<i>ĐCSTQ gọi nạn đói lớn từ năm 1959 đến 1961 là “ba năm thiên tai”.</i>
ĐCSTQ gọi nạn đói lớn từ năm 1959 đến 1961 là “ba năm thiên tai”.
Trong sách giáo khoa lịch sử trung học có đoạn viết: “Vào thời điểm đó, thiên tai hết sức nghiêm trọng, chính phủ Liên Xô đã hủy bỏ các thỏa thuận hợp tác kinh tế, kỹ thuật giữa hai nước. Và tất cả điều này gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân từ năm 1959 đến 1961.”
Trong sách giáo khoa không hề đề cập tới những nhân họa do các chính sách lố bịch gây ra như Đại Nhảy vọt. Tổng số ca tử vong phát sinh trong những năm này bị giấu nhẹm trước công chúng.
Dương Kế Thằng (杨继绳), cựu nhà báo kỳ cựu của Tân Hoa Xã, tiết lộ trong cuốn sách của ông mang tên Bia mộ: Nạn Đói lớn Trung Quốc, năm 1958-1961 ước tính 36 triệu người, gồm cả đàn ông, phụ nữ, và trẻ em, đã bị đói đến chết trong Đại Nhảy vọt Trung Quốc vào cuối những năm 1950 và đầu 1960, tương đương với tổng dân số Canada ngày nay.
Trong Đại Nhảy vọt, quan chức ĐCSTQ trước tiên thổi phồng sản lượng sản xuất, như “65.000 kg lúa mỗi mẫu (0,165 mẫu Anh)”, và sau đó khi chính quyền bắt đầu đánh thuế lên sản lượng bị nâng lên, các quan chức ĐCSTQ địa phương đã vơ vét mọi khẩu phần ngũ cốc, hạt giống và lương khô của nông dân, khiến họ không còn gì để sống.
Khi người dân cố cất giấu một ít ngũ cốc để ăn dần, ĐCSTQ phát động phong trào gọi là phong trào “chống che giấu” và dùng vũ lực ép người dân giao nộp mọi thứ họ có.
Học giả độc lập Nhan Trí Hoa tiết lộ: “Nhiều người vừa bị trói, bị treo lên, và bị đánh đập, vừa bị chỉ trích ở nơi công cộng; có người còn bị đánh chết ngay tại chỗ.”
Nạn nhân sắp chết đói không được trốn đi xin ăn nơi khác, vì ĐCSTQ coi đó là sự nhục mạ đối với uy tín của nó. Những người cố gắng trốn chạy thì bị bắn chết, còn không thì bị bắt lại, bị nhốt trong nhà của họ và bỏ mặc cho chết đói.
Số người chết nhiều nhất được ghi chép là trong Nạn đói khủng khiếp ở Trung Quốc xảy ra ngay sau chiến dịch Đại nhảy vọt. Bài “Nạn đói khủng khiếp” trong quyển Những ghi chép về lịch sử của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nói rằng “Số người chết bất bình thường và số người mới được sinh ra giảm từ năm 1959 cho đến năm 1961 được ước tính là khoảng 40 triệu… việc giảm 40 triệu người ở Trung Quốc nhiều khả năng là nạn đói khủng khiếp nhất trên thế giới trong thế kỷ này.”
Nạn đói khủng khiếp đã bị ĐCSTQ ngụy trang gọi là “Thiên tai 3 năm”. Trên thực tế, 3 năm đó có điều kiện thời tiết tốt mà không có bất cứ một thiên tai lớn nào như lũ lụt, hạn hán, bão, sóng thần, động đất, sương giá, mưa đá, hay nạn chấu chấu. “Tai họa” đó hoàn toàn là do con người gây nên. Chiến dịch Đại nhảy vọt đã yêu cầu mọi người ở Trung Quốc phải tham gia luyện thép, buộc nông dân phải bỏ cả hoa màu thối rữa ở ngoài đồng. Đã thế, các quan chức ở các khu vực lại còn tăng thuế suất trên sản lượng hoa màu. Hạ Diệc Nhiên, Bí thư thứ nhất Đảng bộ quận Liễu Châu đã tự bịa đặt ra mức sản lượng gây sửng sốt “65000 cân thóc trên một mẫu” ở huyện Hoàn Giang. Việc này xảy ra ngay sau Hội nghị toàn thể Lộc Sơn khi phong trào chống cánh hữu của ĐCSTQ lan ra trên toàn quốc. Để cho mọi người thấy rằng ĐCSTQ luôn luôn đúng, hoa màu đã bị chính quyền sung công như một hình thức đánh thuế theo sản lượng đã bị thổi phồng lên này. Hậu quả là, khẩu phần ngũ cốc, giống và lương thực chủ yếu của nông dân tất cả đều đã bị sung công. Khi yêu cầu vẫn chưa được đáp ứng đủ, nông dân còn bị buộc tội là đã giấu hoa màu của mình đi.
Hạ Diệc Nhiên đã từng nói là phải phấn đấu giành giải nhất trong cuộc thi sản lượng cao nhất bất kể là bao nhiêu người ở Liễu Châu sẽ phải chết. Một số nông dân đã bị cướp đi tất cả, chỉ còn lại một chút gạo được giấu ở trong chậu đựng nước tiểu. Đảng bộ xã Thuần Lạc, huyện Hoàn Giang thậm chí còn ra lệnh cấm nấu cơm để ngăn nông dân không được ăn hoa màu. Việc tuần tra đã được dân quân thực hiện vào ban đêm. Hễ họ thấy có ánh lửa là họ sẽ tiến hành lục soát và vây bắt. Nhiều nông dân thậm chí còn không dám nấu thảo mộc hoặc vỏ cây để ăn và đã bị chết đói.
Trong lịch sử, vào những lúc có nạn đói, vua quan sẽ cấp cháo, phân phát hoa màu và cho phép các nạn nhân di tản khỏi những khu vực có nạn đói. Còn ĐCSTQ lại coi việc chạy khỏi nơi có nạn đói là một điều ô nhục đối với uy tín của đảng, và đã ra lệnh cho dân quân chặn đường không cho các nạn nhân chạy thoát khỏi các khu vực có nạn đói. Khi các nông dân bị đói quá nên phải cướp ngũ cốc ở các kho lương thực, ĐCSTQ đã ra lệnh bắn vào đám đông để trấn áp việc cướp thóc gạo và dán nhãn cho những người bị chết là các phần tử phản cách mạng. Một số lượng lớn nông dân đã bị chết đói ở nhiều tỉnh gồm có Cam Túc, Sơn Đông, Hà Nam, An Huy, Hồ Bắc, Hồ Nam, Tứ Xuyên, và Quảng Tây. Nông dân đã bị đói nhưng vẫn còn bị bắt phải tham gia làm các việc như tưới nước, xây đập và luyện thép. Nhiều người đã bị ngã xuống đất trong khi đang làm việc và đã không bao giờ đứng lên được nữa. Cuối cùng thì cả những người sống sót cũng không còn có đủ sức để chôn những người bị chết. Nhiều làng đã bị chết toàn bộ khi mọi người lần lượt bị chết vì đói.
Trong các nạn đói nghiêm trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc trước thời ĐCSTQ, có những trường hợp các gia đình đã phải trao đổi con cho nhau để ăn thịt nhưng không ai đã từng ăn thịt chính con cái mình. Tuy nhiên dưới thời ĐCSTQ, mọi người đã buộc phải ăn thịt cả những người bị chết, ăn thịt những người chạy trốn đến từ những khu vực khác, và thậm chí đã phải giết chết và ăn thịt con cái của chính mình. Nhà văn Sa Thanh đã mô tả cảnh này trong tác phẩm của ông có tên là Y Hy Đại Địa Loan (Một eo đất thưa thớt) như sau: Trong một gia đình nông dân, người cha chỉ còn lại một đứa con trai và một đứa con gái trong Nạn đói khủng khiếp. Một hôm, người cha đuổi đứa con gái ra khỏi nhà. Khi cô trở về, cô không thể tìm thấy người em trai mà chỉ nhìn thấy mỡ trắng nổi ở trong chảo và một đống xương ở bên cạnh bếp. Vài ngày sau, người cha đổ thêm nước vào chảo, và gọi đứa con gái lại gần. Cô gái sợ quá và xin cha cô từ ngoài cửa, “Bố, đừng ăn thịt con. Con có thể kiếm củi và nấu cơm cho bố ăn. Nếu bố ăn thịt con, thì sẽ không còn ai làm việc này cho bố nữa.”
Cấp độ cuối cùng và số lượng thảm kịch tương tự như thế này thì không ai biết được. Thế nhưng ĐCSTQ vẫn coi đó như là một vinh dự cao quý và còn tuyên bố rằng ĐCSTQ đã lãnh đạo nhân dân dũng cảm chống lại “thiên tai” và vẫn tiếp tục tự khen mình là “vĩ đại, vinh quang và đúng đắn”.
Sau Hội nghị toàn thể Lộc Sơn năm 1959, tướng Bành Đức Hoài đã bị tước quyền vì đã lên tiếng bênh vực nhân dân. Một số quan chức và cán bộ chính quyền dám nói lên sự thực đã bị bãi chức, bị bắt giam hoặc bị điều tra. Sau đó, không ai còn dám nói lên sự thực nữa. Vào thời Nạn đói khủng khiếp, thay vì báo cáo sự thực, các quan chức ĐCSTQ đã che đậy thực tế về số lượng người chết đói để bảo vệ chức vụ của mình. Tỉnh Cam Túc thậm chí còn từ chối không nhận viện trợ lương thực của tỉnh Sơn Tây và nói rằng Cam Túc đã có một lượng dự trữ lương thực rất lớn.
Nạn đói khủng khiếp này cũng là một cuộc thi loại đối với các cán bộ của ĐCSTQ. Theo tiêu chuẩn của ĐCSTQ thì những cán bộ chống lại việc nói lên sự thực bất chấp cả việc hàng chục triệu người bị chết đói chắc chắn là đã “đạt tiêu chuẩn”. Với cuộc trắc nghiệm này, ĐCSTQ sau đó sẽ tin rằng không có gì như tình người hay đạo trời có thể trở thành một gánh nặng tâm lý ngăn cản những cán bộ này đi theo đảng. Sau Nạn đói khủng khiếp, các quan chức cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đơn thuần tham gia làm thủ tục tự phê bình. Lý Tỉnh Tuyền, Bí thư tỉnh ủy Tứ xuyên nơi có hàng triệu người bị chết đói đã được thăng chức lên làm Bí thư thứ nhất Văn phòng khu vực Tây Nam của ĐCSTQ.
(Theo: https://www.epochtimes com/gb/nf3541.htm)