Dịch từ bài gốc của D. Wystan Owen trên Lithub

---
Suốt 20 năm, Erma và Violet sống cùng nhau ở Glass, không đơn thuần bạn bè cũng chẳng đúng tình nhân. Hễ có ai đặt câu hỏi, hoặc (thường xuyên hơn) giả định gì về họ, cả hai sẽ nhìn nhau, mắc cỡ, không nói lời nào, không có một cái tên để chỉ ra mình là gì của nhau. Sự phì nhiêu khiến cả hai nổi bật, quả thật chính nó là cái đã mang cả hai đến bên nhau, cho dù Violet là người cảm thấy dễ chịu hơn hẳn. Cả hai ở chung một căn phòng trong một ngôi nhà nửa gỗ, hai giường đơn có một chiếc bàn đặt giữa. Cả hai thích sách, xếp hình và các trò chơi, video thâu chương trình Not Only… But Also. Hàng đêm, trước khi tắt đèn đi ngủ, Erma sẽ nói, không chút ngượng ngùng, “Yêu em, Violet,” và rồi lắng nghe một hồi tiếng môi bạn mình mấp máy nhẩm theo một lời chúc ngủ ngon thầm. Nếu như cô nói ra được những lời kia, có lẽ Erma hẳn sẽ nói cả hai chưa bao giờ thật sự được ai quan tâm săn sóc, tới tận vài năm qua trong vòng tay nhau. Chẳng có gì ở họ thật sự xứng đáng với yêu thương, thế gian từ quá lâu dường như đã mách với họ điều đó; và nó ngừng lên tiếng vào ngày mà họ gặp gỡ. Giờ đây, lắng nghe trong bóng tối, Erma thường hay bị xúc động, thấy lòng choáng ngợp, bởi biết rằng mình chính là người ở vị trí cao nhất trong những nguyện cầu của Violet.
Tình dục chưa bao giờ trở thành chuyện giữa họ, ít nhất là không theo một lối nghĩ thường khi. Trong trường hợp của Erma, tình dục chẳng phải một cái gì đó mà từ lâu rồi cô đã không còn nghĩ tới. (Ở tuổi 11, cô từng có ham muốn dẫu ngắn ngủi với Phineas Cork, đứa con trai duy nhất trong trường không thấy trò đùa tai ác lúc Erma ngồi phải ghế bị trét bơ là hài hước; về sau, khi nhìn thấy người ta hò hẹn rồi kết hôn, cô chỉ cảm thấy thoáng gợn chút tị ganh.) Việc rốt cuộc cô lại sống cùng một người phụ nữ khác làm bầu bạn dường như hoàn toàn bình thường và chẳng gì khó đoán, nhưng chẳng bao giờ cô xem chuyện của mình giống như chuyện tình của bao người khác.
Chủ yếu, họ bày tỏ cho nhau sự trìu mến thoáng qua, mặc cho những lời thú nhận của Erma có như thế nào. Chỉ có một lần họ thật sự chủ ý phá vỡ chuẩn quy này, khi hay tin mẹ Violet qua đời.
Một bức điện tín đến nhà: một thứ cũ kỹ, xưa cũ, thậm chí vào thời điểm đó. Trong bếp, Violet chầm chậm ngồi xuống. Cô trao mẩu giấy cho Erma.
Thật lạ: họ sống bên nhau suốt nhiều năm, và cô cũng chẳng hề biết mẹ Violet còn sống hay không.
Đêm đó, lần đầu tiên trong đời, cả hai lên giường cùng nhau.
“Bà mẹ tội nghiệp của em.” Violet run bẩy vì đau đớn. Cô nằm quay mặt vào tường.
“Em dấu yêu,” Erma đáp. “Em dấu yêu ơi.” Các bức màn, mỏng như tơ, màu xanh, không hề động đậy. Bằng chính cơ thể mình, cô dò theo đường cong người bạn mình.
Tối đó trong nhà của họ không có tiếng nguyện cầu nào. Cùng nhau, họ hổn hển; tay nắm chặt tay. Biển khơi có thể nghe thấy khi lao sầm vào vách vực.
*
Còn tại ngôi làng Glass nhỏ bé ven biển, ai cũng biết tới họ, đi lại với nhau trong chiếc Beetle vàng nhạt. Violet lái; người ta vẫy tay chào lúc cả hai chạy qua; mỉm cười đáp lại, cô ấn còi xe. Ban đầu chiếc xe thuộc về Violet, tương tự như ngôi nhà mà cả hai đang sinh sống, rồi thành đồng sở hữu chẳng bao lâu sau khi họ gặp gỡ tại thư viện, nơi Violet phụ trách các bộ sưu tập còn Erma có thói quen trả sách trễ hạn thường xuyên. Ta biết những người nằm trong chùm việc ấy, như ta biết những người xung quanh Erma, vừa bán giấy và bán thiếp. Hai người thân thiện với các chủ cửa hàng và câu lạc bộ trong vùng: với Herville, anh chủ chạp phô; với các quý bà ở Viện Phụ nữ; với Trilby, người bán hoa, tới khi chị ta đóng cửa tiệm.
Các bữa ăn là một cách cả hai gần gũi nhau, một quãng thời gian chung mang cả hai về lại với chính mình. Cùng nhau, họ sửa soạn những món ăn cầu kỳ: thịt viên và súp thịnh soạn mỗi mùa đông; cá nướng, salad khoai tây mùa hè. Cả hai đều có sức ăn và không bao giờ giả vờ, như Erma cảm thấy cả hai đã từng giả vờ trước kia. Trong bếp, như bất kỳ đâu khác, Violet chỉ đạo, và dù Erma là một đầu bếp giàu kinh nghiệm hơn, cô chẳng hề ngại khi được mách việc hay thậm chí đôi lúc chịu đựng quá lời. Đôi lúc nhà bếp trở nên căng thẳng, Violet thường cởi áo ngoài, chỉ còn áo ngực. “Đừng bận tâm, nhé em, tình yêu ơi?” cô thường an ủi, và rồi nhờ chuyền qua một chiếc muỗng hay một cái tô mình cần. “Đừng thấy bị xao nhãng quá nhé!” Cô có khi còn hát một bản nhạc, một điệu shimmy, Your Feet’s Too Big hay Roll Out the Barrel. Khi Erma cười, cô che miệng; còn Violet, cô ngửa đầu và cả người cô run lên thật quyến rũ, như nước tóe ra và đọng lại lưng chừng giữa không gian.
*
Và rồi, trước ngưỡng năm hai mươi mốt họ ở cùng nhau, tim Violet yếu đi, như đã từng được cảnh báo trước đây. Suốt những năm tháng qua, Erma đôi lúc thử áp dụng chế độ ăn kiêng, không phải vì bản thân muốn, cũng chẳng phải để phá hỏng niềm vui giữa họ, mà sợ rằng rốt cuộc sẽ ở một mình. Trẻ hơn Violet ít tuổi, cô luôn thấy bận lòng bởi khả năng này.
Họ đi dùng bữa trưa ở một quán ưa thích bên biển. Giữa ánh mặt trời, nhìn ra bãi biển dài, khúc khuỷu, người bán hàng và vòng xoay đang bất động, họ dùng ngoe cua với bánh nhỏ phết bơ và vang trắng trong lúc hải âu trắng chao lượn hay đậu xuống gần bên.
“Em rất muốn ăn bất cứ thứ gì chị ăn,” Violet thổ lộ. Cô cười và khua tay lên bàn. “Em chỉ cần một chiếc váy và bộ tóc giả.”
Sau đó, hai người bách bộ tới một con đường mòn gần bờ, và ở đó, trong bóng đổ loang lổ của một cây sồi, Violet quỵ ngã, chầm chậm, một gối rồi gối còn lại, cùng một nét nhìn trầm tư qua vai, cho tới khi cô nằm xoãi, sấp người lặng lẽ.
Erma lao tới bên cô, suýt tê bại vì hốt hoảng. Không gian quanh họ vắng lặng kinh người. Erma rút di động ra khỏi túi, vừa mở để gọi vừa run bần bật. Lúc sau, cô không còn nhớ đã nói gì hay đã chờ máy trong bao lâu. Cô chỉ còn nhớ đã nắm bàn tay Violet, mướt mồ hôi và gần như không sao nắm lại được, như thế nào.
“Em hỡi em,” cô nói. “Trời đất. Lạy Chúa.” Chẳng bao lâu, người ta có mặt và lớn tiếng kêu cứu. Một nhúm người vây lại; cô ước họ ra khỏi đó dùm. Một người đàn ông đặt bàn tay lên sườn Violet và ấn trong lúc vợ anh kéo Erma ra ngoài. Từ chỗ đứng trên mặt đất, họ chẳng nhìn thấy gì ngoài biển, chỉ thấy một quãng trời quang đãng nhất. Trợ y xuất hiện với một chiếc bàn và băng ca; họ đeo mặt nạ trợ thở lên mặt Violet. Một lúc nào đó, phần trên áo blu của cô bị mở bung, và Erma rú lên, chờ ai đó che bạn mình lại, xấu hổ vì  Violet đang trong tình trạng không áo quần, mà trước đây chỉ có một mình cô được phép thấy.
Khi cô được tin Violet, vừa lúc băng qua cổng bệnh viện Mercy, đã qua đời, suy nghĩ đầu tiên của Erma chính là vế cuối của cuộc đời mình rồi cũng sẽ tới, và khi ấy, khi nó xảy ra, cô sẽ chẳng bao giờ - dẫu chỉ một lần - còn được hôn nữa.
*
Violet đã tiến hành kiểm toán chỉn chu, mặc dù cô chẳng sở hữu gì mấy ngôi nhà mà cả hai chia sẻ chung. Di chúc nằm tại một két an ninh trong thành phố, sẽ được mở bởi một người họ hàng từ lâu đã bị xa lánh, một người phụ nữ chẳng hề có chút nét nào giống với Violet và càu nhàu về việc này, có lẽ đoán rằng tên mình không có trong di chúc. Catherine là tên của chị. Chị đến ngôi nhà, gặp Erma bằng nửa cặp mắt hiếu kỳ.
“Tôi nghĩ lúc bé tôi khá thân với Violet,” chị ta kể lúc hai chúng tôi đi xe tới ngân hàng.
Họ lạc đến Douglass, trong lúc ra khỏi làng. Một làn sương dày đang từ biển ùa vào. Bên ngoài tiệm chạp phô, Herville đang quét dọn; Erma không biết anh đã hay tin chưa.
“Dù thực sự lâu lắm rồi chúng tôi chẳng gặp nhau. Tôi hiểu chị ấy đã buông bỏ tất cả.”
Erma không nói gì. Cô chẳng hiểu Catharine muốn nói gì, trừ phi chị ta muốn đề cập tới trọng lượng. Chỉ riêng cái ý nghĩ nói chuyện, thậm chí tán chuyện qua loa, về Violet thay cho bao người xa lạ trong quá khứ của chị cũng đã nao lòng. Erma không che đậy gì về gia đình hay bạn bè cũ, vì khi họ gặp nhau cô chẳng hề có ai. Khi cô dọn tới Glass với số tiền cha mẹ để lại, đó là một giai đoạn vô cùng tăm tối; hai con người ấy đã cố sức tỏ ra tử tế nhưng chưa bao giờ biết cách che đậy sự thất vọng của mình đối với cuộc sống cả. Hai người họ qua đời cách nhau hai tuần, chẳng phải vì người còn sống (cha Erma) không thể chịu nổi cảnh cô quạnh mà bởi vì, khi góa vợ, ông đã thoát khỏi nghĩa vụ và chẳng còn bổn phận nào để sống tiếp nữa. Erma cảm thấy hai ông bà có thể đã để lại ngôi nhà và tiền bạc cho ai khác nếu được, nhưng rồi cũng chọn gửi cho cô vì cả hai đã yên định những điều khác xong xuôi: vì đó cũng chính là bổn phận của hai người họ.
Ở ngân hàng, Catherine đi vào gian phòng còn Erma buộc phải chờ ngoài sảnh. Các tầng ở ngân hàng bóng láng như gương; cô nheo mắt, tránh luồng ánh sáng chóa vào. Cô ăn một viên kẹo bạc hà trong ví, khịt mũi. Cô hẳn sẽ thích lắm nếu được chọn làm người thân cận nhất của Violet. Với Erma dường như đó là một thực tế hoàn toàn tự nhiên, nhưng hóa ra lại có quy định về chuyện này.
Nhiều ngày sau sự việc cô không sao ngủ được. Trong phòng ngủ, với chiếc giường đơn trống hoác cạnh bên, bừa bộn, như cô vẫn thường trách kiểu dọn dẹp của Violet, cảm giác thật khủng khiếp. Trong bóng tối chỉ còn một mình , cô hít thở, đôi lúc là khí từ biển cả, và cô mỏi mong âm thanh cầu nguyện lặng câm của bạn mình. Cô thậm chí không thể tái hiện lại chúng trong tâm trí, không sao nhớ nổi đã từng nhận ra một lời nào hay chưa. Cô cố sức nhớ lại sự yên tĩnh của tiếng kinh cầu và sự tĩnh lặng cảm nhận thấy trong lúc lắng nghe: Violet, con người luôn tươi tỉnh và nổi loạn, chuyển thành một người khác trong những khoảnh khắc cuối ngày.
*
Di chúc, hóa ra, chứa đựng một ngạc nhiên nho nhỏ. Mọi thứ đã được để lại cho Erma, không nêu rõ cụ thể, ngoại trừ một món đồ mà chính cô còn nhớ rõ. Đó là một chiếc bàn có nắp cuộn đã hỏng, một món đồ cổ bằng gỗ óc chó cỡ lớn và cồng kềnh, đã từ lâu được phủ lên một tấm vải che bụi trong nhà để xe từ lúc Erma đến sống. Chiếc bàn được trao cho một người tên John Killian, chủ sở hữu quán Green Man ở Hart Street. Erma biết ngay lập tức đó là người nào, vì đã lui tới đó uống rượu đôi lần: một người cao, hói và mỏng người tới nao lòng; anh ta là một người dễ chịu và tốt tính, nhưng chẳng phải kiểu người mà họ ưa đưa ra đánh giá.
Anh ta xuất hiện ở đám tang nhưng không để lại chú ý nào. Anh mặc bộ đồ đen, đặt một bó hoa thủy tiên nhỏ trên bàn thiếp được dọn sẵn để nhận quà điếu. Cô đã chọn một lễ tang thông thường, không dài lê thê hay quá đậm tôn giáo, vì nhớ Violet sinh ra đã theo Cơ Đốc, nhưng chẳng bao giờ xin tội. (Lời cầu nguyện của mình, Violet lý sự, cũng khá chung chung.) Violet ước được hỏa táng, thoát khỏi thân thể mà người ta biết về cô. Sau đó, mọi người nán lại ít lâu. Họ nắm lấy tay Erma, bày tỏ thương xót, nhưng không đến mức xem cô là một góa phụ, có vẻ là vậy. 
Cô viết thư gửi John một tuần sau tang lễ: một ghi chép ngắn mô tả món quà, không thắc mắc gì về ý nghĩa của món quà cả.
Ngày lại ngày trôi qua. Cuộc sống như giấc mơ và kỳ dị. Các tối, thử nấu nướng cũng thấy lạ lẫm; tay cô chạm vào con dao nơi tay Violet từng nắm. Ở chậu rửa, một số món đồ của Violet vẫn còn đó, lần cuối cùng. Trong thị trấn, ông Herville thái quá nhiều thịt muối; Ault theo thói quen tìm tới một chai Port, quên rằng chỉ có Violet uống. Cô không nấn ná ở các cửa hiệu kia thêm nữa. Cô nhận ra rằng, chính Violet là người kiến thiết tình bạn giữa họ, chính Violet là người vui vẻ, thậm chí ngả ngớn, là người đã làm trò, nheo mắt, là người bật ra những điều khôn ngoan.
Sau bữa ăn tối, Erma thường ra khỏi nhà xe và đứng một hồi trong ánh sáng mờ, hôi mốc. Cô tìm chiếc bàn, thoạt đầu vẫn còn được đậy lên, sau đó tấm vải phủ bụi được quẳng xuống sàn nhà. Mặt bàn bị nám, gỗ bị vát đi; chẳng còn gì trong ngăn tủ. Một đêm nọ khi vào lại trong nhà từ cửa sau, cô nghe điện thoại reo trong phòng khách.
“Erma nghe.”
“Erma.”
Cô nhận ra giọng Killian: thé và ám khói quán bar.
“Cảm ơn, “ anh nói. “Đã cho tôi hay tin.”
Một tiếng còi báo sương rền lên phía cảng.
“Tôi chỉ muốn hỏi trước. Xem lúc nào là phù hợp,” anh nói.
“Phù hợp?”
“Để chở chiếc bàn đi.”
Cô im lặng. Có lẽ anh đã tỏ ra ngạc nhiên. Làm vậy là đúng đắn mà. Nhưng sao mọi thứ lại quá lạ kỳ, không sao hiểu nổi. Cô đáp, “Chắc chắn tôi không phiền rồi.”
Một bộ xếp hình, dang dở, đang trải trên bàn. Tranh Bruegel, phong cảnh trắng xóa mùa đông. Violet từng cười to khi vọc các mảnh ghép tìm cho ra miếng ghép mông trần, chè chén, độc địa.
“Cứ tới khi nào anh muốn,” Erma đáp. “Chẳng có chút gì khác đi với tôi cả.”
*
Và thế là anh ta xuất hiện trong một comple vải tweed, cà vạt, và một chiếc nón nhàu kẹp trên tay. Anh đứng ngay trước cửa, căng thẳng, phân vân; nếu thêm một chiếc vali và một chồng brochure anh chàng chắn hẳn sẽ giống như một người chào hàng đang khốn khó, một nhà truyền giáo. Anh đã đậu một chiếc tải nhỏ de đuôi về cửa nhà xe, theo chỉ dẫn của cô. Xe mượn, anh nói, từ một người bạn sống ở vùng đồi, vì xe anh không đủ lớn để chở chiếc bàn.
“Anh là người duy nhất còn lại có tên trong di chúc,” cô vừa nói vừa đi theo anh bước xuống bậc tam cấp.
Đang giữa ngày; mặt trời lên cao và gay gắt. Cô cúi người chầm chậm để nâng cửa nhà xe.
“Anh không thấy lạ sao? Dĩ nhiên, chúng ta từng có nhiều lúc vui vẻ với nhau trong quán, nhưng tôi vẫn thắc mắc tại sao lại là chiếc bàn này mà không gì khác.”
Anh cúi đầu. “Tôi từng yêu thích nó.”
Anh mang theo một bệ đẩy để nâng chiếc bàn, và cô giúp anh nhấc một đầu bàn lên khỏi mặt đất. Gỗ xưa nặng ì; cô phải dồn hết sức bình sinh, để có thể giúp anh đẩy nó vào xe tải trên một dốc kim loại ngắn mà anh cũng mượn mang tới.
“Lẽ ra tôi đã gọi thêm ai đó tới giúp,” anh nói.
Cô cũng thở dốc vì ráng sức. Cả hai đều mệt. Một mớ tóc bết vào mặt cô.
“Bắt chị làm thế này là tôi sai,” anh đáp trả. Anh đập một con ruồi đậu sau cổ. Sau khi cùng cố sức, sự ngại ngùng của anh đã gia tăng.
“Không, không có gì,” là tất cả những gì Erma thốt ra được. Cô thậm chí còn chẳng muốn anh biết mình có thấy phiền hay không: việc anh tới, chở chiếc bàn đi, hay thiệt hại đến từ việc Erma hiểu ra - rõ mồn một và không thể nào chối cãi được - rằng Violet đã từng yêu anh trước mình.
*
Hè nấn ná thêm và rồi mất hút; cây quanh Glass rụng lá. Suốt những tháng mùa thu, lúc nào cô cũng có cái ý nghĩ đau lòng rằng cái đêm chia sẻ một chiếc giường với Violet đã bị tình cảm dành cho một người đàn ông làm lu mờ. Rằng cô biết người này, đã nói chuyện với anh ta trong sự hiện diện của Violet, càng khiến mọi thứ thêm tồi tệ. Cô tự hỏi không biết họ có cười cợt mình sau lưng hay không, bởi rất có thể chuyện tình giữa họ đã tiếp tục cho tới sau cùng; cô nghĩ tới Killian đứng trước cửa, tay cầm nón: Anh ta có giống với một người có người tình vừa qua đời hay không? 
Lần đầu cô đậu xe bên ngoài Green Man là một tối xám trời đầu tháng Mười một. Các viên đá sỏi của Hart Street trơn tuột, lấp lánh; ánh đèn đường tạo thành những mảng mưa mịn in trên nền đường. Tuần đó, cô thấy một con cá voi lao khỏi mặt biển - một sinh vật hoang dã, đẹp đẽ, hiếm thấy vì khi đó đã vào cuối mùa sinh sản - nhưng chẳng một ai bên cô để ngắm cảnh tượng ấy. Lúc này, trên vô tuyến có một chương trình về một người bị kết án chung thân có tranh vẽ được bán bộn tiền. Một nhà phê bình cho rằng chúng có thể khiến ta rơi nước mắt. Cô nhấc ngón tay lên quạt để sưởi ấm.
Rỗi rảnh, cô nhìn quanh quán: cửa kiểu Hà Lan, ánh sáng vàng phát từ máy đánh bạc. Cô nghĩ tới cảnh Violet từng ngồi uống rượu ở đó, nhiều năm trước, trước hai người gặp nhau: cười đùa, nghiêng vào quầy bar để thầm thì gì đó vào tai Killian.
Với cô chỉ từng có chàng trai tốt bụng ở trường, và những minh tinh: Paul Newman hay kiểu thế. Nhưng những chuyện này lại hoàn toàn khác không thể chối cãi. Cô chưa từng nấu nướng với ai khác, chưa từng ngủ cạnh một người nào. Thậm chí biết Violet đã từng yêu một người phụ nữ khác trong đời mình cũng không phải gì quá sức tồi tệ, bởi ít nhất cô biết rằng với Violet được một ai khác chạm vào thân thể cũng không tới mức dợm người.
Một cặp tình nhân bước ra khỏi quán rượu và quay mặt về hướng Erma để đi Hart Street. Họ không mang theo dù. Người nam mang áo khoác ngoài, phanh ra; người nữ đứng sát để anh choàng áo quanh mình. Erma vặn nhỏ vô tuyến. Trong thinh lặng, cô quan sát họ di chuyển, cúi người dưới cơn mưa. Chẳng có lý gì để họ đứng gần nhau như thế, cũng chẳng có lý do gì để hôn, nhưng cả hai đã dừng lại chỉ để hôn nhau. Khi họ bước qua, cô có thể nghe thấy tiếng bước chân và giọng nói của hai người: thì thầm, cười vang. Cô có thể nhìn thấy những khuỷu tay thanh mảnh của cô gái, bắp chân trắng nõn, và khuôn mặt cô ngẩng lên khuôn mặt người nam - một sự dâng hiến trơ trọi - và tất cả những thứ này dường như muốn rành rành tuyên bố rằng, “Chúng tôi yêu nhau! Chúng tôi là một cặp!”
Erma bật ghế lái xe về sau (chiếc ghế tới giờ vẫn chưa hoàn toàn cảm thấy thuộc về mình) và lắng nghe mãi tới khi tiếng bước chân của họ đã không còn. Cô không nhìn vào quán thêm lần nào nữa, chạy thẳng vào con đường sũng nước, trải đá, nhưng có ngẩng nhìn thêm, một lần cuối, khi băng qua quán rượu, trên đường trở về nhà.
Còn thêm dăm ba lần đến quán rượu vào mùa đông năm đó, những cái nhìn trộm qua cửa sổ và cửa chính quán thấy John Killian lúc phục vụ thức uống, lúc đổi thùng bia. Nếu nán cho tới giờ đóng cửa Erma có thể thấy John khóa cửa, vẫy chào tạm biệt bất cứ nhân viên nào còn ở lại. Anh ta sẽ khựng lại để vểnh cổ áo lên, dùng nó để chặn thuốc lá đừng tắt trong gió. Có lúc, khi anh đã vào xe, cô thường khẽ vặn động cơ và đuổi theo quầng sáng sau xe anh phía xa. 
Vì sao lại theo dõi, và hy vọng sẽ thấy được gì, cô cũng chẳng rõ. Anh chưa bao giờ làm trái thói quen: không bao giờ bỏ đi cùng với một người phụ nữ khác, chẳng bao giờ rẽ trái khi nhẽ ra phải rẽ sang phải. Thường cô sẽ từ trong xe gọi điện thoại cho quán, nhưng nếu anh trả lời cô thấy không có gì để nói tiếp.
Tháng Mười Hai. Đèn đường được trang hoàng thêm trang trí giáng sinh, còn Green Man thì có những dải đèn màu sáng rực. Cô và Violet chưa bao giờ thích Giáng Sinh, nhưng cả hai từng có với nhau một thói quen đơn giản: một chai champagne, một ổ bánh panettone ngon lành, và, nếu Violet thấy nhớ ngày xưa, cả hai sẽ đi qua nhà thờ để nghe lễ. Giờ đây thứ khiến Erma đau đớn, khi kỳ lễ sắp tới gần, chẳng phải là sự kết thúc của những điều vừa rồi; mà chính là suy nghĩ rằng, nếu vắng mình, Violet hoàn toàn có thể xoay sở để tiếp tục mọi thứ. Bởi giờ đây đã rõ với Violet cả hai chỉ là bạn cùng phòng, gắn bó nhau trước hết bởi sự tiện gọn và tiết kiệm chi phí. Erma đã ngốc nghếch biết bao. Rằng mọi thứ để lại cho cô chẳng có chút gì gọi là an ủi cả; cô có được tất cả những thứ này vì đó là lẽ đương nhiên, cũng như khi cha mẹ cô qua đời. Món quà lớn hơn, theo cô, vào khi đó, chính là món quà gửi Killian, đích xác là bởi nó vô giá trị, bởi nó là một biểu tượng không hơn. Trong cái cuộc sống ngắn ngủi, tiện tặn này, việc được trao cho một thứ như thế quý giá hơn ngàn lần thứ vì nghĩa ân.
*
Erma gọi Catharine lúc giữa ngày, mặc dù cô vẫn chưa ra khỏi nhà. Bên ngoài, quang cảnh phủ sương mù và đáng sợ. Biển và trời cùng một màu xám. Có một nồi súp thừa trên bếp, bánh mì để hâm nóng lại trong lò cho bữa trưa. Phải mất một hồi để giải thích cho Catharine biết Erma đang ở đâu; cả hai không nói năng gì với nhau từ khi di chúc được thực hiện.
“Tôi nghĩ mình sẽ kể với chị tôi đang ra làm sao,” Erma nói. “Và cách thị trấn này nhớ về Violet. Họ vẫn vẫy tay chào chiếc xe mỗi khi tôi chạy qua. Họ quên bẵng, thấy không. Violet đi đến đâu là có bạn đến đó.”
“Đúng vậy.”
“Lúc nào cô ấy cũng như thế? Ý là lúc chị còn thân thiết?”
“Tôi nghĩ là vậy,” Catharine trả lời. “Cô ấy xinh xắn hơn cô hình dung.”
“Tức chẳng phải lúc nào cô ấy cũng chán phèo sao?” Erma hỏi lại. Cô hình dung cảnh Violet cười giỡn. Cô ấy lúc nào cũng cao hơn, xinh đẹp hơn. “Lúc nào tôi cũng chán phèo cả.”
Catharine không trả lời.
“Và cô ấy rất biết khôi hài?”
“Đương nhiên rồi,” Catharine nói. “Nhưng Erma, cô biết không. Cô ở bên Violet lâu hơn tôi kia mà.”
Erma mỉm cười khi nghe câu nói ấy và để cho sự yên lặng kéo dài thêm phút chốc qua điện thoại. Cô đang trong phòng khách ngôi nhà của hai người, màn phủ xuống để cản sương mù, lò sưởi không mở. Chính cô là người đã chẻ củi nhóm lửa mùa đông, sau khi học cách làm từ cha mình, một việc mà thường đàn ông sẽ làm.
“Erma này,” Catharine hỏi. “Tại sao cô gọi?”
“Chắc hẳn cô ấy được nhiều người yêu mến lắm,” Erma tiếp tục. “Với bọn con trai, ý tôi là vậy.”
“Đó là một phần rắc rối.”
Violet cũng đã si mê cả những cô gái nữa, Erma nghĩ tiếp. Từ quá khứ xa xăm bỗng ùa ra hình ảnh Violet, sách giữ chặt vào chiếc áo cardigan trắng xinh đẹp, váy phồng quanh eo. Kiểu con gái từ xa sẽ mỉm cười hay sẽ bày ta cách trang điểm, sẽ đề nghị hỏi một anh chàng đi dạ hội mùa xuân, chẳng bao giờ nghĩ tới những tổn thương khi nói ra.
“Cô ấy bỏ nhà sau khi học xong?”
“Chưa bao giờ xong,” Catharine trả lời. “Tôi ngạc nhiên là cô không biết chuyện đó.” Đây, lần đầu tiên, có một chút độc ác trong giọng cô. “Khi đã bỏ nhà, Violet không bao giờ quay lại.”
Erma nhớ lại hết rất nhiều lần mình thấy ngạc nhiên trước một món đồ nào đó từ quá khứ ngày trước của Violet, như thể cho rằng cô chẳng thể nào sở hữu chúng, hay là, theo lẽ dĩ nhiên, cô ấy chẳng bao giờ mặc vừa. Suy nghĩ ấy là một phần khác của sự ngốc nghếch, bởi còn thứ gì khác có thể chỉ ra rằng Violet từng sở hữu người cô yêu dấu kia chứ? Cô nhẽ ra đã nhận ra Violet, mà trước đây cô đã từng chứng kiến: chẳng khác gì với đứa con gái mặc váy, với anh chàng tốt bụng; cũng hào phóng, yêu thương nhưng xa vời, không với tới. 
“Đêm mẹ cô ấy chết tôi đã ôm cô suốt đêm,” Erma đáp. Cô chưa bao giờ kể với ai khác. “Tôi ôm cô ấy và hôn vào cổ khi cô ấy đang nức nở.”
Catharine thở dài. Cô im lặng một hồi, rồi nói, bằng một giọng không còn độc ác nữa mà mệt mỏi, “Tôi chăm sóc mẹ Violet suốt trọn thời gian bà lâm bệnh.”
Lúc cả hai chào tạm biệt và cúp máy, màn sương đã nhường lối cho một cơn mưa. Mưa rơi đều, nhẹ, không mục đích, thứ âm thanh như một nhúm hạt khô đang rơi rải rác. Erma đứng đó, đốt lại lò để hâm súp, cảm thấy rốt cuộc mình có thể ở lại trong nhà.
*
Ngày hôm sau Erma không quay lại quán rượu. Chẳng phải cô ước rằng có thể giã biệt Violet hay buông bỏ ký ức giữa Violet và Killian. Chỉ là cô cảm thấy mục đích đã đạt được khi chẳng còn gì nữa để biết thêm. Ít ra cũng còn niềm an ủi ở một thứ: những thay đổi lớn nhất đã xảy ra trong đời Violet.
Ấy thế mà, như vẫn hay xảy ra, bất luận kết luận sau cùng là gì, Erma vẫn gặp lại John Killian: đúng mười ngày sau, vào buổi tối, khi cô mở cửa thì đụng phải hình bóng anh. Anh mặc cùng bộ comple chẳng chút vừa vặn, cùng chiếc cà vạt, cùng chiếc áo khoác mà cô đã trông thấy quá nhiều đêm trước. Lần này anh vẫn đội chiếc nón, và nó biến khuôn mặt của anh thành một cái bóng mờ.
“Nhìn đây, Erma ạ,” anh lên tiếng.
Cô lùi lại, nhận ra con tim đang đập, trong lồng ngực.
“Cô đang muốn gì, khi cứ lởn vởn quanh quán? Liếc vào, theo dõi tôi? Tôi không thích chuyện này. Còn định đi gặp cảnh sát.”
Một thoáng, cô cố tìm cho mình một chút giận dữ: anh đã tới nhà mà không thông báo trước. Dù vậy, cô lại tìm thấy thay vào đó là sự xấu hổ, tủi thẹn. Hai vai anh sụp xuống; cô cúi đầu. Cô chẳng hề có ý định nói dối, như chưa từng, trong suốt đời mình. Nhìn thấy mặt cô lúc ấy, người ta có thể tự hỏi có phải thiếu đi vẻ đẹp có phải mãi mãi là hậu quả của việc không biết lừa dối hay không.
“Vào nhà đi, anh Killian,” cô mở lời. “Vào trong đi, John.”
Trong phòng khách, anh có vẻ chậm chạp thích nghi. Cô nhìn anh đút tay vào túi, chớp mắt trong lúc quan sát xung quanh: trò ghép hình chưa xong, keo đậu thủy tinh, khăn lót và vải bọc trên ghế.
“Tôi đang dùng bánh khoai tây cho bữa lỡ.”
Anh chau mày, ngạc nhiên, như thể chưa nghe thấy gì.
“Tôi chưa ăn chung bữa với ai sáu tháng qua.”
Cô cởi áo khoác và nón, rồi dẫn anh vào bếp. Ở đầu bên kia của hành lang là phòng ngủ, nhưng cô không nói, vì biết anh đã biết.
Trên chảo, cô sắp xếp những chiếc bánh rán nhỏ màu vàng. Cô ra dấu để anh tới ngồi xuống bàn, và khi đặt bánh xếp vào lò, cô ngồi xuống hầu chuyện với anh.
“Từ lần trước tới giờ đã bao lâu rồi anh chưa tới đây?”
“Vài thập kỷ,” anh đáp. “Hai mươi năm, Erma ạ.”
Từ sự buồn bã trong giọng anh, cô tin.
“Chiếc bàn, hồi đó, đặt trong phòng ngủ.”
Hai người im lặng. Anh đặt hai tay lên bàn. Một khuỷu tay rộng hơn khuỷu còn lại, hình dáng hơi khác thường, cứ như do viêm khớp. Nếu phải nhấc bàn lên anh sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Cô thắc mắc không biết làm cách nào anh xoay sở sau khi mang chiếc bàn về tới nhà.
“Tôi xin lỗi vì đã thập thò ở quán.”
“Tôi nghĩ cô đã hóa dại.”
“Tôi chẳng có ý muốn gây phiền hà.” Cô đổi góc nhìn, không cho phép nhìn vào mặt anh. “Làm sao anh phát hiện ra?”
“Chiếc xe, Erma ạ.” Cứ như thể anh sẽ phá lên cười. “Ai ai cũng nhận ra chiếc xe đó.”
Cô mỉm cười và liếc nhìn đồng hồ. “Chắc không đúng boong bảy giờ, tôi đoán thế.”
Sau một lát, cô bật dậy để lấy thức ăn khỏi lò, và quay lại bàn với hai đĩa bánh xếp, và hai chiếc nĩa. Cô mời anh một lon bia, và anh đồng ý.
“Lúc phát hiện ra tên anh trên di chúc, tôi thấy rất tệ.”
Cô nhấp một ngụm bia, quệt bọt đọng lại trên môi đi.
“Đó giống như cô ấy giữ không cho tôi biết một bí mật, vốn là thứ tôi chẳng hề thích nghĩ cô ấy đã làm.”
Killian gật đầu. Hơi nước bốc lên từ đĩa lúc anh dùng một cạnh nĩa mở bung một chiếc bánh xếp ra.
“Tôi nghĩ là, cô ấy yêu anh,” Erma nói.
Anh nhai chậm đi, và cô nhận ra ở anh cái cảm giác mà cô từng biết tới nhiều tháng qua: cái sức nặng gần như không gì sánh được, như thức ăn trở thành một hòn đá chặn ngang họng.
“Thi thoảng tôi lái xe chở cô ấy về nhà,” anh đáp. “Ngày trước cổ uống nhiều lắm. Cổ bị bạo hành.”
Erma không còn thấy sốc khi nghe điều đó, mà chỉ khiến cô buồn hơn. “Ngày đó cô ấy xinh đẹp hơn chăng?”
“Có lẽ, nhưng đẹp không phải là vấn đề chính. Cô biết cô ấy thế nào rồi. Có khi, khi tôi đặt cô xuống giường cổ thường nói với tôi điều gì đó ngọt ngào,” anh kể. “Nhưng cô ấy cũng rất hay nói với tôi điều gì đó thật lạnh lùng.”
“Khi biết ta đã sai về ai đó cảm giác ấy rất khó chịu.” Cô không còn muốn ăn. Cô nghĩ tới cảnh Killian ngồi một mình bên chiếc bàn cạnh giường Violet. Lắng nghe, chờ hơi thở của cô tìm thấy một nhịp điệu.
“Tôi mừng là cô ấy chẳng bao giờ kể với cô về tôi cả,” anh tiếp. “Cảm giác rót rượu cho hai người, nhìn thấy cô ở ghế cạnh ghế lái chẳng dễ dàng gì. Tôi mừng vì Violet và tôi cũng có chung một thứ. Công bằng thôi mà, Erma ạ, vì cô có hết chỗ còn lại rồi.”
“Không, không đâu,” cô đáp, như cô đã từng vào ngày anh tới hỏi thăm chiếc bàn.
Cô dọn đĩa của cả hai. Anh cảm ơn và đứng lên, dù có vẻ anh cũng muốn nán thêm ít lâu nữa.
Khi tiễn anh ra ngoài, cả hai xin lỗi nhau và chia buồn cùng nhau, thậm chí còn ôm nhau ở trước cửa, Erma biết rằng trong mắt John Killian chính mình mới là người có nhiều thứ hơn, là người đã chiếm trọn trái tim Violet, trong suốt bấy lâu. Anh không hề biết, như tất cả những người khác sống tại Glass cũng không hề biết, rằng những lá thư thăm hỏi đã hai mươi năm không ai đáp lại, rằng chiếc bàn trong phòng ngủ đã bị thay không chỉ bởi bằng một chiếc giường lớn mà còn thêm một chiếc giường đơn khác nữa. Khi cả hai người họ vẫy tay trên xe lúc băng đường, họ đều có nghĩ tới hoặc nói lớn thành tiếng, “Violet ở kia với Erma.” Và lúc Violet đã bấm kèn đáp lại hai người họ xem đó là một lời tuyên thệ tình yêu. Họ sẽ chẳng đời nào biết được mình đã sai lầm đến đâu; những gì họ tin theo thời gian đã tự trở thành sự thật. Đây chính là món quà mà Violet đã trao tặng sau khi cô qua đời, vì chưa thể trao cho những gì được hỏi xin lúc cô còn sống. Đã là khá nhiều rồi. Với Killian, chỉ có duy nhất chiếc bàn và ký ức những lời lẽ được thầm thì trong bóng tối căn phòng: những lời cảm ơn được đưa ra mơ hồ như hơi thở qua làn môi; lời cầu nguyện từ thế giới chính giữa thế giới thực và chiêm bao.
k.