Bài dịch có nhiều từ khó dịch, nếu có sai sót cần sửa các bạn có thể góp ý trong phần bình luận. Chân thành cảm ơn.

Quan niệm của người tiêu dùng đới với thực phẩm hữu cơ

Vào ngày 23 tháng 01 năm 2011, các lãnh đạo liên bang đã ra tuyên bố thu hồi các sản phẩm là thịt bò hữu cơ và thịt bò làm nhân bánh mì kẹp. Các sản phẩm thu hồi này thuộc về tập đoàn First Class Foods Incroporated, một tập đoàn lớn có trụ sở ở Hawthorne, California. First Class Foods Incorporated e sợ rằng có khoảng 34,373 cân Anh (khoảng 15,519 kg) thịt bò hữu cơ đã bị nhiễm khuẩn E.Coli (Huffstrutter, 2011, pp.2). Khuẩn E.Coli là một chủng khuẩn chết người, có thể gây ra các bệnh về đường ruột và đôi lúc dẫn đến tử vong. Những sản phẩm thịt bò bị nhiễm khuẩn này được đóng gói và phân phối cho các nhà bán lẻ ở New York, California, Wisconsin, North Carolina, New Jersey, và Washington. May mắn thay cho những người đã mua thịt bò này về, không có báo cáo nào về bệnh tật hay trường hợp tử vong nào được ghi nhận. Tuy nhiên, việc thu hồi sản phẩm này đã tạo ra ấn tượng xấu của công chúng đối với sản phẩm hữu cơ nói chung.
Vào những năm 1960, các phong trào vì môi trường đã lan tràn mạnh mẽ, tạo ra một làn sóng lớn về việc nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Khi làn sóng càn quét qua nước Mỹ, nó không tạo ra nhiều cơ hội để giáo dục dân chúng mà chỉ dừng ở mức thu hút được sự chú ý của người dân trên truyền hình (Harper & Makatouni, 2002). Việc thiếu các chương trình giáo dục nhưng lại có nhiều các chương trình truyền thông về môi trường đã tạo ra nhiều sự hiểu nhầm (Harper & Makatouni, 2002). Chúng bao gồm cả sự hiểu nhầm về khái niệm thực phẩm hữu cơ.
Theo từ điển thì cụm từ "hữu cơ" khi được dùng để miêu tả thực phẩm mang ý nghĩa "trồng hoặc tạo ra không có sự can thiệp bởi các chất hóa học nhân tạo" (Merriam-Webster, 2012). Nhưng Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (USDA) thì có một định nghĩa rộng và chi tiết hơn cho khái niệm thực phẩm hữu cơ, và dẫn tới sự đa dạng trong các phương pháp canh tác, trồng trọt và chăn nuôi. Điều này đã tạo ra nhiều tác động khác nhau lên môi trường. Do người tiêu dùng không được giáo dục đầy đủ, họ đã không nhận thức hết được toàn bộ ý nghĩa khái niệm hữu cơ. Người tiêu dùng cần phải được giáo dục về các biện pháp trồng trọt hữu cơ, chăn nuôi hữu cơ và các tác động của thực phẩm hữu cơ lên hành tinh của chúng ta.

Đọc thêm:

Hữu cơ không có nghĩa là bền vững

Rất nhiều người tiêu dùng nghĩ rằng cụm từ hữu cơ thì đồng nghĩa với từ bền vững, tuy nhiên điều này không đúng. Các dữ liệu lịch sử cho thấy năng suất thu hoạch của những cánh đồng hữu cơ thì ít hơn so với các cánh đồng được trồng theo phương pháp phổ biến. Nghiên cứu của Lynas (2013) giải thích rằng những cánh đồng hữu cơ cho năng suất kém hơn những cánh đồng bình thường 40 - 50%. Đây là một sự khác biện rất lớn. Và bởi vì trồng trọt theo biện pháp hữu cơ cho năng suất thấp hơn nên tiêu tốn nhiều tài nguyên đất hơn, dẫn đến việc phá rừng diện rộng để canh tác. Những vùng đất rừng bị phá hủy không chỉ quý giá cho con người sinh sống mà còn cho các sinh vật khác. Việc phá hủy các hệ sinh thái sinh học này để phục vụ cho việc trồng trọt hữu cơ đã dẫn đến việc suy giảm đa dạng sinh học. (Lynas, 2013)
Đã có nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng trong ngành thực hiện các nghiên cứu, điều tra về những lợi ích cũng như tác hại của việc trồng trọt hữu cơ. Jesse Ausubel, một nhà khoa học môi trường nổi tiếng của Đại học Rockefeller, đã phát hiện ra rằng các biện pháp trồng trọt phổ biến hiện nay đang có mức độ bền vững rất cao. Ausubell đã nghiên cứu các nhà nông trồng trọt ở Ấn Độ, những người không áp dụng các biện pháp trồng trọt hữu cơ, mà dùng các biện pháp truyền thống để canh tác bền vững. Ausubel khám phá ra rằng nếu những nông dân này không dùng các biện pháp canh tác hiện đại mà phải dùng các biện pháp truyền thống theo xu hướng trồng trọt hữu cơ, họ sẽ phải cần thêm 65 triệu hectares đất để trồng trọt bền vững. Nghiên cứu của Lynas (2010) chỉ ra rằng lượng đất được tiết kiệm bởi người nông dân Ấn Độ nhờ các biện pháp trồng trọt hiện đại lớn khoảng gấp đôi diện tích toàn nước Pháp.
Mặc dù không bền vững, có một vài phương pháp canh nông tiến bộ đã được phát triển dựa trên các phương pháp trồng trọt hữu cơ. Lynas (2013) đồng ý rằng một số biện pháp trồng trọt hữu cơ như trồng xen vụ, phương pháp trồng bầu bạn là những biện pháp trồng trọt tốt, áp dụng được cho cả việc trồng trọt hữu cơ hay là trồng trọt hiện đại. Chúng tôi không đưa ra luận điểm rằng tất cả các trang trại hữu cơ cần phải được đóng cửa hay người tiêu dùng không nên mua thực phẩm rau củ hữu cơ. Chúng tôi đưa ra luận điểm rằng việc giáo dục cho người tiêu dùng hiểu thế nào là thực phẩm hữu cơ và các thông tin trên nhãn của chúng có ý nghĩa gì là quan trọng. 

Hữu cơ không có nghĩa là động vật được đối xử nhân đạo

Đúng, Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (2013) có cấm sử dụng hormone tăng trưởng và lạm dụng thuốc kháng sinh trong việc chăn nuôi. Bộ khuyến nghị động vật cần được tiếp xúc với đồng cỏ (access to pasture) và được cho ăn thực phẩm hữu cơ. Khái niệm quan trọng mọi người cần nắm rõ là: "Những động vật được chăn nuôi theo biện pháp hữu cơ thì không hề giống với động vật được chăn thả tự do, cho ăn cỏ ngoài đồng". 
Lệnh cấm sử dụng "hormone tăng trưởng và lạm dụng thuốc kháng sinh" của Bộ Nông Nghiệp (2013) được đặt ra quá chặt. Bệnh viêm vú là một dạng bệnh viêm nhiễm trùng ở tuyến tiết sữa của bò sữa và xuất hiện ở quanh các núm vú (Merriam-Webster, 2013). Đó là một hiện tượng gặp thường xuyên và có thể chữa được bằng các thuốc kháng sinh đơn giản. Nhưng hiện nay chưa có thuốc kháng sinh nào được chấp thuận chuẩn hữu cơ, và việc sử dụng thuốc chưa được cho phép là trái với hướng dẫn của Cục Thực Phẩm và thuốc (Ruegg, 2009, p.43). Những người chăn nuôi hữu cơ do đó rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu mà họ dùng thuốc kháng sinh chữa bệnh cho bò của họ thì lập tức nó sẽ không còn được coi là bò hữu cơ nữa và sẽ bị tách khỏi đàn bò hữu cơ. Nhưng nếu anh ta không làm vậy, con bò sẽ trải qua những đau đớn gây ra bởi sự nhiễm khuẩn và do đó khiến chất lượng cuộc sống của nó bị giảm xuống. 

Đọc thêm:

Việc kiểm soát thuốc kháng sinh cộng với yêu cầu phải cho động vật được tiếp xúc với đồng cỏ tự nhiên (access to pasture) đã gây ra một vấn đề khác, đặc biệt là với loài dê. Những động vật nhai lại như dê thường xuyên gặp phải vấn đề với kí sinh trùng do chúng hay ăn ở nơi chúng xả thải. Nếu như những động vật kí sinh này không phải là vấn đề lớn với những con vật được chăn nuôi trong nhà (under confinement), chúng lại gây ra vấn đề sức khỏe nghiêm trọng cho những người chăn dê. Các bộ tiêu chuẩn hữu cơ ở Châu Âu thừa nhận rằng kiểm soát hoàn toàn kí sinh trùng là một việc khó khăn, dẫn đến làm giảm chất lượng cuộc sống của dê. Do đó, các thuốc xổ giun dành cho động vật nhai lại như anthelmintics và coccidiostats thì được phép sử dụng. (Lu et al., 2010, p. 105)
Các tiêu chuẩn hữu cơ ở Châu Âu cũng yêu cầu động vật phải được cho ăn cỏ tự nhiên nhưng đồng thời cho phép sử dụng thuốc anthelmintics và coccidiostats để tẩy giun, nhưng điều này không được phép ở Hoa Kỳ. Như vậy rủi ro bị bệnh kí sinh trùng thì cao hơn ở các động vật được chăn thả ngoài đồng so với chăn nuôi trong nhà và những người nông dân không được phép dùng các thuốc đặc trị để giải quyết vấn đề đó.
Bên cạnh đó khái niệm "được tiếp xúc với đồng cỏ" (access to pasture) thì khác với "thả rông" (free-range). Không có bất cứ quy định quản lý nào từ Bộ Nông Nghiệp dành cho việc chăn nuôi gia cầm (USDA,2013). Những con gà có thể ăn, ngủ, sinh trưởng, đẻ trứng và chết ở trong một cái lồng sắt nhỏ (kích thước chỉ bằng một mảnh giấy trắng bình thường) mà cả đời không được chạm chân xuống đất. Chăn nuôi gia cầm hữu cơ không yêu cầu cỏ, ánh sáng tự nhiên hay là động vật có khả năng hành xử bình thường.
Tương tự như vậy, thức ăn chăn nuôi hữu cơ không hẳn là giống với những thứ mà động vật ăn ngoài tư nhiên. Ruegg (2009) chỉ ra rằng thức ăn chăn nuôi hữu cơ làm từ những nông sản trồng trọt không sử dụng thuốc trừ sâu hay phân bón nhân tạo (p.44). Nó khác với việc "cho ăn cỏ". Những con bò vẫn được cho ăn hàng đống thùng thóc lúa mặc dù hệ tiêu hóa của chúng tiến hóa chỉ để tiêu hóa cỏ. Hệ tiêu hóa của bò hoạt động hiệu quả hơn trong việc lấy năng lượng từ cỏ tươi hay là rơm khô nhưng làm thế chúng sẽ không thể sản xuất ra nhiều sữa như kì vọng, do đó cần phải ép chúng ăn thóc.
Ruegg (2009) tóm tắt rằng những quy định của USDA dành cho việc chứng nhận chăn nuôi hữu cơ không đặt ra tiêu chuẩn cao cho những biện pháp chăn nuôi có thể giúp giảm stress và nâng cao chất lượng cuộc sống của động vật (p. 44). Nó tập trung nhiều vào các biện pháp phòng bệnh hơn. Việc đạt được chuẩn gia súc chăn nuôi hữu cơ là một bước khởi đầu tốt nhưng nó không thể giải quyết hết các vấn đề liên quan đến chất lượng cuộc sống của động vật. "Được nuôi dưỡng tự nhiên", "thả rông" và "cho ăn cỏ" là ba khái niệm khác nhau trong việc chăn nuôi hữu cơ. Việc dán nhãn lên thực phẩm phải ghi rõ điều này để tránh người tiêu dùng hiểu nhầm. Khi bạn mua đồ ăn, hãy nghĩ đến nguồn gốc của chúng và đến ý nghĩa của hành động của bạn: bạn đang ủng hộ điều gì?

Đọc thêm:

Hữu cơ không có nghĩa là có lợi cho sức khỏe hơn

Người tiêu dùng mua thực phẩm hữu cơ vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong số đó là do sự quan tâm đến sức khỏe (Smith-Spangler et al, 2013). Người tiêu dùng thường có suy nghĩ rằng thực phẩm hữu cơ thì tốt hơn cho sức khỏe và an toàn hơn (Madnusson et. al. 2003) nhưng mà "các nghiên cứu được công bố cho thấy không có đủ bằng chứng vững chắc để khẳng định rằng thực phẩm hữu cơ thì giàu dinh dưỡng hơn thực phẩm thông thường" (Smith-Spangler et al, 2013, p348).
Hunter et al. (2011) đã nghiên cứu hàm lượng vi chất trong các sản phẩm hữu cơ và những thực phẩm sản xuất theo cách thông thường và không tìm thấy sự khác biệt lớn nào về hàm lượng dinh dưỡng, vitamin hay là chất khoáng, chỉ trừ một thứ. Hàm lượng phosphorous trong thực phẩm hữu cơ thì cao hơn 6.6% so với thực phẩm thông thường (Hunter et al., 2011, p573).
Có bằng chứng cho thấy thực phẩm hữu cơ có hàm lượng nhiễm thuốc trừ sâu thấp hơn (Crinnion, 2010). Smith-Spangler et al đã tìm thấy các dấu vết dư thừa thuốc bảo vệ thực vật trong 7% mẫu thử thực phẩm hữu cơ so với 35% đối với thực phẩm thông thường. 
Ít có nghiên cứu nào được thực hiện để cho thấy liệu ăn thực phẩm hữu cơ có tạo ra sự khác biệt trong cơ thể người. Một nghiên cứu thực hiện trên 815 trẻ hai tuổi ăn uống nhiều loại thực phẩm hữu cơ khác nhau và tìm mối tương quan giữa khẩu phần ăn đó với các bệnh dị ứng. Sau khi nghiên cứu thành phần ăn của từng đứa trẻ và sức khỏe của chúng, kết quả nghiên cứu cho thấy ở những trẻ ăn thực phẩm hữu cơ, rủi ro mắc bệnh eczema của chúng thấp hơn 36% so với các trẻ khác, một sự chênh lệch rất lớn.

Giáo dục người tiêu dùng

Chúng tôi không đề xuất chính phủ cấm người tiêu dùng mua thực phẩm hữu cơ. Mà thay vào đó, người tiêu dùng cần cân nhắc kĩ những lý do họ mua thực phẩm hữu cơ và kiểm tra xem những gì họ tin là đúng có khớp với thông tin cung cấp từ chính phủ. Chỉ việc đọc một bài viết như thế này đã giúp người nhận ra các quan niệm sai lầm về ba khái niệm thuộc hữu cơ: bền vững, chất lượng cuộc sống động vật và lợi ích sức khỏe. Tuy nhiên cần phải có hành động thiết thưc hơn để giúp chia sẻ các thông tin này. Các dữ liệu nghiên cứu được công bố thường xuyên, nhưng người dùng hầu như không tiếp cận với chúng. Một vài tờ rơi cung cấp thông tin là không đủ.
Giáo dục là chìa khóa. Giáo dục sẽ giúp người tiêu dùng nhận ra các sai lầm liên quan đến thực phậm hữu cơ. Hành động tốt nhất là phải tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng để giáo dục họ. Thường người tiêu dùng sẽ dựa trên các quan niệm họ có sẵn để quyết định có nên mua thực phẩm hữu cơ hay không ở các cửa hàng rau quả. Do đó các chuỗi siêu thị bán rau quả cần phải có một "đại sứ thực phẩm". Cô ấy/anh ấy sẽ đứng ở một bàn nhỏ hay đi vòng quanh quầy rau củ để giúp giải thích ý nghĩa các cụm từ trên nhãn mác cho người tiêu dùng. Đại sứ thực phẩm sẽ nói cho người tiêu dùng hiểu những định nghĩa của chính phủ dành cho các cụm từ ghi trong nhãn mác, ví dụ như thế nào là xanh, thế nào là tự nhiên, thế nào là không nuôi nhốt, và cụ thể hơn thế nào là hữu cơ. Qua cách đó, người tiêu dùng sẽ hiểu họ đang ủng hộ điều gì khi họ quyết định mua một sản phẩm. Đại sứ thực phẩm sẽ không thiên vị bởi vì họ chỉ đơn giản đang giải thích ý nghĩa các cụm từ trong nhãn mác và nó liên quan như thế nào đến việc sản xuất ra thưc phẩm đó. Nếu một người dùng không quan tâm đến việc phát triển bền vững, họ hoàn toàn tự do mua những thực phẩm không trồng theo cách bền vững.
Jaime Oliver, một đầu bếp nổi tiếng hay lên truyền hình (có biệt dnah là Naked Chef), đang thực hiện một chiến dịch chống lại nạn béo phì. Ông cũng tuyên bố rằng nguyên nhân lớn nhất cho nạn dịch này là sự thiếu hiểu biết về thực phẩm ở mức độ quốc gia. Oliver đề xuất mỗi cửa hàng rau củ lớn đều phải có đại sứ thực phẩm. Ở một cửa hàng rau ở West Virgina tên HUntington Kitechen, những đại sứ thực phẩm ở đó không chỉ dạy những cách chọn đồ ăn lành mạnh mà còn mở các buổi dạy nấu ăn miễn phí (Oliver, 2010). Huntington Kitchen từ đó đã trở thành nơi người dân địa phương tập trung để chủ động học về các vấn đề thực phẩm liên quan đến cuộc sống của họ.
Các cửa hàng thực phẩm sẽ là người chi trả chi phí và tiền công cho đại sứ thực phẩm chứ không phải là chính phủ liên bang. Nếu để chính phủ liên bang tham gia vào sẽ gây ra nhiều rắc rối. Khái niệm hữu cơ khi đó sẽ bị làm phức tạp hơn nữa. Thay vì làm đơn giản nó, những quy định mới của Bộ Nông Nghiệp sẽ càng chặt chẽ hơn. Và điều đó sẽ khiến khái niệm hữu cơ trở nên quá phức tạp để mọi người hiểu.

Kết luận

Geoff McPherson, một người nông dân chăn nuôi bền vững ở Kentucky, nói rằng: "Tôi không tin vào khái niệm hữu cơ, là một người nông dân tôi sẽ không đạt được chứng nhận nuôi trồng hữu cơ, bởi vì khái niệm hữu cơ đã trở nên lỏng lẻo quá nhiều sau nhiều đợt vận động hành lang. Tôi trồng cây không sử dụng hóa chất gì cả và tôi chỉ ăn những thứ đó." Có thể thấy thật không may là từ "hữu cơ" đã gắn liền với nhiều quan niệm sai lầm, một niềm tin sai lầm rằng cứ "hữu cơ" là sẽ tốt hoặc tốt hơn nhân tạo. Trong thực tế, có rất nhiều thứ được gắn mác hữu cơ có thể giết chết bạn (Lynas, 2013). Sự hiểu nhầm về khái niệm "hữu cơ" được đóng góp bởi phong trào vì môi trường bùng nổ trong thế kỷ 20.
Theo định nghĩa, thực phẩm hữu cơ là không có hóa chất hay thuốc trừ sâu nhân tạo, tức hóa chất tự nhiên và thuốc trừ sâu tự nhiên vẫn được dùng, và do đó khiến nhiều người ủng hộ việc trồng trọt chăn nuôi hữu cơ cũng như các nông trại hữu cơ. Tuy nhiên mọi người cần phải được giáo dục về thực phẩm họ ăn, nó đến từ đâu, và động vật chăn nuôi đã được chăm sóc như thế nào, cũng như tác động lên môi trường.
Bộ Nông Nghiệp không hề cố gắng che giấu thông tin hay làm sai lệch thông tin như các thuyết âm mưu hay nói. Vấn đề là Bộ Nông Nghiệp định nghĩa và đưa ra các quy định quá chặt cho các sản phẩm hữu cơ đến mức chúng trở nên vô nghĩa. Các nhà quảng cáo và marketing đã lợi dụng điều này để làm sai lệch ý nghĩa cụm từ hữu cơ, cố ý khiến người tiêu dùng nghĩ rằng cứ "hữu cơ" là tốt hơn. Để không bị hiểu nhầm như vậy, những người tiêu dùng cần được giáo dục. Một đại sức thực phẩm sẽ cung cấp các thông tin đơn giản nhưng chính xác nhằm giúp đạt được mục đích giáo dục đó. 
Tác giả: Kelsey Hobson, Emma King, Marcia Lee Renaud
Bài gốc "Consumer Misconceptions of Organic" được đăng trên Blog Khoa Học "Debating Science" của Khoa Khoa Học Tự Nhiên, Đại học Massachusetts Amherst. Ba tác giả là ba sinh viên của khoa.

Nguồn tham khảo:

Crinnion, W.J. (2010) Organic foods contain higher levels of certain nutrients, lower levels of pesticides, and may provide health benefits for the consumer. Alternative Medicine Review, 15(1), 4-12. Retrieved from http://www.altmedrev.com/.
Harper, G.C, Makatouni A. (2002) Consumer perception of organic food production and farm animal welfare. British Food Journal. 104, 3-5. Retrieved from http://www.emeraldinsight.com/007-070X.htm.
Huffstrutter, P.J. (2011, January 3) California organic beef producer recalls meat over E. coli concerns. The LA Times. Retrieved from: http://latimesblogs.latimes.com.
Hunter, D., Foster, M., McArthur, J.O., Ojha, R., Petocz, P., Samman, S. (2011)  Evaluation of the micronutrient composition of plant foods produced by organic and conventional agricultural methods. Critical Reviews in Food Science and Nutrition, 51, 571-582. DOI: 10.1080/10408391003721701.
Lu, C.D., Gangyi, X., & Kawas, J.R. (2010) Organic goat production, processing and marketing: Opportunities challenges and outlook. Small Ruminant Research, 89, 102-109.
Lynas, Mark, “Lecture to Oxford Farming Conference.” The Oxford Farming Conference. [Lecture Transcript]. United Kingdom.  3 Jan. 2013. Retrieved from: http://www.marklynas.org/2013/01/lecture-to-oxford-farming-conference-3-january-2013/.
Madnusson, M.K., Arvola, A., Hursti, U.K., Aberg, L., Sjoden, P.O. (2003) Choice of   organic foods is related to perceived consequences for human health and to environmentally friendly behaviour. Appetite, 40(2), 109-117 http://dx.doi.org/10.1016/S0195-6663(03)00002-3.
organic. 2012. In Merriam-Webster.com. Retrieved November 13, 2013, from http://www.merriam-webster.com/dictionary/organic.
Ruegg, P.L. (2009). Management of mastitis on organic and conventional dairy farms. Journal of Animal Science, 87, 43 – 55. doi: 10.2527/jas.2008-1217.
Smith-Spangler, C., Brandeau, M.L., Hunter, G.E., Bavinger, J.C., Pearson, M., Eschbach, P… Bravata, D.M. (2013). Are organic foods safer or healthier than conventional alternatives? Annals of Internal Medicine, 158(4), 348-365. doi: 10.7326/0003-4819-158-4-201302190-00019.
United States Department of Agriculture. (November 7, 2013). National Organic Program. In U.S.  Government Printing Office. Retrieved November 12, 2013, from http://www.ecfr.gov/cgibin/textidx?c=ecfr&sid=3f34f4c22f9aa8e6d9864cc2683cea02&tpl=/ecfrbrowse/Title07/7cfr205_main_02.tpl.

Ủng Hộ Tác Giả

Nếu bạn đọc hài lòng với bài viết/bài dịch, bạn có thể đóng góp ủng hộ cho tác giả qua địa chỉ:
Tên: Phan Anh Tuấn
Số tài khoản: 152613748
Số thẻ: 9704321171180375
Ngân hàng: VPBank
Chi nhánh: TP. Hồ Chí Minh
Sự ủng hộ của bạn sẽ giúp mình có động lực tìm hiểu và viết, dịch thêm các bài mới. Chân thành cám ơn bạn đọc! :)