Trung Quốc đã Xuất khẩu cách mạng sang các nước Châu Á, Đông Âu, Châu Phi, Châu Mỹ La-tinh trong suốt thế kỷ trước, tạo ra những cuộc chiến tranh với nhiều mục đích. Bài viết này mình chỉ đề cập đến Xuất khẩu cách mạng tại Campuchia và Việt Nam, cùng với đó là những hậu quả lớn cho cả người dân Trung Quốc, Campuchia và Việt Nam. Tất nhiên một sự việc thực hiện ra sẽ có 2 mặt tốt xấu, nên mình không tranh luận về tốt xấu ở bài này.
hình minh họa khơ me đỏ
hình minh họa khơ me đỏ
Việc ĐCSTQ “xuất khẩu cách mạng” có thể nói là bất kể vốn liếng, chi phí. Ngoài việc huấn luyện đội du kích các nước, cung cấp vũ khí, phái đi quân đội tác chiến để lật đổ chính phủ hợp pháp của các nước ra, ĐCSTQ còn cung cấp một lượng lớn kim tiền để trợ giúp. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa điên cuồng năm 1973, “viện trợ đối ngoại” của ĐCSTQ đạt đến mức kỷ lục về chi tiêu tài chính quốc gia, chiếm 7%.
Theo Tiền Á Bình, một học giả Trung Quốc tiếp cận được hồ sơ giải mật của Bộ Ngoại giao Trung Quốc: “Năm 1960, ngoài 10.000 tấn gạo được vận chuyển đến Guinea, còn có 15.000 tấn tiểu mạch vận chuyển đến Albania. Từ năm 1950 đến cuối năm 1964, tổng số tiền Trung Quốc chi viện cho nước ngoài đã đạt đến 10,8 tỷ nhân dân tệ, trong đó, mức viện trợ cao nhất rơi vào giai đoạn 1960-1964, đúng lúc đang xảy ra nạn đói lớn ở Trung Quốc.” ( mọi người đọc bài Nạn đói khủng khiếp nhất thế giới thế kỷ 20 nhé)
Trong giai đoạn xảy ra nạn đói từ năm 1958-1962, hàng chục triệu người bị chết đói. Thế nhưng, khoản tiền “chi viện cho nước ngoài” lại lên đến 2,36 tỷ tệ. [6] Khoản tiền này nếu như dùng để mua lương thực thì đủ để cứu sống cả 30 triệu người bị chết. Vì vậy, những oan hồn này không chỉ là phải trả giá cho “Đại nhảy vọt” của ĐCSTQ, mà còn là vật hy sinh cho việc xuất khẩu cách mạng của ĐCSTQ.
Cùng với việc cực kỳ thích thú giết người ở trong Trung Quốc và trong nội bộ Đảng bằng nhiều cách, ĐCSTQ cũng tham gia vào việc giết người ở các nước khác bao gồm cả các Hoa kiều bằng cách xuất khẩu “cách mạng”. Khơ-me Đỏ là một ví dụ điển hình.

Khơ- me Đỏ Pol Pot

Khơ-me Đỏ do Pôn-Pốt cầm đầu chỉ tồn tại trong vòng có 4 năm ở Cam-pu-chia. Tuy vậy, từ năm 1975 cho đến năm 1978, hơn hai triệu người bao gồm cả hơn 200.000 người Hoa, đã bị giết hại ở đất nước nhỏ bé với tổng số chỉ vẻn vẹn có 8 triệu dân này.
Các tội ác của Khơ-me Đỏ là không thể đếm được, nhưng chúng tôi không bàn luận về vấn đề đó ở đây. Tuy nhiên chúng tôi phải nói về quan hệ của nó với ĐCSTQ.
<i>Những tàn tích Khơ-me Đỏ để lại</i>
Những tàn tích Khơ-me Đỏ để lại
Pôn-Pốt là người tôn thờ Mao Trạch Đông. Đầu năm 1965, Pôn-Pốt đến thăm Trung Quốc 4 lần để đích thân nghe Mao Trạch Đông thuyết giảng. Ngay từ tháng 11/1965, Pôn-Pốt đã ở Trung Quốc 3 tháng. Trần Bá Đạt và Trương Xuân Kiều đã đàm luận với Pôn-Pốt về các lý thuyết như “quyền lực chính trị lớn lên từ nòng súng”, “đấu tranh giai cấp”, “chuyên chính vô sản” v.v… Sau đó, những điều này đã trở thành cơ sở cho cách thức Pôn-Pốt thống trị Cam-pu-chia sau này. Sau khi quay trở về Cam-pu-chia, Pôn-Pốt đổi tên đảng của mình thành Đảng Cộng sản Cam-pu-chia và dựng lên các cơ sở cách mạng theo mô hình quây tròn các thành phố khỏi các vùng nông thôn của ĐCSTQ.
Năm 1968, Đảng Cộng sản Cam-pu-chia đã chính thức thành lập quân đội. Vào cuối năm 1969, nó có khoảng hơn 3.000 người một chút. Nhưng năm 1975, trước khi tấn công và chiếm đóng thành phố Phnôm-Pênh, nó đã trở nên một lực lượng được trang bị tốt và sẵn sàng chiến đấu với 80.000 lính. Đây hoàn toàn là nhờ vào sự ủng hộ và hỗ trợ của ĐCSTQ. Cuốn sách Các tài liệu về việc hỗ trợ Việt Nam và chiến đấu với Mỹ của Vương Hiền Căn [24] nói rằng trong năm 1970 Trung Quốc cho Pôn-Pốt thiết bị vũ trang cho 30 nghìn lính. Tháng 4/1975, Pôn-Pốt chiếm được thủ đô của Cam-pu-chia, và 2 tháng sau, Pôn-Pốt đến Bắc Kinh để thăm ĐCSTQ và nghe chỉ thị. Rõ ràng là, nếu tội ác diệt chủng của Khơ-me Đỏ mà không dựa vào các lý thuyết và hỗ trợ vật chất của ĐCSTQ, thì nó đã không thể thực hiện được.
Ví dụ, sau khi hai người con trai của Thái tử Sihanouk bị Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết chết, Đảng Cộng sản Cam-pu-chia đã ngoan ngoãn đưa Sihanouk đến Bắc Kinh theo lệnh của Chu Ân Lai. Ai cũng biết rằng, khi Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết hại nhân dân, chúng sẽ “thậm chí giết cả bào thai” để ngăn chặn những rắc rối có thể xảy ra trong tương lai. Nhưng theo yêu cầu của Chu Ân Lai, Pôn-Pốt đã tuân lệnh mà không hề phản đối.
Chu Ân Lai có thể cứu Sihanouk chỉ bằng một lời nói, nhưng ĐCSTQ đã không phản đối việc hơn 200 nghìn người Hoa bị Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết hại. Vào lúc đó, những người Cam-pu-chia gốc Hoa đã đến Sứ quán Trung Quốc để cầu cứu nhưng Sứ quán đã phớt lờ những tiếng cầu cứu của họ.
Tháng 5/1998, khi việc giết hại và cướp bóc, hãm hiếp người Hoa thiểu số diễn ra trên diện rộng ở In-đô-nê-xi-a ĐCSTQ đã không nói một lời nào. Nó đã không giúp đỡ bất kể điều gì, và thậm chí còn bưng bít thông tin ở Trung Quốc. Dường như chính phủ Trung Quốc không thể quan tâm ít hơn nữa về số phận của những người Hoa ở nước ngoài; nó thậm chí đã không giúp đỡ một chút gì về phương diện nhân đạo.

ĐCSTQ trong chiến tranh Việt Nam

Trước cuộc Chiến tranh Việt Nam, ĐCSTQ trợ giúp Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đánh bại Pháp vào năm 1954, đưa đến “Hiệp định Geneva 1954” và sự đối đầu giằng co giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau đó, Pháp rút khỏi Việt Nam, mong muốn thống nhất của Bắc Việt Nam đối với Nam Việt Nam và sự tham dự của Mỹ liền khiến chiến tranh Việt Nam trở thành chiến tranh cục bộ lớn nhất thế giới sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Quân đội Mỹ tham gia cuộc chiến này từ năm 1964 đến 1973.
Để trở thành lãnh tụ cộng sản ở châu Á, Mao Trạch Đông không quan tâm đến nạn đói lớn chết hàng chục triệu người trong nước, mà viện trợ cho Việt Nam trên quy mô lớn. Năm 1962, tại “Đại hội 7.000 người”, Lưu Thiếu Kỳ, bấy giờ là Phó Chủ tịch thứ nhất của ĐCSTQ, muốn chấm dứt chính sách điên cuồng của Mao Trạch Đông, chuẩn bị khôi phục kinh tế, cho Mao Trạch Đông lùi về tuyến sau. Nhưng Mao Trạch Đông không chịu mất đi quyền lực, bèn hung hăng tham gia chiến tranh Việt Nam. Người không có quân quyền là Lưu Thiếu Kỳ, khi đối diện với bộ máy chiến tranh đang khởi động, thì chỉ còn biết gác kế hoạch khôi phục kinh tế sang một bên.
Năm 1963, Mao liên tiếp phái La Thụy Khanh và Lâm Bưu sang Việt Nam. Lưu Thiếu Kỳ hứa với Hồ Chí Minh rằng ĐCSTQ sẽ một mình gánh chịu toàn bộ chi phí chiến tranh Việt Nam, và còn nói: “Trong chiến tranh, các ông có thể coi Trung Quốc như hậu phương của mình.”
Dưới sự trợ giúp và xúi giục toàn lực của ĐCSTQ, tháng 7/1964, tại Vịnh Bắc Bộ, ĐCS Việt Nam dùng ngư lôi tập kích tàu chiến Mỹ, tạo ra “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, dẫn đến việc Mỹ chính thức tham chiến. Sau đó, ĐCSTQ dùng tiền, vật tư, vũ khí và nhân lực để tranh đoạt với Liên Xô quyền khống chế đối với Việt Nam.
Căn cứ theo số liệu trong “Chân tướng cách mạng – Trung Quốc ký sự Thế kỷ 20” của Trần Hiến Huy, “Sự chi viện cho Việt Nam của Mao gây ra cho Việt Nam tai nạn nặng nề, khiến cho 5 triệu dân thường Việt Nam tử vong, khắp nơi là những đống đổ nát và bãi mìn, kinh tế suy sụp… Những khoản viện trợ không hoàn lại của ĐCSTQ cho Việt Cộng bao gồm trang bị đầy đủ vũ khí, đạn dược cho 2 triệu lính lục-hải-không quân và các vật phẩm quân dụng khác; hơn 100 xí nghiệp sản xuất và xưởng sửa chữa; hơn 300 triệu mét vải; hơn 3 vạn xe hơi, hàng trăm ki-lô-mét đường sắt; hơn 5 triệu tấn lương thực, hơn 2 triệu tấn xăng; hơn 3.000km ống dẫn dầu cho đến vài trăm triệu đô la Mỹ ngoại tệ. Ngoài vật tư, kim tiền viện trợ cho Việt Nam, ĐCSTQ còn bí mật phái đi hơn 30 vạn quân giải phóng mặc quân phục Bắc Việt luân phiên nhau tham gia tác chiến với quân Mỹ và quân Nam Việt. Để bảo mật, vô số binh sỹ Trung Quốc chết trận đều được chôn ở Việt Nam.
Đến năm 1978, tổng viện trợ của ĐCSTQ cho Việt Nam đã lên đến 20 tỷ USD, trong khi GDP của Trung Quốc năm 1965 chỉ đạt 70,4 tỷ nhân dân tệ (theo tỷ giá hối đoái hồi đó thì ước chừng khoảng 28,6 tỷ USD). Năm 1973, dưới áp lực của cuộc vận động phản đối chiến tranh, mà thực ra là do phía cộng sản tại Mỹ xúi giục, Mỹ đã đưa ra thỏa hiệp và rút quân khỏi Việt Nam. Ngày 30/4/1975, Bắc Việt chiếm được Sài Gòn, thống nhất đất nước làm một.

Khơ- me Đỏ gây chiến Việt Nam có Trung Quốc hậu thuẫn

Trong chiến tranh Việt Nam, ĐCS Việt Nam yêu cầu ĐCSTQ viện trợ cho Việt Nam trên quy mô lớn, nhưng điều này, sau này, lại trở thành một ngòi nổ trong xích mích Trung-Việt. Để xuất khẩu cách mạng, ĐCSTQ đã lấy viện trợ kếch xù làm cái giá đánh đổi để yêu cầu Việt Nam không ngừng đánh Mỹ. Song, Việt Nam không hề hy vọng duy trì cuộc chiến tranh trường kỳ như vậy, nên từ năm 1969 đã bắt đầu gia nhập cuộc hội đàm bốn bên do Mỹ chủ trì. Cuộc hội đàm này loại trừ ĐCSTQ ra ngoài.
Đến những năm 1970, sau sự kiện Lâm Bưu, Mao Trạch Đông thấy cần phải cấp bách xây dựng lại uy vọng trong nước, lại thêm việc quan hệ Trung-Xô ngày càng xấu đi sau khi khai chiến tại đảo Trân Bảo (Damansky theo tiếng Nga), Mao lại liên Mỹ chống Xô, mời tổng thống Nixon thăm Trung Quốc. Lúc đó, nước Mỹ cũng đối diện với làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam ở trong nước, không muốn tiếp tục tham chiến nữa, Việt Nam và Mỹ ký hiệp định hòa bình, Việt Nam ngày càng rời xa ĐCSTQ, xích lại gần với Liên Xô.
Mao cực kỳ bất mãn với Việt Nam, quyết định lợi dụng Campuchia để chế ước Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia ngày càng bất hòa, cuối cùng hai nước khai chiến.
Sự nâng đỡ của ĐCSTQ đối với Đảng Cộng sản Campuchia bắt đầu từ năm 1955, đưa các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Campuchia sang Trung Quốc đào tạo. Ác quỷ giết người Pol Pot, lãnh đạo tối cao của Đảng Cộng sản Campuchia, chính là do Mao Trạch Đông bổ nhiệm vào năm 1965. Mao cung cấp tiền bạc và vũ khí cho Đảng Cộng sản Campuchia. Chỉ riêng trong năm 1970, Trung Quốc đã viện trợ cho Pol Pot vũ khí trang bị đủ cho 3 vạn người.
Sau khi Mỹ rút khỏi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), chính phủ các nước địa phương căn bản không cách nào đối kháng lại được với quân cộng sản do ĐCSTQ hậu thuẫn.
Campuchia do ĐCSTQ khống chế và lập ra Khmer Đỏ. Để chấp hành chính sách “giáo huấn” Việt Nam của ĐCSTQ, Khmer Đỏ đã nhiều lần tấn công vào miền Nam Việt Nam mà Bắc Việt thống nhất vào năm 1975, thảm sát cư dân ở vùng biên giới Việt Nam – Campuchia, ý đồ đánh chiếm vùng Đồng bằng Sông Mekong. Lúc này, Việt Nam không có quan hệ tốt với Trung Quốc mà giao hảo với Liên Xô. Dưới sự trợ giúp của Liên Xô, tháng 12/1978, Việt Nam bắt đầu tấn công Campuchia.
Sau khi Pol Pot của Khmer Đỏ cầm quyền liền thực hiện việc thống trị khủng bố cực đoan, tuyên bố bãi bỏ tiền tệ, hạ lệnh cưỡng chế tất cả cư dân thành phố ra ngoại ô lao động tập thể, hơn nữa còn thảm sát tất cả các phần tử trí thức. Trong ba năm, bạo chính gây ra số người tử vong lên đến hơn ¼ nhân khẩu toàn quốc, nhưng lại nhận được sự tâng bốc ghê gớm của lãnh đạo ĐCSTQ là Trương Xuân Kiều và Đặng Dĩnh Siêu. Đến khi Việt Nam và Campuchia khai chiến, trăm họ không chịu nổi, ồ ạt ủng hộ cho quân đội Việt Nam. Chỉ trong một tháng, toàn tuyến của Khmer Đỏ đã sụp đổ, mất thủ đô Phnom Penh. Chính phủ Khmer Đỏ chỉ còn cách trốn lên núi đánh du kích. Năm 1997, sự bạo ngược của Pol Pot thậm chí còn kích khởi sự phản kháng từ trong nội bộ, y bị tổng tư lệnh quân đội Khmer Đỏ là Ta Mok bắt giữ, và phán xử tù chung thân; cho đến năm 1998 y chết do bệnh tim phát tác. Năm 2014, cho dù ĐCSTQ đã tìm mọi cách ngăn cản, Tòa án Hình sự Đặc biệt về Campuchia đã phán xử án tù chung thân cho “nhân vật số hai” của Khmer Đỏ là Nuon Chea và cựu Thủ tướng Khieu Samphan.
Chiến tranh của Việt Nam với Campuchia đã kích cho Đặng Tiểu Bình tức giận, lại thêm một số yếu tố khác, do đó, Đặng Tiểu Bình lấy danh nghĩa “chiến tranh tự vệ phản kích”, đã phát động chiến tranh Trung Việt năm 1979.

Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979

Ông Đặng Tiểu Bình - lãnh đạo Trung Quốc đã có những phát biểu, tuyên bố trước về một cuộc chiến tranh đối với Việt Nam.
Trong chuyến đi thăm Mỹ vào cuối tháng 1, đầu tháng 2/1979, ông Đặng Tiểu Bình trao đổi với Tổng thống Jimmy Carter về một số chính sách của Trung Quốc, trong đó nhấn mạnh: “Trung Quốc vẫn phải dạy cho Việt Nam một bài học. Liên Xô có thể sử dụng Cuba, Việt Nam, và sau đó Afghanistan phát triển thành một nước ủy nhiệm. Trung Quốc đang tiếp cận vấn đề này từ một thế mạnh. Hành động sẽ rất hạn chế”
<i>Ngày 17/2/1979, lính Trung Quốc tràn sang biên giới nước ta.</i>
Ngày 17/2/1979, lính Trung Quốc tràn sang biên giới nước ta.
Khi trao đổi với báo chí Mỹ, ông Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh: “Vai trò của người Việt Nam sẽ còn tồi tệ hơn người Cuba”. Và rằng: “Chúng tôi gọi người Việt Nam là những người Cuba của Phương Đông. Nếu bạn không dạy họ những bài học cần thiết, thì điều đó sẽ chẳng xảy ra”. 
Rời nước Mỹ, ông Đặng Tiểu Bình qua Nhật nhằm lôi kéo nước này vào “mặt trận” cô lập Việt Nam. Trong cuộc trao đổi với Thủ tướng Masayoshi Ohira, ông nhắc lại quan điểm của Trung Quốc: Việt Nam phải bị “trừng phạt” vì Campuchia và cam kết: “Duy trì phát triển lâu dài của hòa bình và ổn định quốc tế… [nhân dân Trung Quốc] sẽ quyết định hoàn thành các nhiệm vụ của chúng ta, và sẽ không vô ngại những điều cần thiết”. 
Ngày 17/2/1979, giới cầm quyền Trung Quốc huy động 600.000 quân chủ lực tấn công quân sự đối với Việt Nam trên toàn tuyến phía Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) với chiều dài hơn 1.400km. 
Ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến, Trung Quốc đã đánh thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam (có những nơi quân đội Trung Quốc vào sâu từ 15 đến 20 km) ở nhiều tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, tiến hành các cuộc sát hại nhân dân, đốt phá và cướp bóc các thành phố, thị xã, làng mạc. Với hành động đó, Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, một quốc gia độc lập, có chủ quyền và được quốc tế công nhận. 
Đáp lại hành động của Trung Quốc, Đảng lãnh đạo quân dân Việt Nam thực hiện quyền tự vệ chính đáng, tiến hành cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược ở vùng biên giới phía Bắc....
******************
(Theo: https://vietnamnet.vn/ https://9binh.com/)