bởi vì nếu chúng ta coi tất cả những cái đó là mục đích thì cuối cùng sẽ đều không thể mang đến hạnh phúc thực sự.
V. Nói cho dễ hiểu hay Nói đúng?
C. Nhưng dù sao đi nữa, pháp chân đế này theo mình thấy nó khá là khó tiếp thu, tại vì với cái hiểu biết riêng bản thân mình thì rất là khó. Chắc là nhiều người khác thì họ sẽ thấy dễ hơn, họ có thể biết về Phật pháp nhiều hơn thì tu tập nó nhanh và thoải mái hơn. Còn đối với em thật sự rất là khó. Em phải ráng mò từng chữ, từng danh từ để hiểu. Em thấy chắc phải có một cái gì đó có thể giúp thêm cho những thành phần giống như em thì biết đâu có thể thu hút thêm người theo cái pháp đàm của bên nhóm Dhamma home này nhiều hơn. Ví dụ như biết đâu có một cái hình thức nào đó để cho pháp đàm dễ hiểu hơn tí xíu, chứ đối với em thật sự nó hơi khó. Tại vì trường hợp của em là bắt đầu từ những từ ngữ, rồi từ tiếng Việt, Hán Việt rồi lại cộng thêm những danh từ Pali thì nghĩa của những cái chữ này chữ kia thật sự rất là khó cho rất nhiều người. Mình thử biết đâu … Mỗi lần chị đề cập tới pháp, nhiều lúc chị gợi lại những kinh sách của Phật như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo thì em chỉ nghe thôi chứ thật sự em hoàn toàn không biết Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo nữa chứ huống chi là ….Nhiều người khác cũng vậy thành thử em nghĩ là phải có một cái căn bản nhiều lắm thì mới có thể tiếp thu được pháp đàm Dhamma home này, nếu không thì hơi khó, thật sự.
T.B. Điều này em vẫn thường nói trong pháp đàm và bây giờ em lại nhắc lại, đó là bản thân Đức Phật sau khi giác ngộ thì Ngài đã không nghĩ đến việc thuyết giảng. Khi chiêm nghiệm về sự thâm sâu của những gì mà Ngài đã giác ngộ, Ngài đã không nghĩ đến việc thuyết pháp bởi vì nó quá khó để hiểu. Nhưng  theo truyền thống của tất cả các Chư Phật, lại có duyên để một vị Phạm Thiên, sau khi biết là ngài đã giác ngộ Chánh đẳng giác – có nghĩa là một bậc tự mình giác ngộ, có năng lực Giáo hóa chúng sinh đặc biệt và là người có khả năng khi cần biết điều gì thì có thể biết được điều ấy, đó là Chánh đẳng giác.
Theo truyền thống thì một vị Phạm Thiên lại đến thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp và khi đó Đức Phật, người có mức độ trí tuệ mà khi nghĩ đến điều nào Ngài muốn biết thì Ngài có thể biết điều ấy; lúc đó Ngài đã quán chiếu và biết được cái căn cơ của các chúng sinh (căn cơ có nghĩa là mức độ trí tuệ đã được tích lũy sẵn có của mỗi người) thì Ngài nhận ra cũng có những người đã có tích lũy trí tuệ gần đủ để hiểu những gì mà Ngài đã giác ngộ, và vì thế nên Ngài đã quyết định thuyết pháp. Sau đó thì Ngài bắt đầu quá trình hoằng pháp trong suốt 45 năm.
Đức Phật là người có năng lực khi tiếp xúc với ai đó là Ngài biết được rõ quá khứ trong bao nhiêu kiếp người đó đã tích lũy hiểu biết như thế nào, cái gì cần phải bổ sung, cái gì đang thiếu và nghe điều gì thì sẽ làm khơi lại trí tuệ đã được tích lũy trong quá khứ. Khi Ngài bắt đầu thuyết pháp thì có một lượng đông đảo những người nghe Ngài giác ngộ, nhưng không phải ai cũng giác ngộ. Và cũng có những người không đến gặp Ngài để nghe Ngài thuyết pháp. Ngài cũng không bao giờ tìm đồ chúng, Ngài chỉ quán chiếu xem ở đâu có những người có khả năng hiểu thì Ngài thuyết pháp.
Như vậy kể cả khi Đức Phật còn tại thế với một năng lực rất đặc biệt mà ngày nay chúng ta không thể so sánh bởi vì sự khác biệt quá lớn thì vẫn có những người không thể hiểu được lời dạy của Ngài. Mặc dù năng lực giáo hóa của Ngài phi phàm như vậy nhưng cũng có những người không hiểu được.
Nói như thế để biết là ngày nay, khi mọi người tiếp xúc với những lời dạy của Ngài thì đương nhiên là, do theo kinh điển thì sống càng xa thời của Đức Phật mức độ hiểu biết đã được tích lũy (ở đây hiểu biết không phải về những thứ thế gian mà là về sự thật) càng ít ỏi, nên những người có thể nghe và có thể hiểu được sẽ càng ít hơn so với thời của Đức Phật. Và năng lực của chúng ta ngày nay để truyền đạt những gì mình hiểu về Giáo pháp của Đức Phật thì lại cũng vô cùng ít ỏi so với năng lực của Đức Phật ngày xưa.
Cho nên là việc anh thấy những gì được nói đến trong Pháp đàm thường rất khó đối với mọi người thì một phần là bởi vì bản thân Giáo Pháp đã vô cùng khó. Thứ hai là năng lực hiện giờ của những người hiểu một chút và giúp những người khác hiểu nó cũng vô cùng hạn chế. Và thứ ba là bản thân tích lũy hiểu biết của con người thời nay lại càng hạn chế nữa.
Thế nên là thực tế sẽ không có nhiều người có thể nghe và hiểu, không phải vì không có những cách để giảng tốt hơn, nhưng mà mình không biết. Mình không biết và mình chỉ có thể làm tốt nhất những gì có thể, đó là giảng theo sự thật.
Còn nếu chúng ta tìm những cách để nghe nó gần gũi và hấp dẫn hơn thì nó lại xa rời với sự thật mà Đức Phật đã giác ngộ. Thà là chậm, mỗi người đều đi rất chậm nhưng mà hiểu đúng thì còn hơn là tìm những lối tắt hay là tìm những cách nói hay chiêu thức để làm cho mọi người thấy dễ hơn thì càng dễ nó sẽ càng không đúng với sự thật. Bởi vì sự thật là vô cùng khó.
Cái khó là bởi vì chúng ta không có thói quen nghĩ về sự thật. Không biết về sự thật, không bao giờ nghĩ về sự thật nên khi chúng ta nghe từ “thấy”, mặc dù nó là thực ngay bây giờ nhưng chúng ta cũng chỉ biết như vậy thôi chứ không thực sự quan tâm đến tính chất của cái thấy ngay bây giờ. Nhưng học giáo pháp của Đức Phật là học về những tính chất ấy: tính chất của cái thấy, tính chất của cái nghe….
Không cần nền tảng đặc biệt nào để biết về cái thấy, về cái nghe. Anh nói đến Tứ Diệu Đế. Thực ra lúc vừa nãy khi bác B. và em trao đổi chính là đang nói về Tứ Diệu Đế mặc dù mình không dùng từ “Tứ Diệu Đế”. Mình nói về khổ tức là thánh đế về khổ hay là Khổ đế. Lúc nói về cái thấy, về cái nghe, về các pháp sinh và diệt là khổ thì chính là nói về Thánh đế đầu tiên mặc dù mình không dùng từ “Tứ Diệu Đế”.
Cho nên tất cả những cái đó không là thứ anh cần phải học trước khi nghe về pháp chân đế, quan trọng là anh được nghe các từ ngữ trong Giáo pháp theo một cách đúng đắn. Còn những lời giảng mà viện dẫn những thứ như  “mình chịu khổ do quả của nghiệp” …. sẽ không làm nổi bật lên sự giác ngộ của Đức Phật. Nếu không làm nổi bật lên sự giác ngộ của Đức Phật và không hiểu những thứ mà bản thân Đức Phật đã giác ngộ thì sẽ không có con đường Bát chánh đạo để đi tới điểm giống như Đức Phật đã tới là chấm dứt sinh tử luân hồi. Thế nên là chỉ có sự kiên nhẫn thôi, sự kiên nhẫn để rất từ từ chậm chậm học đúng hiểu đúng. 
VI. Thế nào là “hành Bát chánh đạo” và thực tại của “quả”
C. Trong nhóm Dhamma home mình có phần nào về hành không? hành Bát chánh đạo
T.B. Để hiểu hành là gì thì lại phải hiểu thế nào là “mình”. Vì nói đến hành là phải có một con người để thực hành, đúng không? Vậy con người để thực hành đó thì có thực có hay không? Cái mà gọi là “mình” hiện giờ vốn bản chất chỉ bao gồm những thứ không phải là một cá nhân nào cả. Nếu nói ở một khía cạnh thì nó là thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ. Ở một khía cạnh khác thì nó là những khoảnh khắc của hiểu, của không hiểu, của tham, của sân… và mỗi khoảnh khắc như vậy thì đều không phải là mình, đều không phải là anh C., không phải là bác B., không phải là chị L. Nó chỉ có mặt do bởi đủ duyên mà sinh lên.
Ví dụ, nhờ anh C. cũng đã nghe Pháp một thời gian nên một vài điều được nói hiện giờ thì anh có thể hiểu. Cái hiểu đó là đủ duyên thì sinh khởi, chứ anh C. không thể ráng để hiểu. Ráng thế nào cũng không hiểu được nếu không có những bước đệm trước đó, là anh đã từng nghe năm lần, bảy lần, 10 lần… rồi khi nghe thêm thì cái hiểu sinh khởi do đủ duyên. Như vậy, không ai tạo ra được nó.
Từng thứ gọi là “mình” hiện giờ đều không có ai tạo ra được cả. “Hành” ở đây ý anh nói có phải là làm cho hiểu biết này tăng trưởng không? Cũng không ai để có thể khiến cho hiểu biết đó tăng trưởng nếu không có những duyên đầy đủ cho nó là tiếp tục nghe, tiếp tục hiểu thêm… , cái hiểu trước làm duyên cho cái hiểu sau.
Mình không thể quyết định: “Thôi được rồi, mình đã học, thế rồi bây giờ mình sẽ hành”. Bởi vì khi nghĩ đến “mình” thì không phải là khoảnh khắc của cái hiểu đúng. Thế nên để trả lời câu hỏi: “mình hành như thế nào” thì đầu tiên phải hiểu đúng về mặt lý thuyết bản chất của “mình” là gì, bản chất của cuộc sống là gì.
Rất nhiều người cũng đặt câu hỏi giống như anh, bởi vì đó là cách mà thế giới vẫn nghĩ: học lý thuyết xong rồi sau đó thực hành. Trong mọi bộ môn, mọi lĩnh vực đều như vậy và đa phần mọi người có tư tưởng là học mà không hành thì sẽ chẳng đưa đến gì cả. Nhưng riêng Giáo pháp của Đức Phật thì lại bắt đầu với sự khẳng định về bản chất vô ngã của pháp, và bởi vì các pháp là vô ngã, các pháp là do duyên mà sinh lên nên nó ngược lại với những trường phái khác khi nói về về việc thực hành.
Đơn giản là không có một con người nào để thực hành cả, câu hỏi thực sự cần có là: có những duyên nào khiến cho trí tuệ tăng trưởng.
—–
B. Tôi muốn thắc mắc cái thuyết nhân quả đó là có phải của Đức Phật tìm ra, hay là ở đâu mà Đức Phật nói có nhân thì phải có quả? 
T. B. Vâng, Đức Phật là người đã giác ngộ và sự giác ngộ của Đức Phật thì vượt xa sự giác ngộ của tất cả những người khác. Cũng có những vị trở thành một bậc A la hán, giải thoát hoàn toàn nhưng không có năng lực để hiểu toàn bộ sự vận hành của thế giới, ví dụ như biết những kiếp trước, kiếp sau v.v… Nhưng Đức Phật thì do mức độ tích lũy ba la mật rất đặc biệt nên Ngài đã trực tiếp kinh nghiệm về nhân và quả, nghiệp nào làm duyên cho quả nào… 
Khi Ngài đã giác ngộ thì một mặt ngài có nói về nhân và quả dưới góc độ ai đã làm những việc xấu nào thì cho quả không tốt đẹp như thế nào, ai đã làm những việc tốt nào thì cho những kết quả hạnh phúc vui vẻ như thế nào. Nhưng mặt khác Ngài cũng giảng về nhân và quả ở góc độ thực tại. Ví dụ như Ngài nói cái thấy hiện giờ là quả của nghiệp. Những khoảnh khắc cái thấy thấy đối tượng khả ái hay là thấy đối tượng bất khả ái là quả của nghiệp. Không ai quyết định được sẽ thấy gì.
Có những lúc chúng ta nghĩ là đến một nơi này để có được một trải nghiệm dễ chịu, ví dụ đi nghỉ mát, nhưng rồi trời lại mưa to. Không ai quyết định được khoảnh khắc nào sẽ kinh nghiệm đối tượng khả ái hay bất khả ái, nó xảy ra là bởi có duyên của nghiệp quá khứ. Ở đây nhân chính là những thiện pháp hay bất thiện pháp được tạo. Ví dụ như khi bố thí cúng dường thì đó là những nhân thiện. Hay là khi ăn cắp hay sát sinh thì đó là nghiệp bất thiện và sau đó nó sẽ cho quả tương ứng. Nhưng không ai biết được rõ ràng là khi nào thì nó sẽ cho quả: nó có thể cho quả trong kiếp này mà cũng có thể trong kiếp sau hoặc trong một kiếp nào đó xa xôi nào đó.
Đức Phật có giảng về bốn điều bất khả tư nghì, trong đó nhân và quả là bất cả tư nghì. Đức Phật thì có năng lực để biết được một kết quả tốt đẹp hay không tốt đẹp thì là do nghiệp nào trong kiếp quá khứ nào…. Ngài có thể nói một cách chính xác nhưng đối với tuyệt đại đa số mọi người thì không thể biết được. Sự thật là như vậy. Ngài chỉ là nói lại sự thật mà ngài đã giác ngộ chứ không phải là Ngài lập ra các quy luật đấy. 
bài liên quan: