Một thằng nhóc.
Junior mỉm cười, và mặt trời chiếu rạng ngời trên gương mặt thằng nhóc mười bốn tuổi. Trời đang độ giữa tháng Sáu và mùa hè tưởng như một con lộ ngọt ngào chạy mãi tít tắp cho tới khuất tầm mắt, bị nuốt chửng bởi những ngọn đồi của mùa thu ở hàng vạn dặm xa xôi. Junior bước dọc theo con phố cách nhà nó hai lô đất, hai tay đút trong túi quần dài,  những ngón tay nắm chặt bộ xương chim. Làn gió ấm thổi nhẹ trên mái tóc nâu thằng bé, và trong làn gió ấy nó ngửi thấy mùi hoa hồng trong vườn bà Broughton. Bên kia đường, Eddie Connors và đôi thằng bạn đang hí hoáy sửa động cơ cho con Chevy phụt lửa đỏ rực của Eddie. Chúng nó lớn cả rồi, mười tám tuổi, toàn bụng bia. Đêm nào nằm trên giường Junior cũng nghe tiếng động cơ chiếc Chevy gầm rú dọc con phố như con hổ lồng lộn tìm cách phá cũi, cho đến khi tiếng la ó vọng lên từ nhà Napier tựa cơn lôi đình của Chúa và…..
Eddie ngước mắt nhìn lên, áo thun đẫm mồ hôi loang lổ vết dầu mỡ, một vết dầu quệt ngang cái mũi sưng phồng của nó trông như thổ dân da đỏ. Nó huých thằng đứng kế, Greg Cawthen, và thế là cả hai thằng cùng thằng thứ ba Dennis Hafner ngó sang bên kia đường, nhìn thấy Junior.
Junior biết chuyện gì sắp xảy đến. Chân nó đi đôi giày Keds xanh sáng bước lập bập trên vỉa hè lởm chởm, nơi những mảnh chai đang bắt nắng mặt trời. Nó cao hơn so với bọn đồng lứa, nhưng gầy nhẳng. Mặt thì dài và cằm thì chỉa. Đôi lông mày hợp vào nhau trên chiếc mũi mỏng nhọn. Biết vì sao mũi lại ở giữa mặt mày không? Bố nó hỏi. Vì đấy là trung tâm khứu giác (1). Đùa đấy, Junior. Một câu đùa đấy. Mày hiểu chứ? 
Cười đi, Junior!
TAO BẢO, CƯỜI ĐI! 
Đôi khóe miệng Junior xếch ngược lên. Hai mắt tối sầm và cặp má thì căng ra.
“Hey!” Eddie quát. Giọng nó dội vào tai Junior như tiếng tàu chở hàng, và Junior đứng sững lại. Eddie huých vào mạn sườn Greg đầy ẩn ý. “Đi đâu đới, bạn Đần?”
“Không đâu cả,” Junior đáp, chân nó dẵm lên mảng kiếng vỡ.
“Có đấy chứ.” Eddie đập đập cái cờ lê bỏ túi vào lòng bàn tay lực lưỡng. “Mày rõ ràng đang đi đâu đó. Không phải sao?”
Junior nhún vai. Tay nó dúi bộ xương chim xuống đáy túi quần. “Chỉ đi dạo thôi.”
“Thằng Đần quá ngu để biết nó đang đi đâu,” Dennis Hafner lên tiếng, từ cái mồm trông như một vết thương đỏ tấy. “Thằng dặt dẹo.” Đôi môi xấu xí buông ra những âm thanh chối tai.
“Này, Đần!”, Greg Cawtgeb nói, mặt nó vuông bạnh hồng hào với mái tóc đỏ húi cua. “Thằng già mày ở nhà?”
Junior ngước nhìn lên trời. Một con chim đang bay trên không, đơn độc giữa một màu xanh thẳm.
Nói chuyện với mày đấy, thằng chết đứng kia!” Eddie nói. “Greg nó hỏi lão già mày ở nhà à!”
Junior lắc đầu. Tim nó đập thình thịch, nó ước mình có cánh bay.
“À, đúng rồi!” Dennis gật gật đấm vào vai Greg. “Người ta lại nhét lão già thằng Đần vào trong nhà thương điên rồi. Mày không nghe nói à?”
“Thế à?” Eddie nhìn Junior đầy thâm hiểm. “Người ta lại nhét lão già mày vào nhà thương điên? Người ta nhốt ổng để ổng không làm hại ai nữa nhỉ?
Môi Junior cử động. “Không,” nó đáp. Nó thấy lạnh toát từ bên trong như ruột gan bị ướp đá.
“Sao người ta thả lão ra, nhỉ?” Eddie Connors tiếp tục, mắt nó híp lại thành hai khe hở thịt. “Nếu lão bị điên, sao người ta thả lão ra?”
“Ông ấy không…” giọng Junior yếu ớt, và nó ngừng lại lấy hơi. “Bố tôi không điên.”
“Đúng rồi!” Dennis ngoác mồm cười. “Chỉ có người sáng suốt mới bị bỏ vào nhà thương điên thôi!”
“Đó không phải…. không phải nhà thương điên!” Junior nói, ngày một to và gắt hơn nó mong muốn. “Đấy là bệnh viện!”
“Ồ, phải! Khác biệt quá nhỉ!” Eddie nói, cùi chỏ lại thúc vào mạn sườn Greg. Greg nhe răng ra cười, hàm răng to và trắng. Junior tự hỏi liệu xương của Greg Cawthen có trắng như răng hắn không. “Vậy là người ta bỏ lão vào bệnh viện cho người điên!”
“Bố tôi không điên.” Junior nhìn ngược về phía ngôi nhà của nó, nơi có cây du lớn trước sân. Tất cả những căn nhà trong khu đều giống nhau: cấu trúc bằng gỗ, hiên trước hẹp và thảm cỏ nhỏ vuông. Đa số cần được sơn sửa, cỏ khô và cháy, cây cối đổ bóng xanh theo ánh mặt trời. Quần áo treo dây sân sau, mấy hộp phế liệu sứt mẻ vứt chỏng chơ. Và đây đó những xác xe hơi cũ chỉ còn chờ ngày bị kéo về bãi đồng nát. Junior trở ánh nhìn lại về phía Eddie Connors, tay nó sờ sờ bộ xương chim trong túi - chính xác thì là một con chim giẻ cùi xanh. “Ông ấy bị suy nhược thần kinh,” Junior nói. “Chỉ vậy thôi.”
 “Chỉ vậy thôi?” Eddie làu nhàu. “Mẹ nó, mỗi thế thôi?” Nó bước xuống đường, tay vẫn đập đập cái cờ lê, và nó dừng lại cách Junior khoảng mười bộ. “Mày về bảo lão già mày đây là một nước tự do. Mày bảo lão tao có thể lái xe bất cứ lúc nào tao muốn, ngày hay đêm, và nếu lão thích rắc rối thì lão cứ đi gọi tụi cớm lần nữa. Bảo lão nếu thích rắc rối tao sẽ cho lão rắc rối”
“Suy nhược thần kinh,” Dennis nói, và lại cười. “Chỉ là cách nói khác của bệnh điên thôi, phải không?”
“Xéo đi!” Eddie nói với thằng nhóc. “Đi đi, thằng Đần! Xéo!”
“Đúng rồi!” Greg bồi. Nó không cưỡng được việc buông thêm một câu châm chọc. “Tao cá bà già mày cũng bị điên mẹ rồi!”
“XÉO!” Eddie quát, váng cả khu phố.
Junior lại tiếp tục bước đi, theo đúng hướng mà nó đã định, đi khỏi căn nhà có cây du mọc trong cái sân khô queo và nước sơn bong tróc từng dải trên hiên trước. Giọng bố nó vang lên, và nó nhớ lại cảnh bố nó ngồi trước cái TV, nguệch ngoạc trên một tập giấy vàng và nói rằng: Biết suy nhược thần kinh là gì không, Junior? Đó là khi mày dành một nửa thời gian tập trung làm việc và một nửa thời gian còn lại cố nhớ rằng mình phải làm việc.
Đùa đấy. Hiểu không?
Cười đi, Junior.
Junior cười.
“Thằng dặt dẹo!” Dennis Hafner hét vào lưng Junior. Và Eddie Connors nói với theo, “Một đất nước tự do! Bảo lão già mày thế, mày nghe tao nói không?”
Biết thế nào là bình thường không, Junior? Đấy là một người chưa một lần bị bác sĩ tâm thần tới thăm. 
Cười đi, Junior.
Nó bước tiếp, dọc theo con đường phủ đầy ánh nắng và bóng râm, những ngón tay gò lấy bộ xương trong túi và nó thấy thật buồn thảm.
Nhưng nó vẫn cười, trong cái ngày hè tươi đẹp này.

Junior quẹo phải ở lô nhà kế tiếp. Phía trước nó, chập chờn trong cái nóng, là quả đồi duy nhất phủ cây còn lại trong vùng này. Quả đồi xanh, rậm rạp ẩn chứa những bí ẩn. Đó đúng là một chỗ tuyệt vời, và chính là đích đến của thằng nhóc.
Trước khi bước tới cuối con phố, nơi có một con đường mòn gồ ghề dẫn lên khu đồi, Junior nghe thấy một tiếng giày thể thao trên vỉa hè phía sau nó. Ai đó đang chạy. Ý nghĩ đầu tiên của nó là Eddie Connors đã quyết định đuổi theo, nên nó quay người lại để đối diện với kẻ tấn công và ráng né đòn để khỏi bị vỡ mũi. Nhưng đấy chẳng phải Eddie Connors, hay bất cứ thằng nào giống hắn. Mà là một thằng nhóc vụng về yếu đuối với mái tóc xoăn nâu và cặp kính cận, và một nụ cười gượng trên khuôn mặt. Thằng nhóc ấy mặc một cái áo phông, đi quần lửng phơi đôi chân gầy đét, tất đen, và giày thể thao, và nó dừng lại ngại ngùng vì đuổi theo Junior. “Chào, Junior! Em thấy anh từ đằng kia!”. Nó chỉ vào một căn nhà phía xa xa, gần chỗ lô nhà Junior vừa quẹo. Thằng nhóc lại chĩa nụ cười gượng gạo của nó vào Junior. “Anh đi đâu đấy”
“Đâu đó,” Junior đáp, tiếp tục bước về phía khu đồi.
“Em đi cùng được chứ?” Wally Manfred bắt đầu lon ton chạy theo. Nó mới mười tuổi, đôi mắt xanh lam nở to sau mắt kính, và nó thực sự cần can đảm theo cái kiểu tồi tệ nhất. Junior nghĩ về Wally Manfred như một con chó nhỏ thích đuổi theo xe cộ và thích theo đuôi người lạ để được vuốt ve. “Được chứ, huh?”
“Không.”
“Tại sao không? Anh đi đâu đấy?”
“Đâu đó thôi. Về nhà đi, Wally.”
Wally câm lặng. Tiếng đôi giày thể thao trên vỉa hè cho thấy nó vẫn đang theo đuôi. Junior không muốn thằng nhóc thấy chỗ bí mật. Chỗ bí mật là của mình nó mà thôi. “Về nhà, Wally,” Junior nhắc lại. Thoáng chốc đã tới lối mòn vào rừng.
“Aw, đi mà!” Wally nài nỉ, và nó vọt lên trước mặt Junior. “Cho em đi với anh!”
“Tuyệt đối không.”
“Em có thể nếu em muốn!” Wally nói, giọng nó có vẻ giận dỗi.
Junior ngừng lại. Thế này không được. Không thể được. “Về nhà, Wally!” nó ra lệnh. “Về nhà!”
Wally cũng ngừng lại, và nó nhìn như thể sắp bật khóc tới nơi. Junior biết Wally sống cùng mẹ, ở trong căn nhà thậm chí nhỏ hơn cả nhà của nó, và bố Wally ra khỏi nhà mua một bao thuốc cách đây một năm, chẳng bao giờ thấy trở về. Hoặc câu chuyện ít nhất là như thế. Junior nghe lỏm được từ bố mẹ nó khi họ tưởng nó đã ngủ. Cha mẹ luôn có những bí mật của riêng họ, như trẻ con vậy. “Về đi,” Junior nói. “Tao không muốn mày đi cùng tao.”
Wally nhìn chằm chằm vào nó, khi ánh nắng hè bắt đầu ngả màu trên vai hai đứa.
“Tìm ai khác mà làm phiền,” Junior nói với thằng nhóc.
Wally lùi một bước. Mắt nó sũng nước phía sau cặp kính. “Tại sao không ai thích em?”
Junior bước vượt qua nó, và tiếp tục bước đi một mình.
“Em thích anh!” Wally nói vọng theo. “Tại sao anh không muốn làm bạn với em?”
Biết thế nào là bạn không, Junior? Ấy là người có cùng kẻ thù với mình.
Cười đi, Junior!
Nó đi tiếp, tự rẽ lối đi thẳng vào cánh rừng, sau khoảng năm mươi thước nó ngồi thụp xuống và đợi xem xem Wally Manfred có còn đi theo không. “Em không quan tâm!” nó nghe thấy tiếng Wally hét lên từ phía con đường. “Em vẫn thích anh!”
Junior đợi chừng mươi phút, dưới bụi rậm. Khi nó chắc rằng Wally không còn theo nó nữa, nó đứng dậy và tiếp tục cuộc hành trình.
Lối mòn dẫn xuyên qua những hàng cây cuối cùng của khu nó ở. Rác và chai lọ nằm la liệt trên mặt đất, chứng tỏ từng có những người khác nữa đã đi qua lối này, nhưng chỗ bí mật của Junior còn nằm ở xa trên khu đồi, cỡ một phần tư dặm nữa. Lối mòn trở dốc và càng ngày càng gồ ghề hơn, và Junior phải vật lộn bằng cách bám vào mấy cái rễ cây mọc ra từ sường dốc. Bỏ lại những mảnh rác sau lưng, nó trèo lên và đi sâu vào mảnh rừng xanh. Chỗ bí mật được che đậy rất kĩ, chính nó cũng chỉ tình cờ khám phá ra chỗ này tầm hai năm trước, trong một lần rong ruổi độc hành.
Cuối cùng thì nó cũng tới nơi. Một cái bồn nước rỉ sét màu nâu cao cỡ sáu mươi bộ, đặt trên đỉnh ngọn đồi, hoàn toàn bị che khuất bởi cây cối. Có một cái thang để trèo lên, và Junior bắt đầu trèo một cách đầy nhuần nhuyễn. Nó leo lên đỉnh bồn nước, đứng đó và nhìn về phía tây bắc.
Tòa cao ốc xám của thành phố Gotham hiện ra lờ mờ trước mắt nó, và ở thung lũng phía dưới là hàng ngàn những căn hộ, tòa nhà tủa ra từ Gotham trông như một ma trận phố xá nhằng nhịt. Có nhẽ chẳng còn gì xanh tươi ở đó nữa, chẳng có gì ngoài xi măng và gạch đá. Những nhà máy đứng sừng sững giữa bãi đồi và trung tâm thành phố, và sương mù hôm nay mang một màu nhợt nhạt, nâu mờ bám gần xuống mặt đất. Một trong những nhà máy dưới kia là công ty hóa chất nơi bố nó từng làm quản lý ca, năm ngoái, trước khi cơn suy nhược thần kinh xảy đến. Bố nó giờ vẫn làm việc cho công ty, nhưng chuyển sang làm nhân viên bán hàng và di chuyển suốt. Cái nhà máy đó có sáu ống khói cao ngút, và lúc này đây chúng đang phả từng dòng khói trắng lên bầu trời ảm đạm.
Junior cảm thấy mình như vị vua của thế giới này, ngồi tự trên điểm cao nhìn xuống. Nhưng còn mấy mảnh xương trong túi nó, còn chút việc cần phải hoàn thành.
Nó trở tới chỗ nắp bồn, nơi có chiếc bánh đà. Cái bánh đà này khá là khó vặn. Nhẽ ra nó nên mang theo một lọ Rust-Eater – một trong những sản phẩm của bố nó – và một cái búa, mà kể cả thế thì việc nới lỏng cái bánh cũng chưa chắc đã dễ dàng.
Junior gập người xuống và bắt đầu xoay cái bánh đà. Việc này khó khăn đến mức nó buộc phải lách cả vai vào để đẩy. Nắp bồn dần mở, và Junior nhấc nó lên, nhìn xuống phía dưới. Có một cái thang khác dẫn xuống đáy bồn rỗng không. Một làn khí khô nóng phả vào mặt thằng nhóc. Nó đợi cho nhiệt thoát bớt ra rồi mới từ từ bò xuống theo cái thang, sự háo hức ngập tràn tâm trí nó như một cỗ máy nhỏ được bơm đầy dầu.
Một niềm hạnh phúc nho nhỏ khi được trở về giữa đống đồ chơi của mình.
Nó trở ra khi chiều đã hạ nhiệt. Túi nó trống không. Rời khỏi bồn nước, nó đi ngược theo hướng nó tới, xuyên qua khu rừng, và trở về nhà.
Eddie Connors và mấy thằng bạn không thấy đâu cả, nhưng con Chevy đỏ vẫn ở đó. Junior dừng chân trước nhà bà Broughton và rướn người qua hàng rào ngửi một đóa hồng, trong khi ánh mắt vẫn đảo trước sau, cảnh giác Eddie, hay bất cứ ai khác. Có mấy lon bia nằm lăn lóc chỗ chiếc xe. Junior nhìn chúng chằm chằm, trong khi tay bắt đầu xé cánh hoa một đóa hồng vàng. Rồi nó băng qua đường tới chỗ chiếc Chevy, lấy một nắm đầy bụi và cát từ sân nhà Connors, mở nắp bình xăng và lanh lẹ ném vào trong. Nó rửa tay bằng chút bia cặn trong một cái lon, đóng nắp bình, và trả lon bia về chính xác nơi nó vừa nằm.
Junior về nhà miệng nhoẻn cười.

Mẹ nó đang quỳ gối ở phòng trước, chà chà tấm thảm sợi quanh cái ghế tựa đối diện ti vi.
 “Ông ta đang về!” Mẹ nói, đôi mắt hoang dại trên khuôn mặt xanh xao. “Ông ấy gọi điện! Bảo sẽ về nhà lúc sáu giờ!”
Hai tiếng. Junior đã biết được lịch trình. Không có thời gian để lãng phí nữa. Nó cố nén nỗi kinh hoàng đang đe dọa trỗi dậy từ bên trong, nhanh chóng đi vào trong căn phòng tối của mình, và bắt đầu sắp chỉnh kệ sách, đặt chúng theo thứ tự bảng chữ cái. Nếu như có một điều mà bố nó muốn, thì đó chính là sự ngăn nắp giữa thế gian hỗn loạn này.
Ồ đúng: còn một thứ nữa.
Cười đi, Junior! Cười đi, bà xã!
TAO BẢO, CƯỜI ĐI!
Xong kệ sách, Junior bắt tay vào tủ quần áo. Đồ xanh ở một chỗ, đồ trắng ở một chỗ, rồi tới đồ đỏ và đồ lục. Tất cả giày đều buộc dây. Tất chân cuộn lại. Mọi thứ ngăn nắp đâu vào đấy. “Giúp mẹ!”, mẹ nó gọi, giọng trở nên điên loạn. “Junior, giúp mẹ chùi cái sàn bếp! Nhanh lên!”
“Dạ, Mẹ,” nó đáp, và nó bước vào bếp nơi mẹ nó đang cật lực với mấy miếng gạch hoa nơi mà sẽ chẳng bao giờ cọ sạch được, chẳng bao giờ, kể cả dùng ngàn năm chà cọ, kể cả dùng Stain-Away.
Lúc sáu giờ kém bốn phút, họ nghe tiếng xe hơi rẽ vào ngõ. Họ nghe tiếng động cơ ngừng chạy, và tiếng cửa lái bật mở. Họ nghe tiếng ông ta đi tới, và bà mẹ nói với đứa con, “Bố đã về!” Bà nhoẻn một nụ cười tệ hại, và đi tới cửa trước.
“Anh yêu!” bà nói với người đàn ông cao mảnh khảnh trong bộ đồ nâu sẫm đang bước vào nhà, tay xách vali đầy hàng mẫu. Bà ôm lấy ông ta một cách cứng nhắc, rồi buông ra ngay khi có thể. “Chuyến đi thế nào?”
“Ừ thì,” Bố đáp. “Cám ơn em. Đây là công việc duy nhất mà anh biết giúp ta có bữa sáng ở Lynchton, bữa trưa ở Harrisburg và bị khó tiêu ở Fremont.” Mắt ông ta, đen mờ hơn cả của đứa con, dò xét khuôn mặt họ. “Đùa đấy,” ông nói. “Một chút mỉm cười thì sao nhỉ?”
Mẹ bật một nụ cười tươi rói, gượng gạo. Junior cúi đầu nhìn sàn nhà, cười với một cái hàm nhức nhối.
“Tới ôm ta nào,” Bố nói. “Biết ôm là gì không? Sự tự do trong cái siết chặt.”
Junior bước tới ôm bố với đôi tay khắc khổ.
“Chàng trai ngoan,” Bố nói. “Biết chàng trai là gì không? Một sự thèm khát đội lốt da người. Bữa tối ăn gì thế, bà xã?”
“Em đang định bỏ gà tây vào lò.”
“Bữa tối gà tây.” Bố gật gù. “Ừ, ổn đấy. Một tối tuyệt vời cho mấy trò vui. Gà tây: ấy là một con chim sẽ bớt đi đứng vênh vang đi nhiều nếu đoán được tương lai phía trước.”
Họ cười không đủ nhanh. Bố nện cái vali xuống chiếc ghế tựa, âm thanh khiến hai mẹ con nhảy dựng lên  “Mẹ nó, cái nhà này hạnh phúc biến đi đâu rồi? Đây có phải cái nhà tang lễ không thế? Tao từng thấy người chết còn cười tươi hơn thế này! Mà cũng phải, chết thì đéo cần đóng thuế nữa mà! Chúng mày làm sao thế? Chúng mày đéo hạnh phúc à ?
“Bọn em hạnh phúc!” Mẹ nhanh chóng đáp. “Chúng ta thực sự hạnh phúc! Phải không, Junior?”
Junior nhìn khuôn mặt bố nó. Một khuôn mặt láng mịn với gò má nhọn và cứng. Đôi mắt bố nó tối đen sâu thẳm, và chứa trong bóng tối ấy là một cơn thịnh nộ đang xôn xao chờ đợi. Nó sẽ tràn ra mà không báo trước, nhưng thường thì nó nằm lại trong đầu Bố, sục sôi trong hỗn hợp của những câu đùa bất tận và những nụ cười nghiến răng. Vì đâu mà nảy sinh ra nó, Junior không biết, và nó đoán bố nó cũng không biết. Nhưng đùa chính là áo giáp và vũ khí, và Bố mặc chúng lên như thể những chiếc gai kim loại.
“Vâng, thưa ngài,” Junior đáp. “Con hạnh phúc.”
“Hãy nhớ lấy lời tao nói.” Bố đặt một ngón tay chỉ vào ngực thằng nhóc. “Người ta thích mỉm cười. Nếu mày làm người ta mỉm cười được, thì mày sẽ thành đạt. Người ta cũng thích nghe dăm ba câu đùa. Người ta muốn được cười to. Biết cười rộ là gì không? Là một nụ cười biết nổ!” Ngón tay di chuyển tới một bên khóe miệng Junior và nhấc nó lên, rồi nhấc nốt bên còn lại. “Đó,” Bố nói. “Đây là thứ tao muốn thấy.”
Mẹ quay đi, trở vào bếp và nhét 3 con gà tây vào trong lò. Rồi Bố bắt đầu cuộc thẩm tra hàng tuần của mình quanh căn nhà – một chuyến lang thang từ phòng này sang phòng nọ trong khi phun ra mấy câu đùa và bình phẩm mà tự cho là hài hước, nhấn mạnh mỗi lần mở ngăn kéo hay cửa tủ. Phần còn lại của buổi tối sẽ là xem ti vi cùng Junior, coi mấy bộ hài nhảm, chép nguệch ngoạc lên tập giấy vàng mấy câu đùa hay đối thoại mà ổng thấy thú vị. Lúa cho cối xay cười, ông bảo thế.
Đùa đấy, Junior.
Cười đi.
Đôi khi giữa tiểu phẩm thứ ba và thứ tư của buổi tối, Junior mở cửa đi xuống cầu thang chỗ tầng hầm bụi bặm. Nó bật bóng đèn lên, nhặt lấy cái đèn pin, thứ luôn nằm đúng một chỗ, rồi đi tới góc cuối tầng hầm. Nó nhấc một cái hộp các tông lên và nhìn lũ gián tán loạn dưới ánh đèn pin.
Đám kiến đang tụ lại. Chúng đang làm việc rất tốt. Con sóc chuột gần như trơ còn xương, và xương con mèo con cũng đang bắt đầu lộ ra. Sẽ chẳng lâu nữa đâu. Nhưng Junior thì hay thiếu kiên nhẫn với đám đồ chơi. Tầng hầm ẩm ướt, tường đầy nấm mốc. Nó tự hỏi nó có thể thu hoạch xương nhanh hơn nếu để mấy cái xác ở một nơi khô ráo hay không. Nó nhấc cái hộp thứ hai lên, nhìn vào thành quả mới nhất. Một con Dơi chết nó tìm được trong căn nhà hoang gần chỗ nhà thờ cách đây ba dãy, và một con chim Cổ Đỏ giựt được từ mõm một con mèo mới ngày hôm qua thôi (2). Chúng sẽ bốc mùi sớm. Cái mùi sẽ bốc lên trong căn nhà này, khi những ngày hè nóng dần. Junior đã luôn muốn giết một con chó hay mèo trưởng thành để coi xương chúng trồ ra, nhưng mùi sẽ nặng lắm và mẹ nó sẽ đi xuống phát hiện ra mất. Bố nó thì nó lại không lo; chẳng có gì kéo được ổng ra khỏi những tiểu phẩm và tập ghi chú vàng cả.
Nhưng nếu nó muốn tìm những món đồ chơi to hơn, có lẽ nó sẽ cần chỗ nào đó khác để trữ.
Chín giờ bốn mươi phút, Junior ngồi trong phòng khách ngắm bố mình ngáy trên cái ghế tựa. Mẹ nó đang nghe điện thoại trong bếp, nói chuyện với bạn tên Linda Shapona, người sống cách đây vài dãy phố. Họ học chung trường cấp ba, và Linda có một tiệm làm đẹp ở Đại Lộ Kerredge. Hầu như tối nào Mẹ cũng nghe điện thoại; đó là sự giải thoát duy nhất của bà. Ti vi vẫn đang bật, tiểu phẩm cuối của chương trình hài đêm. Tập ghi chú vàng trượt xuống đất, và Junior nhặt lên coi bố nó đã viết những gì trong đó.
Khá là khó để đọc mấy dòng chữ. Trông như cây bút đã chọc lên nền giấy thì đúng hơn. Junior chỉ đoán được một vài trong số hàng tá những câu đùa và chơi chữ chép tay này, chữ chồng chéo nhau như một cái tổ gai.
Sếp. Ở sở thì to mồm, ở nhà thì kêu chít chít.
Màu yêu thích của một nhà ngoại giao là gì? Kẻ sọc.
Thiên đường là nơi Chúa trả mọi chi phí. 
Trung niên là khoảng thời gian trong đời khi bạn mỉm cười với một cô gái và ả nghĩ bạn quen biết ả. 
“Muộn rồi.”
Junior nhìn lên. Bố nó mắt sưng lên, đang nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ đeo tay dưới ánh đèn mờ. “Trời. Mình ngủ quên à?”
“Vâng, thưa ngài.” Junior đặt tập ghi chú xuống cạnh chiếc ghế. Bố nó vặn người làm mấy cái khớp kêu rắc rắc.
“Hôm nay chắc mệt sớm. Ta còn không biết mắt mình díu lại.”
“Vâng, thưa ngài,” Junior đáp.
Bố nhặt tập ghi chú lên và kiểm tra nó. Khuôn mặt Bố bắt sáng tự nhiên trông thật già, khiến Junior nhớ tới bộ sưu  tập đầu lâu ở Bảo tàng Gotham, một trong những nơi nó thích đến vào thứ Bảy. “Người ta thích mỉm cười,” Bố nói, bằng một giọng trầm lắng. “Họ thích một kẻ hay nói đùa. Một kẻ hạnh phúc.”
Junior giật thót mình, nó vừa nghe tiếng động cơ xe xộn xạo. Bố nhòm về hướng cửa trước, tưởng như con Chevy đỏ của Eddie Connors đang sắp sửa rồ lên hiên mà đâm vào trong căn nhà. Eddie nhấn ga mấy phát, sẵn sàng đánh cua cháy khét một mảng trên con phố trước mặt - thế rồi cái xe kêu khục khặc, và vài giây sau nó chết máy.
“Ơn Chúa,” Bố nói, thở dài nhẹ nhõm. “Ta không chịu nổi cái tiếng ấy. Nghe thật đau đầu.”
Junior gật. Eddie Connors đêm nay sẽ không quậy phá đường phố được nữa.
Bố nhìn thằng con. Họ chăm chú nhìn lẫn nhau, hai khuôn mặt giống nhau từng cấu trúc xương và thịt. Những nhân vật trong tiểu phẩm lảm nhảm gì đó, và tiếng cười giả rộ lên tràn ngập căn phòng. “Con là con trai ta, đúng không?” Bố hỏi. 
“Vâng, thưa ngài.”
“Con trai ta,” Bố lặp lại. “Và con sẽ không trở thành một kẻ cho rằng thế giới này nợ hắn một ân huệ, đúng chứ?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Đùa đấy. Cười đi.”
Junior y lệnh.
Bố nó cúi người về phía nó. Gần ngày một gần. Junior có thể thấy những vệt mồ hôi lấp lánh trên má và trán bố nó. Làn da có mùi chua, và đôi mắt tựa gương đen. “Junior?” Bố nó thì thầm. “Ta muốn kể con nghe một bí mật. Biết bí mật là gì không? Là bất cứ thứ gì đàn bà không biết. Nhưng ta muốn nói với con, vì con là con ta.” Khuôn mặt bố nó bồng bềnh trước mặt nó trong ánh sáng mờ ảo, một nửa khuất đi như ánh trăng tàn. “Ta sợ,” Bố thì thào.
Ông nuốt khan, trong khi tiếng cười giả lại rộ lên. “Ta sợ sẽ lại bị bệnh.”
Junior không nói. Một mạch máu nhỏ giật mạnh trên thái dương nó, và môi nó tái nhợt.
“Đôi khi,” Bố nói, “Ta thấy thế giới này xoay chuyển nhanh tới mức như sắp văng ta ra ngoài. Đôi khi ta cảm thấy bầu trời nặng quá, như thể sắp đè sập ta nghẹt thở. Người ta cho ta cơ hội thứ hai, ở công ty. Người ta nói ta khéo mồm, ta có thể khiến người khác cười nên ta ắt sẽ bán được hàng.” Một tia cười loáng qua môi ông như thủy ngân, nhưng đôi mắt ông vẫn đen thẳm. “Một nhân viên bán hàng. Ấy là một kẻ hai chân đạp đất và nhận chỉ thị từ một người hai chân chạm bàn.”
Junior không cười.
“Ta tưởng như … cơn gió muốn mang ta đi, Junior. Ta thấy mình không vững chãi được nữa. Ta không biết vì sao. Chỉ là… Ta không giữ được hạnh phúc.”
Junior không di chuyển. Nó có thể nghe tiếng mẹ nó đang gọi điện thoại. Nó nghĩ tới đống đồ chơi dưới hầm, chầm chậm bào mòn bởi kiến và gián, chầm chậm từng giờ từng giờ.
“Ta không thể quay lại bệnh viện đó,” bố nó thì thào, ngay trước mũi nó. “Ta không chịu nổi chỗ đó. Ở đó người ta chẳng biết cười. Như thể là Địa Ngục với ta vậy, Junior ạ. Một nơi chẳng ai biết cười. Nếu ta phải quay lại đó … Ta chẳng biết sẽ phải làm gì nữa.”
“Bố?” giọng Junior yếu ớt. “Con ... ước gì bố không ... nói chuyện như thế này.”
“Có gì sai khi ta muốn hạnh phúc chứ?” Bố nó hỏi. Không còn thì thào nữa. “Hạnh phúc có phải tội không? Có phải là một con mẹ nó tội không?” Bố nó dần lớn giọng, và hướng ánh nhìn về phía sau lưng Junior. “Biết không, đấy là vấn đề của cái thế giới này! Chúng tước đi mọt thứ từ mày, và rồi chúng còn giật cả nụ cười trên khuôn mặt mày! Tốt thôi, đừng hòng tao cho! Chúng nó sẽ phải bước qua xác tao! Chúng vùi dập ông già tao, ổng khóc tu tu với cái chai trong tay và tao nói con sẽ lại làm bố cười, con sẽ, con sẽ làm bố cười, con sẽ làm bất cứ thứ gì để bố cười, nhưng đời vẫn vùi giập ổng! Bởi vì một thằng đang cười là một thằng nguy hiểm! Chúng nó giật nụ cười của mày, làm mày suy kiệt! Nhưng tao không cho phép. Tao thề có Chúa tao không cho phép! Và mày là một phần của tao, Junior, là con trai tao, là xương là thịt của tao!” Một tay gân guốc của Bố nắm lấy vai thằng nhóc. “Đời sẽ không vùi dập được chúng ta đâu, phải không?”
“Vâng, thưa ngài,” Junior đáp, vô hồn, nhưng trống ngực nó đập thình thịch.
“Junior?” Tiếng mẹ nó. Bà đang đứng ở lối đi giữa hành lang và bếp, hai tay bám chặt lấy tường như những con nhện trắng. Đôi mắt bà dõi từ thằng con tới ông bố, và qua tiếng cười ồn từ tivi Junior nghe thấy bố nó hắng giọng, thở chậm lại. “Sao con không chuẩn bị đi ngủ đi nhỉ? Được chứ?” Mẹ nó nói.
Một khoảng lặng kéo dài. Rồi bố nó cất lời, “Giữ bí mật nhé,” (3) và bỏ tay khỏi vai nó. Khi Junior bước tới hành lang dẫn về phòng, bố nó nói tiếp, “Biết mẹ là gì không, Junior? Ấy là một người phụ nữ dành hai mươi năm nuôi lớn một thằng đàn ông để rồi một người phụ nữ khác chơi đùa với hắn chỉ trong hai mươi phút.” Junior vẫn đi tiếp, bên trong nó rung chuyển. Nó bước thêm ba bước nữa trước khi bố nó tiếp lời, giọng nhẹ nhàng, “Tối nay nhớ khóa phòng lại.”
Junior sững lại. Nỗi sợ hãi là nó tê liệt. Những lời đó rất ít khi được nói, nhưng Junior ngay lập tức hiểu nó nghĩa là gì. Nó nhìn mẹ nó, người đã xọp hẳn đi, làn da biến màu xám nhạt.
“Khóa phòng,” Bố nó nhắc lại. Ông đang nhìn chằm chằm vào màn hình vô tuyến. “Nhớ cầu nguyện nhé?”
“Vâng, thưa ngài,” thằng nhóc trả lời, và nó bước vào phòng, khóa cửa lại. Rồi nó đặt lưng lên giường và nhìn lên trần nhà, nơi những vết nứt ngoằn ngoèo trên trần thạch cao.
Sáng mai, nó có thể vờ rằng nó đơn giản gặp phải một cơn ác mộng kinh hoàng. Nó có thể vờ rằng nó chẳng nghe thấy gì. Khi kim đồng hồ điểm quá nửa đêm, tiếng bố nó làu bàu ồn vang qua tường, luôn mồm - ra lệnh - và mẹ nó yếu ớt cầu xin. Nó có thể vờ rằng nó không có nghe thấy tiếng bố nó quát mẹ nó phải cười, phải cười, lấp đầy căn nhà này bằng tiếng cười. Cười và cười cho tới khi tiếng bà trở thành tiếng hét. Và rồi tiếng vụt của thắt lưng, tiếng cái đèn bay vụn vỡ, chiếc giường kêu lên một cách dã man và tiếng mẹ nó khóc nức nở chìm trong sự im ắng đáng sợ sau đó.
Cười đi, Junior.
TAO BẢO, CƯỜI ĐI!
Hàm răng nó nghiến lại. Nó nằm đó, màn đêm phủ xuống và bóng tối tràn ngập bên trong căn nhà.

Khi nó thức dậy, mặt trời đã lại rực rỡ. Bố nó đã đi, cái vali và tập ghi chú cũng vậy. Mẹ nó đang làm cho nó bữa sáng. Môi bà sứt một miếng, nhưng mấy vết bầm tím thì đều đã bị giấu đi. Bà nhoẻn miệng và bật cười, một thanh âm mỏng manh, bước vòng qua bếp, và khi bà hỏi Junior định làm gì hôm nay thì nó đáp nó đã có kế hoạch rồi.
Nó rời khỏi nhà từ sớm, hướng thẳng tới chỗ bí mật. Nó đi ngang qua con Chevy đỏ của Eddie Connors, giờ như một con ngựa giống bị thiến nằm trên lề đường. Sẽ phải tốn nhiều hơn một cái cờ lê để để thông được bình xăng. Nó đi tiếp trên con con đường xen kẽ giữa ánh nắng và bóng râm, và nó bước một mình.
Trên nóc bồn nước nơi đỉnh ngọn đồi, Junior đứng ngắm những nóc nhà của Thành phố Gotham. Khói nhả ra từ những cái nhà máy, các huyết lộ kẹt cứng những xe, và cuộc sống vẫn tiếp diễn dù cho ông già mày có điên hay là không.
Junior mở nắp bồn, và đó là lúc nó nghe thấy tiếng người réo.
“Hey, Junior! Hey, em ở dưới này!” Nó bước tới chỗ rìa, cúi đầu ngó xuống mảng đất xanh, nơi có Wally Manfred với cái áo phông và chiếc quần lửng đang đứng, lần này thằng nhóc đi tất tím với giày thể thao. Wally đang cười toe toét, ánh dương lấp loáng trên cặp mắt kính. Wally vẫy tay với nó. “Em thấy anh rồi!”
Junior thấy mắt mình nheo lại. Thấy cơ mặt mình siết quanh những cái xương sọ thừa kế từ bố. Thấy cơn giận gào thét từ bên trong như một đóa hoa đen tối nở bung những hạt giống ra ngoài.
“Em theo đuôi anh!” Wally nói. “Lừa được anh rồi, nhỉ?”
Junior rùng mình. Một cái rùng mình gọn ghẽ và khẽ khàng, nhưng lại giống như một trận động đất và để lại những vết nứt vụn tự bên trong.
Nới bí mật đã bị phát hiện. Thiên đường cô độc không còn là của mình nó nữa. Thế rốt cục còn thứ gì nó có thể sở hữu cho riêng mình nữa nếu không phải là những món đồ chơi cất giữ trong bồn nước này?
“Anh đang làm gì trên đó thế?” Wally gọi.
Junior làm mặt bình thản. Nó nhoẻn một nụ cười, qua làn da nóng bừng. Nó mở miệng, và nói,
“Leo lên đây.”
“Đây là nơi anh thường đến à? Nhìn cao quá!”
“Leo lên đây,” Junior lặp lại. “Thang chắc lắm.”
“Em không biết.” Wally đá một viên sỏi bằng đỉnh giày.“Em sẽ ngã mất.”
“Anh không để mày ngã đâu,” Junior nói. “Thật đấy.”
“Có lẽ em sẽ leo lên một nửa,” Wally nói, và bắt đầu trèo lên thang.
Junior sẽ phải làm gì tiếp, nó chẳng biết. Sớm hay muộn thì Wally sẽ đi hớt lẻo với người khác về chỗ bí mật. Wally thậm chí có thể tới đây một mình, mở nắp bồn, và nhìn ngó bên trong. Wally sẽ kể với mẹ nó, mẹ nó sẽ đi nói với mẹ Junior, và rồi…
Họ sẽ hiểu nhầm. Họ sẽ nghĩ nó giống bố nó. Họ sẽ muốn tống nó vào viện nơi bố nó từng đến, cũng là nơi chắc bố nó cũng sẽ sớm quay trở vào. Họ sẽ nghĩ nó có vấn đề, và nó bị như vậy từ rất lâu rồi nhưng giấu diếm chẳng để ai thấy.
“Em lên được nửa đường rồi!” Wally gọi. Thằng nhóc vẻ sợ hãi. “Chắc em nên thôi!”
Junior đang nhìn về phía Thành phố Gotham, một khu vườn của đá. “Leo nốt chỗ còn lại đi,” nó nói nhẹ nhàng. “Anh có … một câu đùa cho mày này.”
“Em nên leo xuống thì hơn!”
“Một câu đùa hay lắm. Cố lên nào, Wally. Cố lên nào.”
Im lặng. Junior đợi chờ. Và rồi nó nghe tiếng Wally trèo nốt quãng đường còn lại. Junior nói, “Một chàng trai ngoan. Biết chàng trai là gì không? Biết chàng trai là gì không? Một sự thèm khát đội lốt da người.
Wally lên được tới đỉnh bồn nước. Mặt nó lấm tấm mồ hôi, và cặp kính trượt hết xuống tận đỉnh mũi. Người nó run rẩy khi rời khỏi thang và đứng thẳng dậy.
“Một góc nhìn thật đẹp về phía Thành phố Gotham. Thấy không?” Junior chỉ.
Wally quay người nhìn về hướng thành phố. “Wow,” nó trầm trồ, Junior ở sau lưng nó.
Một cú đẩy.
Sáu bộ cao.
Kéo Wally vào trong bụi rậm, giấu nó đi. Mà, Wally là ai nhỉ? Nó chẳng là gì cả, nhẽ ra nó không nên lén tới đây, chỗ bí mật. Một cú đẩy, và bí mật lại trở thành bí mật. Nhưng Junior khoonng di chuyển, và Wally quay người lại nhìn vào bên trong cái lỗ cửa. “Có gì trong này thế?” nó hỏi.
Một tia sáng lóe lên trong óc Junior, những gì nó sắp phải làm đã rõ ràng hơn bao giờ hết.
“Muốn xem không?” Junior hỏi, mỉm cười. Người nó lạnh toát, dù đang đứng dưới ánh nắng hè, và nó run lên dù mồ hôi chấm đầy lưng.
Wally bước thận trọng tới cái lỗ cửa và dòm xuống, nhưng bên trong quá tối nên nó chẳng thấy gì. “Em không biết.”
“Anh sẽ xuống trước. Có cái đèn trong đó. Muốn xem không?”
Wally nhún vai. “Chắc được.”
“Chỉ cần từ từ và nhẹ nhàng leo thang xuống,” Junior bảo thằng bé. “Wally? Mày thích anh, đúng không?”
“Yeah.” Wally gật trong khi vẫn nhìn vào cái lỗ cửa.
“Xuống đây theo anh,” Junior nói, và nó trượt vào trong cái lỗ, bắt đầu bước theo thang.
Được một chốc, Wally Manfred xuống theo. Junior chạm đáy và nhặt cái đèn pin nó mang tới từ lần trước. Nó chưa vội bật đèn lên, và Wally giọng lo lắng, “Đèn đâu rồi?”
“Anh có đây rồi. Cứ leo xuống đi.”
“Ở đây mùi tệ quá. Nóng nữa.”
“Không, không hề” Junior đáp. “Mọi thứ ổn cả.”
Wally chạm sàn bồn. Tay nó quờ tìm tay Junior. “Em chẳng thấy gì cả.”
“Ánh sáng này,” Junior nói, và bật đèn lên. Một tia nhiệt lóe lên trong óc nó, và mạch thái dương nó đập mạnh. “Thấy đồ chơi của anh chứ?” nó hỏi, tay đưa ánh đèn lướt qua lại. “Anh tự làm chúng đấy.”
reached the tank's floor. His hands found Junior's arm. “I can't see anything.”
Wally câm lặng.
Dây lòng thòng từ những chiếc ống nước trên đầu, và trên những dây ấy là những chiếc xương.
Phải có đến cả ngàn. Những cấu trúc dây và xương – xương chim, mèo con, chó nhỏ, sóc chuột, sóc rừng, thằn lằn, chuột đồng, chuột cống và rắn. Junior không hẳn tự tay giết tất cả chúng; chủ yếu là xác chết nó lượm được, trong những chuyến rong ruổi một mình. Chắc nó chỉ giết đầu tầm bốn chục trong số chúng, mấy con mèo con và chó nhỏ, và vài con chim gãy cánh. Nhưng mớ xương xẩu đã được tái định hình, với dây rợ và lòng nhẫn nại, trở thành một hình dạng mới lạ trông không hề giống bất cứ thứ gì từng tồn tại. Đó là những con chim sọ mèo, những con mèo có cánh. Đó là hỗn thể của chuột và cún con, sóc chuột có mỏ, và vài thứ khác với tám chân, ba đầu, với xương lồng ngực lồng vào nhau như cặp sinh đôi người Xiêm. Đó là những thứ quái đản và tởm lợm, được cấu trúc từ trí tưởng tượng của Junior. Và tại đây, trên những sợi dây, là thành quả của điều duy nhất trên thế gian này khiến Junior hứng thú và thực sự mỉm cười: Cái chết.
“Em… nghĩ… em nên về nhà thì hơn,” Wally nói, giọng nghèn nghẹt.
Junior nắm lấy cổ tay thằng nhóc, và giữ nó lại. “Anh muốn mày xem đồ chơi của anh, Wally. Chúng không đẹp sao?” Nó tiếp tục lia đèn, hết tác phẩm này tới tác phẩm khác. “Tốn công sức để làm lắm đó. Cần một đôi tay cẩn thận nữa. Mày thấy không?”
“Em phải về nhà, Junior! Được chứ?”
“Tao đã làm rất tốt,” Junior nói. “Tao tạo nên những thứ thậm chí Chúa cũng không làm nổi.”
“Junior, anh làm đau tay em!”
“Mày thích tao, không phải sao?” Junior hỏi, tay vẫn lia đèn lên những con dị quái.
“Yeah! Em thích anh! Thả em ra, được chứ?”
Junior nuốt khan. Khuôn mặt nó ướt mồ hôi, tim nó đập dồn dập. “Không ai thích tao,” nó nói, “mà xứng với bất cứ thứ gì.”
Nó thả Wally ra, tay nhặt lấy cái búa nằm dưới chân thang cạnh cuộn dây, kìm cắt dây, keo và một bình Rust-Eater. Wally đang cố trèo lên bậc đầu tiên của cái thang, nhưng Junior cười toe toét và vung cái búa vào gáy Wally. Lòng nó tràn ngập vui thú.
Wally bắt đầu khóc, nó rớt xuống khỏi cái thang. Trong nhịp rơi của thằng nhóc, những bộ xương quái đản rung lên như đang nhảy múa. Nó ráng vực dậy bằng đầu gối, và Junior đứng ngắm nó vật lộn một lúc. Một dòng đỏ tuôn ra từ đầu Wally.
Junior nghĩ về bố, ngồi nguệch ngoạc mấy câu đùa phát sốt trên tập ghi chú vàng. Junior nghĩ về mẹ, tiếng bà nức nở lọt vào phòng đêm nó khóa cửa.
Cười đi, Junior.
TAO BẢO, CƯỜI ĐI!
Wally kêu như một con mèo con bị thương.
“Biết cười rộ là gì không?” Junior hỏi.
Wally không trả lời.
“Ấy là một nụ cười,” Junior nói, “biết nổ.”
Nó lại vung cây búa vào gáy Wally. Rồi thêm một nhát. Và một nhát nữa. Wally giờ nằm áp bụng xuống sàn và không còn phát ra tiếng nữa. Junior giơ cây búa đỏ lòm lên để đập Wally Manfred thêm nhát nữa, nhưng nó dừng lại.
Cái sọ chả còn gì để mà đập nữa.
Junior ngồi xuống bên cạnh cái xác, kiểm tra để chắc rằng không bị vương máu lên áo quần. Nó lắng nghe tiếng xào xạc của đống đồ chơi trên đầu. Bí mật lại trở về với bí mật, thuận theo con tạo xoay vần.
Một lúc sau, nó chọc vào xác Wally bằng cây búa. Nó chọc khắp cơ thể, coi xem có bao nhiêu thịt phủ trên người thằng nhóc. Wally là một thằng nhóc gầy gò. Sẽ chẳng lâu đâu. Wally chẳng bao giờ biết mình là một bộ lắp ráp biết đi, với những bộ phận thật vừa khít.
Junior tắt đèn và mỉm cười trong bóng tối.
Nó là một thằng nhóc hạnh phúc.
Nó trả cây búa về đúng chỗ. Trên đỉnh bồn, nó vặn cái cửa lại thật chắc chắn. Có lẽ nó sẽ quay lại sau một tháng nữa để coi tiến độ công việc. Nghe như chuẩn bị được mở quà Giáng sinh ấy nhỉ?
Junior đứng thẳng dậy và nhìn về hướng Thành phố Gotham với đôi mắt đen tối, rỗng không.
Ống khói nhà máy hóa chất đang nhả một hỗn hợp khói trắng, đỏ nâu, và xanh lợt. Sương mù phủ một lớp mỏng trên khoảng không giữa chỗ nó đứng và những tòa tháp của Gotham, và chúng lấp loáng như một điều huyền bí trong cái ngày hè tuyệt đẹp này.
Junior leo thang xuống đất và quay về nhà, xuyên qua khu rừng. Cảnh tượng cây búa vung lên đập vào thịt tươi cứ lặp lại mãi trong đầu nó, và mỗi lần lặp lại tuyệt vời hơn lần trước.
Trên đường trở về nhà, nó nảy ra ý tưởng cho một câu đùa mà chắc chắn nó phải kể với Bố : Vì sao một cái xác lại giống một căn nhà cũ?
Vì chúng đều là đồ của nợ. (4)
Cười đi, Bố.


Chú giải của người dịch
(1) : Nguyên gốc "Because it's a scenter". Scent là khứu giác. Ở đây chơi chữ đồng âm scenter - center, tức trung tâm, ở giữa.
(2) : Một con dơi (Bat) và một con chim Cổ Đỏ (robin), ám chỉ hai nhân vật mà ai cũng biết là ai đấy.
(3) : Nguyên gốc "Mom's the word", đồng âm với "Mum's the word" - Giữ bí mật điều gì, một thành ngữ phổ dụng, từng được William Shakespeare dùng trong tác phẩm Henry VI. Từ Mum trong tiếng Anh trung cổ có nghĩa là im lặng. Ở đây tác giả chơi tiếng lóng Mum-Mom, cho nên câu này cũng có ý nói là "Nghe lời mẹ nói chưa". Và cũng vì thế nên sau đó Bố Junior mới có câu joke "Biết mẹ là gì không?".
(4) : Nguyên gốc "morgued age". Morgue có nghĩa là nhà xác. Morgued age đồng âm với từ Mortgage, có nghĩa là đồ thế chấp, ám chỉ căn nhà cũ.

Nguyên tác : "On a Beautiful Summer's Day, He Was"
Tác giả : Robert McCammon
Xuất bản lần đầu trong tập The Further Adventures of the Joker năm 1989.