CÁC PHẦN TRƯỚC


Tôi ngước nhìn Errant. Bây giờ mọi thứ đã quá rõ ràng.
ERRANT. LÀ LANG THANG.
Đúng định nghĩa là “Đi đó đây để tìm kiếm những chuyến phiêu lưu.”
Một “Errant Knight” là một “Hiệp khách giang hồ”, là một hiệp sĩ phiêu bạt đó đây (a roving knight)
R’overknight. Đó là ông ta.
Tôi nhận thấy Brooke đang nhìn chúng tôi khá công khai, chẳng còn cảnh giác gì. Cô ấy đang áp mặt vào cả tấm kính, hơi thở của cô ấy tạo thành một lớp màn sương nho nhỏ.
“Ông không nên ở đây.” Tôi nói với Errant.
“Tôi biết.” Ông ta ra một cử chỉ ra hiệu tôi hãy bình tĩnh, giọng nói của ông ta vẫn cứ mượt mà tiếp diễn. “Nhưng tôi nói rồi, tôi có một đơn hàng lớn dành cho anh mà.”
Tôi cố nghĩ cho thông vụ này. Tôi hỏi việc này liên can đến Modern Home hay là tôi.
“Dĩ nhiên là liên can tới anh rồi Jonah.” Ông ta nói. “Những gì tôi nói là thật. Bọn tôi đang có ý xây một trạm xá. Một nơi thật đặc biệt. Và nó ở rất xa, tít trên những ngọn núi.”
“Trạm xá theo kiểu gì cơ?”
“Hiện nay đang có năm tập đoàn tham gia, tất cả đều là những tập đoàn lớn.” Ông nói tiếp. “Bọn họ đang nghiên cứu việc tìm ra phương thuốc ngăn ngừa sự lão hóa ở cấp độ tế bào. Thuốc trị lão hóa. Thật sự, là phương thuốc bất tử, chống lại cái chết.” Errant vừa nói vừa cho tay vào túi quần, chân đá vào sàn gỗ. “Anh thấy đấy, việc lão hóa không còn sẽ gây ra những đột biến, như siêu kháng thể khỏi bệnh tật và các bệnh dịch lây lan. Một điều không ai nghĩ đến, nhưng cũng sắp được tìm ra. Tôi có thể giải thích rõ hơn với anh về việc này sau, nhưng quan trọng là, SIGIL đã sắp làm ra những công thức thuốc thử nghiệm sơ bộ rồi.”
“Phương thuốc chống lại cái chết.” Tôi nói. Tôi hiểu ông ta đang nói gì, nhưng một phần trong tôi muốn cuộc nói chuyện này diễn ra chậm lại. Có bao giờ bạn vướng vào một tình huống vô cùng quan trọng đến cuộc đời bạn từ nay về sau, nhưng cũng có một khoảnh khắc bạn nhận ra là bạn chưa bao giờ chuẩn bị cho việc đó không?
“Thật là lố bịch” tôi nói. Nhưng chỉ với ý làm chậm nhịp mọi thứ lại thôi.
“Không, không hề một chút nào, và anh biết rằng đó là sự thật, phải không? Nhưng anh chỉ đang cố gắng nói vậy để có thời gian mà tiếp thu hết những điều tôi vừa mới nói thôi, và tôi thừa nhận là có rất nhiều điều anh phải suy ngẫm. Nhưng anh cũng từng bảo tôi rằng anh có theo dõi về việc này đôi chút mà.”
Ông ấy vẫn nói với thái độ nhẹ nhàng, nhưng có chút gì đó sắc lẻm ở trong giọng của ông ấy, kiểu như một cái cạnh bàn có thẻ quẹt xước da nếu bạn không cẩn thận. Đột nhiên, tất cả những đêm trò chuyện trên mạng với ông ta như ùa về trong tâm trí tôi. Tất cả những lời tâm sự về cái chết của mẹ tôi, nỗi sợ của tôi, những điều tôi đã nói rất tường tận vì tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ gặp ông ta. Vậy mà ông ta đang ở ngay đấy. Và hơn bao giờ hết, tôi có linh tính rằng mình đã bị gài bẫy, ngay tại đây tại cái khu phố giả tạo chết tiệt sản xuất ra những ngôi nhà chết bằm này, tại cái vùng hẻo lánh này, và rồi đầu óc tôi lại hoạt động dữ dội, tập trung vào việc làm thế nào tự giải thoát mình ra khỏi việc này- không phải chỉ giây phút này, mà là tất cả những thứ liên quan. Các phương trình toán học đang dần được viết đầy ra trên bảng…
“Này, đừng như thế.” Ông ta đặt bàn tay vào vai tôi, và sức nặng của nó lớn hơn tôi tưởng nhiều. Tựa như một cái mỏ neo nhẹ như lông hồng. (chơi chữ từ "a gentle anchor")
“Đừng có ý trốn chạy. Hãy nghe tôi. Anh là một trên đạo chích tuyệt hảo. Nhìn kỹ đi này. Hãy nhìn xem anh có khả năng trộm được đến thứ gì này.”
Ông ta nhấc bộ suit ra khỏi va-li. Ông ta làm điều này rất ôn tồn, thận trọng.

Màu sắc và những hạt kim sa của bộ đồ lấp lánh khi ánh sáng rọi vào. Tôi cứ nghĩ nó trông như một bộ đồ diễn hề. Một bộ cánh chói chang với hằng hà mũi tên và giày ống trên ấy. Như đồ của ma cô ấy. Nhưng nhìn kỹ lại thì nó cũng khá đẹp. Bộ áo có màu trắng ngà, và thay vì mang hơi hướm của thứ gì đó đồng quê và viễn tây như thường thấy, thì nó lại được may lên những cảnh tượng riêng biệt. Ở phần ngực áo là hình ảnh của một bà mẹ đang bồng con, ở phần vai là hình một đứa trẻ chỉ vào một cây đàn guitar tại một cửa tiệm, ở phần cánh tay là một gã đang lái một con Cadillac. Thật ra thì, nó đẹp lộng lẫy. Nó làm tôi nghĩ đến những tấm kính vạn hoa và những tấm thảm thêu tranh.
“Anh có thật sự biết đây là gì không vậy?” ông ta nói. “Đây là một bộ trang phục mà vợ của một huyền thoại nhạc đồng quê đã may cho ông ta. Dĩ nhiên anh biết điều này. Nhưng anh có biết đây là bộ cánh cuối cùng mà bà ta đã làm cho ông ta không? Bà ấy đã dành ra không biết bao nhiêu năm để may nó. Anh thấy đấy, cả đời bà ta đều đã may phục trang đi diễn dành cho ông ta. Những bộ trang phục với từng thiết kế và màu sắc đặc trưng nói lên được những thời điểm nhất định trong cuộc đời mà họ đã cùng chia ngọt sẻ bùi với nhau. Mỗi bộ là một giai đoạn khác nhau. Nhưng đây… đây là bộ mà bà đã mong là ông ta sẽ mặc để lên thiên đường diện kiến Chúa. Cả bộ đồ là tất cả những thời điểm lớn nhất trong cuộc đời của họ, trong cuộc đời của ông ta. Đây là lễ ban thánh thể đầu tiên của ông ta. Thấy không? Đây là lúc ông ta học chơi guitar lần đầu.Từng đường khâu và từng điểm nhấn trang trí như mũi tên trên bộ đồ đều rất bắt mắt… Đấy? Đây nữa? Những hình ảnh này được thiết kế để thể hiện lên bản nhạc tự biên mà ông ta yêu thích nhất.
Bà ta gọi nó là bộ trang phục tiễn biệt của ông ta. Nó nói lên cả cuộc đời của ông ta, những gì ông ta đã trải qua, đã đạt được và yêu quý nhất trên đời. Lẽ ra ông ta đã được chôn cất cùng với nó, nhưng ông quyết định để bà ta giữ nó lại trên dương gian. Đây, ngắm nhìn nó kỹ hơn chút đi.”
Tôi bảo rằng tôi nhận thấy hết rồi.
“Tôi biết,” Errant nói, “Nhiều thứ để suy ngẫm lắm.”
Ông ta cất bộ áo vào va-li lại. “Bà ta cũng có làm cho tôi một bộ,” ông ta nói. “Một món quà tạ ơn của bà vì đã giúp đỡ gia đình bà. Nó cũng đẹp như cái này vậy. Có khi còn đẹp hơn. Và cuộc đời tôi cũng đã được thêu lên đó rất hoàn mỹ đó Jonah. Lẽ ra tôi đã bắt anh trộm lấy cái đó thay vì cái này. Thế nhưng, tôi đốt nó rồi.”
“Đốt?” Tôi hỏi.
“Đốt cháy thành tro. Nên hãy tin tôi đi khi tôi biết rằng anh không cô đơn đâu.”
“Ông đang nói cái quái…”
Tay ông ta càng nắm chặt vai tôi.
“Tôi đã sống một cuộc đời còn trọn vẹn hơn những gì tôi đã ao ước khi tôi bằng tuổi anh. Tôi có một người vợ mà tôi yêu tha thiết. Bà ấy là Jennifer. Và tôi cũng có một đứa con trai và cả những đứa cháu nội mà tôi yêu thương vô cùng tận. Chúng là John và Forrest và Adele. Tôi đã cố sống một cuộc đời thật tốt đẹp, sáng tác ra những bản nhạc để góp vui cho đời. Tôi đã cố gắng để tạo những ảnh hưởng tốt đẹp lên thế giới bằng quỹ từ thiện của chúng tôi. Tôi đã giúp xây trường học ở những nơi hẻo lánh, và cả phát triển những nhạc viện nữa.
Tôi đã 72 tuổi rồi, Jonah à. Cuộc đời tôi là một câu chuyện đẹp. Anh hiểu không?
Đời tôi rất đẹp. Nhưng tôi không muốn nó phải kết thúc. Lẽ ra tôi phải cảm thấy thanh thản với điều đó, nhưng không. Đã có những đêm thao thức khiến tôi phải gào thét ở trong tận cùng cõi lòng. Tôi nhìn vào gương và tôi thấy gương mặt tôi hiện lên, nhưng thầm nghĩ… CÁI THẰNG CHẾT TIỆT NÀO THẾ NÀY?”
“Tháng trước, họ có đề nghị tôi nhúng tai phải vào thạch cao để có thể làm một cái khuôn của nó. Nhìn này.”
Ông ta để ngón út vào lỗ tai, ngoáy nhẹ, và ông rút ra cho tôi xem. Ở đầu ngón tay có dính chút máu tươi.
“Có gì đó đã hư hại và không thể hồi phục hoàn toàn được. Bây giờ thính giác của tôi khác lắm. Tôi nghe có tiếng huýt sáo.”
Ông ta bĩu môi và tạo ra một âm thanh. Một tiếng huýt sáo nhưng chói tai hơn.
 Tôi bỏ tay ông ta ra khỏi vai và bước lùi lại.
“Tôi không hiểu việc này thì liên quan gì đến tôi.” Tôi nói, nhưng cảm nhận được cái gì sắp sửa dễn ra. “Thật ra, tôi không hiểu nổi ông…”
“Tôi cần anh trộm giùm tôi một thứ. Hết. Nếu anh trộm được nó, SIGIL sẽ có thêm cơ sở để thành công trong việc nghiên cứu về việc mà tôi vừa kể với anh. Chúng tôi sẽ có lợi thế trước những đối thủ cạnh tranh. Là một bước nhảy vọt quan trọng đấy.”
Tôi ngước lên, ý tìm Brooke. Nhưng không thấy cô ấy đâu.
“Sao không nhờ tôi theo cách thường ngày ấy?” Tôi hỏi.
“Vì đây là một công việc khó hơn bình thường rất nhiều, Jonah à. Và bởi vì… việc này quá quan trọng để nhờ anh theo cách đó. Và vì tôi muốn gặp anh. Để có thể nói cho anh biết tôi hiểu anh nghĩ gì. Có lẽ nhiều người cũng vậy. Thật ra thì, càng ngày càng có nhiều người cũng nghĩ như vậy.
Tôi tưởng tượng cái cách mọi thứ bắt dầu thế nào. Khi nhân loại hãy còn nhỏ dại, như một đứa trẻ. Anh sống chung với những người quá quen thuộc mỗi ngày, những gì anh thấy chỉ là một mảnh đất nhỏ. Cuộc đời của anh thì rất đỗi to lớn. Những câu chuyện của anh, những điều mà anh biết, là những điều duy nhất tồn tại trên đời. Nhưng thời nay, tất cả chúng ta đều kết nối với nhau. Chúng ta hiểu biết nhau. Chúng ta gây ảnh hưởng đến nhau ngày qua ngày. Chúng ta đều cảm thấy nó, cảm thấy rằng mọi thứ sẽ kết thúc. Mực nước dâng lên. Sự lấn át lẫn nhau giữa các nền văn hóa và chiến tranh. Sức nóng, sự căng thẳng, âm ỉ, âm ỉ, âm ỉ… Cứ như tất cả mọi thứ rồi sẽ đến cái ngày này.
Tuổi già là việc tự ta nhận thức được ta mỏng manh ra sao; là nỗi sợ hãi, và tôi tin rằng nhân loại đã bước vào giai đoạn của tuổi già. Chúng ta là một lão già yếu ớt, nhận ra được rằng chúng ta mong manh dễ vỡ thế nào. Chỉ cần đẩy nhẹ một cái là xong. Một cú ngã và một cái lưng gãy. Một dịch bệnh. Một quả bom. Một cơn đại hồng thủy. Và rồi chúng ta sẽ rụng rời từng phần một, hệt như mẹ của anh đã từng bị vậy.”
Vừa nghe nhắc đến mẹ, tôi đã nhận thấy cơn thịnh nộ của mình trào dâng. Nhưng ông ta đã ngắt lời trước khi tôi kịp nói điều gì.
“Nhưng mọi thứ không cần phải diễn ra như vậy, Jonah. Hàng triệu năm lịch sử có thể sẽ thay đổi hoàn toàn, ngay tại đây, ở lan can này. Tôi và anh sẽ làm điều đó.”
Tất cả những thứ này thật là quá sức chịu đựng. Tôi tránh nhìn ông ta, mà nhìn lên bầu trời nhân tạo ấy. Nét cọ vẽ làn mây dần hiện ra, một vệt ngoáy màu trắng và xanh. Màu xanh ấy sáng lên trong ánh đèn thật là chói mắt.
“Ông cần tôi trộm cái gì?”
“Không phải cái gì.” Errant lên tiếng. “Mà là ai.”
Trước mặt anh là một tòa nhà hình dạng kim tự tháp được ốp kính cả bề mặt.
Jonah dừng xe ở bên đường. Trước mặt anh là một tòa nhà hình dạng kim tự tháp được ốp kính cả bề mặt. Ánh nắng phản chiếu từ mặt kính làm cho kim tự tháp thật nổi bật giữa con phố.
Jonah bước vào sảnh đón khách, một gian nhà to lớn với nền trang trí là hình ảnh của một Cây sự sống với các cành lá được phụ họa bằng thác nước ở phía sau như tượng trưng cho nước của Suối nguồn tươi trẻ.
Jonah tiến đến quầy tiếp tân, và cô nhân viên rất trìu mến hỏi han.
“Tôi có thể giúp gì cho anh ạ?”
“Tôi cần gặp ngài Errant, Jessica. Rất khẩn cấp.”
“Hôm nay ông ấy không ở đây. Anh có muốn gửi lại lời nhắn gì không?”
“Có. Nói với ông ta, “Capcook có một miếng thịt mới.”
“Xin lỗi, gì cơ?”
“Ông ta sẽ hiểu.”
“Àh vâng, được rồi. Tạm biệt, ông…”
Jonah không cần đợi cô ấy kết thúc câu và đi một mạch ra khỏi kim tự tháp bằng kính ấy.
Nền trang trí là hình ảnh của một Cây sự sống với các cành lá được phụ họa bằng thác nước ở phía sau như tượng trưng cho nước của Suối nguồn tươi trẻ.
Trên xe Jonah có một tờ giấy được kẹp vào kín chắn gió. Bên trong là một dòng chữ viết hoáy.
“Gặp tôi ở buổi hòa nhạc.- E”
Jonah đang đứng trên một ban công của nhà hát nhìn thẳng xuống sân khấu, nơi có một ban nhạc đang hòa tấu một khúc nhạc ngân nga. Mặc cho âm thanh vang lên từ nhạc cụ của những nhạc sĩ đang hòa mình vào cảm xúc thăng hoa nhất để phối hợp cùng nhau tạo nên một bản giao hưởng kiệt xuất, những âm thanh trong đầu Jonah lúc ấy chỉ là lời nói của Inez.
“Nói em nghe… Thấy đám mây đó không? Ở đám mây màu xanh, hướng 12 giờ ấy… Nó sẽ đổi thành màu hồng, nhưng trước khi nó xảy ra, nhìn xem anh có thấy một màu gì mới không? Mới, theo kiểu, mới hoàn toàn ấy. Không có từ diễn tả màu đó.”
Tuy vậy, Jonah vẫn nhắm mắt, từng nốt nhạc như hiện ra trong đầu anh…
“Jonah… Anh đây rồi.”
Là Errant. Vẫn y hệt như ngày đầu Jonah gặp ông.
“Để tôi đoán xem… Anh nghe thấy gì phải không?”
“Tôi sẽ xuống đó, Errant.”
“Xuống đó?”
“Ông cũng mới nói đó, tôi nghe gì mà. Ở bên dưới không chỉ có chết chóc. Tôi sẽ xuống.”
“Từ từ nào. Anh nghe gì?”
“Đội Truy Tìm. Tôi nghe thấy Đội Truy Tìm.”
“Đội Truy Tìm? Thôi đi nào. Gần như…”
“Họ gọi đích danh tôi. Tôi sẽ xuống đó, và tôi sẽ mang cô ấy theo.”
“Cô ấy? Anh nghiêm túc chứ, cô ta chết rồi.”
“Cô ấy chưa chết. Chưa thôi.”
“Việc này là gì ý gì đây Jonah? Tội lỗi à? Anh chẳng có gì để phải cảm thấy tội lỗi cả.”
Jonah cau mày thể hiện sự giận dữ.
“Không phải tội lỗi. Mà là hồi tâm chuyển ý. Nơi này, những việc này không phải là điều tôi muốn. Tôi muốn trở xuống… và trở thành người…”
Errant vẫn ôn tồn.
“Vậy tất cả là lỗi của chúng ta sao? Khi mà thế giới tự sụp đổ, tận diệt, và chúng ta mắc kẹt ở đây?”
“Không, nhưng tôi chịu đủ rồi.”
Errant im lặng một lúc rồi lên tiếng.
“Khi nãy tôi hỏi anh có nghe gì không… Tôi đang nói đến âm nhạc. Khi thế giới vẫn còn như trước kia, tôi là một nhà sản xuất âm nhạc. Mỗi bài đều là một câu chuyện về cảm xúc tức thời của tôi.
Tôi thường sử dụng những bản năm hợp âm. Nhảy qua những hợp âm thứ tư và thứ năm, và chồng hợp âm thứ ba.
Những âm thanh hòa quyện thật đẹp đẽ, giúp cho chúng ta trở lại những thời điểm đặc biệt trong đời. Nhớ lại những ký ức nhỏ nhoi.
Những cấu trúc âm nhẹ nhàng mang lại những trải nghiệm mà chúng ta từng bước qua, dù cho chi tiết thì có vẻ khác nhau.
Tình đến, tình đi, tình không trở lại, niềm vui, sự tuyệt vọng…
Tại nơi đây… Trong những âm thanh này.
Tôi viết lên những giai điệu chưa ai nghe bao giờ.
Một loại âm nhạc không liên quan gì đến những điều người ta thường biết.
Loại âm nhạc được chơi với những quãng âm kỳ lạ, vượt qua cả quãng tám. Quãng bốn tăng, hệ thống 12 âm và cách lên dây đàn kỳ lạ.
Một bản nhạc trường tồn hàng tháng, hàng bao nhiêu năm Jonah à.
Bài nhạc này anh đang nghe ấy, nó dài đến hàng mấy năm rồi.
Và đã có những nốt mới được điểm vào. Những nốt chúng ta chưa bao giờ nghe được.”
(Note: Đoạn này không hề biết nhạc lý nên dịch tạm... Có cao nhân nào có lòng giúp đỡ thì tớ gửi bản gốc qua cho hoặc phóng to hình dưới đây- Hùng Lý)

Errant tiến lại gần, đối mặt với Jonah. Mắt không rời khỏi anh.
“Trước khi những việc này diễn ra, tôi đã bảo anh chúng ta là những ông lão già khú đế, chỉ là loài người. Giờ đây, chúng ta là những đứa trẻ. Mọi thứ vẫn cứ để chúng ta tiếp tục trải nghiệm. Có thể đây không phải việc mà chúng ta đã tính đến. Nhưng nó nên là như vậy. Hiện nay chúng ta đang ở trên đây, trèo lên những nấc thang đến đỉnh cao mới.”
 “Mới nãy, khi tôi nói chuyện với Jessica hỏi ông đang ở đâu. Tôi quen cô ấy đã 10 năm mà cô ấy còn không nhớ tôi là ai.”
“Anh cũng có nhớ đâu. Anh còn nhớ là do anh đã viết lại hết vào cuốn sách đó. Cũng như anh, tôi cũng lưu lại, nhưng tôi hiểu là…”
“Tôi sẽ đi, và tôi sẽ mang cô ấy theo.” Jonah quả quyết, hét vào mặt Errant.
“Không có chuyện đó. Chúng ta cần cô ấy, phòng khi phải tái tạo lại phương thuốc.”
“Vậy thì làm liền đi. Nó ở trong nguồn nước ấy. Nó luôn tự tái tạo lại. Ông đã có tất cả những thứ mình cần rồi.”
“Có bao giờ anh nghĩ đây là một cái bẫy không? Bên dưới đám mây ấy, bên dưới ấy toàn những điều khủng khiếp. Tôi biết, vì hai chu kỳ trước, có hai người đã đi và họ không đi quá được một dặm đường. Hai chu kỳ trước rồi, Jonah. Sao anh vẫn chưa cho nơi này cơ hội mà nó đáng có. Anh còn chưa tự nhận ra anh là ai kia mà.”
“Tôi biết tôi là ai.”
“Không, anh biết anh từng là ai. Anh từng là một tên ích kỷ, thiển cận, sợ sệt. Cũng như tôi. Và như bao người ở đây, hãy từ bỏ đi. Bây giờ anh có thể đi nếu muốn. Nếu anh rời đi, không có thêm nguồn cung, anh sẽ dần mất đi phương thuốc trong cơ thể. Và rồi anh sẽ chết. Và anh nên biết điều này, dù anh có làm cái gì đi nữa, dù anh có gặp điều gì khủng khiếp ở dưới kia, anh sẽ không bao giờ được phép quay trở lên đây. Không bao giờ.
Và về chuyện đem cô ấy đi, cứ thử nếu anh dám. Nhưng nếu anh làm vậy chúng tôi sẽ dùng mọi tài lực truy đuổi anh đến cùng. Ngừng lại đi, làm ơn đấy. Từ bỏ đi và hãy ở lại đây. Làm ơn.”
Jonah chỉ thẳng vào mặt Errant trước khi rời đi.
“Nói cho ông biết… Thứ âm nhạc này, nghe cũng như mọi thứ khác thôi.”

Jonah lái xe về nhà trong màn đêm. Anh nhìn lên kính chiếu hậu và chỉ thấy ánh mắt giận dữ của chính mình. Anh gạt phắt nó qua một bên. Khi vừa về đến kho, anh ngẩn ra đứng nhìn quanh một hồi, nhìn lại tất cả những thứ mà anh đã trộm trong đời đạo chích bán thời gian của mình. Darwin chợt tỉnh giấc vì tiếng mở cửa và đưa mắt nhìn lại anh.
“Lại đây… Đừng nhìn tao như vậy. Tao biết. Có thể ông ta đúng, đây có thể là một cái bẫy. Mọi chuyện sẽ rất xấu bên dưới. Tao sẽ chờ một chu kỳ nữa rồi mới đi.”

Đêm đó sau khi gặp Errant, tôi không ngủ được. Tôi cứ nghĩ lại về điều ông ta nói với tôi ở căn nhà đặc chế, về phương thuốc, về nơi trú ẩn.
Tôi cố rũ ông ta ra khỏi đầu. Tôi tự nói những thứ này thật điên khùng, tự nói bản thân cố thoát khỏi nó. Có thể tôi sẽ chuyển đi nơi khác không chừng.
Và cả cô gái đó nữa.
Claire.
Đúng là cô ấy đang chết dần. Về cơ bản là đã chết rồi. Đây là một việc làm nhân đạo, tôi biết, nhưng nó quá sức chịu đựng của tôi. Có lẽ nên ngừng lại trước khi mọi thứ đi quá xa. Đặt phấn xuống ngừng viết.
Nhưng càng cố quên, những thứ Errant miêu tả với tôi lại hiện ra. Cứ như thể tôi đã gặp nó ở đâu, hay tôi đã mong đợi biết bao lâu để thấy nó.
Tôi nhìn thấy khu trạm xá ở đỉnh dãy Andes.
Tôi nhìn thấy phòng thí nghiệm, sạch trắng tinh, có những quầy tủ mạ màu đen, kính chống lửa, bồn rử mắt… Không có gì đặc thù, chỉ là một căn phòng phục vụ một mục đích duy nhất.
Tôi thậm chí còn nhìn thấy cả phương thuốc, không hẳn là cụ thể, mà việc điều chỉnh gien và máy cắt CRISPR, protein GD11, và những hồng cầu trẻ trung… Tôi thấy hiệu quả của nó, tôi thấy nó hoạt động, thấy những chuỗi nhiễm sắc thể dài ra, các tế bào nhân lên. Tôi thấy mọi người trẻ lại và hạnh phúc ở giữa làn mây.
Tôi nghĩ đến những gì ông ta nói về ký ức, về việc chỉ nhớ những gì cần thiết, hãy thả bản thân trôi nổi trên hoàn cảnh bản thân, trên cả mọi thứ. Về sự tái sinh.
Tưởng tượng thế này, cứ sống mãi sống mãi, nhớ những gì mình muốn, gạt hết tất cả qua một bên; mọi thời gian trên đời để vượt qua nỗi sợ, để học những gì mình muốn, yêu đi yêu lại, chu kỳ qua chu kỳ, cho đến lúc ta cảm thấy tự hào và thỏa mãn và… Thế là xong?
Tôi nghĩ về khoảnh khắc đó,cả khi lúc tôi đang nói chuyện với Errant nhiều năm trước, ông ta không nói nhưng tôi biết ông cũng có nghĩ đến. Tôi đang nói đến cái thời khắc mẹ tôi qua đời, khi bà mất nhận thức, bà nghĩ rằng chúng tôi đã sống đến nhiều năm ở tương lai, rằng tôi lấy vợ và hạnh phúc rằng em tôi còn sống, rằng bà đã quá già và chuẩn bị lên thiên đường. Và rồi… Đôi mắt kinh hoàng ấy. Một buổi thời trang nhãn cầu ngược. Mở mắt ra và…đen, toàn là đen… Vì không có gì là thật cả. Ta chỉ ở đây, trên giường bệnh ở bệnh viện, đau đớn, chỉ còn vài giờ là lìa đời, sẽ bỏ đứa con lại và cả đứa đang trong mình cũng sẽ chết theo mình và ta không biết sẽ xảy ra điều gì nữa. Không bao giờ được thấy họ nữa, không bao giờ biết được kết thúc. Không bao giờ kết truyện hạnh phúc dài lâu. Khoảng cách giữa ước muốn và thực tại là quá xa vời…
Tôi đến bên cửa sổ. Bên ngoài, tuyết đã tan hết. mặt đường ló dạng đón lấy ánh trăng.
Tôi ra ngoài bàn công mái hiên thì nhận thấy Bud, Tommy và Will cũng đang ngồi đấy. Họ ngồi tại một cái bàn nhỏ của Bud, tất cả đều ngủ say. Buồn cười là cả ba bọn họ đều đội cái mũ bảo hiểm không gian của họ. Chắc họ lấy ở bên nhà tôi khi tôi đi vắng. Tôi hoàn toàn có thể mường tượng ra mặt của Bud sau lớp kính bảo hộ của mũ thế nào, ông ta đang ngủ, có khi do say rượu không chừng, và thật ngon giấc. Cả ba bọn họ đều có vẻ rất yên bình, gục ra ghế, ngủ thật ngon, chờ ngày mới đến.
Tôi biết ngay lúc ấy tôi sẽ đến dãy núi ấy.
Tôi sẽ ở đấy, và không bao giờ trở xuống cho đến khi tôi cảm thấy khá hơn.
Hoặc có lẽ tôi sẽ không bao giờ trở xuống.

Một bóng người xuất hiện tại một phòng thí nghiệm với một cánh cửa kiên cố, giống như trong cơn ác mộng của Jonah đêm ấy. Nhưng đó là Errant, mặt đằng đằng sát khí. Ông mở cửa phòng, trong phòng cũng có một chiếc giường bệnh, nhưng trống không. Nằm ngay bên dưới là một chú bò sữa bị nám mặt. Là Darwin.
Errant nhếch mép.
“Được, bắt đầu thôi nào.”

HẾT QUYỂN 2