1. Tóm lược lịch sử vùng đất Palestine

Palestine là một khu vực địa lý tại Tây Á, nằm giữa Địa Trung Hải và sông Jordan, nằm tại vị trí chiến lược, giữa Ai Cập, Đại Syria và bán đảo Ả Rập,
Từ thế kỷ thứ 11 trước Công nguyên, nhà nước cổ đại của người Do Thái đã ra đời ở vùng đất Palestine. Các vị vua Do Thái nổi tiếng trong thời kỳ này có thể kể đến như vua David (người đã đánh bại gã khổng lồ Goliah) hay Solomon (người cho xây dựng đền thờ Do Thái thứ nhất).  Ngày nay người ta biết về thời kỳ này rất ít,  chủ yếu qua kinh Cựu ước. Nhưng nó cũng chứng minh một điều quan trọng: Sự hiện diện của người Do Thái trên mảnh đất này đã có từ rất lâu, rất lâu trước khi những người Ả Rập chiếm được nó về sau. Sau khi vua Solomon qua đời, nhà nước Do Thái suy yếu, xảy ra nội chiến và bị chia cắt, trước khi bị thôn tính bởi người Babylon và người Assyria.
Đến thế kỷ thứ 8 TCN, các quốc gia của người Do Thái đã bị tiêu diệt hoàn toàn, vùng đất Palestine lần lượt nằm dưới sự cai trị của các Đế chế Assyria, Đế chế Babylon, Đế chế Ba Tư, Đế chế La Mã trong hàng thế kỷ sau đó. Người Hồi giáo Ả Rập trong quá trình bành trướng của họ đã chiếm được khu vực này vào thế kỷ thứ 8 từ tay người La Mã, và cai trị nó cho đến khi bị người Kito giáo chiếm lại sau cuộc Thập tự chinh thứ nhất. Thủ lĩnh phe Hồi giáo là Saladin, sultan của Ai Cập và Syria lại chiếm lại Palestine từ phe Kitô giáo một lần nữa, và từ đó Palestine tiếp tục bị kiểm soát bởi người Hồi giáo trong hàng thế kỷ với sự cai trị lần lượt của các đế chế Hồi giáo Ayyubid, Đế chế Mamluk và đế chế Ottoman.

2. Khởi nguồn của xung đột

Khởi nguồn của cuộc xung đột Ả Rập-Do Thái đương đại đã bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, với sự ra đời của các phong trào chủ nghĩa dân tộc Ả Rập và chủ nghĩa phục quốc Do Thái, cả hai đều hướng tới mục tiêu giành được độc lập từ Đế chế Ottoman và thành lập một quốc gia có chủ quyền cho dân tộc của họ ở khu vực Trung Đông. Với sự gia tăng của chủ nghĩa bài Do Thái ở Châu Âu, một làn sóng di cư của người Do Thái tới Palestine đã diễn ra từ đầu những năm 1880. Người Ả Rập ở Palestine hiển nhiên không hài lòng trước làn sóng này, mâu thuẫn giữa hai bên đã bắt đầu âm ỉ từ đây.
Đế chế Ottoman tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, đứng về phía phe Liên minh (cùng Đức, Áo-Hung) để chống lại phe Đồng minh (Anh, Pháp, Nga). Kết cục: phe Liên minh thất bại, còn đế chế Ottoman tan rã thành nhiều quốc gia độc lập. Riêng Palestine trở thành một vùng lãnh thổ "ủy trị" của Anh, tức là người Anh sẽ tạm thời quản lý Palestine trong một khoảng thời gian nhất định cho đến khi họ trao trả vùng đất này cho "chủ nhân" thực sự của nó. Nhưng "chủ nhân" đó là ai? Người Ả Rập hay người Do Thái?

Đọc thêm:

Các quốc gia Ả Rập cho rằng vì vùng đất này do người Hồi giáo cai trị hơn một thiên niên kỷ và dân số đa số là người Ả Rập nên Palestine phải là một phần của một quốc gia Ả Rập, có thể là Syria. Nhưng về góc độ người Do Thái, trong tuyên bố Balfour năm 1917, chính phủ Anh thì cho rằng Palestine cần phải là khu vực của người Do Thái vì cho rằng các vương quốc Do Thái đã trị vì ở nhiều khu vực Palestine trong hơn 1.000 năm và mảnh đất này, đặc biệt là Jerusalem (thủ đô cổ đại của người Do Thái) là trung tâm của tôn giáo Do Thái. Họ còn lập luận rằng người Arab có một số quốc gia với diện tích hàng triệu km vuông rồi trong khi người Do Thái lại không có quê hương.
Như vậy là mâu thuẫn đã dần trở nên gay gắt hơn, trong khi làn sóng nhập cư của người Do Thái vào Palestine từ châu Âu tiếp tục gia tăng.  Amin al-Husseini, lãnh tụ của người Ả Rập tại Palestine, đã coi làn sóng nhập cư của người Do Thái vào Palestine là kẻ thù lớn nhất trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của người Ả Rập, ông ta đã khởi xướng các cuộc bạo loạn quy mô lớn chống lại người Do Thái vào đầu năm 1920 ở Jerusalem và năm 1921 tại Jaffa.  Một cuộc bạo loạn đẫm máu của người Ả Rập đã diễn ra vào năm 1936 nhằm chống lại sự cai trị của Anh và chống lại làn sóng nhập cư của người Do Thái, song bị quân đội Anh dập tắt. Người Do Thái và người Ả Rập gây sức ép kêu gọi người Anh trao trả độc lập hoàn toàn cho họ, cả hai cũng đều tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ vùng đất Palestine và không chấp nhận phân chia lãnh thổ.
Với sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai, tình hình căng thẳng ở Palestine đã phần nào dịu xuống, người Do Thái và người Ả Rập tạm thời hợp tác với nhau, đứng về phía phe Đồng minh. Tuy nhiên, một số người theo chủ nghĩa dân tộc Ả Rập cực đoan như al-Husseini có xu hướng hợp tác với Đức Quốc xã, ông ta đã tham gia thành lập một bộ máy tuyên truyền ủng hộ phát xít và chống Do Thái trên khắp thế giới Ả Rập. 
Vào cuối Thế chiến II, một làn sóng nhập cư mới vào Palestine bởi những người Do Thái sống sót sau cuộc thảm sát Holocaust đẫm máu của Hitler ở châu Âu đã khiến cho mâu thuẫn giữa hai bên bùng phát trở lại. Người Anh đã thực hiện chính sách hạn chế người Do Thái nhập cư, khiến cho phong trào đấu tranh của người Do Thái chống lại người Anh ở Palestine trở nên quyết liệt. 

3. Kế hoạch phân chia của Liên Hợp Quốc

Kế hoạch phân chia Palestine của LHQ: Màu xanh là phần lãnh thổ được trao cho người Do Thái, màu cam được trao cho người Ả Rập
Giai đoạn "ủy trị" của Anh tại Palestine kéo dài từ năm 1923, cuối cùng đã buộc phải chấm dứt vào năm 1947 do sức ép đấu tranh của cả người Do Thái và người Ả Rập.  Vào ngày 29 tháng 11 năm 1947, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết 181 (II), thực hiện kế hoạch phân chia vùng đất Palestine thành một nhà nước của người Ả Rập và một nhà nước của người Do Thái, trong khi thành phố thánh Jerusalem được đặt dưới sự quản lý quốc tế, còn người Anh phải rút hoàn toàn khỏi mảnh đất này. Kế hoạch này đã châm ngòi cho cuộc xung đột dai dẳng mà chúng ta biết ngày nay. 
Hầu hết người Do Thái ở Palestine và khắp nơi trên thế giới hài lòng và chấp nhận kế hoạch phân chia của LHQ, cả hai siêu cường là Hoa Kỳ và Liên Xô cũng nhất trí với kế hoạch này và coi đó là một giải pháp hợp lý để dung hòa mâu thuẫn giữa 2 dân tộc Ả Rập và Do Thái tại Palestine. Ở chiều ngược lại, người Ả Rập ở Palestine và các quốc gia Ả Rập lại kịch liệt phản đối việc phân chia, họ đòi hỏi chủ quyền của người Ả Rập đối với toàn bộ vùng đất Palestine. 
Tuân thủ theo nghị quyết của Liên Hợp Quốc, người Do Thái đã chính thức tuyên bố thành lập nhà nước Israel vào ngày 14 tháng 5 năm 1948 trên phạm vi vùng lãnh thổ được phân chia. Chỉ vài giờ sau tuyên bố độc lập, Liên Xô trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận nhà nước Israel, và Hoa Kỳ cũng nhanh chóng làm theo. 

Đọc thêm:

4. Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948

Các nước Ả Rập (gồm Ai Cập, Iraq, Jordan, Syria, Saudi Arabia, Lebanon và Bắc Yemen) quyết tâm đè bẹp quốc gia Israel mới chào đời, do đó họ đã đem quân xâm lược Israel, dẫn đến sự bùng nổ của Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948. Cuộc chiến tranh này đã gây ra khoảng 15.000 thương vong và kết thúc với phần thắng thuộc về Israel, dù họ phải chống chọi lại một liên quân đông hơn họ gấp nhiều lần về quân số. 750.000 người Palestine phải chạy trốn hoặc buộc phải chạy trốn khỏi Israel.
Kết thúc cuộc chiến, Israel đã bảo vệ thành công toàn bộ vùng lãnh thổ mà LHQ chia cho họ, không những thế họ còn chiếm thêm được 60% vùng lãnh thổ được trao cho người Ả Rập tại Palestine theo kế hoạch phân chia. 40% còn lại  được các nước Ả Rập tham chiến chia nhau: Jordan sáp nhập Bờ Tây, Ai Cập chiếm lấy Dải Gaza. 
Như vậy là người Ả Rập tại Palestine, từ vị thế được phân chia lãnh thổ để thành lập quốc gia riêng trước khi cuộc chiến này diễn ra, giờ đây mất trắng. Một làn sóng di cư khổng lồ của người Ả Rập tại Palestine sang các quốc gia láng giềng đã bùng nổ trong những năm sau đó.
Còn đối với với Jerusalem,  theo kế hoạch phân chia của LHQ thì sẽ được quốc tế quản lý, tuy nhiên sau khi cuộc chiến kết thúc thì kế hoạch đã không bao giờ được thực hiện. Israel đã sáp nhập vùng phía tây của thành phố và tuyên bố đây là thủ đô của đất nước, còn Jordan chiếm lấy phần phía đông.

5. Khủng hoảng kênh đào Suez

Trong những năm 1950, Jordan và Ai Cập ủng hộ các cuộc tấn công khủng bố xuyên biên giới của lực lượng phiến quân Fedayeen vào lãnh thổ Israel, buộc Israel phải tiến hành nhiều động thái đáp trả. 
Năm 1954, Ai Cập bắt đầu phong toả Eo Tiran, ngăn cản mọi con tàu tới Eilat. Ngày 26 tháng 7 năm 1956, Ai Cập quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez, và đóng cửa kênh đào này với tàu bè Israel. Israel trả đũa ngày 29 tháng 10 năm 1956, bằng cách xâm chiếm Bán đảo Sinai với sự hỗ trợ của Anh và Pháp.
Quân đội Ai Cập bị áp đảo, và Israel nhanh chóng chiếm được toàn bộ dải Gaza và bán đảo Sinai. Tuy vậy trước sức ép của quốc tế, đặc biệt là của hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô, các bên đã phải đồng ý một hiệp định ngừng bắn. Biên giới cũ đã được khôi phục, còn kênh đào Suez hoạt động trở lại bình thường.

6.  Cuộc chiến Sáu ngày

Vào năm 1964, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được thành lập bởi Yasser Arafat. Mục tiêu của tổ chức này là tiêu diệt Nhà nước Israel thông qua đấu tranh. Tổ chức này ban đầu được chính phủ Ai Cập kiểm soát phần lớn. Hiến chương ban đầu của PLO nhấn mạnh đến việc tiêu diệt nhà nước Israel. 
Năm 1967, các nước Ả Rập lên kế hoạch xâm lược Israel lần thứ hai, với mục đích tự vệ Israel đã mở một chiến dịch tấn công phủ đầu vào cả ba nước Ả Rập là Syria, Jordan và Ai Cập, diễn đến sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh Sáu ngày. 
Trong cuộc chiến, Israel đã giành ưu thế nhờ chủ động tấn công bất ngờ và có chiến thuật tốt. Trong khi đó, liên quân Ả rập (nhất là quân đội Ai Cập) thể hiện một tinh thần chiến đấu yếu kém, binh sỹ vô kỷ luật, các chỉ huy thì chủ quan khinh địch và mắc hàng loạt các sai lầm. Kết quả là quân Ả Rập thất bại nhanh chóng dù họ có ưu thế về quân số và trang bị. 
Kết thúc cuộc chiến là một thắng lợi vang dội cho Israel, họ đã chiếm được được Bờ Tây (bao gồm cả Đông Jerusalem) từ tay Jordan, Dải Gaza và bán đảo Sinai từ  tay Ai Cập, cùng với cao nguyên Golan từ tay Syria. Một thất bại quá nặng nề dành cho khối Ả Rập.

7.  Các vụ khủng bố của PLO và chiến tranh Yom Kippur

Sau cuộc chiến Sáu ngày, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) buộc phải tháo chạy sang Jordan, nơi vua Hussein đã cung cấp các căn cứ và nơi trú ẩn cho họ. Tuy vậy đến năm 1970, PLO bất ngờ phản bội Hussein công khai hàng loạt hành động khủng bố, ám sát, lật đổ chế độ. Vua Hussein đã phải hất cẳng họ khỏi Jordan vào năm 1971.
Thất bại trước quân đội chính phủ Jordan, PLO lại phải di dời đến Nam Lebanon, nơi đây đã được PLO sử dụng làm căn cứ để tiến hành các cuộc tấn công khủng bố vào miền bắc Israel cũng như các chiến dịch không tặc trên toàn thế giới.
Những kẻ khủng bố Palestine trong sự kiện Munich 1972, nơi 11 vận động viên người Israel bị chúng bắt cóc và sát hại


Một trong những hành động khủng bố khét tiếng nhất của các nhóm phiến quân Palestine trong thời gian này là vụ bắt giữ và giết hại 11 vận động viên Israel tại Thế vận hội Olympic năm 1972. Bên cạnh đó, những phần tử khủng bố Palestine còn chịu trách nhiệm trong vô số các cuộc tấn công đáng chú ý khác, chẳng hạn như vụ không tặc chuyến bay Sabena 571 và vụ thảm sát ở sân bay Lod.
Năm 1973, các lực lượng quân sự của Ai Cập và Syria bất ngờ tấn công Israel vào ngày lễ Yom Kippur của người Do Thái, với mục tiêu tái chiếm các vùng lãnh thổ bị mất trong chiến tranh Sáu ngày. Tuy vậy cuộc xâm lược này tiếp tục thất bại trước sự phản kháng mạnh mẽ của Israel. 
Cuộc chiến Yom Kippur có ảnh hưởng sâu rộng vì nhiều lý do khác nhau. Thế giới A Rập, vốn bị đánh thua đau trong cuộc chiến tranh Sáu ngày, phấn chấn về mặt tâm lý bởi một chuỗi thắng lợi lúc mở màn cuộc chiến. Đối với Israel, tuy phản công thắng lợi vào giai đoạn sau, nhưng tổn thất nặng về vũ khí và nhân lực khiến nước này bị sốc và cảm thấy cần đàm phán hòa bình với khối A Rập. Tâm lý này mở đường cho cho quá trình đàm phán hòa bình tiếp đó, và cũng khởi đầu cho các chính sách tự do hóa của Ai Cập dưới thời tổng thống Sadat. 
Để chứng tỏ thiện chí hòa bình, Israel đã trả lại Bán đảo Sinai cho Ai Cập theo Hiệp định Hòa bình David Camp năm 1978. Cũng theo các điều khoản của hiệp định, Ai Cập chính thức công nhận nhà nước Israel và rút khỏi liên minh chống Israel. 
Tuy vậy những hi vọng về việc lập lại hòa bình đã tan vỡ sau vụ thảm sát Coast Road được tiến hành bởi PLO cũng trong năm đó, khiến nhiều dân thường Israel thiệt mạng.

8. Chiến tranh Nam Lebanon và Hiệp định Oslo

Sau vụ việc nhóm vũ trang ANO của Palestine ám sát hụt một nhà ngoại giao Israel vào năm 1982, Israel đã đáp trả bằng việc mở một cuộc tấn công toàn diện vào Lebanon - nơi trú ẩn của PLO. Các nhóm vũ trang của Palestine bị đánh bại nhanh chóng trong vòng vài tuần, và trụ sở của PLO đã được sơ tán đến Tunisia vào tháng 6 theo quyết định của Yasser Arafat.
Đến đầu những năm 1990, các nỗ lực quốc tế để giải quyết cuộc xung đột đã bắt đầu.
Hiệp định Oslo năm 1993 được coi là bước tiến lớn trong tiến trình hòa bình. Theo điều khoản của hiệp định, PLO thừa nhận sự tồn tại của Nhà nước Israel và cam kết từ bỏ tiến hành bạo lực, đồng thời Israel cũng công nhận PLO là đại diện của người dân Palestine.  Ngoài ra, PLO cũng được phép di dời khỏi Tunisia và thành lập Chính quyền Quốc gia Palestine ở Bờ Tây và Dải Gaza. 
Năm 1994, Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin , Bộ trưởng Ngoại giao Israel Shimon Peres và Chủ tịch PLO Yasser Arafat đã nhận giải Nobel Hòa bình nhờ quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định Oslo. Tuy vậy hòa bình thực sự đã không được thiết lập sau hiệp định này
Hiệp định này được coi là một bước ngoặt: lần đầu tiên PLO chấp nhận giải pháp hai nhà nước, tức họ không còn đòi hỏi chủ quyền đối với toàn bộ vùng đất Palestine nữa.
Tuy vậy, hiệp định đã vấp phải sự phản đối đáng kể từ các nhóm Hồi giáo cực đoan của Palestine, tiêu biểu là Hamas, những kẻ lên án Arafat là "thỏa hiệp với kẻ thù" và ngay lập tức khởi xướng một chiến dịch khủng bố nhắm vào người Israel. Hòa bình lại một lần nữa không thể thành hiện thực.

9. Bối cảnh xung đột trong 20 năm gần đây

Sau nhiều cuộc đàm phán không thành công, cuộc xung đột lại bùng phát trở lại. Bạo lực đã leo thang thành một cuộc xung đột mở giữa Lực lượng An ninh Quốc gia Palestine và Lực lượng Quốc phòng Israel, kéo dài trong suốt những năm 2004-2005.
 Cuộc đấu tranh chính trị nội bộ của người Ả Rập Palestine giữa 2 phe là Fatah và Hamas nổ ra vào năm 2007,. Fatah là phe ôn hòa, chấp nhận giải pháp hai nhà nước với Israel, còn Hamas là phe cực đoan, mục tiêu của chúng trước sau như một vẫn là tiêu diệt nhà nước Israel; Kết thúc cuộc xung đột, Hamas giành thắng lợi đã nắm quyền kiểm soát Bờ Tây và dải Gaza. Một chính quyền mới của người Ả Rập Palestine được thành lập. Hamas tiếp tục thực hiện các chiến dịch khủng bố nhằm vào lãnh thổ Israel. 
Căng thẳng giữa Israel và Hamas leo thang cho đến cuối năm 2008, khi Israel triển khai chiến dịch Cast Lead tại Gaza, dẫn đến hàng ngàn thương vong dân sự và thiệt hại hàng tỷ USD. Đến tháng 2 năm 2009, một lệnh ngừng bắn đã được ký kết với sự tham gia hòa giải của cộng đồng quốc tế, mặc dù những cuộc giao tranh lẻ tẻ giữa hai bên vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. 
Ngày 29 tháng 11 năm 2012, Nghị quyết số 67/19 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc được thông qua, nâng cấp Chính quyền Nhà nước Palestine lên vị thế "nhà nước quan sát viên phi thành viên" tại Liên Hiệp Quốc. Việc thay đổi vị thế này được mô tả là công nhận thực tế chủ quyền quốc gia của người Ả Rập Palestine.
Tiến trình hòa bình hiện nay vẫn đang đối mặt với rất nhiều trở ngại. Mặc dù phía Israel nhìn chung ủng hộ giải pháp hai nhà nước, nhưng giải pháp này vẫn bị phản đối gay gắt bởi các thành phần cực đoan của phía Palestine, tiêu biểu là Hamas. Cuộc xung đột dai dẳng kéo dài hơn nửa thập kỷ này có lẽ còn lâu mới tới hồi kết thúc.
Nguồn: Tổng hợp từ wiki và nhiều bài viết khác