Đây là Kido Butai trong ngày 26 tháng 3 năm 1942, lúc rời Vịnh Staring (vùng Đông Ấn Hà Lan - NEI) để tiến hành cuộc tập kích vào Ấn Độ Dương. Bức ảnh ấn tượng này được chụp từ Akagi, đằng sau lần lượt là các tàu sân bay Sōryū, Hiryū, các thiết giáp hạm lớp Kongō (Hiei, Kirishima, Haruna, Kongō), Zuikaku và Shōkaku. Những đệm gối cuộn tròn được buộc chung quanh đảo để tăng cường sự bảo vệ đối với sự tấn công của đối phương.  (Ảnh được tô màu bởi irootoko jr)
Đây là Kido Butai trong ngày 26 tháng 3 năm 1942, lúc rời Vịnh Staring (vùng Đông Ấn Hà Lan - NEI) để tiến hành cuộc tập kích vào Ấn Độ Dương. Bức ảnh ấn tượng này được chụp từ Akagi, đằng sau lần lượt là các tàu sân bay Sōryū, Hiryū, các thiết giáp hạm lớp Kongō (Hiei, Kirishima, Haruna, Kongō), Zuikaku và Shōkaku. Những đệm gối cuộn tròn được buộc chung quanh đảo để tăng cường sự bảo vệ đối với sự tấn công của đối phương. (Ảnh được tô màu bởi irootoko jr)

CHƯƠNG 2. SÁU THÁNG ĐẦU TIÊN

Người Nhật đã lên kế hoạch cho một loạt các cuộc tấn công ngay từ đầu cuộc chiến. Kido Butai được giao nhiệm vụ tấn công căn cứ chính của Hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng. Một chiến dịch như vậy được người Mỹ coi là điều không thể xảy ra, và ngay cả phía Nhật thì phần lớn cũng xem đây là một rủi ro cực độ. Trước cuộc tấn công, sức mạnh của các tàu sân bay tập trung trong một đội hình chỉ mới tồn tại trên lý thuyết. Sau cuộc tấn công, bản chất của chiến tranh hải quân đã thay đổi. Cuộc chiến giữa hai tuyến thiết giáp hạm đối đầu như kỳ vọng sẽ không bao giờ diễn ra. Thay vào đó, chiến tranh Thái Bình Dương sẽ trở thành một cuộc chiến giữa các tàu sân bay.

KẾ HOẠCH TẤN CÔNG TRÂN CHÂU CẢNG CỦA NHẬT

Trong gần hai thập kỷ, Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) đã lên kế hoạch cho một cuộc chiến phòng ngự với Hải quân Hoa Kỳ (USN), mà đỉnh điểm sẽ là một trận đánh quyết định ở Tây Thái Bình Dương gần vùng biển của Nhật Bản. Đô đốc Yamamoto không hài lòng với cách tiếp cận thụ động này, và ông đã cải tổ toàn bộ chiến lược hải quân Nhật Bản. Yamamoto tin rằng đòn mở màn phải làm sụp đổ tinh thần của người Mỹ và buộc họ phải ngồi vào bàn đàm phán. Quan điểm chiến lược này sẽ là cơ sở cho kế hoạch tấn công Trân Châu Cảng. Phương tiện để Yamamoto tung ra đòn giáng trời giáng đất đó chính là Kido Butai – lực lượng có tầm hoạt động và hỏa lực đủ sức gây tổn thất lớn ngay khi chiến sự bắt đầu.
Ý tưởng tấn công Hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng không phải do Yamamoto nghĩ ra đầu tiên. Ngay từ năm 1927, các trò chơi chiến tranh tại Trường Hải quân Nhật Bản đã bao gồm một cuộc tập kích vào Trân Châu Cảng với hai tàu sân bay. Các sĩ quan hải quân Mỹ cũng nhận ra được khả năng của một cuộc tấn công như vậy. Năm 1929, họ đã chứng minh điều đó bằng hành động khả năng dùng tàu sân bay trong một chiến dịch tương tự khi hai tàu sân bay Mỹ bất ngờ “tấn công” kênh đào Panama trong cuộc tập trận hàng năm của hạm đội. Năm 1936, Trường Hải quân Nhật một lần nữa lại nghiên cứu tiếp khả năng đánh Trân Châu Cảng, và năm 1938, cuộc tập trận thường niên của Hạm đội Mỹ cũng có kịch bản tấn công tương tự vào căn cứ này bằng tàu sân bay.
Tuy nhiên, dù lý thuyết có hứa hẹn đến đâu, cả hai phía đều coi đây là một chiến dịch rủi ro. Phòng thủ ở Trân Châu cảng được đánh giá là rất mạnh, trong khi sức tấn công thực tế của tàu sân bay vẫn chưa được chứng minh rõ ràng. Nếu như không có sự quyết đoán và nhiệt huyết của Yamamoto, có lẽ sẽ không bao giờ có cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng. Theo Phó Đô đốc Shigeru Fukudome - Tham mưu trưởng của Hạm đội Liên hợp, Yamamoto lần đầu đề cập đến ý tưởng này vào tháng 3 hoặc 4 năm 1940. Cuối mùa thu năm 1940, sau khi kết thúc các cuộc diễn tập hàng năm của Hạm đội Liên hợp, Yamamoto đã chỉ thị cho Fukudome giao Đô đốc Onishi Takijiro nghiên cứu kế hoạch tấn công Trân Châu Cảng trong điều kiện tuyệt mật. Onishi là Tham mưu trưởng Hạm đội Hàng không số 11, nhưng lại là một người ủng hộ sức mạnh không quân và nổi tiếng là chuyên gia chiến thuật lẫn lập kế hoạch. Trong một lá thư được gửi vào ngày 7 tháng 1 năm 1941, Yamamoto chính thức yêu cầu Onishi tiến hành nghiên cứu kế hoạch. Sau đó là cuộc gặp mặt giữa Yamamoto và Onishi vào khoảng ngày 26 hoặc 27 tháng 1, nơi Yamamoto giải thích tầm nhìn của mình. Vào tháng 2, Onishi đưa Trung tá Genda vào quá trình lập kế hoạch và giao cho ông từ bảy đến mười ngày để hoàn tất bản nghiên cứu. Genda đánh giá rằng chiến dịch này rất khó thực hiện nhưng không phải là bất khả thi. Vào ngày 10 tháng 3, Onishi trình lên Yamamoto một bản dự thảo mở rộng dựa trên kế hoạch của Genda cùng với nhận định của mình. Hạm đội Không quân số 1 được thành lập vào ngày 10 tháng 4 năm 1941 và trở thành trung tâm cho toàn bộ kế hoạch tấn công Trân Châu Cảng.
Tham mưu trưởng Hạm đội Không quân số 1 - Chuẩn Đô đốc Kusaka, được thông báo chính thức về kế hoạch vào cuối tháng 4. Khi đó, Kusaka trình bày kế hoạch cho cấp trên là Phó Đô đốc Nagumo. Nagumo cho rằng vấn đề tiếp nhiên liệu cho lực lượng tấn công trên đường đến Hawaii và khả năng rất thấp có thể giành được yếu tố bất ngờ khiến kế hoạch khó có thể mà thành công. Bản thân Kusaka cũng bắt đầu nghi ngờ, dẫn đến tình huống trớ trêu là chính những sĩ quan chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch lại là người hoài nghi nhất về nó.
Nagumo và Kusaka không phải là những người duy nhất nghi ngờ về kế hoạch của Yamamoto. Sự phản đối lớn nhất đến từ Bộ Tổng Tham mưu Hải quân – cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng chiến lược tổng thể. Đặc biệt, Tổng Tham mưu trưởng Hải quân - Đô đốc Nagano Osami, không hề ấn tượng với kế hoạch. Ông tin rằng chiến dịch Hawaii là quá rủi ro và các tàu sân bay của Kido Butai nên được dùng để yểm trợ cho các chiến dịch tại Đông Nam Á. Nhưng khi chiến tranh ngày càng cận kề, Nagano đồng ý để kế hoạch được đưa vào trò chơi chiến tranh hàng năm dự kiến được tổ chức vào tháng 9.
Mô hình Trân Châu Cảng của người Nhật, cho thấy vị trí của các tàu chiến trong cuộc tấn công vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Mô hình này được chế tạo sau cuộc tấn công để làm phim. Bức ảnh gốc được Chuẩn Đô đốc John Shafroth mang về Mỹ từ Nhật Bản vào cuối Thế chiến II. ( Naval History and Heritage Command - NHHC)
Mô hình Trân Châu Cảng của người Nhật, cho thấy vị trí của các tàu chiến trong cuộc tấn công vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Mô hình này được chế tạo sau cuộc tấn công để làm phim. Bức ảnh gốc được Chuẩn Đô đốc John Shafroth mang về Mỹ từ Nhật Bản vào cuối Thế chiến II. ( Naval History and Heritage Command - NHHC)
Khi trò chơi chiến tranh (thực chất là một cuộc nghiên cứu tham mưu có kiểm soát để xem xét các phương án hành động) bắt đầu, vòng đầu tiên là một thảm họa với phía Nhật. Lực lượng của Nagumo bị phát hiện trước khi kịp tung đòn tấn công. Khi đến được Trân Châu Cảng, họ gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ phía Mỹ và chỉ gây được thiệt hại nhỏ. Các cuộc không kích của Mỹ đánh chìm hai trong bốn tàu sân bay của Nagumo. Ở vòng hai, Nagumo điều chỉnh đường tiến công lên phía bắc và thay đổi thời điểm đến nơi để tránh bị Mỹ phát hiện. Nhờ đó có được yếu tố bất ngờ và kết quả đã thay đổi đáng kể. Mỹ bị đánh chìm bốn thiết giáp hạm, hai tàu sân bay và ba tàu tuần dương; một thiết giáp hạm, một tàu sân bay và ba tàu tuần dương khác bị hư hại. Tổn thất của phía Nhật được đánh giá là không đáng kể. Khi lực lượng của Nagumo bị phát hiện, các cuộc không kích của Mỹ chỉ đánh chìm một tàu sân bay và làm hư hại một chiếc khác. Trò chơi đã chứng minh chiến dịch có thể thực hiện được, nhưng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng sống còn của việc giành được yếu tố bất ngờ. Tuy nhiên, các bên tham gia lại không thống nhất được số lượng tàu sân bay cần phân bổ. Bộ Tổng Tham mưu muốn giữ lại một phần tàu sân bay để yểm trợ cho chiến dịch ở Đông Nam Á, nên chỉ đồng ý cho ba hoặc bốn tàu sân bay tham gia chiến dịch Hawaii. Kết thúc hội nghị, Nagano và các sĩ quan của Bộ Tổng Tham mưu vẫn cho rằng chiến dịch này vẫn quá nguy hiểm. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong hội nghị ngày 24 tháng 9. Khi biết Bộ Tổng Tham mưu vẫn tiếp tục phản đối, Yamamoto quyết tâm phải giải quyết dứt điểm vấn đề này.
Ngày 13 tháng 10, một cuộc diễn tập bàn giấy của Hạm đội Liên hợp được tổ chức nhằm hoàn thiện một số khía cạnh của chiến dịch Hawaii và phối hợp với chiến dịch Đông Nam Á. Chỉ có ba tàu sân bay (Kaga, Zuikaku, và Shokaku) được phân công cho chiến dịch Trân Châu Cảng vì chúng có tầm hoạt động đủ xa để đến được mục tiêu mà không cần tiếp dầu; Akagi, SoryuHiryu được giữ lại để yểm trợ chiến dịch Đông Nam Á. Ngày hôm sau, một cuộc họp tổng kết được tổ chức và tất cả các đô đốc đều được mời phát biểu. Tất cả, trừ một người, đều phản đối chiến dịch Hawaii. Kết thúc buổi họp, Yamamoto tuyên bố rằng chừng nào ông còn là Tư lệnh Hạm đội Liên hợp thì Trân Châu Cảng sẽ bị tấn công. Mặc dù lời tuyên bố này đã làm rõ quyết tâm của ông với cấp dưới, Yamamoto vẫn phải thuyết phục cho bằng được Bộ Tổng Tham mưu.
Bức ảnh này chụp vào ngày 3 tháng 5 năm 1940, cho thấy một góc nhìn tổng thể rất rõ về căn cứ hải quân Trân Châu Cảng. Căn cứ đầy tàu chiến giống như buổi sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Có tám thiết giáp hạm neo đậu dọc theo phía xa của đảo Ford, cùng với tàu sân bay Yorktown. Nhiều tàu tuần dương, tàu khu trục và các tàu khác cũng hiện diện, phần lớn neo đậu thành nhóm trong vùng East Loch ở tiền cảnh. (NHHC)
Bức ảnh này chụp vào ngày 3 tháng 5 năm 1940, cho thấy một góc nhìn tổng thể rất rõ về căn cứ hải quân Trân Châu Cảng. Căn cứ đầy tàu chiến giống như buổi sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Có tám thiết giáp hạm neo đậu dọc theo phía xa của đảo Ford, cùng với tàu sân bay Yorktown. Nhiều tàu tuần dương, tàu khu trục và các tàu khác cũng hiện diện, phần lớn neo đậu thành nhóm trong vùng East Loch ở tiền cảnh. (NHHC)
Ngày 17 tháng 10, Kusaka một lần nữa đề nghị sử dụng toàn bộ 6 tàu sân bay cho cuộc tấn công. Bộ Tổng Tham mưu Hải quân tiếp tục từ chối. Lúc này, Yamamoto đã hết kiên nhẫn. Ngày hôm sau, ông cử một sĩ quan tham mưu đến Bộ Tổng Tham mưu để giành được sự chấp thuận cuối cùng và giải quyết vấn đề phân bổ tàu sân bay. Khi Bộ Tổng Tham mưu vẫn cứng rắn phản đối, vị sĩ quan này tuyên bố rằng nếu kế hoạch không được thông qua toàn bộ, Yamamoto và toàn bộ bộ tham mưu của ông sẽ từ chức. Trước mối đe dọa này, Bộ Tổng Tham mưu buộc phải nhượng bộ. Viễn cảnh Hạm đội Liên hợp ra trận mà không có Yamamoto là điều không thể chấp nhận được. Chiến dịch Trân Châu Cảng được phê duyệt với toàn bộ sáu tàu sân bay lớn của Hạm đội Liên hợp tham gia.
Khi Yamamoto đấu tranh để kế hoạch của mình được phê duyệt, còn rất nhiều chi tiết tác chiến cần phải được giải quyết trước khi chiến dịch có thể thực hiện. Đầu tháng 9, Kusaka đã chỉ đạo bộ tham mưu của mình soạn thảo một kế hoạch hành quân cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Genda - người quan trọng thứ hai sau Yamamoto trong việc triển khai kế hoạch – được giao trọng trách lập kế hoạch chi tiết. Ông nghiên cứu vấn đề chọn tuyến hành quân cho các tàu sân bay đến Hawaii. Các tuyến phía nam và trung tâm tiêu tốn ít nhiên liệu hơn, nhưng tuyến phía bắc lại hứa hẹn mang lại yếu tố bất ngờ cao hơn. Tuyến phía bắc gần như chắc chắn sẽ có thời tiết khắc nghiệt vào đúng thời điểm dự kiến tấn công, và điều kiện này sẽ gây khó khăn cho việc tiếp nhiên liệu giữa biển. Khoảng cách xa hơn rất nhiều cũng khiến việc tiếp dầu nhiều lần là điều không thể tránh khỏi. Dù thấy được những bất lợi đó, Kusaka và Nagumo vẫn quyết định chọn tuyến phía bắc để tăng khả năng giữ được yếu tố bất ngờ.
Việc tiếp dầu là một vấn đề lớn, vì chỉ có bảy tàu (gồm các tàu sân bay Kaga, Shokaku, Zuikaku, hai thiết giáp hạm hộ tống và hai tàu tuần dương hạng nặng lớp Tone) là có tầm hoạt động đủ xa để đi từ quần đảo Kuril đến Trân Châu Cảng mà không cần tiếp dầu. Kusaka giải quyết vấn đề này bằng cách yêu cầu 3 tàu sân bay có tầm hoạt động ngắn hơn chở thêm nhiên liệu trong các thùng phi loại 55 gallon. Ông cũng yêu cầu các tàu còn lại huấn luyện và thực hành tiếp dầu khi đang hành quân trên biển. Có tám tàu chở dầu được phân bổ để hỗ trợ chiến dịch (chỉ có bảy chiếc thực sự tham gia). Ba cuộc huấn luyện tiếp dầu được tổ chức trong tháng 11, và trong hành trình đến quần đảo Kuril, toàn bộ hạm đội đã tiếp nhiên liệu tới mười lần.
Đội hình của Kido Butai khi tham gia Chiến dịch Hawaii. (Tranh của Joewright)
Đội hình của Kido Butai khi tham gia Chiến dịch Hawaii. (Tranh của Joewright)
Một vấn đề lớn khác mà người Nhật phải đối mặt là cách sử dụng ngư lôi trong vùng nước nông của Trân Châu Cảng. Nếu đòn tấn công của Yamamoto muốn gây cú sốc như mong muốn đối với người Mỹ, họ phải đánh chìm được nhiều thiết giáp hạm. Điều này đòi hỏi phải sử dụng ngư lôi, vì bom khó có thể đánh chìm các thiết giáp hạm được bọc giáp dày. Vào tháng 10, những phi công lão luyện và giàu kinh nghiệm nhất điều khiển máy bay Type 97 được chọn để huấn luyện làm phi đội thả ngư lôi; số còn lại sẽ được huấn luyện ném bom ngang. Những phi công giàu kinh nghiệm này là điều tất yếu để giải quyết vấn đề ngư lôi lặn quá sâu trước khi điều chỉnh xuống độ sâu chạy định trước trong vùng nước chỉ sâu khoảng 40 feet (12 m) của Trân Châu Cảng. Để bảo đảm ngư lôi không đi sâu quá 33 feet, người Nhật đã cải tiến chúng bằng cách gắn thêm các vây gỗ vào các vây kim loại ngang và dọc của ngư lôi. Các vây này giúp ổn định ngư lôi sau khi được thả và sẽ gãy ra khi ngư lôi vào nước. Kết hợp với việc huấn luyện khắt khe để thả ngư lôi từ độ cao 65 feet ở tốc độ 100 hải lý/giờ, vấn đề này đã được giải quyết. Người Nhật phải gấp rút hoàn thành số ngư lôi cải tiến kịp thời. Đến cuối tháng 11, Xưởng Hải quân Nagasaki đã sản xuất được tổng cộng 120 ngư lôi. 50 quả đầu tiên được gửi đến Akagi, SoryuHiryu vào giữa tháng 11, và một lô khác gồm 50 quả được nạp lên Kaga và đến Vịnh Hitokappu ở quần đảo Kuril chỉ hai ngày trước khi hạm đội khởi hành đến Trân Châu Cảng.
Một vấn đề lớn khác là làm sao để tăng hiệu quả của ném bom ngang. Điều này rất quan trọng vì người Mỹ bố trí các thiết giáp hạm của họ neo thành từng cặp ở Trân Châu Cảng. Điều đó đồng nghĩa chỉ có những tàu ở rìa mới bị ngư lôi tấn công được; muốn tấn công các tàu bên trong thì phải dùng bom. Do bom của máy bay ném bom bổ nhào Nhật không đủ sức xuyên thủng boong giáp dày của thiết giáp hạm, nên giải pháp khả thi duy nhất là dùng máy bay Type 97 thực hiện nhiệm vụ ném bom ngang với loại bom đủ sức xuyên giáp. Cách này cũng không đơn giản, vì ném bom ngang từ độ cao đủ để tạo đủ động lực xuyên giáp lại rất thiếu chính xác. Trước tháng 4 năm 1941, tỷ lệ trúng đích của người Nhật chỉ khoảng 10% khi ném bom từ độ cao lớn. Vào tháng 4, một chiến thuật mới được phát triển: 9 chiếc máy bay Type 97 sẽ ném bom đồng loạt theo hiệu lệnh của máy bay dẫn đầu. Cách này giúp tăng độ chính xác lên từ ba đến năm quả trúng trong chín quả ném ra. Các máy bay ném bom ngang được lệnh thả bom từ độ cao khoảng 10.000 feet – vừa là độ cao tối thiểu cần thiết để bom có thể xuyên giáp thiết giáp hạm, vừa đủ thấp để cải thiện độ chính xác. Một đội hình tấn công gồm năm máy bay được lựa chọn thay vì chín chiếc như trước để Genda có thêm linh hoạt trong lập kế hoạch. Trở ngại cuối cùng là chế tạo một loại bom có thể xuyên qua boong giáp của thiết giáp hạm. Tính toán cho thấy cần một quả bom nặng tới 1.764 pound. Để nhanh chóng có loại bom này, người Nhật đã chuyển đổi các đầu đạn pháo 16 inch cũ thành bom. Việc chế tạo loại bom này với số lượng cần thiết gặp nhiều khó khăn – đến giữa tháng 9, chỉ có 150 quả được sản xuất.
Máy bay ném bom bổ nhào cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc tấn công, vì quả bom nặng 550 pound của chúng có thể xuyên thủng lớp giáp ngang của các tàu sân bay và tàu tuần dương vốn được bọc giáp nhẹ. Trong các đợt huấn luyện vào nửa sau năm 1941, tỷ lệ chính xác của ném bom bổ nhào đạt từ 50 - 60%. Để tăng độ chính xác, điểm thả bom của máy bay ném bom bổ nhào được hạ xuống chỉ dưới 1.500 feet.
Hình vẽ trên cùng là một chiếc Zero thuộc tàu sân bay Shokaku (ký hiệu EI); hình thứ hai là chiếc Zero do Thiếu tá Itaya Shigeru thuộc tàu sân bay Akagi (ký hiệu AII) điều khiển, người chỉ huy toàn bộ lực lượng tiêm kích của đợt tấn công thứ nhất. Hình dưới cùng là một chiếc Type 99 thuộc tàu sân bay Zuikaku (ký hiệu EII). Hình vẽ trên cùng ở đoạn tiếp theo mô tả một chiếc Type 99 thuộc tàu sân bay Kaga (ký hiệu AII). Chiếc máy bay ở giữa thuộc tàu sân bay Soryu (ký hiệu BI) và mang quả bom xuyên giáp đặc biệt nặng 1.764 pound, được sử dụng để tấn công khu vực dãy thiết giáp hạm. Chiếc máy bay ở dưới cùng thuộc tàu sân bay Hiryu (ký hiệu BII) và mang một quả ngư lôi Type 91.
Hình vẽ trên cùng là một chiếc Zero thuộc tàu sân bay Shokaku (ký hiệu EI); hình thứ hai là chiếc Zero do Thiếu tá Itaya Shigeru thuộc tàu sân bay Akagi (ký hiệu AII) điều khiển, người chỉ huy toàn bộ lực lượng tiêm kích của đợt tấn công thứ nhất. Hình dưới cùng là một chiếc Type 99 thuộc tàu sân bay Zuikaku (ký hiệu EII). Hình vẽ trên cùng ở đoạn tiếp theo mô tả một chiếc Type 99 thuộc tàu sân bay Kaga (ký hiệu AII). Chiếc máy bay ở giữa thuộc tàu sân bay Soryu (ký hiệu BI) và mang quả bom xuyên giáp đặc biệt nặng 1.764 pound, được sử dụng để tấn công khu vực dãy thiết giáp hạm. Chiếc máy bay ở dưới cùng thuộc tàu sân bay Hiryu (ký hiệu BII) và mang một quả ngư lôi Type 91.
Bảng dưới đây trình bày cách Nagumo và bộ tham mưu của ông tổ chức cuộc tấn công. Ở đợt tấn công đầu tiên, những phi đội tinh nhuệ của các Hải đội Tàu sân bay số 1 và 2 được giao nhiệm vụ tiêu diệt các thiết giáp hạm và tàu sân bay đang neo đậu quanh đảo Ford bằng 40 máy bay ném ngư lôi và 50 máy bay ném bom ngang. Những phi công thiếu kinh nghiệm của Hải đội Tàu sân bay số 5 được sử dụng để tấn công các căn cứ tại đảo Ford, sân bay Hickam và Kaneohe nhằm làm tê liệt sức mạnh không quân Mỹ. Đợt tấn công thứ hai sẽ đến ngay sau đợt đầu tiên, nhằm khiến người Mỹ không có thời gian phục hồi. Đợt này không có máy bay thả ngư lôi dễ bị tổn thương, vì yếu tố bất ngờ đã không còn. 54 máy bay ném bom ngang được giao nhiệm vụ tấn công các sân bay trọng yếu để hoàn tất việc tiêu diệt lực lượng không quân Mỹ. Trọng tâm của đợt tấn công thứ hai là 81 máy bay ném bom bổ nhào tinh nhuệ từ Hải đội Tàu sân bay số 1 và 2. Mục tiêu chính của chúng là các tàu sân bay bị hư hại từ đợt đầu tiên. Các máy bay ném bom bổ nhào được lệnh tiêu diệt hoàn toàn những mục tiêu này để đảm bảo không thể cứu vãn hay trục vớt được.
Kế hoạch cuối cùng không được hoàn tất cho đến cuối tháng 10 và vẫn còn được điều chỉnh trong quá trình hành quân đến Trân Châu Cảng. Vào ngày 2 tháng 11, kế hoạch được công bố trong một buổi họp tổng thể trên soái hạm Akagi. Sau hai tuần huấn luyện cuối cùng, vào ngày 22 tháng 11, các tàu trong lực lượng tấn công rời cảng nhà theo từng cặp hoặc đơn lẻ, hướng đến Vịnh Hitokappu ở quần đảo Kuril. Đến ngày 24 tháng 11, toàn bộ lực lượng tấn công khởi hành đi đến Trân Châu Cảng.

CUỘC TẤN CÔNG VÀO TRÂN CHÂU CẢNG

Kế hoạch tấn công Trân Châu Cảng của người Nhật.
Kế hoạch tấn công Trân Châu Cảng của người Nhật.
Kido Butai rời nơi neo đậu tại Vịnh Hitokappu lúc 06 giờ sáng ngày 24 tháng 11. Trong suốt 13 ngày hành trình đến điểm xuất kích cách đảo Oahu 230 hải lý về phía bắc, qua vùng biển động của Bắc Thái Bình Dương, quân Nhật không gặp phải bất kỳ tàu nào. Sau khi các nỗ lực ngoại giao thất bại, thông điệp “Leo núi Niitaka 1208” được nhận vào ngày 2 tháng 12. Đây là tín hiệu xác nhận rằng cuộc tấn công sẽ bắt đầu đúng kế hoạch vào sáng ngày 7 tháng 12. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 6 tháng 12, Kido Butai chuyển hướng sang 180 độ, tiến thẳng đến Hawaii.
Một báo cáo trinh sát từ lãnh sự quán Nhật Bản tại Honolulu được gửi đến Akagi lúc 01 giờ 50 phút sáng ngày 7 tháng 12. Báo cáo cho biết có 9 thiết giáp hạm, 3 tàu tuần dương hạng nhẹ, 3 tàu tiếp tế thủy phi cơ và 17 tàu khu trục đang neo trong cảng vào ngày hôm trước. Bốn tàu tuần dương hạng nhẹ và hai tàu khu trục đang trong ụ khô. Phần quan trọng nhất của báo cáo – và nhìn chung là chính xác – là tất cả các tàu sân bay và tàu tuần dương hạng nặng của Hạm đội Thái Bình Dương đều vắng mặt.
Tranh vẽ Kido Butai đang trên biển động, thời tiết xấu vào lúc sáng sớm đang cho xuất kích các phi đội tấn công vào Trân Châu Cảng. Các tàu sân bay lần lượt từ trái sang phải, trên xuống dưới: Akagi, Kaga, Hiryu, Soryu, Shokaku và Zuikaku (Tranh của John Hamilton)
Tranh vẽ Kido Butai đang trên biển động, thời tiết xấu vào lúc sáng sớm đang cho xuất kích các phi đội tấn công vào Trân Châu Cảng. Các tàu sân bay lần lượt từ trái sang phải, trên xuống dưới: Akagi, Kaga, Hiryu, Soryu, Shokaku và Zuikaku (Tranh của John Hamilton)
Tàu sân bay Kaga được chụp khi đang đi chuyển qua vùng biển Bắc Thái Bình Dương đầy sóng dữ trên đường tiến đến tấn công Trân Châu Cảng. Bên phải con tàu là tàu sân bay Zuikaku. Quyết định chọn tuyến hành quân phía bắc khiến lực lượng đặc nhiệm phải trải qua một hành trình đầy gian khổ, nhưng đồng thời cũng giảm thiểu nguy cơ bị phát hiện.  (Ảnh được tô màu bởi irootoko jr)
Tàu sân bay Kaga được chụp khi đang đi chuyển qua vùng biển Bắc Thái Bình Dương đầy sóng dữ trên đường tiến đến tấn công Trân Châu Cảng. Bên phải con tàu là tàu sân bay Zuikaku. Quyết định chọn tuyến hành quân phía bắc khiến lực lượng đặc nhiệm phải trải qua một hành trình đầy gian khổ, nhưng đồng thời cũng giảm thiểu nguy cơ bị phát hiện. (Ảnh được tô màu bởi irootoko jr)
Một báo cáo tiếp theo cho thấy không có bóng bay rào cản hoặc lưới chống ngư lôi nào được triển khai. Vào sáng ngày 7 tháng 12, tổng cộng có 82 tàu chiến hiện diện tại Trân Châu Cảng. Không có tàu sân bay nào của Hạm đội Thái Bình Dương có mặt khi máy bay Nhật đầu tiên bay đến Trân Châu Cảng: Enterprise, được hộ tống bởi ba tàu tuần dương và chín tàu khu trục, đang vận chuyển một phi đội tiêm kích Thủy quân Lục chiến đến đảo Wake; Lexington đã rời Trân Châu Cảng vào ngày 5 tháng 12 cùng ba tuần dương hạm và năm tàu khu trục để chở máy bay đến Midway; còn Saratoga đang được sửa chữa tại Puget Sound, bang Washington. Điều này đã để lại 8 thiết giáp hạm, 2 tàu tuần dương hạng nặng, 6 tàu tuần dương hạng nhẹ, 30 tàu khu trục, 5 tàu ngầm và nhiều tàu hỗ trợ đang ở Trân Châu Cảng.
Vào lúc 05 giờ 30 phút sáng ngày 7 tháng 12, các máy bay trong đợt tấn công đầu tiên được chuẩn bị trên sàn bay của 6 tàu sân bay Nhật, và động cơ máy bay bắt đầu khởi động. Sóng biển vào sáng hôm đó thuộc loại tệ nhất trong toàn bộ cuộc hành trình. Vào lúc 05 giờ 50 phút, các phi công vào chỗ ngồi. Kido Butai chuyển hướng về phía đông với tốc độ 24 hải lý/giờ để tạo đủ gió ngang cho việc cất cánh. Đợt đầu tiên bắt đầu cất cánh lúc 06 giờ. Tất cả máy bay đã rời tàu trong vòng 15 phút – một thời gian rất ấn tượng. Sau khi cất cánh, 183 máy bay tập hợp thành một đội hình lỏng lẻo và hướng về phía nam lúc 06 giờ 20 phút. Ngay sau khi đợt đầu được phóng, việc chuẩn bị cho đợt thứ hai bắt đầu. Quy trình tương tự được lặp lại – máy bay được đưa ra sàn bay, động cơ khởi động. Hạm đội một lần nữa chuyển hướng ngược gió để cất cánh đợt hai lúc 07 giờ 05 phút, và chỉ 10 phút sau, các máy bay bắt đầu cất cánh. Đợt thứ hai với 167 máy bay hướng về đảo Oahu.
Cảnh này mô tả một phần của Kido Butai đang bắt đầu phóng máy bay vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, ngay trước 06 giờ 15 phút. Buổi sáng hôm đó có gió vừa phải, giúp thuận lợi cho việc phóng đợt tấn công đầu tiên, và sóng lớn khiến các tàu sân bay lắc mạnh – từ 7 đến 16 độ, tùy theo loại tàu. Sáu tàu sân bay được bố trí theo đội hình hộp. Ở tiền cảnh là Hiryū; trên sàn bay là đợt xuất kích đầu tiên gồm 24 máy bay. Chú ý rằng cấu trúc đảo nằm ở mạn trái – chỉ có Hiryū và Akagi là được trang bị đảo bên trái. Ở phía trước sàn bay là sáu máy bay tiêm kích Type 0, phía sau chúng là 18 máy bay cường kích Type 97 trên tàu sân bay. Trong số này, 10 chiếc được trang bị bom đặc biệt nặng 1.760 pound, có khả năng xuyên thủng giáp của thiết giáp hạm. Một trong các máy bay của Hiryū đã thả quả bom làm nổ tung thiết giáp hạm Arizona, gây tổn thất nhân mạng khổng lồ. Tám chiếc Type 97 còn lại mang ngư lôi Type 91, được nhắm vào các tàu sân bay Mỹ thường neo ở phía tây đảo Ford. Ở phía xa là tàu sân bay Kaga. Do kích thước lớn hơn nhiều so với Hiryū, Kaga chở theo một không đoàn lớn hơn và đóng góp nhiều máy bay hơn cho đợt tấn công đầu tiên. Trên sàn bay, 9 máy bay tiêm kích Type 0 được bố trí ở phía trước, và phía sau chúng là 27 chiếc Type 97. Trong số này, 15 chiếc mang bom xuyên giáp cỡ lớn, song một chiếc phải hủy nhiệm vụ và không tham gia tấn công. 12 chiếc còn lại mang ngư lôi. Tất cả các máy bay tấn công từ Kaga đều nhắm vào khu vực dãy thiết giáp hạm. (Tranh của Jim Laurier)
Cảnh này mô tả một phần của Kido Butai đang bắt đầu phóng máy bay vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, ngay trước 06 giờ 15 phút. Buổi sáng hôm đó có gió vừa phải, giúp thuận lợi cho việc phóng đợt tấn công đầu tiên, và sóng lớn khiến các tàu sân bay lắc mạnh – từ 7 đến 16 độ, tùy theo loại tàu. Sáu tàu sân bay được bố trí theo đội hình hộp. Ở tiền cảnh là Hiryū; trên sàn bay là đợt xuất kích đầu tiên gồm 24 máy bay. Chú ý rằng cấu trúc đảo nằm ở mạn trái – chỉ có Hiryū và Akagi là được trang bị đảo bên trái. Ở phía trước sàn bay là sáu máy bay tiêm kích Type 0, phía sau chúng là 18 máy bay cường kích Type 97 trên tàu sân bay. Trong số này, 10 chiếc được trang bị bom đặc biệt nặng 1.760 pound, có khả năng xuyên thủng giáp của thiết giáp hạm. Một trong các máy bay của Hiryū đã thả quả bom làm nổ tung thiết giáp hạm Arizona, gây tổn thất nhân mạng khổng lồ. Tám chiếc Type 97 còn lại mang ngư lôi Type 91, được nhắm vào các tàu sân bay Mỹ thường neo ở phía tây đảo Ford. Ở phía xa là tàu sân bay Kaga. Do kích thước lớn hơn nhiều so với Hiryū, Kaga chở theo một không đoàn lớn hơn và đóng góp nhiều máy bay hơn cho đợt tấn công đầu tiên. Trên sàn bay, 9 máy bay tiêm kích Type 0 được bố trí ở phía trước, và phía sau chúng là 27 chiếc Type 97. Trong số này, 15 chiếc mang bom xuyên giáp cỡ lớn, song một chiếc phải hủy nhiệm vụ và không tham gia tấn công. 12 chiếc còn lại mang ngư lôi. Tất cả các máy bay tấn công từ Kaga đều nhắm vào khu vực dãy thiết giáp hạm. (Tranh của Jim Laurier)
Một máy bay Zero (mã đuôi A1-108) cất cánh từ tàu sân bay Akagi, trong đợt tấn công thứ nhất vào Trân Châu Cảng. (NHHC)
Một máy bay Zero (mã đuôi A1-108) cất cánh từ tàu sân bay Akagi, trong đợt tấn công thứ nhất vào Trân Châu Cảng. (NHHC)
Mặc dù ba trong số năm trạm radar của Mỹ đang hoạt động trên đảo đã phát hiện được máy bay Nhật, yếu tố bất ngờ vẫn được duy trì vì chỉ có một trạm báo cáo phát hiện – một báo cáo sau đó bị Trung tâm Phòng không tại Fort Shafter bỏ qua. Đã có một chút nhầm lẫn lúc 07 giờ 40 phút khi chỉ huy của đợt tấn công là Fuchida bắn một quả pháo sáng để báo hiệu rằng yếu tố bất ngờ đã đạt được và ra lệnh cho máy bay ném ngư lôi – vốn dễ bị tổn thương – tấn công trước. Lo sợ rằng các tiêm kích đang bay phía trên không nhìn thấy tín hiệu đầu tiên, Fuchida bắn thêm một quả pháo sáng nữa. Dù không phải là một phần của cùng một tín hiệu, hai quả pháo sáng lại là ký hiệu báo rằng yếu tố bất ngờ không đạt được. Do hiểu nhầm tín hiệu này, các máy bay ném bom bổ nhào và máy bay tiêm kích đã lao lên trước để tấn công, nhằm bảo vệ cho các máy bay ném ngư lôi.
Bản đồ về đợt tấn công thứ nhất vào Trân Châu Cảng từ lúc 07 giờ 50 phút - 08 giờ 11 phút.
Bản đồ về đợt tấn công thứ nhất vào Trân Châu Cảng từ lúc 07 giờ 50 phút - 08 giờ 11 phút.
Cuộc tấn công của 40 máy bay Type 97 mang ngư lôi là phần quan trọng nhất trong kế hoạch của người Nhật. Trong số tám thiết giáp hạm hiện diện tại Trân Châu Cảng, năm chiếc nằm trong tầm tấn công bằng ngư lôi. Lúc 07 giờ 51 phút, các máy bay ném ngư lôi tách ra thành bốn nhóm. 24 chiếc từ AkagiKaga bay vòng qua sân bay Hickam để tiếp cận dãy thiết giáp hạm ở phía đông đảo Ford. 16 chiếc còn lại từ SoryuHiryu tiến vào từ phía tây, nhắm đến các tàu neo đậu ở mặt tây đảo Ford – nơi các tàu sân bay Mỹ thường neo đậu. Mặc dù thông tin tình báo mới nhất trước trận đánh cho thấy không có tàu sân bay nào ở đó, nhưng không có nỗ lực nào được thực hiện để thay đổi kế hoạch tấn công cơ bản. Tự tin rằng vấn đề thả ngư lôi trong vùng nước nông đã được giải quyết, các nhà hoạch định Nhật Bản kỳ vọng rằng 27 trong số 40 quả ngư lôi sẽ đánh trúng mục tiêu.
Cuộc tấn công bằng ngư lôi bắt đầu lúc 07 giờ 55 phút với 16 chiếc Type 97 từ SoryuHiryu. Trong tình huống không có bất kỳ tàu sân bay nào, các phi công Nhật buộc phải tự đưa ra quyết định về mục tiêu tấn công. Hỗn loạn đã xảy ra, dẫn đến việc tiêu tốn những quả ngư lôi quý giá vào các mục tiêu thứ yếu. Sáu chiếc từ Soryu tấn công các tàu đang đậu tại khu vực lẽ ra là nơi các tàu sân bay phải hiện diện. Không chiếc nào trong số đó đáng để dùng ngư lôi. Hai quả ngư lôi đánh trúng tàu huấn luyện (vốn là thiết giáp hạm cũ) Utah, khiến con tàu bị lật và chìm. Một quả khác đánh trúng tàu tuần dương hạng nhẹ cũ Raleigh, gây ngập nặng. Việc xả nước đối trọng nhanh chóng đã cứu Raleigh khỏi bị lật úp. Ba quả ngư lôi còn lại bị trượt. Chỉ huy nhóm máy bay thả ngư lôi của Soryu cố gắng tìm một mục tiêu giá trị hơn. Ông ta chọn một mục tiêu lớn neo tại bến cảng 1010 trong xưởng hải quân – đó là tàu rải thủy lôi cũ Oglala, đang neo ngoài mạn tàu tuần dương hạng nhẹ hiện đại Helena. Quả ngư lôi chạy dưới Oglala và đánh trúng Helena, làm ngập một phòng nồi hơi và một phòng động cơ. Vụ nổ làm rách vỏ tàu Oglala và con tàu chìm sau hai giờ. Chiếc máy bay cuối cùng của Soryu còn lại tiếp tục tiến đến dãy thiết giáp hạm. Nhóm máy bay của Hiryu xử lý tình huống hỗn loạn kém hiệu quả hơn khi nhận ra không có tàu sân bay nào hiện diện. Bốn chiếc thả ngư lôi vào các tàu neo dọc bến cảng 1010 nhưng tất cả đều trượt. Bốn chiếc còn lại gia nhập với một chiếc máy bay của Soryu còn lại để tấn công dãy thiết giáp hạm.
12 máy bay cường kích từ Akagi dẫn đầu cuộc tấn công vào dãy thiết giáp hạm. Kế hoạch của Genda yêu cầu các máy bay này tiếp cận theo đội hình hàng dọc từ cùng một điểm. Thiết giáp hạm OklahomaWest Virginia nằm ngay trước mặt đội hình Type 97 đang tiến đến; sáu chiếc từ Akagi đầu tiên nhắm vào hai con tàu này lúc 07 giờ 57 phút và ghi nhận nhiều phát bắn trúng liên tiếp. Hai chiếc máy bay của Akagi tiếp theo rẽ trái tấn công California, ghi một cú đánh trúng. Một chiếc khác tấn công West Virginia, và ba chiếc cuối cùng nhắm vào Oklahoma. Người Nhật tuyên bố rằng 11 trong số 12 chiếc tấn công từ Akagi đã thả ngư lôi (một chiếc phải bỏ vũ khí do suýt va chạm trên không), và tất cả đều đánh trúng một trong ba thiết giáp hạm đã được chọn làm mục tiêu. Xen giữa các máy bay của Akagi là bốn chiếc còn lại từ Hiryu – hai chiếc tấn công West Virginia, hai chiếc còn lại nhắm vào Oklahoma.
Dãy thiết giáp hạm (Battleship Row) trong lúc bị tấn công bởi các máy bay ném ngư lôi do Thiếu tá Murata chỉ huy. Bên phải là thiết giáp hạm Oklahoma, còn bên trái là West Virginia. Phía sau họ lần lượt là Maryland và Tennessee. Trong số 12 máy bay ném ngư lôi thuộc đơn vị của Akagi, có 11 chiếc đã thả ngư lôi. Kết quả thật tàn khốc. Do Oklahoma là mục tiêu dễ tiếp cận nhất, con tàu phải hứng chịu phần lớn đòn tấn công và trúng nhiều quả ngư lôi. Trong hình, con tàu đã bắt đầu nghiêng về mạn trái. (Tranh của Jim Laurier)
Dãy thiết giáp hạm (Battleship Row) trong lúc bị tấn công bởi các máy bay ném ngư lôi do Thiếu tá Murata chỉ huy. Bên phải là thiết giáp hạm Oklahoma, còn bên trái là West Virginia. Phía sau họ lần lượt là Maryland và Tennessee. Trong số 12 máy bay ném ngư lôi thuộc đơn vị của Akagi, có 11 chiếc đã thả ngư lôi. Kết quả thật tàn khốc. Do Oklahoma là mục tiêu dễ tiếp cận nhất, con tàu phải hứng chịu phần lớn đòn tấn công và trúng nhiều quả ngư lôi. Trong hình, con tàu đã bắt đầu nghiêng về mạn trái. (Tranh của Jim Laurier)
Bức ảnh này, chụp phía tây đảo Ford bởi một máy bay Type 97, cho thấy hậu quả sau các đòn tấn công ngư lôi của Nhật Bản. Từ trái sang phải là: tàu tuần dương hạng nhẹ Detroit, tàu tuần dương hạng nhẹ Raleigh (nghiêng sang mạn trái sau khi trúng một quả ngư lôi), tàu huấn luyện Utah (đã lật úp sau khi trúng hai ngư lôi) và tàu chở thủy phi cơ Tangier. (NHHC)
Bức ảnh này, chụp phía tây đảo Ford bởi một máy bay Type 97, cho thấy hậu quả sau các đòn tấn công ngư lôi của Nhật Bản. Từ trái sang phải là: tàu tuần dương hạng nhẹ Detroit, tàu tuần dương hạng nhẹ Raleigh (nghiêng sang mạn trái sau khi trúng một quả ngư lôi), tàu huấn luyện Utah (đã lật úp sau khi trúng hai ngư lôi) và tàu chở thủy phi cơ Tangier. (NHHC)
Bức ảnh đặc biệt này được chụp từ một máy bay Type 97 trong giai đoạn đầu của trận tấn công. Một quả ngư lôi vừa đánh trúng thiết giáp hạm West Virginia ở phía xa đảo Ford. Tàu Oklahoma, thiết giáp hạm neo ngoài, cũng đã trúng ngư lôi và đang nghiêng sang mạn trái. Hai chiếc Type 97 đang vòng ra khỏi dãy thiết giáp hạm sau khi thả vũ khí. Bên trái là bờ tây đảo Ford với các tàu Detroit, Raleigh, Utah, và Tangier. Raleigh và Utah đã bị trúng ngư lôi, Utah nghiêng mạnh sang trái. (NHHC)
Bức ảnh đặc biệt này được chụp từ một máy bay Type 97 trong giai đoạn đầu của trận tấn công. Một quả ngư lôi vừa đánh trúng thiết giáp hạm West Virginia ở phía xa đảo Ford. Tàu Oklahoma, thiết giáp hạm neo ngoài, cũng đã trúng ngư lôi và đang nghiêng sang mạn trái. Hai chiếc Type 97 đang vòng ra khỏi dãy thiết giáp hạm sau khi thả vũ khí. Bên trái là bờ tây đảo Ford với các tàu Detroit, Raleigh, Utah, và Tangier. Raleigh và Utah đã bị trúng ngư lôi, Utah nghiêng mạnh sang trái. (NHHC)
Một bức ảnh khác chụp dãy thiết giáp hạm bởi một máy bay Type 97 trong giai đoạn đầu trận. Các máy bay ném ngư lôi vẫn đang tấn công, trong khi các máy bay ném bom tầm cao chưa bắt đầu. Từ dưới trái sang phải là: Nevada, Arizona với tàu sửa chữa Vestal neo ở ngoài, Tennessee với West Virginia ở ngoài, Maryland với Oklahoma ở ngoài, tàu chở dầu Neosho, và cuối cùng là California. West Virginia, Oklahoma, và California đều đã bị trúng ngư lôi, hai tàu đầu tiên đang nghiêng sang trái. Có thể thấy các vệt bắn ngư lôi và cột nước ở giữa. Khói đen ở xa là từ sân bay Hickam, nơi bị các máy bay bổ nhào tấn công. (NHHC)
Một bức ảnh khác chụp dãy thiết giáp hạm bởi một máy bay Type 97 trong giai đoạn đầu trận. Các máy bay ném ngư lôi vẫn đang tấn công, trong khi các máy bay ném bom tầm cao chưa bắt đầu. Từ dưới trái sang phải là: Nevada, Arizona với tàu sửa chữa Vestal neo ở ngoài, Tennessee với West Virginia ở ngoài, Maryland với Oklahoma ở ngoài, tàu chở dầu Neosho, và cuối cùng là California. West Virginia, Oklahoma, và California đều đã bị trúng ngư lôi, hai tàu đầu tiên đang nghiêng sang trái. Có thể thấy các vệt bắn ngư lôi và cột nước ở giữa. Khói đen ở xa là từ sân bay Hickam, nơi bị các máy bay bổ nhào tấn công. (NHHC)
12 máy bay ném ngư lôi từ Kaga là nhóm cuối cùng tham gia tấn công. Tính đến thời điểm này, hỏa lực phòng không của phía Mỹ đã được gia tăng đáng kể, và cách tiếp cận sai lầm của người Nhật khiến từng chiếc máy bay lần lượt bị phơi mình trước hỏa lực. Hậu quả là 5 trong số 12 chiếc Type 97 từ Kaga bị bắn rơi, trở thành những máy bay ném ngư lôi duy nhất chịu tổn thất như vậy. Bốn chiếc tấn công West Virginia, hai chiếc nhắm vào Oklahoma, và một chiếc rẽ phải để tấn công Nevada. Quả ngư lôi của chiếc này đánh trúng phần mũi tàu Nevada. Các máy bay này được tăng cường bởi chiếc máy bay Type 97 cuối cùng của Soryu, chọn California làm mục tiêu và ghi một cú đánh trúng. Chiếc máy bay này bị hỏa lực phòng không bắn hỏng nặng, nhưng phi công đầy kỹ năng vẫn đưa máy bay quay về hạm đội Nhật Bản và hạ cánh trên biển bên cạnh một tàu khu trục. Trong giai đoạn này của cuộc tấn công, người Nhật tuyên bố rằng tám máy bay đã thả ngư lôi nhắm vào ba thiết giáp hạm khác nhau và tất cả đều đánh trúng.
Dù tuyên bố của người Nhật có phần phóng đại, nhưng đòn tấn công vẫn vô cùng chết chóc. Chỉ trong 11 phút, với cái giá là 5 máy bay bị bắn rơi (và một chiếc khác sau đó phải hạ cánh khẩn cấp), các máy bay ném ngư lôi đã đánh chìm hai thiết giáp hạm và gây thiệt hại dẫn đến việc chìm thêm hai chiếc nữa. Ngoài ra, còn có một tàu mục tiêu và một tàu rải thủy lôi bị đánh chìm, hai tàu tuần dương hạng nhẹ bị hư hại. Trong số 36 quả ngư lôi được phóng đi, có khả năng 19 quả đã đánh trúng mục tiêu. Tổn thất có thể còn nặng nề hơn nếu các phi công Nhật không tập trung quá mức vào OklahomaWest Virginia. Tổng cộng có 12 quả ngư lôi được thả vào Oklahoma, ít nhất năm quả đánh trúng. Con tàu trúng ba quả liên tiếp và ngay lập tức nghiêng sang mạn trái. Không có nỗ lực nào để xả nước đối trọng, nên con tàu bị lật úp chỉ trong 15 phút, dẫn đến thiệt hại nhân mạng nặng nề: 20 sĩ quan và 395 thủy thủ thiệt mạng. West Virginia bị trúng khoảng bảy quả ngư lôi. Nhờ phản ứng nhanh lẹ của các sĩ quan cấp dưới, lệnh xả nước đối trọng về mạn phải được thực hiện, giúp con tàu tránh bị lật. Tổn thất về người tương đối nhẹ: hai sĩ quan và 103 thủy thủ thiệt mạng.
Nevada neo ở cuối dãy thiết giáp hạm. Lúc 08 giờ 03 phút, tàu bị một quả ngư lôi đánh trúng mạn trái mũi tàu, tạo ra một lỗ thủng lớn. Dầu đang cháy từ Arizona — neo ngay phía trước và đã bị phá hủy — đe dọa bao trùm lấy Nevada, nên lệnh được ban ra để cho tàu rời bến. Tàu bắt đầu di chuyển lúc 08 giờ 40 phút và tiến xuống luồng giữa Xưởng Hải quân và đảo Ford. Khi đợt tấn công thứ hai của các máy bay bổ nhào xuất hiện, chúng thấy thiết giáp hạm này đang di chuyển chậm là một mục tiêu quá hấp dẫn để bỏ qua.
California được neo ở vị trí phía đông nam xa nhất của dãy thiết giáp hạm. Hai quả ngư lôi đánh trúng con tàu; một quả trúng phía trước tháp chỉ huy tàu, bên dưới đai giáp; quả còn lại trúng khu vực tháp pháo số 3, bên dưới đai giáp. Việc xả nước đối trọng đã sửa lại độ nghiêng, nhưng kết hợp giữa khả năng kín nước kém và sai lầm của con người đã định đoạt số phận của con tàu. California tiếp tục chìm dần cho đến khi nằm lại dưới đáy cảng vào ngày 10 tháng 12. Sáu sĩ quan và 92 thủy thủ thiệt mạng.
Đợt tấn công thứ hai trên tàu Shokaku đang chuẩn bị cất cánh. Danh tính con tàu được xác nhận qua ký hiệu của máy bay. Hải đội Tàu sân bay số 5 được giao các mục tiêu phụ trong cả hai đợt tấn công do phi công của họ còn thiếu kinh nghiệm. (NHHC)
Đợt tấn công thứ hai trên tàu Shokaku đang chuẩn bị cất cánh. Danh tính con tàu được xác nhận qua ký hiệu của máy bay. Hải đội Tàu sân bay số 5 được giao các mục tiêu phụ trong cả hai đợt tấn công do phi công của họ còn thiếu kinh nghiệm. (NHHC)
Một máy bay cường kích Type 97 từ Shokaku cất cánh trong đợt tấn công thứ hai, trong đó nó được giao nhiệm vụ đánh phá các sân bay. (NHHC)
Một máy bay cường kích Type 97 từ Shokaku cất cánh trong đợt tấn công thứ hai, trong đó nó được giao nhiệm vụ đánh phá các sân bay. (NHHC)
Máy bay ném bom bổ nhào Type 99 (Val) chuẩn bị cất cánh từ tàu sân bay Akagi trong đợt tấn công thứ hai. Con tàu ở phía sau là tàu sân bay Soryu. (NHHC)
Máy bay ném bom bổ nhào Type 99 (Val) chuẩn bị cất cánh từ tàu sân bay Akagi trong đợt tấn công thứ hai. Con tàu ở phía sau là tàu sân bay Soryu. (NHHC)
Máy bay ném bom bổ nhào Type 99 (Val) đang hoạt động trong đợt tấn công thứ hai. Có thể chiếc máy bay đang mở cánh hãm đà để thực hiện cú bổ nhào. (NHHC)
Máy bay ném bom bổ nhào Type 99 (Val) đang hoạt động trong đợt tấn công thứ hai. Có thể chiếc máy bay đang mở cánh hãm đà để thực hiện cú bổ nhào. (NHHC)
Cú đấm thứ hai trong đòn đánh kép của Nhật Bản vào dãy thiết giáp hạm là các máy bay ném bom ngang mang bom xuyên giáp nặng 1.760 pound. Các phi công Nhật được lệnh thực hiện nhiều lượt tiếp cận nếu cần để đảm bảo độ chính xác. Tổng cộng 49 chiếc Type 97 bay tới dãy thiết giáp hạm từ hướng nam ở độ cao 10.000 feet, chia thành các tốp năm chiếc. Mục tiêu chính là các thiết giáp hạm được neo phía trong, nhưng thiệt hại của các tàu này lại rất khác nhau. Maryland được neo đậu ở phía trong chiếc Oklahoma; trong số tất cả các thiết giáp hạm tại dãy, đây là con tàu ít bị hư hại nhất. Maryland trúng một quả bom ở boong trước, dưới mực nước. Một quả bom thứ hai cũng trúng boong trước nhưng gây ít thiệt hại. Tennessee, neo phía trong chiếc West Virginia, chịu thiệt hại không đáng kể trong đợt tấn công. Hai quả bom đánh trúng tàu; một quả trúng pháo chính giữa của tháp pháo số 2, quả còn lại xuyên qua lớp giáp phía trên của tháp pháo số 3 nhưng vỡ ra mà không nổ. Ngay phía sau TennesseeArizona, cùng với tàu sửa chữa Vestal neo cạnh. Arizona trúng hai quả bom. Quả đầu tiên rơi vào boong phía sau. Lúc 08 giờ 06 phút, quả thứ hai rơi trúng phía trước, xuyên thủng hầm đạn pháo 14 inch phía trước, gây ra vụ nổ kinh hoàng. Vụ nổ này khiến 1.177 thủy thủ thiệt mạng và phá hủy hoàn toàn phần mũi tàu. Vestal cũng trúng hai quả bom gây ngập nước và nghiêng sang mạn phải. Con tàu khởi hành lúc 08 giờ 45 phút và được cho mắc cạn gần đó để tránh bị chìm. Sự hủy diệt của Arizona đã trở thành biểu tượng của toàn bộ cuộc tấn công, đồng thời che lấp kết quả không mấy ấn tượng của lực lượng ném bom ngang. Ước tính tốt nhất cho thấy chỉ có khoảng 10 quả bom trúng mục tiêu trong số 49 quả được thả, trong đó có sáu quả không phát nổ hoặc chỉ phát nổ yếu.
Cảnh này của dãy thiết giáp hạm, chụp bởi một máy bay Type 97, cho thấy giai đoạn đầu của đợt ném bom tầm ngang. Từ trái sang phải là: Nevada, Arizona với Vestal neo ở ngoài, Tennessee với West Virginia neo ở ngoài, và Maryland với Oklahoma neo ở ngoài. Một quả bom vừa đánh trúng đuôi Arizona, nhưng con tàu vẫn chưa trúng quả bom định mệnh gây nổ hầm đạn phía trước. West Virginia và Oklahoma đang phun dầu từ nhiều vết thủng do ngư lôi, và cả hai đều nghiêng sang trái; mép boong trái của Oklahoma đã ngập nước. (NHHC)
Cảnh này của dãy thiết giáp hạm, chụp bởi một máy bay Type 97, cho thấy giai đoạn đầu của đợt ném bom tầm ngang. Từ trái sang phải là: Nevada, Arizona với Vestal neo ở ngoài, Tennessee với West Virginia neo ở ngoài, và Maryland với Oklahoma neo ở ngoài. Một quả bom vừa đánh trúng đuôi Arizona, nhưng con tàu vẫn chưa trúng quả bom định mệnh gây nổ hầm đạn phía trước. West Virginia và Oklahoma đang phun dầu từ nhiều vết thủng do ngư lôi, và cả hai đều nghiêng sang trái; mép boong trái của Oklahoma đã ngập nước. (NHHC)
Bức ảnh mang tính biểu tượng này chụp đúng khoảnh khắc hầm đạn phía trước của Arizona phát nổ sau khi bị đánh trúng quả bom xuyên giáp 1.764 lb. (NHHC)
Bức ảnh mang tính biểu tượng này chụp đúng khoảnh khắc hầm đạn phía trước của Arizona phát nổ sau khi bị đánh trúng quả bom xuyên giáp 1.764 lb. (NHHC)
Ảnh chụp thẳng đứng  dãy thiết giáp hạm ngay sau khi Arizona bị trúng quả bom xuyên giáp nặng 1.764 lb khiến hầm đạn phía trước phát nổ, phá hủy con tàu. Từ trái sang phải: Nevada, Arizona (đang cháy dữ dội) với Vestal neo ở ngoài, Tennessee với West Virginia ở ngoài, và Maryland với Oklahoma đã lật úp. (NHHC)
Ảnh chụp thẳng đứng dãy thiết giáp hạm ngay sau khi Arizona bị trúng quả bom xuyên giáp nặng 1.764 lb khiến hầm đạn phía trước phát nổ, phá hủy con tàu. Từ trái sang phải: Nevada, Arizona (đang cháy dữ dội) với Vestal neo ở ngoài, Tennessee với West Virginia ở ngoài, và Maryland với Oklahoma đã lật úp. (NHHC)
Đợt không kích thứ hai với 167 máy bay bắt đầu đến khu vực mục tiêu khoảng 25 phút sau khi chiếc cuối cùng của đợt đầu rút lui. Nòng cốt của đợt tấn công này là 78 máy bay ném bom bổ nhào xuất phát từ Akagi, Kaga, SoryuHiryu. Đây là những phi công bổ nhào giỏi nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Trước các mục tiêu tĩnh tại Trân Châu Cảng, người Nhật kỳ vọng sẽ đạt hiệu quả ấn tượng. Lực lượng này do Thiếu tá Egusa Takeshige từ tàu Soryu chỉ huy, người được coi là phi công bổ nhào giỏi nhất của Hải quân Đế quốc. Do không có tàu sân bay Mỹ nào hiện diện và bom 550 pound của máy bay ném bom bổ nhào không đủ sức xuyên giáp của thiết giáp hạm, kế hoạch ưu tiên giờ đây chuyển sang tấn công các tàu tuần dương. Tuy nhiên, chỉ có 17 máy bay bổ nhào tấn công tàu tuần dương, trong khi khoảng 30 chiếc nhắm vào thiết giáp hạm, 16 chiếc tấn công tàu khu trục, và 12 chiếc nhắm vào tàu hỗ trợ. Báo cáo sau trận đánh của phía Nhật là không chính xác, thậm chí còn mang tính đánh lừa. Ngay cả khi đối chiếu với các báo cáo của phía Mỹ, cũng rất khó xác định cụ thể toàn bộ hoạt động của 78 máy bay ném bom bổ nhào. Tuy nhiên, rõ ràng là cuộc tấn công của máy bay ném bom bổ nhào thiếu trọng tâm và không đạt được kỳ vọng của phía Nhật.
Bản đồ về đợt tấn công thứ hai vào Trân Châu Cảng từ lúc 08 giờ 48 phút - 09 giờ 20 phút.
Bản đồ về đợt tấn công thứ hai vào Trân Châu Cảng từ lúc 08 giờ 48 phút - 09 giờ 20 phút.
Ngay khi các máy bay Type 99 xuất hiện phía trên Trân Châu Cảng vào khoảng 08 giờ 50 phút, Nevada được phát hiện là đang di chuyển. Khoảng 14–18 máy bay ném bom bổ nhào đã tấn công thiết giáp hạm đang di chuyển chậm này. Nevada bị bao quanh bởi nhiều cú suýt trúng trước khi bị đánh trúng bởi năm quả bom lúc 09 giờ. Vào 09 giờ 07 phút, thêm nhiều máy bay ném bom bổ nhào đến và ghi nhận thêm một cú đánh trúng nữa. Trong số sáu cú đánh trúng, ít nhất ba cú trúng phía trước tháp pháo số 1 và tạo ra các lỗ thủng ở mũi tàu, châm ngòi cho các đám cháy bùng phát không kiểm soát. Các hầm đạn phía trước bị ngập nước, khiến mũi tàu chìm sâu hơn. Vào lúc 09 giờ 10 phút, Nevada được lệnh lao lên bãi cạn.
Tàu khu trục Downes và Cassin bị phá hủy trong Xưởng tàu số 1 sau khi trúng bom từ máy bay bổ nhào trong đợt tấn công thứ hai. Phía sau là thiết giáp hạm Pennsylvania, còn tàu tuần dương Helena bị ngư lôi nằm phía bên phải. (NHHC)
Tàu khu trục Downes và Cassin bị phá hủy trong Xưởng tàu số 1 sau khi trúng bom từ máy bay bổ nhào trong đợt tấn công thứ hai. Phía sau là thiết giáp hạm Pennsylvania, còn tàu tuần dương Helena bị ngư lôi nằm phía bên phải. (NHHC)
Người Nhật tuyên bố rằng các máy bay ném bom bổ nhào đã ghi thêm 21 cú đánh trúng vào các mục tiêu 6 dãy thiết giáp hạm, nhưng trên thực tế thì chỉ có California là bị tấn công. Vào lúc 08 giờ 45 phút, từ một đến ba chiếc máy bay Type 99 đã tấn công thiết giáp hạm và ghi nhận một cú đánh trúng, xuyên đến boong thứ hai trước khi phát nổ và gây ra nhiều thương vong cùng một đám cháy. Thiết giáp hạm duy nhất không nằm ở dãy thiết giáp hạm là soái hạm của hạm đội Pennsylvania, hiện nằm trong ụ nổi số 1. Không bị thiệt hại trong đợt tấn công đầu tiên, con tàu này bị tấn công bởi tới 9 máy bay ném bom bổ nhào. Vào lúc 09 giờ 06 phút, thiết giáp hạm này bị trúng một quả bom gây thiệt hại nhẹ, giết chết 18 sĩ quan và thủy thủ. Hai tàu khu trục, CassinDownes, cũng nằm trong ụ nổi này và bị đánh trúng bởi các quả bom trượt mục tiêu khỏi Pennsylvania. Sau vụ nổ hầm đạn trên Cassin và các đám cháy lớn, cả hai tàu đều trở thành tổn thất không thể phục hồi được.
Góc nhìn này được chụp từ bến tàu 1010 hướng về khu ụ khô của xưởng hải quân. Đám cháy bên phải là tàu khu trục Shaw đang cháy trong ụ. Ở tiền cảnh là tàu rải thủy lôi Oglala bị lật, với tàu tuần dương Helena ở phía xa hơn. Đám cháy lớn phía sau Helena là từ Ụ khô số 1, nơi chứa Pennsylvania cùng các tàu khu trục Cassin và Downes đang cháy. (NHHC)
Góc nhìn này được chụp từ bến tàu 1010 hướng về khu ụ khô của xưởng hải quân. Đám cháy bên phải là tàu khu trục Shaw đang cháy trong ụ. Ở tiền cảnh là tàu rải thủy lôi Oglala bị lật, với tàu tuần dương Helena ở phía xa hơn. Đám cháy lớn phía sau Helena là từ Ụ khô số 1, nơi chứa Pennsylvania cùng các tàu khu trục Cassin và Downes đang cháy. (NHHC)
Có ít nhất 10 chiếc máy bay Type 99 tiến hành tấn công khu vực Xưởng Hải quân, có thể là nhằm vào hai tàu tuần dương hạng nặng và hai tàu tuần dương hạng nhẹ có mặt. Egusa đích thân chọn tàu tuần dương hạng nặng New Orleans nhưng lại thả trượt. Tàu tuần dương hạng nhẹ Honolulu chịu một cú suýt trúng gây hư hại nhẹ, và St. Louis hứng chịu ba cú suýt trúng nhưng không bị hư hại. Bốn chiếc máy bay bổ nhào khác tấn công Helena tại bến tàu 1010 nhưng đều trượt. Tàu tuần dương duy nhất khác bị tấn công là Raleigh, vẫn đang vật lộn để giữ nổi sau cú đánh ngư lôi từ trước đó. Có tới năm chiếc máy bay Type 99 chọn tàu này làm mục tiêu và vào lúc 09 giờ 08 phút đã ghi nhận một cú đánh trúng xuyên thân tàu và phát nổ bên ngoài. Dù bị ngập thêm, con tàu vẫn không bị chìm.
Các cuộc tấn công khác rất khó giải thích. Một cách khó hiểu khi mà nhiều tàu khu trục cũng bị tấn công. Vào lúc 09 giờ 12 phút, có tới 8 máy bay ném bom bổ nhào tấn công tàu khu trục Shaw đang ở trong ụ nổi. Bị trúng ba quả bom và bắt lửa, con tàu bị bỏ lại và sau đó bị phá hủy bởi vụ nổ hầm đạn. Một số chiếc máy bay Type 99 khác được báo cáo đã tấn công các tàu khu trục DaleHelm khi cả hai đang di chuyển. Hai tàu tiếp liệu thủy phi cơ cũng bị tấn công. Một chiếc máy bay ném bom bổ nhào bị hư hại lao vào Curtiss và châm ngòi cho một đám cháy; nhà chứa máy bay của tàu sau đó bị đánh trúng bởi một quả bom gây thương vong lớn. Tàu tiếp liệu Tangier bị tấn công bởi tới 5 chiếc máy bay bổ nhào nhưng không bị thiệt hại.
Mức độ hiệu quả kém cỏi của đợt tấn công thứ hai bởi các máy bay ném bom bổ nhào có thể được giải thích qua bức ảnh này. Có thể thấy rõ nhiều yếu tố ảnh hưởng đến độ chính xác của chúng: trước hết là lượng khói lớn bao phủ khu vực mục tiêu; tiếp đó là hỏa lực phòng không Mỹ dày đặc; quan trọng nhất là tầng mây thấp bao trùm cả cảng, khiến việc xác định mục tiêu rất khó khăn và buộc các máy bay phải bổ nhào từ độ cao thấp hơn. (NHHC)
Mức độ hiệu quả kém cỏi của đợt tấn công thứ hai bởi các máy bay ném bom bổ nhào có thể được giải thích qua bức ảnh này. Có thể thấy rõ nhiều yếu tố ảnh hưởng đến độ chính xác của chúng: trước hết là lượng khói lớn bao phủ khu vực mục tiêu; tiếp đó là hỏa lực phòng không Mỹ dày đặc; quan trọng nhất là tầng mây thấp bao trùm cả cảng, khiến việc xác định mục tiêu rất khó khăn và buộc các máy bay phải bổ nhào từ độ cao thấp hơn. (NHHC)
Máy bay tiêm kích Zero của Nhật Bản bốc khói sau khi bị trúng hỏa lực phòng không trong cuộc tấn công. Bệ súng máy trên đỉnh cột buồm của một thiết giáp hạm có thể nhìn thấy ở góc dưới bên phải. (NHHC)
Máy bay tiêm kích Zero của Nhật Bản bốc khói sau khi bị trúng hỏa lực phòng không trong cuộc tấn công. Bệ súng máy trên đỉnh cột buồm của một thiết giáp hạm có thể nhìn thấy ở góc dưới bên phải. (NHHC)
Kết quả của cuộc tấn công bằng máy bay ném bom bổ nhào là một sự thất vọng lớn đối với người Nhật. Họ tuyên bố ghi nhận 49 cú đánh trúng, nhưng con số thực tế có lẽ chỉ là 15. Hệ thống phòng không của người Mỹ khá dày đặc vào thời điểm này của trận đánh, dẫn đến việc 14 máy bay bổ nhào bị bắn rơi. Tỷ lệ trúng mục tiêu dưới 20% khi tấn công các mục tiêu đứng yên là điều khó lý giải. Dù có nhiều khói tại khu vực cảng, lời giải thích hợp lý nhất là do mây mù thấp che phủ từ 70–90% trên khu vực cảng trong cuộc tấn công. Ngoài độ chính xác thấp, các phi công bổ nhào cũng mắc lỗi trong lựa chọn mục tiêu và đánh giá thiệt hại sau trận đánh một cách phóng đại nghiêm trọng.
Máy bay và nhà chứa máy bay bốc cháy tại Sân bay Không quân Wheeler, Oahu, ngay sau khi nơi này bị tấn công vào sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941, nhìn từ máy bay của Hải quân Nhật Bản.(NHHC)
Máy bay và nhà chứa máy bay bốc cháy tại Sân bay Không quân Wheeler, Oahu, ngay sau khi nơi này bị tấn công vào sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941, nhìn từ máy bay của Hải quân Nhật Bản.(NHHC)
Ảnh chụp từ trên không khu vực nhà chứa máy bay vào ngày 9 tháng 12 năm 1941, hai ngày sau cuộc không kích  đã phá hủy gần như toàn bộ máy bay tuần tra của trạm Không lực Hải quân Vịnh Kaneohe, Oahu. Nhà chứa máy bay bị phá hủy ở giữa. Có ít nhất sáu thủy phi cơ PBY Catalina trên đường băng và xung quanh nhà chứa máy bay. (NHHC)
Ảnh chụp từ trên không khu vực nhà chứa máy bay vào ngày 9 tháng 12 năm 1941, hai ngày sau cuộc không kích đã phá hủy gần như toàn bộ máy bay tuần tra của trạm Không lực Hải quân Vịnh Kaneohe, Oahu. Nhà chứa máy bay bị phá hủy ở giữa. Có ít nhất sáu thủy phi cơ PBY Catalina trên đường băng và xung quanh nhà chứa máy bay. (NHHC)
Bên cạnh việc dội bom các tàu trong cảng, các máy bay thuộc đợt đầu tiên và đợt thứ hai còn tấn công vào các sân bay nằm xung quanh hòn đảo. Bắt đầu vào lúc 07 giờ 51 phút, các máy bay ném bom bổ nhào từ Zuikaku đã tấn công sân bay Wheeler, nơi có khoảng 120 máy bay tiêm kích được đậu thành hàng ngay ngắn. Có 33 chiếc thủy phi cơ PBY hiện diện tại Trạm Không lực Hải quân Kaneohe. Giữa các máy bay tiêm kích của ShokakuZuikaku trong đợt một và 18 máy bay ném bom ngang từ Shokaku trong đợt thứ hai, 27 chiếc PBY đã bị phá hủy với sáu chiếc còn lại bị hư hại. Sân bay Ewa Mooring Mast là nơi đóng quân của Liên đoàn bay Thủy quân lục chiến số 21 với 49 máy bay. Kết thúc cuộc đột kích, 33 chiếc tại Ewa đã bị hư hại hoặc phá hủy.
Máy bay và nhà chứa máy bay đang bốc cháy tại căn cứ thủy phi cơ của Căn cứ Không lực Hải quân Đảo Ford, trong hoặc ngay sau cuộc không kích của Nhật Bản. Cánh máy bay tuần tra PBY Catalina bị hỏng nằm ở bên trái và chính giữa. Chú ý những người đàn ông cầm súng trường đứng ở góc dưới bên trái. (NHHC)
Máy bay và nhà chứa máy bay đang bốc cháy tại căn cứ thủy phi cơ của Căn cứ Không lực Hải quân Đảo Ford, trong hoặc ngay sau cuộc không kích của Nhật Bản. Cánh máy bay tuần tra PBY Catalina bị hỏng nằm ở bên trái và chính giữa. Chú ý những người đàn ông cầm súng trường đứng ở góc dưới bên trái. (NHHC)
Trạm Không lực Hải quân đảo Ford là nơi đóng quân của hai phi đoàn tuần tra cùng nhiều máy bay khác. Sau đợt tấn công từ các máy bay ném bom bổ nhào và ném bom ngang từ Shokaku, cùng với sự hỗ trợ của tiêm kích từ Kaga, 33 máy bay đã bị phá hủy, bao gồm 19 chiếc PBY. Sân bay Hickam là một mục tiêu then chốt vì đây là căn cứ máy bay ném bom chính của đảo. Vào đầu cuộc tấn công, có 12 chiếc B-17, 32 chiếc B-18, và 12 chiếc A-20 được đậu thành hàng. Sau các đợt tấn công của máy bay ném bom bổ nhào, tiêm kích và máy bay ném bom ngang, 5 chiếc B-17, 7 chiếc B-18, và 2 chiếc A-20 đã bị phá hủy và 19 chiếc khác bị hư hại.
Bất chấp một huyền thoại tồn tại dai dẳng, người Nhật chưa bao giờ nghiêm túc xem xét phát động đợt tấn công thứ ba. Nagumo đã hài lòng rút lui ngay sau khi thu hồi máy bay. Đợt thứ nhất bắt đầu quay lại vào khoảng 09 giờ 50 phút và tiến hành thu hồi ngay lập tức. Vào lúc 11 giờ 15 phút, các máy bay của đợt thứ hai bắt đầu được thu hồi, và một giờ sau đó, chiếc máy bay cuối cùng đã trở lại. Biển động mạnh khiến việc thu hồi gặp nhiều khó khăn, và theo một nguồn tin Nhật Bản, có tới 20 máy bay buộc phải hạ cánh xuống biển hoặc bị ném khỏi tàu do hư hỏng không thể sửa chữa hoặc hạ cánh thấp.
Cảnh chụp dãy thiết giáp hạm vào ngày 10 tháng 12 cho thấy hậu quả của trận tập kích Nhật Bản. Góc trên bên trái là California, đã chìm xuống đáy cảng. Từ trái sang phải là: Maryland (hư hại nhẹ) với Oklahoma bị lật neo ở ngoài, Tennessee (hư hại nhẹ) với West Virginia đã chìm ở ngoài, và Arizona với phần mũi bị phá hủy do vụ nổ hầm đạn. (NHHC)
Cảnh chụp dãy thiết giáp hạm vào ngày 10 tháng 12 cho thấy hậu quả của trận tập kích Nhật Bản. Góc trên bên trái là California, đã chìm xuống đáy cảng. Từ trái sang phải là: Maryland (hư hại nhẹ) với Oklahoma bị lật neo ở ngoài, Tennessee (hư hại nhẹ) với West Virginia đã chìm ở ngoài, và Arizona với phần mũi bị phá hủy do vụ nổ hầm đạn. (NHHC)
Cuộc đột kích của người Nhật vào Trân Châu Cảng đã khiến 18 tàu chiến Mỹ bị đánh chìm hoặc hư hại. Thiệt hại tập trung vào 8 thiết giáp hạm hiện diện ở đây. Trong số này, có ba chiếc quay lại phục vụ chỉ sau vài tuần, một chiếc vào năm 1943 và hai chiếc vào năm 1944, trong khi hai chiếc – ArizonaOklahoma – không bao giờ quay lại phục vụ. Vì các thiết giáp hạm có tốc độ chậm không còn hữu dụng trong kiểu chiến tranh mà Hạm đội Thái Bình Dương sẽ phải đối mặt, Yamamoto đã không thể giáng một đòn quyết định vào người Mỹ. Những cân nhắc chiến lược của cuộc tấn công nằm ngoài phạm vi nội dung này, nhưng vì cuộc tấn công đã làm xã hội Mỹ đoàn kết và xóa bỏ mọi khả năng đạt được một nền hòa bình bằng việc đàm phán, Trân Châu Cảng là một thảm họa chiến lược đối với người Nhật.
Máy bay  Type 99 (Val) từ tàu sân bay Kaga  được nhân viên Hải quân Mỹ kiểm tra khi được trục vớt từ Trân Châu Cảng ngay sau cuộc tấn công. Chiếc máy bay này tương đối nguyên vẹn, ngoại trừ phần đuôi bị gãy. (NHHC)
Máy bay Type 99 (Val) từ tàu sân bay Kaga được nhân viên Hải quân Mỹ kiểm tra khi được trục vớt từ Trân Châu Cảng ngay sau cuộc tấn công. Chiếc máy bay này tương đối nguyên vẹn, ngoại trừ phần đuôi bị gãy. (NHHC)
Điều không thể phủ nhận là sức mạnh tấn công mà Kido Butai đã thể hiện rất tốt. Đổi lại cho việc đánh chìm hoặc làm hư hại 18 tàu chiến, phá hủy 97 máy bay của Hải quân Mỹ và 77 máy bay của Lục quân Mỹ, giết chết 2.335 binh sĩ Mỹ và làm bị thương thêm 1.143 người, tổn thất của Nhật Bản là cực kỳ nhỏ. Tổng số máy bay bị mất là 29 chiếc, bao gồm 9 chiếc máy bay Zero, 15 chiếc máy bay Type 99, và 5 chiếc máy bay Type 97. Cái giá để tàn phá đội hình thiết giáp hạm của Hạm đội Thái Bình Dương chỉ là 5 chiếc máy bay ném ngư lôi. Chỉ có một máy bay bổ nhào và 3 chiếc Zero bị mất trong lúc tấn công các sân bay. Thêm vào đó, 17 máy bay ném bom bổ nhào, 11 chiếc máy bay Zero và ít nhất 18 chiếc máy bay Type 97 bị hư hại, và một số buộc phải hạ cánh khẩn cấp khi trở về tàu sân bay. Tính cả số máy bay bị phá hủy và hư hại, khoảng một phần ba (55 chiếc) trong tổng số 183 máy bay của đợt đầu tiên đã bị trúng đạn. Đợt thứ hai chịu tổn thất nặng nề hơn khi hỏa lực phòng không của người Mỹ gia tăng. Trong số 167 máy bay, 20 chiếc bị mất (14 máy bay ném bom bổ nhào và 6 chiếc Zero) và 16 chiếc Type 97, 41 máy bay ném bom bổ nhào, cùng tám chiếc Zero bị hư hại, nâng tổng số lên 85 máy bay. Đây là những tổn thất nặng nề khi đối đầu với một kẻ thù bị bất ngờ và điều này sẽ khiến cho một đợt tấn công thứ ba sẽ trở nên khó khăn hơn nếu người Nhật thực sự cân nhắc đến nó.

HẬU TRÂN CHÂU CẢNG: KIDO BUTAI TUNG HOÀNH CHIẾN TRƯỜNG

Sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng, người Nhật bắt đầu triển khai kế hoạch chiếm đóng một loạt mục tiêu trên khắp Thái Bình Dương. Chính vào thời điểm này, Yamamoto khởi đầu xu hướng chia nhỏ Kido Butai để hỗ trợ các chiến dịch khác nhau cùng lúc. Nếu được duy trì như một lực lượng thống nhất, Kido Butai sẽ có sức mạnh áp đảo trước bất kỳ tổ hợp tàu sân bay nào của Hải quân Mỹ. Việc phân tán lực lượng tàu sân bay của Hạm đội Liên hợp đã tạo cơ hội cho Hải quân Mỹ tiêu diệt từng phần, và trực tiếp dẫn đến thảm họa tại Midway.
Bản đồ mô tả lộ trình của Kido Butai trong Chiến dịch Hawaii. Sau khi tân công Trân Châu Cảng, Kido Butai hướng lên hướng bắc để trở về Nhật Bản, tuy nhiên hai tàu sân bay Soryu và Hiryu thuộc Hải đội Tàu sân bay số 2 , cùng với 2 tàu tuần dương, 2 tàu khu trục được tách ra để hỗ trợ cho lực lượng tấn công đảo Wake ở phía nam. Sô còn lại vẫn tiếp tục trở về chính quốc
Bản đồ mô tả lộ trình của Kido Butai trong Chiến dịch Hawaii. Sau khi tân công Trân Châu Cảng, Kido Butai hướng lên hướng bắc để trở về Nhật Bản, tuy nhiên hai tàu sân bay Soryu và Hiryu thuộc Hải đội Tàu sân bay số 2 , cùng với 2 tàu tuần dương, 2 tàu khu trục được tách ra để hỗ trợ cho lực lượng tấn công đảo Wake ở phía nam. Sô còn lại vẫn tiếp tục trở về chính quốc
Ngày 11 tháng 12, cuộc xâm lược đảo Wake của Nhật bị tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đồn trú tại đây đẩy lùi. Để chiếm đảo trước khi người Mỹ có thể tổ chức một chiến dịch giải cứu, ngày 16 tháng 12, Yamamoto ra lệnh điều động SoryuHiryu hỗ trợ cuộc tấn công lần hai. Từ vị trí cách 350 hải lý, hai tàu sân bay này đã tung ra một đợt không kích gồm 29 máy bay ném bom bổ nhào và 18 chiếc Zero vào sáng ngày 21 tháng 12. Cuộc tấn công không gặp phải sự kháng cự nào. Ngày hôm sau, 33 chiếc Type 97 được sáu chiếc Zero hộ tống lại tiếp tục tấn công đảo. Hai chiếc máy bay tiêm kích F4F Wildcat cuối cùng của Thủy quân Lục chiến bị bắn rơi, nhưng đổi lại Nhật Bản mất hai chiếc máy bay Type 97 và một chiếc khác buộc phải hạ cánh khẩn cấp. Sáng hôm sau, lính Nhật đổ bộ lên đảo với sự yểm trợ từ năm đợt không kích của các tàu sân bay.
Lực lượng tàu sân bay Nhật gồm Akagi, Kaga, Shokaku và Zuikaku xuất phát từ Truk đã đến Nam Thái Bình Dương vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 để hỗ trợ lực lượng Nhật xâm lược Rabaul.
Lực lượng tàu sân bay Nhật gồm Akagi, Kaga, Shokaku và Zuikaku xuất phát từ Truk đã đến Nam Thái Bình Dương vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 để hỗ trợ lực lượng Nhật xâm lược Rabaul.
Sau trận Trân Châu Cảng, Kido Butai vẫn tiếp tục hoạt động một cách dày đặc. Đây là cảnh một chiếc Zero cất cánh từ tàu Zuikaku vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 trong cuộc tấn công Rabaul ở Nam Thái Bình Dương. (Yamato Museum)
Sau trận Trân Châu Cảng, Kido Butai vẫn tiếp tục hoạt động một cách dày đặc. Đây là cảnh một chiếc Zero cất cánh từ tàu Zuikaku vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 trong cuộc tấn công Rabaul ở Nam Thái Bình Dương. (Yamato Museum)
Cùng ngày, phần còn lại của Kido Butai về đến neo đậu tại Hashirajima trong vùng biển nội địa Nhật. Sau một thời gian nghỉ ngắn, lực lượng này rời cảng vào ngày 8 tháng 1, hướng đến Truk ở Trung Thái Bình Dương với nhiệm vụ hỗ trợ cuộc chiếm đóng Rabaul. Trong một ví dụ điển hình cho việc dùng "búa tạ để đập trứng", ngày 20 tháng 1, Akagi, Kaga, ShokakuZuikaku đến vị trí cách Rabaul khoảng 200 hải lý về phía bắc và tung ra một cuộc tấn công gồm 111 máy bay (47 chiếc Type 97, 38 chiếc Type 99, và 26 chiếc Zero). Có rất ít mục tiêu đáng giá để tiêu diệt. Sự kháng cự yếu ớt của Không quân Hoàng gia Úc đã nhanh chóng bị quét sạch, Nhật Bản chỉ mất ba máy bay. Ngày hôm sau, AkagiKaga tấn công các mục tiêu tại Kavieng, trong khi ShokakuZuikaku tiến vào biển Bismarck để đánh phá các mục tiêu trên đảo New Guinea. Gần như không gặp phải sự kháng cự nào, vì thế mà không có chiếc máy bay nào bị mất. Ngày 22 tháng 1, Rabaul lại bị không kích với lực lượng gồm 18 chiếc Type 97, 16 chiếc Type 99, và chỉ 12 chiếc Zero; Nhật chỉ mất 2 máy bay ném bom bổ nhào. Rabaul bị chiếm đóng ngày 23 tháng 1 trước sự kháng cự yếu ớt của lực lượng Úc. Kido Butai yểm trợ cho cuộc đổ bộ và sau đó rút về Truk.
Bản đồ về cuộc tấn công của Nhật Bản vào vùng Đông Ấn Hà Lan thuộc khu vực quân sự của Bộ Tư lệnh Mỹ-Anh-Hà Lan-Úc (American–British–Dutch–Australian Command hay ABDAC). Lực lượng tàu sân bay đã tham gia hỗ trợ và cũng không kích vào cảng Darwin vào ngày 19 tháng 2 năm 1942.
Bản đồ về cuộc tấn công của Nhật Bản vào vùng Đông Ấn Hà Lan thuộc khu vực quân sự của Bộ Tư lệnh Mỹ-Anh-Hà Lan-Úc (American–British–Dutch–Australian Command hay ABDAC). Lực lượng tàu sân bay đã tham gia hỗ trợ và cũng không kích vào cảng Darwin vào ngày 19 tháng 2 năm 1942.
Trong khi phần lớn Kido Butai hoạt động ở Nam Thái Bình Dương, HiryuSoryu được điều động xuống phía nam để hỗ trợ chiến dịch tại Đông Ấn Hà Lan (NEI). Chúng đến Palau vào ngày 17 và ngày 24 tháng 1 tung ra một cuộc không kích gồm 54 máy bay nhằm vào Ambon ở khu vực phía đông NEI. Không có mục tiêu đáng giá nào được tìm thấy và không có máy bay nào bị mất. Cả hai tàu sân bay tách ra mỗi chiếc với 9 máy bay ném bom bổ nhào và 9 máy bay tiêm kích để hoạt động từ các căn cứ trên bờ. Sau khi chiếm được Rabaul, AkagiKaga gia nhập cùng với HiryuSoryu tại Palau vào ngày 8 tháng 2, trong khi ShokakuZuikaku ở lại trong vùng biển quê nhà để đề phòng bất kỳ cuộc đột kích nào của tàu sân bay Mỹ.
Cuộc không kích vào cảng Darwin ngày 19 tháng 2 năm 1942 - cuộc không kích lớn nhất của Kido Butai kể từ Trân Châu Cảng, được mở đầu bằng cuộc tấn công của 188 máy bay từ 4 tàu sân bay.
Cuộc không kích vào cảng Darwin ngày 19 tháng 2 năm 1942 - cuộc không kích lớn nhất của Kido Butai kể từ Trân Châu Cảng, được mở đầu bằng cuộc tấn công của 188 máy bay từ 4 tàu sân bay.
Các máy bay Zero trên tàu sân bay Akagi đang chuẩn bị cất cánh để tham gia tấn công vào Darwin.
Các máy bay Zero trên tàu sân bay Akagi đang chuẩn bị cất cánh để tham gia tấn công vào Darwin.
Vụ nổ của tàu MV Neptune, chứa đầy thuốc nổ TNT và đạn dược, xảy ra trong cuộc không kích đầu tiên của Nhật Bản vào lục địa Australia, tại cảng Darwin vào ngày 19 tháng 2 năm 1942. Ở phía trước là tàu HMAS Deloraine , may mắn không bị hư hại.
Vụ nổ của tàu MV Neptune, chứa đầy thuốc nổ TNT và đạn dược, xảy ra trong cuộc không kích đầu tiên của Nhật Bản vào lục địa Australia, tại cảng Darwin vào ngày 19 tháng 2 năm 1942. Ở phía trước là tàu HMAS Deloraine , may mắn không bị hư hại.
Kido Butai lúc này đã tái tổ chức lúc để chuẩn bị tấn công Darwin – căn cứ đồng minh chính ở tây bắc Australia, nơi tiếp nhận quân tiếp viện cho Đông Ấn Hà Lan (NEI). Hạm đội rời Palau vào ngày 15 và bốn ngày sau đã đến vị trí cách Darwin khoảng 220 hải lý về phía bắc. Tổng cộng 188 máy bay được phóng đi, biến đây trở thành cuộc không kích lớn nhất kể từ Trân Châu Cảng. Đợt không kích gồm 71 máy bay ném bom bổ nhào, 81 chiếc máy bay Type 97 và 36 tiêm kích Zero hộ tống. Trước sự kháng cự yếu ớt, người Nhật đánh chìm sáu tàu lớn (trong đó có một tàu khu trục Mỹ) tại cảng và bắn rơi 30 máy bay đồng minh. Tuy nhiên, kết quả ném bom bị xem là gây thất vọng vì còn đến 20 tàu sống sót. Độ chính xác của các máy bay Type 97 ném bom từ độ cao 10.000 feet là rất thấp, và các máy bay ném bom bổ nhào đến sau gặp khó khăn trong việc chọn mục tiêu vì khói từ đợt tấn công trước. Vào buổi chiều, hai tàu nữa bị máy bay ném bom bổ nhào đánh chìm ở phía bắc Darwin. Tổn thất của Nhật Bản chỉ là hai máy bay ném bom bổ nhào, một chiếc Type 97 và một chiếc Zero.
Kido Butai trở về vịnh Staring trên đảo Celebes vào ngày 21 tháng 2 và rời đi bốn ngày sau đó cho chiến dịch kế tiếp. Với việc cuộc xâm lược Java được ấn định vào cuối tháng 2, người Nhật dự đoán sẽ có nhiều tàu tháo chạy khỏi NEI khi phòng tuyến đồng minh sụp đổ. Do đó, Kido Butai chiếm lĩnh vị trí phía nam eo biển Sunda vào ngày 1 tháng 3. Trong ngày, máy bay ném bom bổ nhào đã đánh chìm hai tàu Mỹ (một tàu chở dầu và một tàu khu trục). Ngày 5 tháng 3, Kido Butai tung ra cuộc không kích với 149 máy bay nhằm vào cảng Tjilatjap ở phía nam Java – lúc này là cảng duy nhất còn khả dụng để rút lui. Không gặp phải sự kháng cự, người Nhật đã đánh chìm một tàu rải thủy lôi Hà Lan đang đóng và năm tàu buôn. Chín tàu khác bị hư hại và sau đó bị thủy thủ đoàn đánh chìm để tránh rơi vào tay địch. Không có máy bay Nhật nào bị mất và hạm đội quay về vịnh Staring vào ngày 11 tháng 3. Vào ngày 15, tàu sân bay Kaga được lệnh quay về Nhật vì hư hỏng từ sự cố mắc cạn ngày 9 tháng 2 tại Palau đã trầm trọng hơn và cần phải sửa chữa vĩnh viễn.
Lộ trình của Kido Butai trong cuộc tập kích Ấn Độ Dương từ ngày 3 - 12 tháng 4 năm 1942.
Lộ trình của Kido Butai trong cuộc tập kích Ấn Độ Dương từ ngày 3 - 12 tháng 4 năm 1942.
Chiến dịch kế tiếp của Kido Butai là một trong những chiến dịch lớn nhất của họ trong chiến tranh, chỉ sau Trân Châu Cảng. ShokakuZuikaku đến vịnh Staring vào ngày 24 tháng 3. Hai ngày sau, hạm đội lên đường tiến vào Ấn Độ Dương. Mục tiêu là yểm trợ cho một đoàn quân lớn của Nhật đang tiến đến Rangoon, Miến Điện, nhưng nhiệm vụ lớn hơn của họ là làm tê liệt sức mạnh hải quân Anh trong khu vực. Lần duy nhất trong chiến tranh, Kido Butai có đầy đủ bốn thiết giáp hạm lớp Kongo tham gia cùng nhau. Tàu sân bay Ryujo cũng tham gia cùng một nhóm tuần dương hạm để phá rối tuyến vận tải Anh dọc bờ biển Ấn Độ.
Quang cảnh này cho thấy một đợt không kích đang chuẩn bị cất cánh từ Akagi, được chụp trong cuộc tập kích Ấn Độ Dương. Các máy bay ở tiền cảnh là Zero, còn những chiếc phía sau là Val. Dựa trên số lượng máy bay có thể thấy được (17 chiếc Val và 3 chiếc Zero), bức ảnh này có thể đã được chụp vào ngày 5 hoặc 9 tháng 4, khi các máy bay chuẩn bị xuất kích tấn công các đơn vị hải quân Anh.
Quang cảnh này cho thấy một đợt không kích đang chuẩn bị cất cánh từ Akagi, được chụp trong cuộc tập kích Ấn Độ Dương. Các máy bay ở tiền cảnh là Zero, còn những chiếc phía sau là Val. Dựa trên số lượng máy bay có thể thấy được (17 chiếc Val và 3 chiếc Zero), bức ảnh này có thể đã được chụp vào ngày 5 hoặc 9 tháng 4, khi các máy bay chuẩn bị xuất kích tấn công các đơn vị hải quân Anh.
Một máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A Type 99 cất cánh từ tàu sân bay Akagi để tấn công các tàu chiến Anh trong cuộc tập kích Ấn Độ Dương vào ngày 5 tháng 4 năm 1942. Máy bay này thuộc về một phi đội trưởng (shōtaichō), được biểu thị bằng một sọc ngang duy nhất bên dưới mã đuôi. Sọc đỏ dọc duy nhất quanh đuôi máy bay là mã nhận dạng của Akagi .
Một máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A Type 99 cất cánh từ tàu sân bay Akagi để tấn công các tàu chiến Anh trong cuộc tập kích Ấn Độ Dương vào ngày 5 tháng 4 năm 1942. Máy bay này thuộc về một phi đội trưởng (shōtaichō), được biểu thị bằng một sọc ngang duy nhất bên dưới mã đuôi. Sọc đỏ dọc duy nhất quanh đuôi máy bay là mã nhận dạng của Akagi .
Máy bay cường kích từ tàu sân bay tiêu chuẩn của Nhật trong giai đoạn này là Type 97 "Kate". Đây chính là chiếc B5N2 "Kate" do Fuchida điều khiển trên tàu Akagi. Chiếc Kate là một loại máy bay đa năng, có thể hoạt động như máy bay ném bom ngang hoặc ném ngư lôi; trong Chiến dịch C, nó chỉ được sử dụng như máy bay ném bom ngang.
Máy bay cường kích từ tàu sân bay tiêu chuẩn của Nhật trong giai đoạn này là Type 97 "Kate". Đây chính là chiếc B5N2 "Kate" do Fuchida điều khiển trên tàu Akagi. Chiếc Kate là một loại máy bay đa năng, có thể hoạt động như máy bay ném bom ngang hoặc ném ngư lôi; trong Chiến dịch C, nó chỉ được sử dụng như máy bay ném bom ngang.
Vào ngày 3 tháng 4, Kido Butai tiến vào Ấn Độ Dương và hướng tới Ceylon (Sri Lanka ngày nay) để thực hiện cuộc không kích dự kiến vào ngày 5 tháng 4 nhằm vào Colombo. Ngày hôm sau, hạm đội bị một thủy phi cơ Anh phát hiện, nhưng Nagumo quyết định vẫn giữ nguyên kế hoạch. Người Nhật biết rằng Hải quân Hoàng gia Anh đã tập hợp một lực lượng mạnh trong khu vực, nhưng không nắm được thông tin di chuyển của họ. Sáng ngày 5 tháng 4, Nhật bắt đầu tung ra cuộc không kích với 38 máy bay ném bom bổ nhào, 53 máy bay Type 97 mang bom, và 36 máy bay tiêm kích Zero nhằm vào Colombo. Một lực lượng máy bay ném bom bổ nhào và máy bay Type 97 trang bị ngư lôi được giữ lại để tung ra nếu phát hiện hạm đội Anh. Mặc dù đã được cảnh báo trước một ngày, vẫn còn nhiều tàu Anh ở trong cảng khi người Nhật đến. Lực lượng phòng không của Anh được trang bị mạnh mẽ, với 42 tiêm kích bảo vệ và hỏa lực phòng không dày đặc. Khi phải đối mặt với điều này cùng tầng mây dày trên cảng, các máy bay ném bom bổ nhào chỉ đánh chìm được một tàu tuần dương vũ trang và làm hư hại một tàu căn cứ tàu ngầm. Máy bay ném bom ngang đánh chìm một tàu khu trục và làm hư hại một tàu buôn. Tiêm kích Zero bắn rơi 33 máy bay Anh, trong khi Nhật mất 6 máy bay ném bom bổ nhào và một chiếc Zero.
Do kết quả ném bom hạn chế ở Colombo, Fuchida đã đề xuất với Nagumo thực hiện thêm đợt tấn công thứ hai. Do chưa phát hiện thấy hạm đội Anh, Nagumo ra lệnh tái trang bị vũ khí cho các máy bay Type 97 mang ngư lôi trên ShokakuZuikaku bằng bom thường. Một số máy bay ném bom bổ nhào trên các tàu sân bay khác cũng được thay bằng loại bom phù hợp hơn cho mục tiêu trên bộ. Khi việc tái trang bị này đang diễn ra, một thủy phi cơ của tàu tuần dương Tone phát hiện hai tàu tuần dương Anh cách Kido Butai chỉ 150 hải lý về phía tây. Theo học thuyết tác chiến của Hải quân Đế quốc, những tàu chiến bọc giáp dày như vậy phải bị tấn công phối hợp bởi máy bay mang ngư lôi và máy bay ném bom bổ nhào. Nagumo ngay lập tức đảo ngược lệnh cũ, yêu cầu lắp lại ngư lôi cho các máy bay Type 97. Tuy nhiên, một báo cáo thứ hai từ một thủy phi cơ khác xác định các mục tiêu chỉ là tàu khu trục. Nagumo liền ra lệnh cho lực lượng máy bay ném bom bổ nhào dự bị cất cánh để tấn công nhóm tàu này. Một báo cáo thứ ba, từ một thủy phi cơ khác nữa, cuối cùng xác nhận đúng rằng hai tàu là tàu tuần dương hạng nặng lớp Kent của Anh. Do đó, việc chuẩn bị không kích bằng ngư lôi vẫn tiếp tục được tiến hành.
Việc tiêu diệt hai tàu tuần dương hạng nặng của Anh Cornwall và Dorsetshire là thời khắc đỉnh cao của Chiến dịch C đối với Kido Butai của Nhật Bản. Chỉ trong vòng 17 phút, cả hai con tàu đều bị trúng nhiều bom và bị đánh chìm. Bức ảnh của Nhật này cho thấy hai tàu tuần dương đang bị tấn công và bốc cháy.
Việc tiêu diệt hai tàu tuần dương hạng nặng của Anh Cornwall và Dorsetshire là thời khắc đỉnh cao của Chiến dịch C đối với Kido Butai của Nhật Bản. Chỉ trong vòng 17 phút, cả hai con tàu đều bị trúng nhiều bom và bị đánh chìm. Bức ảnh của Nhật này cho thấy hai tàu tuần dương đang bị tấn công và bốc cháy.
Lúc này, 53 máy bay ném bom bổ nhào Type 99 dưới quyền chỉ huy của Egusa Takeshige đã cất cánh. Những gì diễn ra sau đó được xem là một màn biểu diễn gần như hoàn hảo của nghệ thuật ném bom bổ nhào. Các máy bay Type 99 tiếp cận mục tiêu từ phía chính diện và từ trên cao, bay ra từ mặt trời, khiến xạ thủ phòng không trên tàu bị lóa mắt và khó phản ứng. Một máy bay gặp trục trặc không thả được bom, nhưng 52 chiếc máy bay còn lại đều tấn công với độ chính xác ấn tượng. Phần lớn phi công đánh trúng mục tiêu hoặc rất gần. Tàu Dorsetshire chìm nhanh chóng sau khi trúng 10 quả bom và nhiều cú đánh sượt, còn Cornwall cũng theo sau không lâu sau khi bị đánh trúng 9 lần và 6 lần suýt trúng.
Máy bay cường kích B5N2 trở về Kido Butai sau cuộc tập kích Trincomalee (Ceylon) ngày 9 tháng 4 năm 1942. Nhìn đằng xa có thể thấy cột khói từ những máy bay Nhật oanh tạc trước đó.
Máy bay cường kích B5N2 trở về Kido Butai sau cuộc tập kích Trincomalee (Ceylon) ngày 9 tháng 4 năm 1942. Nhìn đằng xa có thể thấy cột khói từ những máy bay Nhật oanh tạc trước đó.
Sau thắng lợi này, Kido Butai rút quân để chuẩn bị đánh vào Trincomalee ở đông bắc Ceylon vào ngày 9 tháng 4. Dù đã bị thủy phi cơ Anh phát hiện hôm qua, Nagumo vẫn quyết định tấn công như kế hoạch. Sáng hôm sau, ông tung ra một đợt không kích với 91 chiếc Type 97 mang bom, được hộ tống bởi 38 chiếc Zero. Tất cả các máy bay ném bom bổ nhào của hạm đội được giữ lại để phòng trường hợp phát hiện hạm đội Anh. Phần lớn tàu bè đều đã rời cảng, nhưng các máy bay ném bom ngang vẫn đánh chìm một tàu buôn và làm hư hại pháo hạm nhỏ (monitor) Erebus. Zero bắn rơi 9 tiêm kích Anh đang phòng thủ và phá hủy thêm 14 máy bay khác dưới mặt đất.
Lần đầu tiên trong lịch sử hải quân, một tàu sân bay bị đánh chìm bởi máy bay xuất phát từ tàu sân bay đối phương không phải diễn ra ở Thái Bình Dương trong những trận hải chiến giữa người Mỹ và người Nhật, mà là tại Ấn Độ Dương giữa người Anh và người Nhật. Sáng ngày 9 tháng 4, một máy bay trinh sát Nhật phát hiện tàu sân bay Hermes ở phía nam Trincomalee, với hộ tống chỉ là một tàu khu trục. Nagumo có sẵn năm phi đội máy bay bổ nhào Val chờ cho một tình huống như vậy. Chỉ hai giờ sau khi phát hiện tàu sân bay Anh, các máy bay bổ nhào Nhật bắt đầu cuộc tấn công của chúng. Những chiếc đầu tiên bổ nhào vào Hermes xuất phát từ tàu sân bay Shokaku, do Thiếu tá Takahashi chỉ huy. Điều kiện cho cuộc tấn công là rất thuận lợi, và Hermes là một mục tiêu khá chậm chạp, nặng nề, với khả năng phòng không hạn chế. Những gì diễn ra sau đó là một bài học hoàn hảo về nghệ thuật ném bom bổ nhào. Trong tổng số 45 quả bom được thả bởi phía Nhật, họ tuyên bố đạt 37 phát trúng đích. Điều này không hề phóng đại, vì sĩ quan cao cấp sống sót của Anh đã khai rằng tàu của ông bị trúng ít nhất 40 quả bom. Trong cảnh này, phi đội ném bom của tàu Shokaku đang bắt đầu cuộc tấn công vào Hermes. Chiếc Val của Takahashi đã vừa thả bom, và một máy bay bổ nhào khác phía sau cũng vừa thả bom của mình. Trong số 18 chiếc máy bay của phi đội, có 13 chiếc tuyên bố trúng mục tiêu. Hermes phản kích lại bằng hỏa lực pháo phòng không hỗn hợp cỡ 4 inch và loại nhẹ hơn, nhưng không chiếc máy bay Nhật nào bị bắn rơi. Sau khi các máy bay bổ nhào từ Shokaku hoàn tất đợt tấn công, những chiếc từ Zuikaku, Hiryu và Akagi tiếp tục dồn dập tấn công vào con tàu gần như không còn khả năng tự vệ. Trong vòng 15 phút, Hermes nghiêng về mạn trái và chìm. Trong số thủy thủ đoàn của Hermes, 302 người thiệt mạng ngay trong cuộc tấn công và thêm 4 người chết sau khi được cứu. Ít nhất 139 người bị thương, tổng cộng gây ra tổn thất rất nặng nề cho thủy thủ đoàn khoảng 790 người. (Tranh của Jim Laurier)
Lần đầu tiên trong lịch sử hải quân, một tàu sân bay bị đánh chìm bởi máy bay xuất phát từ tàu sân bay đối phương không phải diễn ra ở Thái Bình Dương trong những trận hải chiến giữa người Mỹ và người Nhật, mà là tại Ấn Độ Dương giữa người Anh và người Nhật. Sáng ngày 9 tháng 4, một máy bay trinh sát Nhật phát hiện tàu sân bay Hermes ở phía nam Trincomalee, với hộ tống chỉ là một tàu khu trục. Nagumo có sẵn năm phi đội máy bay bổ nhào Val chờ cho một tình huống như vậy. Chỉ hai giờ sau khi phát hiện tàu sân bay Anh, các máy bay bổ nhào Nhật bắt đầu cuộc tấn công của chúng. Những chiếc đầu tiên bổ nhào vào Hermes xuất phát từ tàu sân bay Shokaku, do Thiếu tá Takahashi chỉ huy. Điều kiện cho cuộc tấn công là rất thuận lợi, và Hermes là một mục tiêu khá chậm chạp, nặng nề, với khả năng phòng không hạn chế. Những gì diễn ra sau đó là một bài học hoàn hảo về nghệ thuật ném bom bổ nhào. Trong tổng số 45 quả bom được thả bởi phía Nhật, họ tuyên bố đạt 37 phát trúng đích. Điều này không hề phóng đại, vì sĩ quan cao cấp sống sót của Anh đã khai rằng tàu của ông bị trúng ít nhất 40 quả bom. Trong cảnh này, phi đội ném bom của tàu Shokaku đang bắt đầu cuộc tấn công vào Hermes. Chiếc Val của Takahashi đã vừa thả bom, và một máy bay bổ nhào khác phía sau cũng vừa thả bom của mình. Trong số 18 chiếc máy bay của phi đội, có 13 chiếc tuyên bố trúng mục tiêu. Hermes phản kích lại bằng hỏa lực pháo phòng không hỗn hợp cỡ 4 inch và loại nhẹ hơn, nhưng không chiếc máy bay Nhật nào bị bắn rơi. Sau khi các máy bay bổ nhào từ Shokaku hoàn tất đợt tấn công, những chiếc từ Zuikaku, Hiryu và Akagi tiếp tục dồn dập tấn công vào con tàu gần như không còn khả năng tự vệ. Trong vòng 15 phút, Hermes nghiêng về mạn trái và chìm. Trong số thủy thủ đoàn của Hermes, 302 người thiệt mạng ngay trong cuộc tấn công và thêm 4 người chết sau khi được cứu. Ít nhất 139 người bị thương, tổng cộng gây ra tổn thất rất nặng nề cho thủy thủ đoàn khoảng 790 người. (Tranh của Jim Laurier)
Tàu sân bay đầu tiên bị đánh chìm bởi máy bay từ tàu sân bay là Hermes của Hải quân Hoàng gia Anh vào tháng 4 năm 1942. Trước các máy bay ném bom bổ nhào của Kido Butai, chiếc Hermes chậm chạp, với hỏa lực phòng không yếu và không có tiêm kích yểm trợ, hoàn toàn không có cơ hội sống sót.
Tàu sân bay đầu tiên bị đánh chìm bởi máy bay từ tàu sân bay là Hermes của Hải quân Hoàng gia Anh vào tháng 4 năm 1942. Trước các máy bay ném bom bổ nhào của Kido Butai, chiếc Hermes chậm chạp, với hỏa lực phòng không yếu và không có tiêm kích yểm trợ, hoàn toàn không có cơ hội sống sót.
Tàu sân bay Hermes lúc gần như bị đánh chìm bởi những quả bom từ những máy bay Type 99 đang bay như trong bức ảnh thể hiện.
Tàu sân bay Hermes lúc gần như bị đánh chìm bởi những quả bom từ những máy bay Type 99 đang bay như trong bức ảnh thể hiện.
Khi Trincomalee đang bị tấn công, các thủy phi cơ Nhật lại phát hiện một nhóm tàu từng rời cảng từ trước, trong đó có tàu sân bay Hermes và một số tàu nhỏ. Nagumo lập tức tung lực lượng dự bị gồm 85 máy bay ném bom bổ nhào và 9 chiếc Zero. Sau một thời gian tìm kiếm, Hermes bị phát hiện, và một màn oanh tạc chính xác khác lại diễn ra. Trong số 45 quả bom được thả xuống, người Nhật tuyên bố có tới 37 quả trúng đích – con số này được báo cáo của phía Anh xác nhận. Ngoài Hermes, một tàu khu trục Australia ở gần đó, một tàu hộ tống, hai tàu chở dầu và một tàu buôn cũng bị đánh chìm. Các tiêm kích Anh đến quá muộn, nhưng vẫn bắn rơi được 4 chiếc Type 99 và làm hỏng thêm 5 chiếc khác.
Một trong những sự kiện ít được biết đến của Cuộc tập kích Ấn Độ Dương là cuộc tấn công đầu tiên của phe Đồng Minh vào Kido Butai trong suốt toàn bộ cuộc chiến. Vào ngày 9 tháng 4, sau khi nhận được thông tin từ một thủy phi cơ Catalina bay trinh sát trước đó trong buổi sáng, người Anh đã điều toàn bộ lực lượng ném bom có sẵn tại Ceylon – gồm 11 máy bay ném bom Blenheim IV thuộc Phi đoàn 11 – lên đường tấn công. Các máy bay cất cánh lúc khoảng 08 giờ 20 phút từ Racecourse, nhưng hai chiếc buộc phải quay lại do trục trặc động cơ. Sau một thời gian tìm kiếm ngắn, họ phát hiện lực lượng Kido Butai. Chỉ huy phi đội quyết định chọn tàu sân bay Akagi làm mục tiêu, vì đó là tàu sân bay lớn nhất có mặt. Cuộc tiếp cận của các Blenheim đã khiến người Nhật hoàn toàn bất ngờ, và sự yếu kém trong học thuyết phòng không của Kido Butai được bộc lộ rõ ràng. Không một tàu Nhật nào được trang bị radar, và các phi công Zero đang tuần tra cũng không phát hiện được máy bay Anh. Trong trận không kích này, các máy bay Blenheim thực hiện ném bom từ độ cao khoảng 10.000 feet, thả tổng cộng 27 quả bom 500lb và 250lb loại xuyên giáp. Tuy nhiên, các phi công của Phi đoàn 11 không có kinh nghiệm hoặc huấn luyện tấn công mục tiêu trên biển, nên gần như không có cơ hội trúng đích, dù mục tiêu bị bất ngờ và tấn công từ độ cao này. Ba quả bom rơi gần mũi tàu sân bay Akagi (ở dưới bên trái bức tranh), trong khi các quả còn lại nhắm vào tàu sân bay và tàu tuần dương hộ tống Tone đều chệch xa mục tiêu. Người Nhật bị bất ngờ hoàn toàn, đến mức không khai hỏa nổi pháo phòng không. Sau khi thả bom, các máy bay Blenheim đã tập hợp đội hình chặt chẽ để rút lui. 20 chiếc Zero đang làm nhiệm vụ CAP lập tức phản ứng và bắn hạ bốn máy bay ném bom khi chúng đang rút lui. Không một ai sống sót trên bất kỳ chiếc máy bay nào bị bắn rơi. Trong trận không chiến này, một phi công Zero giàu kinh nghiệm nhất của tàu Hiryū cũng thiệt mạng. Khi đội hình Anh bị tan vỡ và rút lui, các phi công Zero ngừng truy đuổi, đề phòng khả năng những máy bay Anh khác có thể tiếp tục tấn công các tàu sân bay. Lần tới khi Kido Butai bị tấn công từ trên không — trong trận Midway — họ sẽ không còn gặp may mắn như vậy nữa. (Tranh của Jim Laurier)
Một trong những sự kiện ít được biết đến của Cuộc tập kích Ấn Độ Dương là cuộc tấn công đầu tiên của phe Đồng Minh vào Kido Butai trong suốt toàn bộ cuộc chiến. Vào ngày 9 tháng 4, sau khi nhận được thông tin từ một thủy phi cơ Catalina bay trinh sát trước đó trong buổi sáng, người Anh đã điều toàn bộ lực lượng ném bom có sẵn tại Ceylon – gồm 11 máy bay ném bom Blenheim IV thuộc Phi đoàn 11 – lên đường tấn công. Các máy bay cất cánh lúc khoảng 08 giờ 20 phút từ Racecourse, nhưng hai chiếc buộc phải quay lại do trục trặc động cơ. Sau một thời gian tìm kiếm ngắn, họ phát hiện lực lượng Kido Butai. Chỉ huy phi đội quyết định chọn tàu sân bay Akagi làm mục tiêu, vì đó là tàu sân bay lớn nhất có mặt. Cuộc tiếp cận của các Blenheim đã khiến người Nhật hoàn toàn bất ngờ, và sự yếu kém trong học thuyết phòng không của Kido Butai được bộc lộ rõ ràng. Không một tàu Nhật nào được trang bị radar, và các phi công Zero đang tuần tra cũng không phát hiện được máy bay Anh. Trong trận không kích này, các máy bay Blenheim thực hiện ném bom từ độ cao khoảng 10.000 feet, thả tổng cộng 27 quả bom 500lb và 250lb loại xuyên giáp. Tuy nhiên, các phi công của Phi đoàn 11 không có kinh nghiệm hoặc huấn luyện tấn công mục tiêu trên biển, nên gần như không có cơ hội trúng đích, dù mục tiêu bị bất ngờ và tấn công từ độ cao này. Ba quả bom rơi gần mũi tàu sân bay Akagi (ở dưới bên trái bức tranh), trong khi các quả còn lại nhắm vào tàu sân bay và tàu tuần dương hộ tống Tone đều chệch xa mục tiêu. Người Nhật bị bất ngờ hoàn toàn, đến mức không khai hỏa nổi pháo phòng không. Sau khi thả bom, các máy bay Blenheim đã tập hợp đội hình chặt chẽ để rút lui. 20 chiếc Zero đang làm nhiệm vụ CAP lập tức phản ứng và bắn hạ bốn máy bay ném bom khi chúng đang rút lui. Không một ai sống sót trên bất kỳ chiếc máy bay nào bị bắn rơi. Trong trận không chiến này, một phi công Zero giàu kinh nghiệm nhất của tàu Hiryū cũng thiệt mạng. Khi đội hình Anh bị tan vỡ và rút lui, các phi công Zero ngừng truy đuổi, đề phòng khả năng những máy bay Anh khác có thể tiếp tục tấn công các tàu sân bay. Lần tới khi Kido Butai bị tấn công từ trên không — trong trận Midway — họ sẽ không còn gặp may mắn như vậy nữa. (Tranh của Jim Laurier)
Lần đầu tiên trong chiến tranh, Kido Butai đã bị tấn công vào ngày 9 tháng 4. Cuộc không kích được thực hiện bởi Phi đoàn số 11 của Không quân Hoàng gia Anh (RAF) với 11 máy bay ném bom hạng nhẹ Blenheim IV xuất phát từ Colombo. Hai chiếc phải quay về giữa chừng, để lại 9 máy bay tiếp tục tiến công. Kido Butai không có radar và trong lần này, các lính quan sát hoàn toàn thất bại trong việc phát hiện ra máy bay Anh. Dấu hiệu đầu tiên báo cáo nguy hiểm là khi bom phát nổ xung quanh tàu sân bay Akagi và tàu tuần dương Tone. Không quả nào trúng mục tiêu, nhưng người Anh đã đạt được yếu tố bất ngờ hoàn toàn — Akagi thậm chí không bắn phát đạn phòng vệ nào. Các máy bay Zero cuối cùng mới phản ứng và bắn rơi 5 máy bay ném bom, đổi lại bị mất 2 hai chiếc. Nếu các phi công Anh có kỹ năng tấn công hải quân tốt hơn, hạm đội Nhật có thể đã hứng chịu một đòn chí mạng đầy bẽ bàng.

CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA TÀU SÂN BAY MỸ SAU TRẬN TRÂN CHÂU CẢNG

Nỗ lực chiếm đảo Wake của Nhật thất bại vào ngày 11 tháng 12 đã tạo cơ hội cho Phó Đô đốc William S. Pye hiện là Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, tổ chức một chiến dịch giải cứu. Sau nhiều lần trì hoãn, một lực lượng cứu viện gồm tàu sân bay Saratoga, 3 tàu tuần dương hạng nặng, 9 tàu khu trục, một tàu tiếp tế thủy phi cơ và một tàu chở dầu được thành lập dưới quyền Chuẩn Đô đốc Fletcher. LexingtonEnterprise cũng được triển khai, nhưng vẫn nằm ngoài tầm hỗ trợ của lực lượng giải cứu. Ngày 21 tháng 12, chiến dịch cứu viện trở nên khẩn cấp khi có tin đảo bị máy bay của tàu sân bay Nhật tấn công. Nếu Pye tập trung cả 3 tàu sân bay, ông sẽ có cơ hội lý tưởng để đánh bại một phần lực lượng của Kido Butai. Khi việc đổ bộ của người Nhật vào đảo trở nên rõ ràng, Pye huỷ bỏ chiến dịch vào tối ngày 22 tháng 12. Đây là một quyết định sáng suốt; vì nếu Saratoga tiến đánh HiryuSoryu, có thể kết cục sẽ là thảm họa.
Sau thất bại của cuộc đổ bộ Nhật vào đảo Wake ngày 11 tháng 12, Phó Đô đốc William S. Pye – Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương – tổ chức một chiến dịch giải cứu đảo Wake là Lực lượng đặc nhiệm 14 (TF 14) do Chuẩn Đô đốc Fletcher chỉ huy, với tàu sân bay Saratoga cùng lực lượng hộ tống. Tuy nhiên, trước thông tin đảo bị tấn công bởi máy bay từ tàu sân bay Nhật và cuộc đổ bộ sắp diễn ra, Pye quyết định hủy chiến dịch vào tối ngày 22 tháng 12 và TF 14 buộc phải rút quân. Ở phía bên kia, hai tàu sân bay là Soryu và Hiryu được tách ra từ Kido Butai sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng đã đến đảo Wake vào ngày 21 tháng 12 để hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản đổ bộ vào hòn đảo. Sau đó, hai tàu sân bay quay về Nhật Bản vào lúc 18 giờ 50 phút ngày 23 tháng 12. Đây là lần suýt chút nữa đã trở cuộc chạm trán đầu tiên giữa tàu sân bay Mỹ và Nhật ở Thái Bình Dương.
Sau thất bại của cuộc đổ bộ Nhật vào đảo Wake ngày 11 tháng 12, Phó Đô đốc William S. Pye – Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương – tổ chức một chiến dịch giải cứu đảo Wake là Lực lượng đặc nhiệm 14 (TF 14) do Chuẩn Đô đốc Fletcher chỉ huy, với tàu sân bay Saratoga cùng lực lượng hộ tống. Tuy nhiên, trước thông tin đảo bị tấn công bởi máy bay từ tàu sân bay Nhật và cuộc đổ bộ sắp diễn ra, Pye quyết định hủy chiến dịch vào tối ngày 22 tháng 12 và TF 14 buộc phải rút quân. Ở phía bên kia, hai tàu sân bay là Soryu và Hiryu được tách ra từ Kido Butai sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng đã đến đảo Wake vào ngày 21 tháng 12 để hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản đổ bộ vào hòn đảo. Sau đó, hai tàu sân bay quay về Nhật Bản vào lúc 18 giờ 50 phút ngày 23 tháng 12. Đây là lần suýt chút nữa đã trở cuộc chạm trán đầu tiên giữa tàu sân bay Mỹ và Nhật ở Thái Bình Dương.
Khi Nimitz tiếp quản Hạm đội Thái Bình Dương vào ngày 31 tháng 12, Đô đốc King chỉ đạo ông cân nhắc các cuộc đột kích bằng tàu sân bay vào quần đảo Gilbert và Marshall do Nhật chiếm giữ. Nimitz không cần phải thúc giục thêm để hành động táo bạo, và đến ngày 2 tháng 1 thì đã có lệnh triển khai các cuộc đột kích đầu tiên của tàu sân bay Mỹ trong chiến tranh. Hạm đội Thái Bình Dương nhận được sự tăng cường quan trọng khi King điều tàu Yorktown sang Thái Bình Dương. Con tàu này đến San Diego ngày 30 tháng 12, đưa tổng số tàu sân bay của hạm đội lên bốn chiếc. Tuy nhiên, con số này không kéo dài được lâu. Ngày 11 tháng 1, Saratoga trúng ngư lôi của tàu ngầm Nhật I-6 cách Trân Châu Cảng khoảng 400 dặm về phía tây nam. Việc sửa chữa được ước tính mất vài tháng; thực tế, con tàu sẽ không quay lại hoạt động cho đến tháng 6.
Cuộc đột kích tàu sân bay Mỹ đầu tiên trong chiến tranh lẽ ra do Lexington thực hiện nhằm vào đảo Wake. Tuy nhiên, khi tàu chở dầu hộ tống bị tàu ngầm Nhật đánh chìm, chiến dịch đã bị hủy bỏ. Các cuộc đột kích khác được lên kế hoạch bao gồm Enterprise tấn công mục tiêu ở Marshalls - Gilberts cùng lúc Yorktown tấn công mục tiêu ở Gilberts. Nhiều sĩ quan trong bộ tham mưu của Nimitz cho rằng các chiến dịch này quá rủi ro vì khó đạt được yếu tố bất ngờ. Với sự ủng hộ của Halsey, Nimitz đã gạt bỏ sự thận trọng và tiếp tục kế hoạch.
Cuộc đột kích vào quần đảo Marshall vào Gilbert vào ngày 1 tháng 2 năm 1942 của TF 8 (tàu sân bay Enterprise) và TF 17 (tàu sân bay Yorktown).
Cuộc đột kích vào quần đảo Marshall vào Gilbert vào ngày 1 tháng 2 năm 1942 của TF 8 (tàu sân bay Enterprise) và TF 17 (tàu sân bay Yorktown).
Cuộc tập kích tàu sân bay đầu tiên của Mỹ trong giai đoạn đầu chiến tranh được thực hiện bởi Enterprise nhằm vào quần đảo Marshall vào ngày 1 tháng 2 năm 1942. Tàu sân bay này đã phải hứng chịu hai đợt tấn công đường không; trong cảnh này, các súng máy 0.50 inch đang khai hỏa chống lại máy bay Nhật. Chú ý chiếc máy bay ném bom bổ nhào Dauntless ở phía sau. (NHHC)
Cuộc tập kích tàu sân bay đầu tiên của Mỹ trong giai đoạn đầu chiến tranh được thực hiện bởi Enterprise nhằm vào quần đảo Marshall vào ngày 1 tháng 2 năm 1942. Tàu sân bay này đã phải hứng chịu hai đợt tấn công đường không; trong cảnh này, các súng máy 0.50 inch đang khai hỏa chống lại máy bay Nhật. Chú ý chiếc máy bay ném bom bổ nhào Dauntless ở phía sau. (NHHC)
Cảnh trên sàn bay của Enterprise vào ngày 1 tháng 2 năm 1942, trong cuộc không kích vào quần đảo Marshall do Nhật Bản chiếm đóng. Chú ý các dây đạn cỡ 0.50 inch được phi hành đoàn mang theo ở phía trước. Các máy bay ở phía sau là một phần của phi đội Douglass SBD-3 Dauntlesses trên tàu sân bay. (NHHC)
Cảnh trên sàn bay của Enterprise vào ngày 1 tháng 2 năm 1942, trong cuộc không kích vào quần đảo Marshall do Nhật Bản chiếm đóng. Chú ý các dây đạn cỡ 0.50 inch được phi hành đoàn mang theo ở phía trước. Các máy bay ở phía sau là một phần của phi đội Douglass SBD-3 Dauntlesses trên tàu sân bay. (NHHC)
Ngày 1 tháng 2 năm 1942, 5 máy bay ném bom hai động cơ G3M của Nhật Bản đã lọt qua lớp CAP của tàu sân bay Enterprise, sau cuộc tập kích của hải quân Mỹ vào quần đảo Marshall do Nhật chiếm đóng. Tất cả các máy bay ném bom đều bắn trượt và quay đầu rút lui, ngoại trừ chiếc dẫn đầu bị hư hại nặng, do Trung úy Kazuo Nakai điều khiển, chiếc này quay lại trong nỗ lực lao thẳng vào Enterprise. Khi máy bay tiến gần đến con tàu và hỏa lực phòng không dường như không đạt hiệu quả, Hạ sĩ thợ máy hàng không hạng 3 (AMM3/C) Bruno Gaido đã nhảy ra khỏi lối đi bên hông, trèo vào ghế sau của một chiếc SBD Dauntless đỗ trên sàn bay (vị trí mà anh thường ngồi khi máy bay đang bay, với vai trò là xạ thủ vô tuyến), xoay khẩu súng máy hai nòng cỡ 0.30 inch phía sau và khai hỏa. Đứng thẳng, anh bắn chính xác vào buồng lái của chiếc ném bom đang bay thấp, khiến nó mất kiểm soát. Trong cảnh này, ta thấy chiếc ném bom Nhật chỉ sượt qua boong tàu, đầu cánh của nó chém đứt phần đuôi chiếc SBD Dauntless mà Gaido đang ở trong. Cú va chạm khiến chiếc máy bay đang đỗ quay tròn. Gaido tiếp tục bắn vào chiếc máy bay ném bom cho đến khi nó rơi xuống biển ở phía bên kia con tàu. (Tranh của Adam Tooby)
Ngày 1 tháng 2 năm 1942, 5 máy bay ném bom hai động cơ G3M của Nhật Bản đã lọt qua lớp CAP của tàu sân bay Enterprise, sau cuộc tập kích của hải quân Mỹ vào quần đảo Marshall do Nhật chiếm đóng. Tất cả các máy bay ném bom đều bắn trượt và quay đầu rút lui, ngoại trừ chiếc dẫn đầu bị hư hại nặng, do Trung úy Kazuo Nakai điều khiển, chiếc này quay lại trong nỗ lực lao thẳng vào Enterprise. Khi máy bay tiến gần đến con tàu và hỏa lực phòng không dường như không đạt hiệu quả, Hạ sĩ thợ máy hàng không hạng 3 (AMM3/C) Bruno Gaido đã nhảy ra khỏi lối đi bên hông, trèo vào ghế sau của một chiếc SBD Dauntless đỗ trên sàn bay (vị trí mà anh thường ngồi khi máy bay đang bay, với vai trò là xạ thủ vô tuyến), xoay khẩu súng máy hai nòng cỡ 0.30 inch phía sau và khai hỏa. Đứng thẳng, anh bắn chính xác vào buồng lái của chiếc ném bom đang bay thấp, khiến nó mất kiểm soát. Trong cảnh này, ta thấy chiếc ném bom Nhật chỉ sượt qua boong tàu, đầu cánh của nó chém đứt phần đuôi chiếc SBD Dauntless mà Gaido đang ở trong. Cú va chạm khiến chiếc máy bay đang đỗ quay tròn. Gaido tiếp tục bắn vào chiếc máy bay ném bom cho đến khi nó rơi xuống biển ở phía bên kia con tàu. (Tranh của Adam Tooby)
Cuộc đột kích đầu tiên của nhóm tàu EnterpriseYorktown được lên kế hoạch cho ngày 1 tháng 2. Máy bay từ Enterprise sẽ đánh vào các đảo Wotje, Taroa, Roi và Kwajalein ở phía bắc quần đảo Marshalls. Các tàu mặt nước sẽ bắn phá Wotje, Maloelap và Taroa. Yorktown, dưới quyền của Fletcher, được lệnh tấn công Makin ở Gilberts và Jaluit cùng Milli ở phía nam Marshalls. Đối phương ở tại đây được dự đoán là không mạnh. Thực tế, không có đơn vị lớn nào của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản hiện diện ở tại đó, và Không đoàn số 24 của Nhật chỉ có 33 máy bay tiêm kích, 9 máy bay ném bom hai động cơ Type 96, và 9 thuyền bay.
Cả hai lực lượng Mỹ đều tiếp cận mục tiêu mà không bị phát hiện. Các đợt không kích sau đó chỉ gặp phải kháng cự yếu. Thể hiện tinh thần tấn công của Halsey, có thời điểm Enterprise đã tung toàn bộ máy bay lên không trung, chỉ còn vài tàu khu trục hộ tống. Enterprise tung ra 18 chiếc máy bay Devastator mang bom và 46 chiếc máy bay Dauntless. Phi công Mỹ báo cáo gây thiệt hại nặng cho tàu và các cơ sở trên bờ. Trên thực tế, người Nhật chỉ bị thiệt hại nhẹ, chỉ có một tàu tuần dương hạng nhẹ, một tàu rải thủy lôi cũ và năm tàu phụ trợ hoặc vận tải bị hư hại. Và thêm một pháo hạm nhỏ bị đánh chìm. Bốn máy bay Nhật bị bắn rơi và khoảng 10 chiếc bị phá huỷ trên mặt đất. Người Mỹ chỉ mất 6 máy bay. Tàu tuần dương hạng nặng Chester bị bom nhỏ đánh trúng và bị hư hại nhẹ. Thời điểm nguy hiểm nhất là khi 5 máy bay ném bom tầm trung Type 96 của Nhật tiếp cận Enterprise vào buổi chiều. Radar của con tàu phát hiện chúng, nhưng sĩ quan điều phối tiêm kích gặp khó khăn trong việc xác định địch và ta. Các máy bay sống sót qua đợt đánh chặn và mỗi chiếc thả ba quả bom. Nhờ cơ động khéo léo, còn tàu đã tránh được tất cả quả bom, nhưng một quả vẫn rơi cách mạn trái chỉ 30 feet. Một máy bay bị trúng đạn trước đó cố lao xuống Enterprise, trúng boong tàu rồi rơi xuống biển, chỉ gây thiệt hại nhỏ cho con tàu nhưng lại phá hủy một chiếc máy bay Dauntless. Vào cuối buổi chiều, hai chiếc máy bay Type 96 khác tiếp cận con tàu lần thứ hai. Lực lượng tuần tra không chiến (CAP) không phản ứng, nên pháo 5 inch của con tàu buộc phải khai hỏa để chống lại. Bom rơi cách tàu khoảng 125 yard, sau đó máy bay Wildcats bắn hạ một chiếc khi rút lui. Trong đợt tấn công vào Makin, Jaluit và Milli, Yorktown tung ra 37 máy bay nhưng chỉ gây thiệt hại nhẹ cho đối phương. Bốn chiếc máy bay Devastator và hai chiếc Dauntless đã không quay về.
Cuộc đột kích của TF 17 (tàu sân bay Lexington) vào Rabaul và trận chiến ngoài khơi Bougainville từ ngày 19 - 22 tháng 2 năm 1942.
Cuộc đột kích của TF 17 (tàu sân bay Lexington) vào Rabaul và trận chiến ngoài khơi Bougainville từ ngày 19 - 22 tháng 2 năm 1942.
Chiếc máy bay ném bom G4M Betty bị hư hại nặng của Thiếu tá Takuzo Ito đang cố gắng lao vào tàu sân bay Lexington vào ngày 20 tháng 2 năm 1942. Máy bay của Ito đã bị bắn rụng mất một động cơ; các quan sát viên Mỹ kinh ngạc khi thấy toàn bộ vỏ động cơ tách khỏi thân máy bay và rơi xuống biển. Nỗ lực lao vào Lexington của Ito đã trượt mục tiêu gần một dặm. (Public Domain)
Chiếc máy bay ném bom G4M Betty bị hư hại nặng của Thiếu tá Takuzo Ito đang cố gắng lao vào tàu sân bay Lexington vào ngày 20 tháng 2 năm 1942. Máy bay của Ito đã bị bắn rụng mất một động cơ; các quan sát viên Mỹ kinh ngạc khi thấy toàn bộ vỏ động cơ tách khỏi thân máy bay và rơi xuống biển. Nỗ lực lao vào Lexington của Ito đã trượt mục tiêu gần một dặm. (Public Domain)
Chiếc G4M Betty của Trung úy Masayoshi Nakagawa bị hỏa lực phòng không từ tàu Lexington bắn hạ ngay giữa lúc đang cố gắng thực hiện một cú đâm cảm tử. Chiếc Betty rơi xuống cách đuôi tàu Lexington chỉ khoảng 75 yard, và đó là tình huống nguy hiểm nhất mà Lexington gặp phải trong ngày hôm đó. (US Navy National Museum of Naval Aviation, 1996.488.161.009)
Chiếc G4M Betty của Trung úy Masayoshi Nakagawa bị hỏa lực phòng không từ tàu Lexington bắn hạ ngay giữa lúc đang cố gắng thực hiện một cú đâm cảm tử. Chiếc Betty rơi xuống cách đuôi tàu Lexington chỉ khoảng 75 yard, và đó là tình huống nguy hiểm nhất mà Lexington gặp phải trong ngày hôm đó. (US Navy National Museum of Naval Aviation, 1996.488.161.009)
Tiếp theo là căn cứ mới chiếm được của Nhật ở Rabaul. Phó Đô đốc Wilson Brown đang chỉ huy Lexington cùng 4 tàu tuần dương hạng nặng và 10 tàu khu trục lên kế hoạch tấn công vào ngày 21 tháng 2. Dự kiến sẽ không kích từ khoảng cách chỉ 125 hải lý, sau đó là bắn phá bằng pháo binh hải quân. Tin tình báo Đồng minh về lực lượng Nhật cho thấy lực lượng Nhật ở Rabaul là rất hạn chế, nhưng đối phương vẫn mạnh hơn nhiều so với lực lượng tại Marshalls–Gilberts. Phía Nhật đã dự đoán được một cuộc đột kích, và vào sáng ngày 20 tháng 2, những nghi ngờ đã được kiểm chứng khi một thuyền bay H6K4 Type 97 phát hiện lực lượng Mỹ cách Rabaul khoảng 460 hải lý. Mất đi yếu tố bất ngờ, Brown hủy bỏ cuộc tấn công. Nhật Bản tung ra 17 máy bay ném bom tầm trung G4M từ Rabaul để đánh chìm tàu sân bay đang rút lui. Mỗi máy bay mang hai quả bom 551lb do chúng không có ngư lôi. Radar phát hiện nhóm đầu gồm 9 máy bay ở khoảng cách 76 hải lý. Máy bay Wildcats đánh chặn, và chỉ 4 chiếc G4M sống sót để thả bom nhưng tất cả đều trượt. Một chiếc bị pháo phòng không bắn trúng và định lao vào Lexington nhưng lại rơi cách đuôi tàu 75 yard. Nhóm thứ hai gồm tám máy bay ném bom cũng bị đánh chặn, nhưng chỉ có hai chiếc Wildcats là có thể phản ứng tức thì. May mắn cho phía Mỹ, một trong hai phi công lái chiếc Wildcats là Trung úy Edward “Butch” O’Hare — một xạ thủ thiện xạ — khi ông đã bắn hạ 4 máy bay; bốn chiếc còn lại thả bom, quả bom gần nhất trượt cách tàu 100 feet. Tổng cộng, chỉ hai chiếc trong số 17 chiếc G4M là quay trở lại được tới căn cứ.
Cuộc đột kích của TF 16 (tàu sân bay Enterprise) vào Marcus và Wake từ ngày 14 tháng 2 - ngày 9 tháng 3 năm 1942.
Cuộc đột kích của TF 16 (tàu sân bay Enterprise) vào Marcus và Wake từ ngày 14 tháng 2 - ngày 9 tháng 3 năm 1942.
Một chiếc Douglas TBD-1 Devastator từ tàu Enterprise bay qua đảo Wake trong cuộc tập kích ngày 24 tháng 2 năm 1942. Thiệt hại gây ra cho phía Nhật trong dịp này – cũng như trong mọi cuộc tập kích đầu năm 1942 – đều rất nhỏ. (NHHC)
Một chiếc Douglas TBD-1 Devastator từ tàu Enterprise bay qua đảo Wake trong cuộc tập kích ngày 24 tháng 2 năm 1942. Thiệt hại gây ra cho phía Nhật trong dịp này – cũng như trong mọi cuộc tập kích đầu năm 1942 – đều rất nhỏ. (NHHC)
Hình ảnh cho thấy máy bay SBD-3 Dauntless của VB-6 đang chuẩn bị cất cánh trên tàu sân bay USS Enterprise. Chỉ huy nhóm không quân, Trung tá Howard Young đang ở trên máy bay sau, được ký hiệu bằng chữ "GC" (Chỉ huy Nhóm) ở mặt trước mui máy bay. Chú ý đến hệ thống súng máy Browning cỡ nòng 0.50 inch làm mát bằng nước. (NHHC)
Hình ảnh cho thấy máy bay SBD-3 Dauntless của VB-6 đang chuẩn bị cất cánh trên tàu sân bay USS Enterprise. Chỉ huy nhóm không quân, Trung tá Howard Young đang ở trên máy bay sau, được ký hiệu bằng chữ "GC" (Chỉ huy Nhóm) ở mặt trước mui máy bay. Chú ý đến hệ thống súng máy Browning cỡ nòng 0.50 inch làm mát bằng nước. (NHHC)
Ảnh chụp từ trên không, góc nhìn xiên thấp của Đảo Wake vào thời điểm cao trào của cuộc tấn công bằng máy bay từ tàu sân bay và pháo kích của tàu chiến Mỹ. Một đám cháy bùng lên gần sân bay, trong khi ở phía trước là xác một con tàu Nhật Bản bị mắc cạn sau khi bị Thủy quân Lục chiến bảo vệ căn cứ tiêu diệt vào tháng 12 năm 1941. (NHHC)
Ảnh chụp từ trên không, góc nhìn xiên thấp của Đảo Wake vào thời điểm cao trào của cuộc tấn công bằng máy bay từ tàu sân bay và pháo kích của tàu chiến Mỹ. Một đám cháy bùng lên gần sân bay, trong khi ở phía trước là xác một con tàu Nhật Bản bị mắc cạn sau khi bị Thủy quân Lục chiến bảo vệ căn cứ tiêu diệt vào tháng 12 năm 1941. (NHHC)
Để làm Nhật chao đảo và với hy vọng mong manh rằng các cuộc đột kích sẽ làm chậm đà tiến công của Nhật ở Đông Nam Á, Nimitz tiếp tục lên kế hoạch cho các chiến dịch tiếp theo. Halsey lại chỉ huy Enterprise cùng 2 tàu tuần dương hạng nặng và 6 tàu khu trục đánh đảo Wake. Cuộc đột kích diễn ra ngày 24 tháng 2 với 36 máy bay tấn công được sáu chiếc Wildcats hộ tống. Họ chỉ mất một máy bay khi phải đối mặt với sự kháng cự yếu ớt, nhưng thiệt hại gây ra cho Nhật vẫn rất ít ỏi. Sau đó, các tàu Mỹ bắn phá đảo trong khoảng thời gian ngắn. Ngày 4 tháng 3, Halsey đánh đảo Marcus với 37 máy bay, lại chỉ mất một chiếc và gây thiệt hại không đáng kể cho phía Nhật. Yorktown dự kiến sẽ yểm trợ các cuộc đột kích này bằng một đợt tấn công vào Eniwetok ở quần đảo Carolines nhưng lại bị triệu hồi để bảo vệ các đoàn tàu vận tải then chốt ở Nam Thái Bình Dương.
Cuộc đột kích vào Lae–Salamaua của nhóm tàu sân bay Lexington và Yorktown - lần đầu tiên mà hai tàu sân bay Mỹ đi cùng nhau trong một lực lượng tác chiến.
Cuộc đột kích vào Lae–Salamaua của nhóm tàu sân bay Lexington và Yorktown - lần đầu tiên mà hai tàu sân bay Mỹ đi cùng nhau trong một lực lượng tác chiến.
Máy bay ném bom bổ nhào Douglas SBD-3 của nhóm không quân Yorktown đang trên đường tới mục tiêu ở khu vực Lae-Salamaua, ở độ cao 14.000 feet. (NHHC)
Máy bay ném bom bổ nhào Douglas SBD-3 của nhóm không quân Yorktown đang trên đường tới mục tiêu ở khu vực Lae-Salamaua, ở độ cao 14.000 feet. (NHHC)
Cuộc tập kích có ảnh hưởng lớn nhất của Mỹ trong giai đoạn đầu chiến tranh là cuộc tấn công ngày 10 tháng 3 năm 1942 tại Lae–Salamaua. Trong cảnh này, được chụp từ một chiếc Devastator của tàu Yorktown, tàu tiếp tế thủy phi cơ Kiyokawa Maru đang bị tấn công. Con tàu bị hư hại và buộc phải rút khỏi Chiến dịch MO. Quan trọng hơn cả, cuộc tập kích này đã ngăn chặn sự bành trướng của Nhật ở Nam Thái Bình Dương cho đến khi họ có thể đảm bảo phòng thủ trước các cuộc tấn công tiếp theo của tàu sân bay Mỹ. (NHHC)
Cuộc tập kích có ảnh hưởng lớn nhất của Mỹ trong giai đoạn đầu chiến tranh là cuộc tấn công ngày 10 tháng 3 năm 1942 tại Lae–Salamaua. Trong cảnh này, được chụp từ một chiếc Devastator của tàu Yorktown, tàu tiếp tế thủy phi cơ Kiyokawa Maru đang bị tấn công. Con tàu bị hư hại và buộc phải rút khỏi Chiến dịch MO. Quan trọng hơn cả, cuộc tập kích này đã ngăn chặn sự bành trướng của Nhật ở Nam Thái Bình Dương cho đến khi họ có thể đảm bảo phòng thủ trước các cuộc tấn công tiếp theo của tàu sân bay Mỹ. (NHHC)
Cảnh chụp từ Phi đội trinh sát số 5 (VS-5) Dauntless từ Yorktown cho thấy tàu Kongo Maru, một tàu tuần dương buôn vũ trang của Nhật Bản, đang chìm ngoài khơi Lae. (NHHC)
Cảnh chụp từ Phi đội trinh sát số 5 (VS-5) Dauntless từ Yorktown cho thấy tàu Kongo Maru, một tàu tuần dương buôn vũ trang của Nhật Bản, đang chìm ngoài khơi Lae. (NHHC)
Tàu sân bay Yorktown hội quân với Lexington ở Nam Thái Bình Dương khi sức ép của Nhật tại khu vực này ngày càng gia tăng. Ngày 8 tháng 3, Nhật tiến hành đổ bộ lên New Guinea tại hai điểm. Fletcher chỉ huy lực lượng đặc nhiệm, và đây là lần đầu tiên trong chiến tranh có hai tàu sân bay phối hợp trong cùng một đội hình tác chiến. Ông đưa cả hai tàu tiến về phía bắc, tung đòn không kích gồm 104 máy bay vượt dãy Owen Stanley nhằm vào tàu Nhật ngoài khơi Lae và Salamaua vào ngày 10 tháng 3. Người Mỹ đạt được yếu tố bất ngờ hoàn toàn và tiến hành ném bom trong điều kiện gần như không bị chống trả. Dù phi công Mỹ tuyên bố đạt kết quả lớn, thiệt hại thực tế của Nhật gồm một tàu tuần dương phụ trợ, một tàu vận tải và một tàu rải thủy lôi cải hoán bị đánh chìm, cùng một số tàu khác bị hư hại. Tuy vậy, cuộc đột kích này có ý nghĩa chiến lược khi khiến người Nhật tin rằng nếu muốn tiến thêm ở Nam Thái Bình Dương thì Hạm đội Liên hợp bắt buộc phải cung cấp thêm sự yểm trợ bằng tàu sân bay.
Lộ trình của lực lượng hai tàu sân bay Hornet và Enterprise trong cuộc tập kích vào Tokyo từ ngày 13 - 21 tháng 4 năm 1942.
Lộ trình của lực lượng hai tàu sân bay Hornet và Enterprise trong cuộc tập kích vào Tokyo từ ngày 13 - 21 tháng 4 năm 1942.
Chiến dịch tàu sân bay ngoạn mục nhất của Mỹ trong giai đoạn đầu chiến tranh là cuộc tập kích tháng 4 năm 1942 vào quần đảo Nhật Bản, do các máy bay ném bom hạng trung B-25 (trong ảnh) thực hiện từ tàu Hornet. Cuộc tập kích này tuy đã nâng cao tinh thần của người Mỹ, nhưng cũng khiến Đô đốc Nimitz không thể đạt được ưu thế áp đảo trước cuộc xâm lược Port Moresby của Nhật Bản về sau. (NHHC)
Chiến dịch tàu sân bay ngoạn mục nhất của Mỹ trong giai đoạn đầu chiến tranh là cuộc tập kích tháng 4 năm 1942 vào quần đảo Nhật Bản, do các máy bay ném bom hạng trung B-25 (trong ảnh) thực hiện từ tàu Hornet. Cuộc tập kích này tuy đã nâng cao tinh thần của người Mỹ, nhưng cũng khiến Đô đốc Nimitz không thể đạt được ưu thế áp đảo trước cuộc xâm lược Port Moresby của Nhật Bản về sau. (NHHC)
Jimmy Doolittle và chiếc B-25 Mitchell của ông trước khi cất cánh từ tàu USS Hornet để thực hiện cuộc đột kích.
Jimmy Doolittle và chiếc B-25 Mitchell của ông trước khi cất cánh từ tàu USS Hornet để thực hiện cuộc đột kích.
USS Hornet (CV-8) phóng máy bay ném bom B-25 của Không lực Lục quân, vào đầu cuộc không kích đầu tiên của Hoa Kỳ vào các đảo chính quốc Nhật Bản, ngày 18 tháng 4 năm 1942. (NHHC)
USS Hornet (CV-8) phóng máy bay ném bom B-25 của Không lực Lục quân, vào đầu cuộc không kích đầu tiên của Hoa Kỳ vào các đảo chính quốc Nhật Bản, ngày 18 tháng 4 năm 1942. (NHHC)
Khói bốc lên từ các mục tiêu bị máy bay ném bom B-25 của Hoa Kỳ tấn công vào đất liền Nhật Bản trong cuộc không kích Doolittle, ngày 18 tháng 4 năm 1942.
Khói bốc lên từ các mục tiêu bị máy bay ném bom B-25 của Hoa Kỳ tấn công vào đất liền Nhật Bản trong cuộc không kích Doolittle, ngày 18 tháng 4 năm 1942.
Trong lúc YorktownLexington hoạt động tại Nam Thái Bình Dương, hai tàu sân bay còn lại của Hạm đội Thái Bình Dương chuẩn bị cho cuộc đột kích táo bạo nhất trong chiến tranh. Ngày 2 tháng 4, Hornet – tàu sân bay mới đến chiến trường – đã rời San Francisco với boong tàu chở 16 máy bay ném bom hạng trung B-25. Kế hoạch liều lĩnh là sử dụng số máy bay này để tấn công Tokyo cùng hai thành phố khác của Nhật. Hornet hội quân với Enterprise ngày 13 tháng 4 và tiến về phía tây dưới quyền Halsey. Rạng sáng ngày 18 tháng 4, lực lượng bị các tàu cảnh giới Nhật phát hiện khi còn cách Nhật khoảng 700 hải lý. Halsey ra lệnh cho các B-25 cất cánh ngay cả ở tầm xa như vậy. Nhật Bản không ngờ Mỹ sẽ dùng máy bay ném bom tầm trung cất cánh từ tàu sân bay, nên không lường trước cuộc tấn công. Các máy bay đến được mục tiêu ở Tokyo, Nagoya và Kobe, gây bất ngờ hoàn toàn cho họ. Tuy nhiên, phía Nhật chỉ bị thiệt hại nhẹ, dù một máy bay oanh tạc đánh trúng tàu sân bay hạng nhẹ Ryuho hiện đang được cải hoán tại Yokosuka. Lực lượng Mỹ rút lui nhanh chóng và đến Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 4.
Cuộc đột kích Tokyo đã trở thành huyền thoại. Nhưng thực chất đó chỉ là một “màn trình diễn” theo yêu cầu của Tổng thống Roosevelt nhằm nâng cao tinh thần nước Mỹ. Một huyền thoại phổ biến là cuộc đột kích khiến Nhật quyết định đánh Midway để nhử tàu sân bay Mỹ vào bẫy. Điều này là hoàn toàn sai – vì từ ngày 5 tháng 4, gần hai tuần trước khi B-25 xuất hiện trên bầu trời Tokyo, Nhật Bản đã quyết định tiến hành chiến dịch Midway. Ảnh hưởng chiến lược lớn nhất của cuộc đột kích là làm hai tàu sân bay phải ngưng hoạt động gần như suốt tháng 4. Trong thời gian này, Nimitz quyết định tập hợp toàn bộ tàu sân bay hiện có để đối phó với bước đi tiếp theo của Nhật tại Nam Thái Bình Dương – theo tình báo có thể xảy ra đầu tháng 5. Điều này dẫn đến trận hải chiến tàu sân bay đầu tiên trong chiến tranh – trận Biển San Hô. LexingtonYorktown đã ở vị trí để chặn bước tiến của Nhật, nhưng Nimitz muốn cả bốn tàu sân bay tập trung tại Biển San Hô nhằm tạo ưu thế số lượng trước hai tàu sân bay Nhật được cho là sẽ tham chiến. Việc phải điều EnterpriseHornet đi đánh Tokyo khiến hai tàu này đến Biển San Hô vài ngày sau khi trận đánh đã kết thúc. Nếu cả bốn tàu sân bay Mỹ đều có mặt ngay từ đầu, kết cục có thể đã còn thảm khốc hơn cho phía Nhật.

____________________________

Sáu tháng đầu chiến tranh diễn ra đầy bất ngờ với cả hai phía. Sau trận Trân Châu Cảng, tàu sân bay giờ đây đã trở thành đơn vị trung tâm của hạm đội. Phần lớn thiết giáp hạm Mỹ và Nhật đều trở nên vô dụng vì không thể theo kịp tốc độ tàu sân bay. Sức mạnh của Kido Butai trở nên rõ ràng – năng lực tập trung không quân hải quân của Nhật đã vượt trội tất cả. Nhưng ngay cả Kido Butai cũng không hoàn toàn bất khả chiến bại. Đến tháng 5 năm 1942, số tổn thất máy bay tích lũy đã đủ khiến không một tàu sân bay Nhật nào còn đầy đủ biên chế số lượng máy bay. Trong chiến dịch Ấn Độ Dương tháng 4 năm 1942, nhiều vấn đề đã bộc lộ – báo hiệu các rắc rối sẽ đến trong tương lai. Nhật Bản nhận ra sự cần thiết của việc cải thiện quy trình trinh sát đường không và huấn luyện nhận diện tàu chiến. Để tăng cường cho các máy bay trinh sát Type 97 chậm chạp và thủy phi cơ, hai chiếc thử nghiệm Yokosuka D4Y1 (máy bay ném bom hải quân trên tàu sân bay được cải hoán từ D4Y) với tốc độ tối đa 343 dặm/giờ đã được cải biến thành máy bay trinh sát và đưa lên Soryu. Nhật thực hiện các biện pháp cải thiện tốc độ và độ chính xác của báo cáo trinh sát, nhưng vấn đề thực sự nằm ở “tìm kiếm chiều sâu”. Học thuyết của Hải quân Đế quốc quy định tìm kiếm một giai đoạn – tức một máy bay sẽ bay theo một đường trinh sát duy nhất – thay vì hai giai đoạn như phía Mỹ (với một máy bay khác bay lại tuyến đó sau một khoảng thời gian). Trong thời đại chưa có radar và tầm nhìn kém, việc tìm kiếm hai giai đoạn đảm bảo độ bao phủ tốt hơn. Hệ thống phòng không được chứng minh là một điểm yếu tiềm tàng của phía Nhật, như sự xuất hiện bất ngờ của 9 máy bay Blenheim của RAF trên đầu của Kido Butai vào ngày 9 tháng 4 cho thấy. Việc không có radar và không có hệ thống điều phối tiêm kích là công thức dẫn tới thảm họa nếu đối đầu kẻ thù được huấn luyện tốt cho việc đánh tàu.
Một chuỗi các đợt đột kích tàu sân bay Mỹ đem lại kinh nghiệm tác chiến vô giá cho các tàu và phi đội, dù tác động lên năng lực hải quân Nhật là rất hạn chế. Chúng ta có thể đặt câu hỏi liệu các đột kích này có đáng để thực hiện với mức độ rủi ro không. Rủi ro đặc biệt lớn với Halsey trong đợt đột kích Marshall, khi ông hoạt động hàng giờ trong tầm đánh của ba sân bay Nhật. Nếu bất kỳ tàu sân bay Mỹ nào trúng đòn may rủi khiến giảm khả năng cơ động, nguy cơ bị mất tàu là rất cao. Các đợt đột kích đầu tiên cũng phơi bày sự non nớt trong công tác điều phối tiêm kích và phòng không hạm đội của Mỹ. Cuộc không kích Lae–Salamaua tháng 3 cho thấy hiệu quả của việc phối hợp hai tàu sân bay trong một lực lượng đặc nhiệm. Các đợt đột kích này khôi phục tinh thần cho Hạm đội Thái Bình Dương sau chuỗi thất bại. Các đô đốc Mỹ bước vào trận hải chiến đầu tiên trong bốn trận tàu sân bay năm 1942 với lòng tin vào năng lực chiến đấu của lực lượng tàu sân bay của họ.

PHỤ LỤC: Hành trình của các tàu sân bay trong Kido Butai giai đoạn từ trận Trân Châu Cảng đến trận Midway (tháng 12 năm 1941 - tháng 6 năm 1942)

Phần này sẽ mô tả ngắn gọn về hoạt động của sáu tàu sân bay hạm đội của Kido Butai. Nếu để ý thì ta sẽ biết rằng chiến dịch tấn công Trân Châu Cảng là lần duy nhất mà Kido Butai tập hợp đủ cả sáu tàu sân bay hạm đội và có đầy đủ sức mạnh nhất. Và sau chiến dịch thì các tàu sân bay trong lực lượng đã tách ra để tham gia hỗ trợ các lực lượng hải quân khác trong quá trình bành trướng trên Thái Bình Dương. Các chiến dịch lớn sau Trân Châu Cảng đều chỉ tập hợp từ 4 - 5 tàu sân bay do một số tàu được điều đi tham chiến ở nơi khác hoặc là bị hư hại, hao mòn trong chiến đấu. Điều này sẽ được nhắc tới ở trận Biển San Hô và Midway ở phần sau. (Ảnh từ Word War Two Channel trên Reddit; nguồn thông tin từ trang Naval encyclopedia.com)
1. Akagi: Là soái hạm của Kido Butai, Akagi dẫn đầu lực lượng tàu sân bay trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Con tàu trở về Nhật vào ngày 23 tháng 12. Từ tháng 1 năm 1942, Akagi đã hỗ trợ cuộc xâm lược Rabaul tại quần đảo Bismarck. Akagi đã điều 20 máy bay B5N và 9 máy bay Zero cho cuộc tấn công đầu tiên vào Rabaul vào ngày 20 tháng 1, và tiếp tục tấn công Kavieng vào ngày hôm sau, với 9 máy bay A6M Zero và 18 máy bay D3A "Val". Hai ngày sau, Akagi cũng đã quay trở lại Rabaul đã chiếm trước đó. Sau đó, Akagi lên đường đến Truk vào ngày 27 tháng 1. Vào ngày 1 tháng 2, Akagi, KagaZuikaku đã xuất kích để định vị và tấn công lực lượng Hoa Kỳ đang tập kích quần đảo Marshall, nhưng sau đó lại rút lui. Ngày 7 tháng 2, Akagi lên đường đến Biển Timor. Ngày 19 tháng 2, Akagi chỉ huy lực lượng tàu sân bay tham gia cuộc tấn công nổi tiếng vào Darwin ở Australia. Ngày hôm đó, Akagi đã cho xuất kích 18 máy bay B5N, 18 máy bay D3A và 9 máy bay Zero. Vào ngày 1 tháng 3, tàu chở dầu Pecos và sau đó là tàu khu trục USS Edsall của Mỹ đã bị phát hiện và đánh chìm bởi máy bay D3A từ Akagi (cùng với máy bay từ Sōryū). Vào ngày 5 tháng 3 năm 1942, Akagi đã hỗ trợ cuộc xâm lược Java, cung cấp 18 máy bay B5N và 9 máy bay Zero để không kích Tjilatjap. Họ đã đánh chìm 8 tàu trong cảng mà không bị tổn thất nào. Lực lượng Kido Butai sau đó khởi hành đến vịnh Staring, đảo Celebes để tiếp nhiên liệu và tiếp tế trong khi thủy thủ đoàn nghỉ ngơi. Akagi rời đảo Celebes để dẫn đầu Hải đội Tàu sân bay số 1 tấn công Colombo (Ceylon) vào ngày 26 tháng 3 năm 1942, cùng với phần còn lại của Kido Butai với mục đích là để làm suy yếu Hạm đội Viễn Đông của Anh. Vào ngày 5 tháng 4 năm 1942, 17 chiếc D3A cất cánh từ Akagi tham gia đánh chìm các tàu tuần dương hạng nặng HMS CornwallDorsetshire, trước đó đã bị máy bay quan sát phát hiện. Điều này phần lớn được bù đắp cho kết quả ít ỏi ở Colombo. Vào ngày 9 tháng 4, Akagi đã tung ra tất cả 17 chiếc D3A có sẵn của mình cùng với nhiều chiếc khác từ Kaga và các tàu sân bay khác để đánh chìm cả hai tàu HMS Hermes và HMS Vampire. Tuy nhiên, cùng ngày hôm đó, Không quân Hoàng gia Anh (RAF) đã cho phóng 11 máy bay ném bom Bristol Blenheim của Anh, cất cánh từ Ceylon, xuyên thủng lớp phòng thủ yếu ớt của Akagi và thả bom xuống tàu sân bay từ độ cao 3.400 m (11.000 feet). Vào ngày 19 tháng 4 năm 1942, Akagi được gửi đến Đài Loan trong quá trình chuyển đến Nhật Bản cùng với SōryūHiryū để truy đuổi USS HornetEnterprise sau cuộc không kích Doolittle. Nhưng sau đó, các tàu sân bay này đã quay trở lại Hawaii và Akagi từ bỏ cuộc truy đuổi để di chuyển đến Hashirajima vào ngày 22 tháng 4. Akagi neo đậu tại đây để tiến hành bảo dưỡng và sửa chữa để chuẩn bị cho chiến dịch cuối cùng tại Midway vào tháng 6 năm 1942.
2. Kaga: tham gia trận Trân Châu Cảng cùng Akagi và trở về Nhật vào ngày 23 tháng 12 năm 1941. Vào tháng 1 năm 1942, Kaga trở lại hoạt động cùng với Akagi và các tàu sân bay thuộc Hải đội Tàu sân bay số 5. Chúng được gửi đến Truk ở Micronesia để hỗ trợ cuộc xâm lược Rabaul (quần đảo Bismarck). Kaga đã phóng 27 chiếc B5N mang bom được hộ tống bởi 9 chiếc Zero trên bầu trời Rabaul vào ngày 20 tháng 1 năm 1942, với một chiếc B5N bị hỏa lực phòng không tiêu diệt. Các vị trí của quân Đồng minh bị tấn công vào ngày hôm sau bởi 16 chiếc D3A. Vào ngày hôm sau, hai máy bay ném bom bổ nhào đã phải hạ cánh khẩn cấp. Kaga trở lại Truk vào ngày 25 tháng 1. Rabaul và Kiaveng thất thủ ngay sau đó. Vào ngày 9 tháng 2 năm 1942, Kaga đã đâm phải một rạn san hô ở Palau khi đang trên đường đánh chặn lực lượng tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ tại quần đảo Marshall. Thiệt hại đã khiến tốc độ của con tàu bị giảm tốc độ xuống còn 18 hải lý/giờ nhưng nó đã được sửa chữa tạm thời và tiếp tục gia nhập Kido Butai ở Biển Timor vào ngày 19 tháng 2. Con tàu cũng tham gia cuộc tấn công vào Darwin với 27 chiếc B5N, 18 chiếc D3A và 9 chiếc Zero. Thiệt hại của Kaga là mất một chiếc B5N. Vào tháng 3 năm 1942, Kaga hiện đang đóng quân tại Staring-baai để hỗ trợ cho cuộc xâm lược Java. Vào ngày 5 tháng 3 năm 1942 trong cuộc tấn công vào Tjilatjap, con tàu đã gửi 27 chiếc B5N dưới sự hộ tống của máy bay tiêm kích tham gia đánh chìm tám tàu của Đồng Minh và phá hủy một nhà kho lớn mà không có tổn thất nào. Kaga không tham gia cuộc đột kích Ấn Độ Dương vào tháng 4 năm 1942. Do hư hại nên con tàu được gửi đến Sasebo vào ngày 15 tháng 3 để sửa chữa, bắt đầu trong ụ tàu vào ngày 27 tháng 3 và kết thúc vào ngày 4 tháng 5. Con tàu cũng tham gia vào chiến dịch cuối cùng tại Midway.
3. Soryu: Ngày 21 tháng 12 năm 1941, Soryu cùng với Hiryu được tách khỏi Kido Butai sau cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng để hỗ trợ cuộc xâm lược đảo Wake lần thứ hai. Soryu đã thực hiện cuộc không kích đầu tiên gồm 18 máy bay ném bom bổ nhào và 18 máy bay tiêm kích. Ngày 22 tháng 12 năm 1941, con tàu thực hiện cuộc không kích thứ hai vào Wake với 18 máy bay Kate và 18 máy bay tiêm kích Zero, với thiệt hại là mất hai chiếc "Kate". Vào ngày 23 tháng 12, Soryu khởi hành về nước, và đến Kure vào ngày 29 để đại tu và tiếp tế. Vào ngày 11 tháng 1 năm 1942, Soryu trở lại biển, tiến đến Hashirajima trước khi hướng đến Palau và vào ngày 23 - 24 tháng 1 năm 1942, Hải đội Tàu sân bay số 2 đã phát động hai cuộc tấn công vào Ambon, để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ Kendari trước khi tiến đến Davao, Mindanao. Sau đó, họ đã chuyển từ cuộc xâm lược quần đảo Palau và trận Ambon sang cuộc xâm lược Philippines, nhưng không tham gia vào cuộc tấn công này. Trong cuộc tấn công ban đầu của họ, Hải đội Tàu sân bay số 2 đã có thể đưa tổng cộng 52 máy bay lên không trung. Các tàu sân bay cũng đã tách ra 18 chiếc Zero và 9 chiếc D3A để hoạt động từ các căn cứ trên bộ, để hỗ trợ cho trận Borneo . Vào ngày 30 tháng 1, họ đã bắn hạ hai máy bay trên mặt đất và một thủy phi cơ Qantas Short Empire trên đường đến Surabaya. Ngày 28 tháng 1 năm 1942, Soryu có mặt tại Palau để tiếp tế và gặp Kaga, Akagi trước khi khởi hành vào ngày 15 tháng 2 năm 1942 đến Australia. Con tàu đã tham gia một cuộc không kích lớn vào cảng Darwin, nhưng thiệt hại ít ấn tượng hơn nhiều so với ở Trân Châu Cảng. Dù sao, Soryu đã đóng góp 18 chiếc B5N và 18 chiếc D3A, được hộ tống bởi 9 chiếc Zero, số còn lại ở lại trong nhóm CAP. Vào ngày 21 tháng 2, Soryu có mặt tại Vịnh Staring, Celebes, khởi hành để hỗ trợ cuộc xâm lược đảo Java, Trận Java . Vào ngày 5 tháng 3 năm 1942, Soryu và Hiryu đã mở cuộc tấn công vào Tjilatjap ở Java. Vào ngày 7 tháng 3 năm 1942, Hải đội Tàu sân bay số 2 đã mở cuộc tấn công vào đảo Christmas và vào ngày 11 tháng 3 năm 1942 đã quay trở lại Vịnh Staring để tiếp tế, sau đó khởi hành vào ngày 26 tháng 3 năm 1942 để gia nhập phần còn lại của hạm đội và tham gia vào chiến dịch lớn tiếp theo ở Ấn Độ Dương. Chiến dịch lớn này nhằm mục đích bảo vệ Miến Điện, Mã Lai và Đông Ấn Hà Lan mới được chinh phục, khiến bất kỳ cuộc phản công nào của Đồng minh từ đó là không thể xảy ra trong ít nhất vài tháng. Khởi hành vào ngày 26 tháng 3 năm 1942, năm tàu sân bay đã bị một chiếc Catalina phát hiện trên đường đi, cách Ceylon khoảng 350 hải lý (650 km) về phía đông nam. Vào ngày 5 tháng 4 năm 1942, Soryu đã phát động một cuộc tấn công từ 120 hải lý (220 km) vào Colombo (Ceylon). Các phi công của nó tuyên bố đã bắn hạ một chiếc Fairey Fulmar thuộc Phi đoàn Không lực Hải quân 806 và 7 máy bay tiêm kích khác. Cuối cùng, các máy bay D3A và B5N gây ra ít thiệt hại cho các cơ sở cảng vì sau khi cảnh báo được đưa ra, tất cả tàu thuyền trong cảng đều ở trên biển. Sau đó, máy bay trinh sát phát hiện ra HMS CornwallDorsetshire, một lực lượng tấn công từ Sōryū gồm 18 chiếc D3A cất cánh, do Thiếu tá Egusa chỉ huy. Họ phát hiện ra hai tàu tuần dương và là những người đầu tiên giao chiến với chúng, tuyên bố đã thả bom trúng 14 phát vào cả hai tàu tuần dương hạng nặng. Chúng về sau bị các đợt không kích từ các tàu sân bay khác kết liễu. Vào ngày 9 tháng 4 năm 1942, Soryu phát động cuộc tấn công thứ hai được lên kế hoạch để tấn công Trincomalee. Máy bay B5N của Soryu là những chiếc đầu tiên bay qua cảng trong khi các máy bay chiến đấu không gặp phải sự kháng cự nào và thay vào đó bắt đầu bắn phá các cơ sở. Trong khi đó, một thủy phi cơ từ thiết giáp hạm Haruna phát hiện ra HMS Hermes, được hộ tống bởi tàu khu trục HMAS Vampire của Úc. Ngay khi chúng sẵn sàng, mọi chiếc D3A có sẵn đều được phóng lên và một lần nữa, phi đội của Sōryū bao gồm 18 máy bay ném bom bổ nhào nhưng chúng đến quá muộn vì con tàu đã bị các đợt không kích khác đuổi kịp và đánh chìm. Thay vào đó, phi đội này phát hiện ra ba tàu khác ở xa hơn về phía bắc, tàu chở dầu Anh Sergeant và tàu chở hàng Na Uy Norviken. Cả hai đều bị đánh chìm. Tuy nhiên, do gần bờ biển, họ đã được báo động và bị tám chiếc máy bay Fulmar từ Phi đoàn Không lực Hải quân 803 và 806 tấn công. Họ tuyên bố đã bắn hạ 2 chiếc Fulmar và chỉ để mất 3 chiếc D3A, trong khi thực tế phi đội của Sōryū mất 4 chiếc D3A, 5 chiếc bị hư hại. Trong cuộc đột kích của các máy bay ném bom Bristol Blenheim của Anh từ Ceylon, Sōryū đã đóng góp vào hoạt động CAP với sáu chiếc Zero trong số mười bốn chiếc tham gia bắn hạ năm chiếc máy bay Blenheim và chỉ để mất chiếc Zero từ Hiryū. Kido Butai sau đó quay đầu về hướng đông nam (eo biển Malacca) để thu hồi các nhóm không quân ở giữa, và trở về nhà vào ngày 22 tháng 4 năm 1942. Hải đội Tàu sân bay số 2 do Soryu chỉ huy đã đi qua eo biển Bashi giữa Đài Loan và Luzon vào ngày 19 tháng 4 khi một lệnh phản công được gửi đi để truy đuổi các tàu sân bay Mỹ USS HornetEnterprise trên đường trở về sau cuộc đột kích Doolittle. Họ thả neo tại Hashirajima vào ngày 22 tháng 4 và cần đại tu và nghỉ ngơi sau hơn 4 tháng hoạt động liên tục. Tuy nhiên, Sōryū vẫn cần thiết ở nơi khác và được vội vã tái trang bị và tiếp tế, để chuẩn bị cho chiến dịch lớn tiếp theo nhắm vào Midway. Nhóm không quân của Sōryū đã đóng quân trên bờ tại Kasanohara để huấn luyện chuyên sâu với các không đoàn khác của Hạm đội Không quân số 1. Ngày 27 tháng 5 năm 1942, Sōryū rời Hashirajima cùng với phần còn lại của đơn vị, cùng Hải đội Tàu sân bay số 1 và chiếc Hiryu gần chị em của nó thuộc Hải đội Tàu sân bay số 2, để tham gia "Chiến dịch MI" nhằm tấn công Midway.
4. Hiryu: con tàu đã cùng Soryu thực hiện các đợt không kích vào Trân Châu Cảng. Trên đường trở về Nhật Bản, Nagumo ra lệnh cho Hiryū cùng Soryu tách ra khỏi Kido Butai vào ngày 16 tháng 12 để tấn công đảo Wake. Họ đến vào ngày 21 tháng 12, phóng 29 chiếc D3A và 2 chiếc B5N được hộ tống bởi 18 chiếc Zero kết hợp thành một đợt đầu tiên. Không có sự kháng cự trên đáng kể nào, họ đã phóng một đợt thứ hai gồm 35 chiếc B5N và 6 chiếc A6M Zero vào ngày hôm sau, nhưng lại bị chặn lại bởi hai chiếc F4F Wildcats còn sống sót từ VMF-211 và 2 chiếc B5N bị chúng bắn hạ. Quân đồn trú trên đảo Wake đã đầu hàng sau đó khi cuộc đổ bộ được thực hiện. Cả hai tàu sân bay đã trở lại Kure vào ngày 29 tháng 12, được phân công cho Lực lượng phía Nam (ngày 8 tháng 1 năm 1942), sau đó khởi hành đến Đông Ấn thuộc Hà Lan. Họ đã yểm trợ cho cuộc xâm lược quần đảo Palau và trận Ambon, tham gia oanh tạc và ném bom các vị trí của quân Đồng minh vào ngày 24 tháng 1 năm 1942, với 54 máy bay thực hiện các phi vụ suốt ngày đêm. Bốn ngày sau, họ tách ra từ 18 chiếc Zero và 9 chiếc D3A hạ cánh để hoạt động từ các căn cứ trên bộ cho chiến dịch tiếp theo - trận Borneo . Hiryū đã trở lại Palaus vào ngày 28 tháng 1, chờ đợi Hải đội Tàu sân bay số 1. Cả bốn tàu sân bay của Hải đội 1 và 2 đều khởi hành vào ngày 15 tháng 2 đến một vị trí lý tưởng để phát động cuộc đột kích nổi tiếng vào Darwin. Về phần mình, Hiryū đã phóng 18 chiếc B5N, 18 chiếc D3A, được hộ tống bởi 9 chiếc Zero. Các máy bay tiêm kích của con tàu đã tuyên bố bắn hạ một chiếc P-40E duy nhất khi nó đang cất cánh và hai chiếc Consolidated PBY Catalina trên mặt nước, nhưng con tàu cũng mất một chiếc Zero do một chiếc P-40E thuộc Phi đoàn Truy kích 33 của Không quân Hoa Kỳ bắn hạ. Tiếp theo, Hiryū đến Vịnh Staring thuộc đảo Celebes, vào ngày 21 tháng 2 để tiếp tế. Họ khởi hành bốn ngày sau đó để hỗ trợ cuộc xâm lược Java . Vào ngày 1 tháng 3 năm 1942, các máy bay D3A của Hiryu đã gây hư hại cho tàu khu trục USS Edsall, sau đó bị các tàu tuần dương Nhật Bản kết liễu. Các máy bay ném bom bổ nhào của con tàu đã đánh chìm tàu chở dầu USS Pecos và gia nhập vào lực lượng 180 máy bay để không kích Tjilatjap vào ngày 5 tháng 3. Vào ngày 7 tháng 3, con tàu tham gia tấn công Đảo Christmas. Máy bay của Hiryū đã đánh chìm tàu chở hàng Hà Lan Poelau Bras. Sau đó, họ tiếp tế tại vịnh Staring vào ngày 11 tháng 3 để chuẩn bị cho chiến dịch lớn tiếp theo - cuộc không kích Ấn Độ Dương. Vào ngày 26 tháng 3, Kido Butai khởi hành từ vịnh Staring, và họ bị một chiếc Catalina của Anh phát hiện, ở vị trí cách Ceylon 350 hải lý về phía đông nam lúc sáng sớm ngày 4 tháng 4. Đối với cuộc tấn công vào Colombo, Hiryū đã cho cất cánh 18 chiếc B5N được hộ tống bởi 9 chiếc Zero, gặp nhau tại mục tiêu của họ là 6 máy bay ném bom ngư lôi Fairey Swordfish (788 NAS) đang trên đường tấn công hạm đội. Tất cả chúng đều bị bắn hạ. Sau đó, lực lượng này đã bắt gặp các máy bay Hawker Hurricanes trên sân bay Ratmalana. Các máy bay Zero của Hiryū đã tiêu diệt không dưới 11 chiếc, chỉ có 3 chiếc Zero bị hư hại nhưng điều này trái ngược với tuyên bố của Anh. Tổng thiệt hại là 21 chiếc Hurricane bị bắn hạ, 2 chiếc khác bị rơi khi hạ cánh. Các máy bay D3A và B5N đã gây thiệt hại cho cảng nhưng không thể đánh chìm phần lớn tàu bè, vốn đã rời đi sau khi có báo động. Các máy bay Zero của lực lượng CAP của Hiryū đã tiêu diệt một chiếc Catalina khác của RAF, một chiếc Fairey Albacore và đẩy lùi một phi đội từ HMS Indomitable. CornwallDorsetshire sau đó đã bị phát hiện và 18 chiếc D3A của Hiryū kết hợp với những chiếc của ba tàu sân bay khác đã đánh chìm cả hai. Vào ngày 9 tháng 4, CAP của Hiryū đã tiêu diệt chiếc Catalina thứ ba của họ, bị bắt khi đang tìm kiếm Nagumo. Sau đó, một đợt 18 chiếc B5N được hộ tống bởi 6 chiếc Zero cất cánh từ sàn bay của tàu để tấn công Trincomalee. Trong khi đó, thủy phi cơ của Haruna đang tuần tra đã phát hiện ra HMS Hermes và tàu hộ tống HMAS Vampire của nó. Tất cả các máy bay D3A có sẵn đã cất cánh được hộ tống bởi 9 chiếc Zero, bao gồm 18 chiếc từ Hiryū. Họ đã đến quá muộn (lúc đó chúng đã bị đánh chìm) nhưng khi tìm thấy xa hơn về phía bắc thì phát hiện tàu chở hàng RFA Athelstone và tàu hộ tống HMS Hollyhock, cả hai đều bị đánh chìm. Trong khi đó thì hạm đội của Nagumo bị một phi đội gồm 9 chiếc Blenheim tấn công, Akagi trở thành mục tiêu và cố gắng né tránh bom. Những chiếc này đến từ Ceylon và thả bom từ độ cao 3.400 m (11.000 feet). Hiryū đã điều động thêm 12 chiếc Zero của CAP để đánh chặn chúng, bắn rơi năm chiếc, và chỉ có một chiếc Zero của Hiryū bị bắn hạ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Nagumo ra lệnh cho Hạm đội Không quân số 1 hướng về phía đông nam, đến eo biển Malacca, để trở về nhà. Vào ngày 19 tháng 4, khi qua eo biển Bashi (Đài Loan-Luzon), Hiryū, SōryūAkagi bất ngờ được điều động để truy đuổi USS Hornet và USS Enterprise sau cuộc Không kích Doolittle, nhưng đã bỏ lỡ chúng. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1942, Hiryu đã khởi hành tham gia "Chiến dịch MI" tấn công vào Midway với lực lượng 18 chiếc Zero, 18 chiếc D3A và 18 chiếc B5N hoặc 21 chiếc B5N.
5. Shokaku: con tàu là thành phần của Hải đội Tàu sân bay số 5 trong lực lượng tham gia tấn công Trân Châu Cảng. Shokaku về đến và ở lại Hashirajima vào ngày 23 tháng 12 năm 1941. Sau đó, con tàu đi đến Kure, rồi dừng chân tại Saeki. Nó được đưa vào ụ tàu khô và trải qua năm mới tại đây, rời ụ tàu vào ngày 3 tháng 1 năm 1942, trước khi hướng đến Vịnh Hiroshima cùng với Zuikaku. Ngày 7 tháng 1 năm 1942, cả hai tàu khởi hành đến Truk cùng Kido Butai của Nagumo và khởi hành lại vào ngày 16 tháng 1 năm 1942 để tham gia Chiến dịch "R" (ngày 14 - 24 tháng 1). Ngày 20 tháng 1 năm 1942, một cuộc tấn công quy mô lớn đầu tiên với sự tham gia của 90 máy bay đã được phát động chống lại Rabaul, Shokaku đã đóng góp 19 máy bay ném bom bổ nhào "Val" và rút lui mà không bị tổn thất. Ngày 21 tháng 1 năm 1942, Hải đội Tàu sân bay số 5 được tách ra để tiến hành các cuộc không kích riêng biệt vào các sân bay ở các địa điểm là Lae, Salamaua, Bulolo và Madang. Ngày 25 tháng 1, cách Truk khoảng 160 km về phía nam, Shokaku đã đưa 16 máy bay tiêm kích Mitsubishi A5M "Claude" từ Chitose lên tàu để lấp đầy một sân bay địa phương được tái chiếm tại Rabaul trước khi tiếp tục đến Truk cho đến tận ngày 29. Đến ngày 30, Shokaku khởi hành đi đến Yokosuka. Tại đây, nó nhận máy bay từ quê nhà. Vào ngày 3 tháng 2, nó ở Yokosuka, được huấn luyện tại vùng biển địa phương và luân phiên đến vịnh Tateyama, vịnh Shirako, vịnh Mikawa cho đến ngày 24 tháng 2, rồi quay trở lại Yokosuka để vào ụ tàu khô cho đến ngày 5 tháng 3 năm 1942. Hai ngày sau, nó khởi hành để đánh chặn Lực lượng Đặc nhiệm 16 của tàu sân bay Enterprise sau cuộc đột kích đảo Marcus, nhưng vô ích vì không tìm thấy tàu đối phương. Vào ngày 11 tháng 3, Shokaku cùng với Zuikaku cho một phi vụ đánh chặn một lực lượng Mỹ đang tiến về phía bờ biển Nhật Bản. Nhưng không có liên lạc nào được thực hiện và lực lượng này đã rút lui đến Yokosuka vào ngày 16 tháng 3 năm 1942, sau đó Shokaku đến Vịnh Staring để tham gia Chiến dịch "C", đến Ấn Độ Dương vào ngày 24 tháng 3. Ngày 3 tháng 4 năm 1942, Shokaku đã phát động cuộc tấn công gồm 18 máy bay Kate được hộ tống bởi 10 máy bay tiêm kích Zero vào Trincomalee ở Ceylon. Trong khi đó, 18 máy bay ném bom bổ nhào "Val" đã đánh chìm Hermes, và không đoàn của con tàu tuyên bố đã đánh bom trúng 13 trong số 40 phát được báo cáo. Shokaku sau đó đã khởi hành từ Truk để tham gia vào Chiến dịch MO và chạm trán với lực lượng tàu sân bay Mỹ tại Biển San Hô (sẽ mô tả kỹ ở phần 3). Con tàu cùng với Zuikaku đã góp phần đánh chìm USS Lexington nhưng bản thân con tàu cũng các máy bay Mỹ đánh hư hỏng nặng tới mức buộc con tàu phải trở về Kure vào ngày 17 tháng 5 năm 1942 để sửa chữa. Đó cũng là lý do con tàu đã không góp mặt cùng Kido Butai tấn công Midway vào tháng 6 năm 1942.
6. Zuikaku: Cùng với Shokaku, Zuikaku đã tấn công các căn cứ của Úc tại Rabaul (Chiến dịch "R") vào ngày 20 tháng 1 năm 1942, và Lae-Salamaua (New Guinea) vào ngày hôm sau. Sau đó, nó xuất phát từ Yokosuka vào ngày 16 tháng 2 năm 1942 để chiếm giữ vị trí phòng thủ tại khu vực vịnh Mikawa, sẵn sàng đánh chặn các tàu sân bay Mỹ nếu chúng tiếp cận, và giữ nguyên vị trí này cho đến ngày 28. Cùng ngày hôm đó, nó quay trở lại Suzuka ở Nhật Bản để bắt đầu huấn luyện không đoàn tại đây. Sau khi dừng chân tại Kure, nó đã thực hiện một cuộc càn quét tại Minami-Torishima (đảo Marcus) để tìm kiếm Lực lượng Đặc nhiệm 16, nhưng không có kết quả. Con tàu đã thực hiện một cuộc càn quét khác vào ngày 11 tháng 3 năm 1942 cùng với tàu chị em của mình để đánh chặn một lực lượng Mỹ được cho là đang tiến đến nhưng không phát hiện được gì. Vào tháng 4 năm 1942, con tàu cũng tham gia vào cuộc đột kích Ấn Độ Dương (Chiến dịch C) với các cuộc không kích Colombo và Trincomalee, Ceylon, tham gia đánh chìm HMS Cornwall, Dorsetshire và tàu sân bay HMS Hermes. Khi Kido Butai quay trở lại vào ngày 10 tháng 4 năm 1942 tại Thái Bình Dương, Yamamoto quyết định cho tách ra Hải đội Tàu sân bay 5 ra khỏi Kido Butai tham gia Chiến dịch MO nhằm xâm lược Port Moresby ở New Guinea, bắt đầu vào ngày 12 tháng 4. Về sau điều đó sẽ dẫn đến việc con tàu cùng với Shokaku tham gia vào trận chiến tàu sân bay đầu tiên tại Biển San Hô. Sau trận đánh, Zuikaku tuy không bị hư hại gì nhưng nhóm không quân của con tàu đã bị hao mòn nặng tới mức mà bắt buộc phải ở lại quê nhà để huấn luyện tái xây dựng lại sức mạnh của mình. Con tàu cùng Shokaku đều không tham gia chiến dịch Midway cũng vì lý do này.
PHẦN 1:
PHẦN 3: