Đôi khi tôi thấy mình trong hoàn cảnh mà tôi nói chuyện với người đối diện, nhưng không thật sự nói với họ, mà là nói với cái biểu tượng mà tôi nghĩ họ đang đại diện; điều này đặc biệt diễn ra thường xuyên trên không gian mạng - nơi tôi không cảm nhận được dấu vết nhân tính nào từ họ, nên không còn cách nào khác, phải gán những cái khung nhận thức khái quát lên cho cá nhân.
Nói bằng ngôn ngữ khoa học thì dễ hiểu hơn cái hệ thống ngôn ngữ rắm rối của tôi. Trong tâm lý học xã hội, người ta gọi trường hợp này là stereotype - đúc khuôn cho ai đó, khi mà ta nhìn nhận một người không như những cá nhân độc lập mà thông qua cái nhóm xã hội/sắc tộc mà ta gán lên cho anh ta.
Một ví dụ điển hình là khi thấy một người ăn mặc rách rưới và khuôn mặt lấm lét đi ngang qua, phản ứng rất tự nhiên của bàn tay là giữ cái balo chặt hơn. Khi thấy một người da trắng, rất tự nhiên cá nhân sẽ có cảm giác yên tâm hơn khi thấy một người da đen. Trong một thí nghiệm nổi tiếng, người tham gia được cho ngồi trước màn hình máy tính và hai cái nút bấm, một nút là "bắn", một nút là "không bắn": khi nào người trong bức hình trên màn hình cầm súng thì nhấn "bắn", khi nào họ cầm thứ khác (như máy ảnh hay điện thoại) thì nhấn "không bắn". Kết quả là: hình người da đen bị bắn nhiều hơn kể cả khi họ cầm súng hay cầm thứ gì đó khác (Correll, Park, Judd, & Wittenbrink, 2007; Correll et. al., 2007)
Đây là một cơ chế sống còn của tự nhiên mà loài người phát triển sau nhiều trăm ngàn năm tiến hoá. Có lẽ còn lâu hơn, tôi nghĩ chó mèo cũng có cơ chế tương tự, khi có một số đối tượng thì bọn chúng sẽ cảnh giác hơn một số đối tượng khác. Khoa học thì chưa nghiên cứu cái xu hướng này bắt đầu từ khoảng thời gian nào và trên con vật gì, nhưng tôi nghĩ là từ khi động vật có trí nhớ và có khả năng trừu tượng hoá.

TRỪU TƯỢNG HOÁ

Trừu tượng hoá là quá trình đơn giản hoá một thứ cho đến khi không thể đơn giản hoá được nữa, mà không làm mất đi yếu tính của nó. Nghĩa là, một sự kiện/sự việc rối rắm và rắc rối, khi được các cây bút và báo chí miêu tả lại một cách đơn giản nhất có thể mà không làm méo lệch đi sự thật, thì đây là một quá trình trừu tượng hoá.
Khi nhìn vào một bản vẽ gồm một hình tròn, có một cái que kéo từ dưới hình tròn đó xuống, đến một chỗ thì tách ra làm hai que, và ở giữa cái que đó cũng có một chỗ tách ra làm hai que hai bên, người ta nhận ra ngay đây là một bản vẽ hình người - người que. Hình người que là phiên bản trừu tượng hoá nhất của con người - đơn giản nhất có thể, nhưng vẫn có thể nhận ra được đây là bản vẽ con người.
Để trừu tượng hoá được thì cần có khả năng nhận ra các khuôn mẫu, và khả năng phân biệt xem khuôn mẫu nào trong các khuôn mẫu đó là quan trọng nhất. Như cái người đầu tiên sáng tạo ra cách vẽ người que hẳn là phải nhận ra khuôn mẫu giải phẫu của loài người, và khuôn mẫu giải phẫu của người có cái gì trọng yếu khác với những con vật khác, nên mới có thể sáng tạo ra được cái biểu tượng tài tình như vậy.
Một ví dụ khác nghe hợp lý hơn: hai người cùng đọc một bài viết, mà một người hiểu được bài viết đó đang viết về vấn đề gì, đang áp dụng lý thuyết gì, và có ý chính là gì, người còn lại thì không; vậy nghĩa là, người thứ nhất đã nhận ra được khuôn mẫu của bài viết thành công, còn người thứ hai thì không. (lý do đơn giản là tại vì người thứ nhất có chuyên ngành về lĩnh vực bài viết đó)
Khả năng trừu tượng hoá là thứ đầu tiên được đo lường trong các bài test trí tuệ lỏng, tức chỉ số IQ, hay cụ thể hơn là g-factor - khái niệm đo lường chung cho khả năng nhận thức của một người. Tức, trừu tượng hoá đại diện cho trí khôn. (Nhưng không có nghĩa người thích trừu tượng sẽ khôn hơn người không thích)
Chức năng của trừu tượng hoá là cho phép con người có khả năng khái quát hoá, từ một ít dấu hiệu đơn lẻ có thể khái quát lên toàn bộ thuộc tính của một sự vật/sự việc/con người.
Đây chính xác là cơ chế hoạt động của việc đúc khuôn ai đó, hay ngôn ngữ quen thuộc hơn là dán nhãn cho một người. Từ một vài thông tin và dấu hiệu đơn lẻ, có thể ngồi phán xét cả một con người.
Việc dán nhãn một người, cùng với phân biệt đối xử - việc dán nhãn được ngoại hoá bằng hành động, thường được miêu tả như thói xấu của một xã hội không biết thấu cảm với nhau; tuy nhiên, nếu không có cái cơ chế này thì một người không thể nào tồn tại được trong cái xã hội ngày càng phức tạp như hiện nay.
Con người tư duy bằng tư duy quy nạp (Goldstein, 2018, p. 425), tức một cách rất tự động, bộ não sẽ lưu lại những dữ kiện mà cá nhân trải qua từ trước đến giờ, và hình thành nên một thái độ/một cách phản ứng phù hợp nhất theo cái cách não xử lý được từ bộ dữ liệu. Như, nếu một con chó bị đá đít bởi những người có mùi hương cụ thể, khi gặp đến người thứ 10 có cái mùi hương đó thì tự nhiên nó sẽ trở nên cảnh giác dữ dội. Một người bị móc túi bởi những người có khuôn mặt lấm lét theo một cách cụ thể, khi gặp đến người thứ 10 có cái khuôn mặt lấm lét đó thì cũng sẽ cảnh giác một cách dữ dội. Một cô gái bị lừa dối bởi một anh chàng có chất giọng cụ thể, thì khi gặp một anh chàng khác có chất giọng tương tự, cô gái nổi lên một sự thù ghét không kìm được.
Tư duy quy nạp không hẳn chỉ là điều kiện hoá như của trường phái tâm lý học hành vi (con chó chảy nước dãi trong sách sinh học 8), bởi tư duy quy nạp có thể đến từ nhận thức. Khi một người bị nhồi quá nhiều bởi những thông tin như "người da đen nguy hiểm" thì anh ta cũng rất tự động có cái phản ứng cảnh giác khi đến gần người da đen. Việc học tập qua kinh nghiệm người khác thế này giúp cá nhân chuẩn bị trước những tình huống phức tạp của thế giới, mà người đó không có cơ hội trải nghiệm hết được, mà có khi còn rất nguy hiểm nếu tự trải nghiệm. Như, không ăn những cây nấm có màu sặc sỡ, hay không ăn mặc hở hang đi ở nơi vắng vẻ lúc trời tối. Quy nạp là một quá trình trừu tượng hoá để khái quát hoá.
Việc trừu tượng hoá, rồi đến khái quát hoá, rồi đến đúc khuôn, rồi đến phân biệt đối xử với ai đó, gọi chung là quá trình đối xử với một người theo cái biểu tượng mình nghĩ rằng họ đại diện. Quá trình này giúp một người xử lý nhanh chóng và chính xác các tình huống trong xã hội, và đôi khi còn giúp hai người hiểu nhau rất sâu khi chỉ mới tiếp xúc lần đầu. Như, hai fan của MU tay bắt mặt mừng như anh em vào sinh ra tử 20 năm với nhau khi chỉ mới gặp trong một sự kiện offline. Hay một cô gái luôn nói rằng: tôi sẽ chỉ yêu và cưới những anh chàng tóc dài, một chàng trai luôn nói rằng: tôi sẽ chỉ yêu và cưới những cô nàng chân ngắn.
Nhưng điểm chết người của việc này là hai người không thật sự nhìn vào nhau. Họ nhìn vào thứ mà họ cho rằng người kia đang đang diện. Họ xem người kia là biểu hiện của một vài nhóm mà họ gán nhãn người kia vào. Người này cư xử với người kia theo cái hình ảnh biểu tượng của người kia trong đầu họ; và người kia cũng cư xử với người này theo cái hình ảnh biểu tượng của người này trong đầu họ. Một mối quan hệ người-người thực sự không thể bắt đầu từ đây được; nó giống như một bộ phim khá nổi gần đây: "perfect stranger" - những người tưởng như thân thiết với nhau hàng chục năm, nhưng thực chất không hiểu gì về nhau.

CỤ THỂ HOÁ

Ở chiều ngược lại của trừu tượng hoá là cụ thể hoá. Có thể dễ dàng phân biệt một người trừu tượng hoá với một người cụ thể hoá ở cái cách mà người đó kể chuyện.
"Hôm qua tôi đi làm về, cái công việc vô nghĩa khiến tôi mất hết niềm đam mê với cuộc đời, nên chỉ nấu ăn qua loa xong xem một vài game show giải trí vô bổ rồi đi ngủ."
với
"Hôm qua tôi đi làm về. Tôi rất mệt mỏi, vì cả ngày phải ngồi tính toán các con số trên excel. Tôi mở tủ lạnh ra, thấy còn vài quả trứng, nên đập ra, nấu với mỳ tôm. Ăn xong bỏ đó không rửa chén. Sau đó, tôi mở youtube trên điện thoại lên, và coi siêu trí tuệ. Coi tầm hơn 2 tiếng. Đến 12h thì tôi lăn ra ngủ."
Những người trừu tượng hoá có xu hướng kể chuyện rất ngắn gọn và thường xuyên rút ra ý nghĩa từ sự kiện. Những người cụ thể hoá có xu hướng kể rất chi tiết, cụ thể, nhưng cũng thường xuyên bỏ ngỏ, không rút ra kết luận hay nhận xét gì cho câu chuyện.
Rõ ràng người thứ 1 có xu hướng trừu tượng hoá và người thứ 2 có xu hướng cụ thể hoá. Cụ thể hoá là khả năng để ý và bám vào chi tiết cực tốt - điều rất thường thấy ở những người làm nghệ thuật, đặc biệt là một vài trẻ tự kỷ có khả năng vẽ lại chi tiết toàn bộ thành phố chỉ với một lần quan sát.
Cụ thể hoá có giá trị của nó. Thứ nhất, một người không thể nào sống một cuộc sống trừu tượng không có thật được; một người với tư duy cụ thể có thể trải nghiệm những thứ rất sống động và nhỏ bé nhưng đẹp đẽ của cuộc sống.
Thứ hai, một người với tư duy cụ thể luôn luôn có thể đánh giá lại cuộc sống và những trải nghiệm của bản thân. Nếu tất cả những gì một người nhớ được chỉ là những khuôn mẫu và ý nghĩa của sự việc, sẽ rất khó khăn cho anh ta nếu anh ta muốn nhìn lại quá khứ với một góc nhìn khác. Và đây thì lại là đặc quyền của những người với trí nhớ chi tiết, họ có thể đánh giá lại những sự kiện xảy đến với mình - đôi khi việc này cực kỳ có lợi, đặc biệt là khi có những niềm tin méo mó tiêu cực.
Và quan trọng nhất, một người với tư duy cụ thể dễ dàng kết nối với người khác như con người chính họ là, chứ không phải thông qua việc gán nhãn người kia thành những nhóm A, nhóm B, nhóm C.
Tất nhiên điểm trừ là đôi khi họ không được đánh giá là "thông minh" trong mắt người khác vì chỉ toàn nói về chi tiết mà không khái quát hoá nó lên hay rút ra một ý nghĩa đao to búa lớn gì hết. Không, đùa đấy, điểm trừ thật sự là họ không sắp xếp câu chuyện cuộc đời của mình rõ ràng và thông suốt như những người trừu tượng hoá. Ví dụ như hãy quay lại hai đoạn tự sự trên, đoạn thứ nhất thì khá làm nhàm chán nhưng chứa nhiều "nội thị" (insight), đoạn thứ hai thì rất sống động nhưng ít phản tư về cuộc đời hơn.

TRỪU TƯỢNG HOÁ HAY CỤ THỂ HOÁ?

Tôi rất thích các bài viết trừu tượng, bởi những bài viết này làm việc trên các ý tưởng và vấn đề đơn giản - có thể dễ dàng đánh giá mức độ logic và đúng đắn của nó, cũng như dễ dàng khái quát hoá nó ra những trường hợp cụ thể. Nhưng, hơn hết, khi đọc một bài viết trừu tượng thì cá nhân bắt buộc phải diễn giải và bổ sung những ví dụ từ chính cuộc đời của mình - điều này khiến cá nhân có cái nhìn rất riêng tư với bài viết. Quá trình này giống như giải nén một tệp tin trên máy tính nhưng bằng những dữ liệu cá nhân, rất cá nhân hoá và rất tiện dụng để ghi nhớ, chỉ cần nén lại nguyên vẹn như ban đầu.
Những bài viết cụ thể thì có một đặc điểm vô giá là sự đồng cảm. Người đọc có thể nhập tâm vào câu chuyện của người kể, sống lại từng trải nghiệm của họ để trải nghiệm lại sâu sắc tình huống của người kể.
Trong đời sống, tôi từng là một kẻ rất trừu tượng, trừu tượng đến mức ngáo ngơ trong cuộc sống hàng ngày. Trừu tượng đến mức tôi nghĩ rằng có khi mình không giao tiếp với bất kỳ ai như một con người có thực, mà chỉ là những biểu tượng ý nghĩa mà tôi gán cho họ. Đến giờ thì tôi vẫn rất trừu tượng, nhưng có lẽ đã rèn được sự cụ thể của mình hơn một chút, và tôi nhận thấy cuộc đời này nó sống động và người khác cũng phức tạp hơn rất nhiều cái thế giới hồi trước của tôi.
Nhưng tôi cũng cho rằng những người sống quá cụ thể cũng nên phát triển một chút ở khía cạnh trừu tượng, để nhận ra những khuôn mẫu trong cuộc sống, để phản tư thêm về chính họ, và để không bị cái hệ thống bên ngoài và luật chơi từ người khác dẫn dắt họ một cách mù quáng.
Unsplash/CC0 Public Domain
----