Sống làm chi theo quân tả đạo: quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn
Sống làm chi ở lính mã tà: chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Google tôn vinh bánh mì Việt Nam trên trang chủ 9 nước khác nhau | Báo Dân  trí

Cuối thế kỷ thứ 19, khi cuộc đối kháng chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Kỳ đang diễn ra quyết liệt, thì đồng thời tự thân nó cũng hàm chứa luôn cả sự đối kháng về văn hóa. Không chỉ đối kháng về những giá trị văn hóa tinh thần (tập tục thờ cúng tổ tiên - vùa hương - bàn độc) mà còn đối kháng luôncả về văn hóa vật chất (rượu chát, bánh mì). Cho đến mãi về sau, ngay cả kiểu thức “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” cũng được đưa ra để chỉ trích. Rồi đến khi vũ khí và sức mạnh vật chất của thực dân Pháp đã đè bẹp lực lượng yêu nước và thiết lập nên chế độ thuộc địa cũng như tạo nên những chuyển biến kinh tế - xã hội, kéo theo những thay đổi về văn hóa ở vùng đất này thì sự đối kháng vẫn còn tiếp tục dưới dạng những xung đột giữa các giá trị và nề nếp được coi là phong hóa truyền thống với kiểu sống tân thời.
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ,
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu.
Anh về anh học chữ nhu (nho)
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Bấy giờ, tuyên ngôn “Thà đui mà giữ đạo nhà”, của Đồ Chiểu được biểu thị bằng nỗ lực giữ gìn những gì vốn đã có và tẩy chay những gì được coi là mới của Tây. Họ không chỉ đối kháng với bánh mì, rượu hát mà còn không dùng xà bông, thậm chí không đi những con lộ do Tây đắp và đặc biệt là bảo vệ chữ Hán (chữ Nho) chống lại chữ quốc ngữ La Tinh ngay cả khi Sài Gòn đã là đô thị đèn xanh, đỏ sáng rực và Mỹ Tho cũng đã thành thị tứ.
Nói chung, trong hơn một trăm năm qua (tính từ 1859 đến 1975...) tuy âm điệu phương Tây chiếm phần chủ đạo trong bản trường ca hiện đại hóa của vùng đất này, nhưng sự rung động của các thế hệ cưdân ở đây hoàn toàn không như nhau và đặc biệt là những dị ứng và phản ứng từ thực tiễn ấy đã nảy sinh ra những phong trào có quy mô, đích và đường khác nhau, nhưng tất thảy đều có xu hướng đối kháng dân tộc chủ nghĩa, ít nhiều mang màu sắc bài ngoại. Do vậy, cơ cấu văn hóa ở đây là một tập thành đa tạp, hỗn dung những thành tố thuộc truyền thống cũ và những thành tố ngoại nhập mà nay đã thành một tập hợp quan trọng - có thể gọi là “truyền thống mới”. Cái ổ bánh mì là một ví dụ.
Bánh mì là món ăn chính của phương Tây, thậm chí được đồng nhất với thánh thể của chúa Kitô: bánh mì là bí nhiệm nhỏ, rượu vang là bí nhiệm lớn. Có lẽ, bánh mì đã xuất hiện ở xứ ta trước cái mốc 1859, nhưng ắt hẳn được biết đến nhiều là sau khi đội quân viễn chinh chiếm thành Gia Định.
Ngoài người Pháp, cách làm bánh mì đầu tiên được người Hoa tiếp thu, sản xuất bán ra thị trường và trong số khách hàng mua bánh mì thời kỳ đó có cả người Việt. Đám bồi bàn, thông ngôn, thầy lý có lẽ là những người nếm bánh mì đầu tiên, kế đó là công chức tân trào, rồi đến tầng lớp Tây học, thị dân và dần dần tỏa rộng ra dân chúng, phổ biến cả thành thị lẫn nông thôn. Loại thức ăn này tồn tại trong cái nhìn của dân ta là bánh - hiểu là món ăn chơi, không phải là thực phẩm thường xuyên như cơm, thế nhưng dần dà đã trở thành “cơm tay cầm”, tức là “cơm” ăn bằng cách cầm tay chứ không ăn bằng chén đũa. Ngoài ra, việc ăn bánh mì thay cơm còn được định danh theo kiểu nói lóng là “thổi kèn” (vì trông na ná như đang thổi một chiếc harmonica), hàm nghĩa là bữa ăn tùy tiện qua bữa, không đầy đủ đàng hoàng như bữa cơm thường lệ. Thế mà đến nay, bánh mì đã phát triển thành đủ mặt: từ bánh mì ba ghết (baguette), bánh mì xăng uých (sandwich) đến bánh mì rế,bánh mì cóc... và việc ăn bánh mì cũng trở nên biến tấu đa dạng.
Bánh mì ăn theo kiểu Tây thì dùng với xúp, bíp tết (beefsteak), ốp la (oeuf sur plat), ốp lết (omelette:trứng rán)... Có thể kể thêm cách ăn bánh mì với patê (pâté) giăm bông (jambon), xúc xích (saucisse),bơ, mứt. Loại hamburger, hot dog mới phổ biến sau này. Nhưng còn bánh mì ăn theo kiểu Việt thì lại khác. Người Việt chúng ta ưa ăn bánh mì theo kiểu mổ đôi ổ bánh và dồn các thứ khác vào trong (thịt nguội, giò lụa, xá xíu, thịt nướng...). Kiểu bánh mì kẹp thịt tổng hợp là kiểu bánh mì đặc sắc của xứ ta: phết bơ hoặc may-don-ne (mayonnaise), pa tê, rồi nhét vào đó thịt heo xá xíu, chả lụa, giăm bông, dưa chuột, cà chua, hành, ngò, ớt, tương ớt, rưới xì dầu, rắc muối tiêu...
Người mua và người bán đều gọi loại này là bánh mì (kẹp) đủ thứ - hiểu theo nghĩa “thậpcẩm” của người Hoa.Trong khi đó, bánh mì xíu mại, bánh mì xá xíu, bánh mì phết tương đen, kẹp lạp xưởng... lại là cuộc hôn phối Tây - Tàu.
Không biết xứ ta có phải là nơi sinh đẻ của chúng không? Cũng còn có món bánh mì cà ri, là cuộc hôn nhân Tây - Ấn, đến nay, coi ra cũng đáng gọi là “bách niên giai lão”.
Về bánh mì chả lụa, là tổng hợp phẩm Tây - Ta, rất đáng được coi là thanh nhã vì chỉ cần gia vị chút muối tiêu và hành ngò... là thơm ngon chán.
Ngoài ra, còn có món bánh mì bò kho, coi ra có gốc Tây vì kiểu cách nấu hầm gần với ra gu, bò nấuxốt vang, nhưng bò kho lại có tương hột Tàu nên có hương vị riêng. Việc dùng bánh mì để ăn với các món nước coi ra cũng có phần tùy tiện rồi: bánh mì ăn thêm với tô hủ tiếu, tô bún bò Huế là chuyện ăn độn bánh mì cho no bụng theo phương châm ngon - bổ - rẻ, chủ yếu là rẻ.
Nói chung, giờ đây bánh mì đã là một thành tố quan trọng trong cái mà thế nhân đời nay gọi là “văn hóa ẩm thực”. Ấy thế mà, như trên đã nói, có lúc nó được coi là thứ không nên đụng đến, không thuộc hệ chuẩn giá trị truyền thống của “đạo nhà”.
Nhìn lại bối cảnh lịch sử văn hóa của việc hội nhập bánh mì vào xứ ta, chúng ta thấy rằng đó là một quá trình tiêu biểu cho cuộc đụng đầu lịch sử: tập trung những xung đột và giao lưu, những áp đặt và giải trừ, những áp bức và đấu tranh, những thất bại đau thương và những thắng lợi hào hùng, những thách thức của tình trạng thế giới hóa và những nỗ lực bảo tồn phong hóa.
Ở đấy, Sài Gòn tự nó đã là một thành phố ngã ba đường vì nó đã nối được những luồng thông thương chủ yếu cùng thế giới rộng lớn hơn bên ngoài với sự giao lưu không ngừng của những con người, những tư tưởng, những luồng tư bản, những hàng hóa... Chính vì vậy, nơi đây, thông qua những xung đột và mâu thuẫn đã trở thành phòng thí nghiệm của sự tiến bộ và chịu gánh lấy những thách thức của tình trạng thế giới hóa nên đã sản sinh các “cục bướu văn xã” mà thoạt nhìn có phần lai tạp, kỳ quái trong mọi lĩnh vực, trong nhiều dạng thức, loại hình văn hóa. Tuy nhiên, trong thực tế, các cục bướu này về sau lại được lồng ghép vào đời sống dân tộc và không ít trường hợp đã thành công (được minh địnhlẫn mặc định) bởi vì chúng đã đáp ứng được nhu cầu ích dụng của cuộc sống đời thường và xu thế phát triển.
Qua trường hợp điển hình này (ổ bánh mì) chúng ta thấy rằng con đường phát triển của văn hóa tuồngnhư luôn tuân thủ “quy luật của cuộc sống. Đã đành văn hóa không thoát ly được lịch sử của chínhbản thân tư tưởng về văn hóa (chủ trương về văn hóa), nhưng văn hóa không độc lập với các điều kiện khách quan của chính trị, kinh tế, xã hội...
Do đó, việc nhìn lại các quá trình văn hóa rất cần thiết là phải tính đến những biến số khác của thực tại khách quan. Nói cách khác, văn hóa phát triển đồng thời trên cả hai con đường tự giác và tự phát, trong từng thời đoạn cụ thể, mỗi con đường mạnh yếu khác nhau, nhưng chúng luôn tương tác để tạo nên sự cân bằng của chính thể văn hóa.

--
#Ntech_SaiGon
blog.ntechdevelopers.com